Tình hình việt nam sau cách mạng tháng 8 - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Tình hình việt nam sau cách mạng tháng 8 - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

Môn:
Trường:

Đại học Hoa Sen 4.8 K tài liệu

Thông tin:
9 trang 2 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tình hình việt nam sau cách mạng tháng 8 - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Tình hình việt nam sau cách mạng tháng 8 - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

41 21 lượt tải Tải xuống
I. TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8
1. Thuận lợi
* Về quốc tế:
- Liên Xô trở thành thành thành trì của chủ nghĩa xã hội
- Nhiều nước Đông Trung Âu lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa hội (được
Liên Xô ủng hộ và giúp đỡ)
- Phong trào giải phóng dân tộc các nước thuộc địa dâng cao (Châu Á, Châu Phi, Mỹ
Latinh)
=> Tạo tiền đề cho sự phát triển của (...) xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; khuyến khích các nước
thuộc địa đứng lên giải phóng dân tộc hướng tới xây dựng một nhà nước (...)
* Trong nước:
- Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do; nhân dân thoát khỏi thân phận nô
lệ bị áp bức, trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
- Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong nước
- Hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến
cơ sở
- Quân đội quốc gia, lực lượng công an, luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn
trương xây dựng
=> Tất cả là để ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Phát huy vai trò của Đảng đối
với cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chế độ mới.
2. Khó khăn
* Thế giới:
- Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa
thế giới” (bằng chứng: ra sức tấn côngđàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó
Việt Nam)
- Các nước lớn trên thế giới không ủng hộ lập trường độc lập và địa vị pháp lý của VNDCCH
(do lợi ích cục bộ)
- Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế
giới bên ngoài
- Cách mạng 3 nước Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều
khó khăn thử thách.
=> * Trong nước:
- Hệ thống chính quyền cách mạng mới còn rất non trẻ, thiếu thống nhất và yếu kém về nhiều
mặt.
- Hậu quả của chế độ cũ để lại vô cùng nặng nề: Lũ lụt tàn phá (đê điều không được chăm lo);
nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói; 50% (Nên dùng dạng định tính, không
nên nói rõ con số) ruộng đất bị bỏ hoang (trong khi Việt Nam thời điểm đó là một nước sống
nhờ vào nông nghiệp); tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; tệ nạn hội,hủ tục
lạc hậu, thói hư tật xấu chưa bị bài trừ và khắc phục;
=> Thúc đẩy Đảng phải nhanh chóng đưa ra những quyết định hướng giải quyết phù hợp
nhất.
II. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI VÀ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
3/9/1945, phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định 3 nhiệm vụ to lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.
25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra “Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc”,
nhận định tình hình định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau khi giành
chính quyền. Chỉ thị xác định rõ: “Kẻ thù chính của chúng ta lúc này Thực dân Pháp xâm
lược phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Mục tiêu của của cách mạng Đông Dương
vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Tuy nhiên
trước đó “là phải củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân”.
Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể để giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện
thời của cách mạng Việt Nam. Nhanh chóng xúc tiến bầu cử để thành lập Chính phủ chính
thức; chuẩn bị kháng chiến lâu dài; ngoại giao phải làm ít kẻ thù đồng thời làm tăng đồng
minh; tuyên truyền cho người dân đoàn kết chống thực dân Pháp.
Đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam, giúp định hướng
tưởng, trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; xây dựng
và bào vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn khó khăn, phức tạp này.
Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói nhiệm vụ quan trọng nhất, do Đảng, Chính phủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, động viên nhân dân tham gia các phong trào, cuộc
vận động:
- Gia tăng sản xuất, gây quỹ
- Bãi bỏ các loại thuế xưa cũ và vô lý
- Chia lại ruộng đất cho nông dân nghèo
- Các nhà máy, công xưởng được đầu tư khôi phục hoạt động
- Xây dựng lại ngân khố quốc gia, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam
Đầu năm 1946, nạn đói bản được đầy lùi, đời sống nhân dân ổn định, tinh thần
dân tộc phát huy cao độ, góp phần động viện kháng chiến ở Nam Bộ.
Chống giặc dốt, xóa nạn chữ được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng, giúp xây dựng
hệ thống chính quyển cách mạng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân.
- Phát động phong trào “Bình dân học vụ”, toàn dân được học quốc ngữ, xóa nạn mù
chữ, nạn dốt
- Đẩy lùi, xóa bỏ các tệ nạn, hủ tục lạc hậu cản trở tiến bộ
- Thành lập các trường học, khai giảng năm học mới, trong đó thành lập trường Đại
học Văn khoa Hà Nội.
Cuối 1946, cả nước có hơn 2 triệu người dân biết đọc, biết viết. Đời sống tinh thần
của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào chế độ mới,
quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.
Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng. Nhà nước Việt Nam, Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu
phiếu để bàu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức.
6/1/1946, toàn quốc tham gia bầu cử, hơn 89% số cử tri bỏ phiếu dân chủ lần đầu tiên;
thể hiện tinh thần “mỗi là phiếu là một viên đạn bắn vào quân thù”. Bầu cử thành côn đã bầu
ra 333 đại biểu Quốc hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2/3/1946, phiên họp Quốc hội khóa I đầu tiên tại Nhà hát Lớn Hà Nội; lập ra Chính phủ
chính thức, 10 bộ kiện toàn nhân sự bộ máy Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Quốc hội nhất trí bầu Nguyễn Văn Tố làm Chủ tịch Ban Thường trực Quốc hội,
Các địa phương tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn ủy ban hành
chính các cấp. 9/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, xây dựng đi đôi với bảo vệ, làm cho bộ máy chính quyền thực sự dân chủ, trong sạch.
Mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục mở rộng nhằm tăng cường thực lực cách mạng, tập
trung chống Pháp ở Nam Bộ, củng cố các tổ chức đoàn thể mặt trận Việt Minh. Tích cực củng
cố lực lượng trang, mua khí, tích trữ lương thực thuốc men. Thành lập Hội Liên hiệp
quốc dân Việt Nam, hội đồng cố vấn chính phủ, các đoàn thể xã hội mới.
Cuối 1946, Việt Nam hơn 8 vạn bộ đội chính quy, lực lượng công an được tổ
chức đến cấp huyện, hàng vạn quân, dân tự vệ trải dài từ Bắc chí Nam.
III. TỔ CHỨC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
NAM BỘ, ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG NON TRẺ
Sau khiêu khích vào ngày 2/9/1945 ở Sài Gòn, Pháp ráo riết thực hiện mưu đồ xâm lược Việt
Nam. Đêm 22 rạng sáng 23/9/1945, quân đội Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn- Chợ Lợn
(Nam Bộ). Sáng 23/9/1945, Hội nghị liên tịch giữa Xứ ủy, và đại diện Tổngcùng các Ủy ban
bộ Việt Minh nhanh chóng thống nhất, đề ra chủ trương hiệu triệu quân, dân Nam Bộ đứng
lên kháng chiến. Ngày 25/10/1945, Hội nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ họp tại Thiên Hộ, Cái
(Mỹ Tho) quyết định những biện pháp cấp bách nhằm củng cố lực lượng trang, xây
dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí mật trong nội đô; tổ chức, phát động toàn dân kháng chiến
đẩy lùi cuộc tấn công của thực dân Pháp.
Nhân dân tỉnh Nam Bộ nêu cao tinh thần “Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”, đứng lên dùng
các loại vũ khí thô sơ, gậy tầm vông, giáo mác chống trả quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập,
tự do. Nhân dân Sài Gòn- Chợ Lớn tiên phong ngăn cản bước tiến, kìm hãm, bao vây địch
trong thành phố bằng các chướng ngại vật, ổ chiến đấu trên đường, phá hủy cơ sở điện nước;
truy bắt bọn Việt gian, tay sai của Pháp.
Nhân dân miền Bắc nhanh chóng hưởng ứng và kịp thời chi viện. Ngày 26/9/1945, những chi
đội ưu tú được trang bị vũ khí tốt nhất lên đường chi viện cho Nam Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi thư khích lệ, tuyên dương tặng danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc” cho nhân dân Nam
Bộ. (miền Trung, cuộc chiến của quân dân Nha Trang mở đầu cho cuộc chiến dũng cảm,
kiên cường của quân dân khắp mặt trận Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.)
Để làm thất bại âm mưu “diệt cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh của quân Tưởng tay sai,
Đảng và Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuận
kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc” với quân Tưởng. Đề ra nhiều đối sách đối phó
với các hoạt động khiêu khích, gây xung đột vũ trang, thực hiện giao thiệp thân thiện và ứng
xử mềm dẻo với yêu sách của quân Tưởng và các tổ chức đảng phái chính trị, nhất là số cầm
đầu Việt Quốc, Việt Cách. Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật bằng cách “Thông cáo
Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán, ngày 11/11/1945”. Để lại một bộ phận hoạt động
công khai với danh nghĩa “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Đông Dương”. Chính phủ Việt
Nam đồng ý cung cấp lương thực, thực phẩm cho 20 vạn quân Tưởng nhân nhượng cho
chúng sử dụng đồng tiền Quan kim, Quốc tệ song hành cùng đồng bạc Đông Dương. HChí
Minh đồng ý bổ sung thêm 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng viên của Việt
Quốc, Việt Cách; cải tổ, mở rộng thành phần Chính phủ Liên hiệp với sự tham gia của nhân
sĩ, trí thức, người không đảng pháimột số thành phần cầm đầu tổ chức phản động tay sai,
Đầu năm 1946, Chính phủ Pháp Trung Hoa dân quốc kết bản Hiệp ước Trùng Khánh
(Hiệp ước Hoa- Pháp, ngày 28/2/1946). Nội dung hiệp định:
Pháp đưa quân ra Bắctuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, thay cho
20 vạn quân Tưởng rút về nước, hạn cuối cùng là ngày 31/3/1946.
Pháp sẽ nhượng lại cho Tưởng nhiều quyền lợi ở Trung Quốc và Việt Nam.
Đây là một bản hiệp ước bán rẻ lợi ích dân tộc, chà đạp nền độc lập của Việt Nam, hợp
pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp. Chính phủ nhân dân Việt Nam
phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với 2 kẻ thù xâm lược to lớn Pháp và Tưởng trong khi
thực lực cách mạng vẫn còn non yếu.
Trước tình hình phức tạp, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định,
đánh giá âm mưu, ý đồ chính trị của Pháp, Tưởng ra bản Chỉ thị Tình hìnhchủ trương
ngày 3/3/1946. Chỉ thị nêu rõ:
Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình
người, nhìn nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài
nước mà chủ trương cho đúng.
Chủ trương tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích kinh tế, nhưng đòi
Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam.
Lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp mà diệt bọn phản động bên trong, tay sai của
Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích, ly gián ta và Pháp Thúc đẩy quân
Tưởng về nước, bớt một kẻ thù nguy hiểm.
Ngày 6/3/1946, tại Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ký với Jean Sainteny (đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp) bản Hiệp định sơ bộ.
Nội dung bản Hiệp định:
Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện,
tài chính và quân đội riêng.
Việc thống nhất đất nước sẽ được quyết định bằng trưng cầu ý dân.
Việt Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay 20 vạn quân Tương rút
về nước.
Quân Pháp phải rút khỏi Việt Nam sau 5 năm, mỗi năm rút 1/5.
Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí.
Tiếp tục tiến hành đàm phán để giải quyết mối quan hệ Việt- Pháp. Hai bên sẽ mở
cuộc đàm phán tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris.
Ngay sau khi ký kết Hiệp định sơ bộ, ngày 9/3/1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị
“Hòa để tiến” => Phân tích, đánh giá chủ trương hòa hoãn khả năng phát triển tình hình.
Nêu rõ:
Tiếp tục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không được có một phút ngừng nghỉ
công việc sửa sọa, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào.
NHẤT ĐỊNH không để cho việc đám phán với Pháp làm nhụt chí quyết chiến của dân
tộc, nhất là với đồng bào Nam bộ và các chiến sĩ ngoài mặt trận
Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng (chú ý đào tạo cán bộ chính trị và quân sự, gây
dựng cơ sở đảng, củng cố phong trào quần chúng,...)
Đến tháng 12/1946, Đảng đã có sự phát triển về chất lượng và số lượng
Để giữ vững nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Đãng đã tiếp tục kiên trì đấu tranh
ngoài giao đầy khó khăn trong suốt năm 1946 cả trong và ngoài nước.
19/4 – 10/5/1946, đại diện chính phủ VN và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà
Lạt.
Trong 4 tháng từ ngày 31/5, theo lời mời của chủ tịch Quốc hội Pháp, chủ tịch HCM
cùng phái đoàn chính phủ VN chính thức ghé thăm Cộng hòa Pháp => thu được nhiều
thành công về mặt đối ngoại, giúp nhân dân Pháp hiểu hơn về đấu tranh chính nghĩa ở
VN
6/7 – 10/9/1946, phái đoàn Quốc hội VN do Phạm Văn Đồng dần đâu đến thăm thân
thiện và tham dự đàm phán chính thức giữa hai bên Việt – Pháp tại Hội nghị
Fontainbleau => Không thành công vì vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm
lược của thực dân Pháp
Với thiện chí hữu nghị, hòa bình, nhân nhượng để đảm bảo an toàn cho phái
đoàn VN trở về nước, 14/9 Chủ tịch HCM đã ký với Marius Moutet – đại diện
chính phủ Pháp bản Tạm ước 14/9 tại Marseill:
o Đồng ý nhân nhượng thêm 1 số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở VN
o Hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam bộ và tiếp tục đàm phán
Trong khi đó tại, thời hạn quân đội Tưởng phải rút về nước đã hết (trước 31/3/1946) nhưng
quân đội Tưởng vẫn trì hoãn kéo dài; Các thế lực thục dân hiếu chiến Pháp HN móc nối,
cấu kết với tay sai phản động Đại Việt, Quốc dân Đảng, ráo riết chuẩn bị âm mưu đảo chính,
dự vào 14/7/1946.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết của Đảng và Chính phủ, rạng sáng ngày
12/7/1946, lực lượng công an đã tấn công bất ngờ vào trụ sở của bọn Đại Việt, Quốc
dân Đảng tại số nhà 132 Duvigneau, nhanh chóng khống chế bọn phản động có vũ
trang.
Với thắng lợi quan trọng này đã đập tan mưu đồ lật đổ chính quyền cách mạng của
bọn tay sai phản động
Ngày 20/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn về đến cảng Hải Phòng, bác đã viết bài
“Công việc khẩn cấp bây giờ”
Nêu rõ những nhiệm vụ cấp bách cần làm về mặt quân sự, chính trị, khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng với cuộc kháng chiến kiến quốc
Dự đoán đúng về khả năng đối đầu quân sự giữa VN và Pháp
Chỉ đạo từng bước chuyển sang tình trạng chiến tranh và chuẩn bị cho kháng chiến lâu
dài
Tiếp tục cầm chân địch ở Nam bộ và trong các thành phố, thị xã ở Miền Bắc
Khẩn trương tổng di dời chuyển ác cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ
Tại nơi Pháp chiếm đóng, thực hiện tiêu thổ kháng chiến “Vườn không nhà trống”,
“Phá hoại để kháng chiến” nhằm ngăn cản bước tiến địch
Những chủ trương, biện pháp và đối sách đúng đắn của Đảng cùng với tinh thần quyết đoán,
sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch HCM, trong những năm đầu chính quyền cách mạng còn
non trẻ đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng
Ngăn bước tiến địch ở Nam Bộ
Vạch trần và làm thất bại âm mưu chống phá của kẻ thù
Củng cố, giữ vững và bảo vệ bộ máy chính quyền nhà nước và những thành quả từ
cuộc CMT8
Tạo nên thời kỳ hòa hõa để tranh thủ xây dựng thực lực, sẵn sàng cho kháng chiến lâu
dài
Thành quả (1945-1946): Nâng cao ý chí tự lực tự cường, quyết tâm bảo vệ độc lập tự do.
Thực hành nhân nhượng với nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tăng cường đại
đoàn kết dân tộc, phát triển lực lượng cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Anh, Mỹ, Trung Quốc tại lễ ký kết
Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946.
(Nguồn: Trang Tin Điện Tử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh)
Bản Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946
(Nguồn: Trang Tin Điện Tử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh)
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Hiệp định bộ (6/3/1946) Tạm ước (14/9/1946) - Nước cờ ngoại giao Xuất sắc của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. (n.d.). Trang Tin Điện Tử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh.
Retrieved January 17, 2024, from https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/hiep-dinh-so-bo-6-3-
1946-va-tam-uoc-14-9-1946-nuoc-co-ngoai-giao-xuat-sac-cua-dang-va-chu-tich-1491884243
| 1/9

Preview text:

I. TÌNH HÌNH VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 1. Thuận lợi * Về quốc tế:
- Liên Xô trở thành thành thành trì của chủ nghĩa xã hội
- Nhiều nước ở Đông Trung Âu lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội (được
Liên Xô ủng hộ và giúp đỡ)
- Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa dâng cao (Châu Á, Châu Phi, Mỹ Latinh)
=> Tạo tiền đề cho sự phát triển của (...) xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; khuyến khích các nước
thuộc địa đứng lên giải phóng dân tộc hướng tới xây dựng một nhà nước (...) * Trong nước:
- Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do; nhân dân thoát khỏi thân phận nô
lệ bị áp bức, trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
- Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong nước
- Hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở
- Quân đội quốc gia, lực lượng công an, luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương xây dựng
=> Tất cả là để ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Phát huy vai trò của Đảng đối
với cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chế độ mới. 2. Khó khăn * Thế giới:
- Phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa
thế giới” (bằng chứng: ra sức tấn công và đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam)
- Các nước lớn trên thế giới không ủng hộ lập trường độc lập và địa vị pháp lý của VNDCCH (do lợi ích cục bộ)
- Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài
- Cách mạng 3 nước Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách. => * Trong nước:
- Hệ thống chính quyền cách mạng mới còn rất non trẻ, thiếu thống nhất và yếu kém về nhiều mặt.
- Hậu quả của chế độ cũ để lại vô cùng nặng nề: Lũ lụt tàn phá (đê điều không được chăm lo);
nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói; 50% (Nên dùng dạng định tính, không
nên nói rõ con số)
ruộng đất bị bỏ hoang (trong khi Việt Nam thời điểm đó là một nước sống
nhờ vào nông nghiệp); tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; tệ nạn xã hội,hủ tục
lạc hậu, thói hư tật xấu chưa bị bài trừ và khắc phục;
=> Thúc đẩy Đảng phải nhanh chóng đưa ra những quyết định và hướng giải quyết phù hợp nhất.
II. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ MỚI VÀ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
3/9/1945, phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định 3 nhiệm vụ to lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm.
25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra “Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc”,
nhận định tình hình và định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau khi giành
chính quyền. Chỉ thị xác định rõ: “Kẻ thù chính của chúng ta lúc này là Thực dân Pháp xâm
lược phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Mục tiêu của của cách mạng Đông Dương
vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Tuy nhiên
trước đó “là phải củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân”.
Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể để giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện
thời của cách mạng Việt Nam. Nhanh chóng xúc tiến bầu cử để thành lập Chính phủ chính
thức; chuẩn bị kháng chiến lâu dài; ngoại giao phải làm ít kẻ thù đồng thời làm tăng đồng
minh; tuyên truyền cho người dân đoàn kết chống thực dân Pháp.
 Đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam, giúp định hướng tư
tưởng, trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; xây dựng
và bào vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn khó khăn, phức tạp này.
Chống giặc đói, đẩy lùi nạn đói là nhiệm vụ quan trọng nhất, do Đảng, Chính phủ và
Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, động viên nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động: -
Gia tăng sản xuất, gây quỹ -
Bãi bỏ các loại thuế xưa cũ và vô lý -
Chia lại ruộng đất cho nông dân nghèo -
Các nhà máy, công xưởng được đầu tư khôi phục hoạt động -
Xây dựng lại ngân khố quốc gia, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam
 Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đầy lùi, đời sống nhân dân ổn định, tinh thần
dân tộc phát huy cao độ, góp phần động viện kháng chiến ở Nam Bộ.
Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng, giúp xây dựng
hệ thống chính quyển cách mạng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. -
Phát động phong trào “Bình dân học vụ”, toàn dân được học quốc ngữ, xóa nạn mù chữ, nạn dốt -
Đẩy lùi, xóa bỏ các tệ nạn, hủ tục lạc hậu cản trở tiến bộ -
Thành lập các trường học, khai giảng năm học mới, trong đó thành lập trường Đại học Văn khoa Hà Nội.
 Cuối 1946, cả nước có hơn 2 triệu người dân biết đọc, biết viết. Đời sống tinh thần
của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng vào chế độ mới,
quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.
Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng. Nhà nước Việt Nam, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ thông đầu
phiếu để bàu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức.
6/1/1946, toàn quốc tham gia bầu cử, hơn 89% số cử tri bỏ phiếu dân chủ lần đầu tiên;
thể hiện tinh thần “mỗi là phiếu là một viên đạn bắn vào quân thù”. Bầu cử thành côn đã bầu
ra 333 đại biểu Quốc hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2/3/1946, phiên họp Quốc hội khóa I đầu tiên tại Nhà hát Lớn Hà Nội; lập ra Chính phủ
chính thức, 10 bộ và kiện toàn nhân sự bộ máy Chính phủ do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Quốc hội nhất trí bầu Nguyễn Văn Tố làm Chủ tịch Ban Thường trực Quốc hội,
Các địa phương tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn ủy ban hành
chính các cấp. 9/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra
đời, xây dựng đi đôi với bảo vệ, làm cho bộ máy chính quyền thực sự dân chủ, trong sạch.
Mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục mở rộng nhằm tăng cường thực lực cách mạng, tập
trung chống Pháp ở Nam Bộ, củng cố các tổ chức đoàn thể mặt trận Việt Minh. Tích cực củng
cố lực lượng vũ trang, mua vũ khí, tích trữ lương thực thuốc men. Thành lập Hội Liên hiệp
quốc dân Việt Nam, hội đồng cố vấn chính phủ, các đoàn thể xã hội mới.
 Cuối 1946, Việt Nam có hơn 8 vạn bộ đội chính quy, lực lượng công an được tổ
chức đến cấp huyện, hàng vạn quân, dân tự vệ trải dài từ Bắc chí Nam.
III. TỔ CHỨC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC Ở
NAM BỘ, ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG NON TRẺ
Sau khiêu khích vào ngày 2/9/1945 ở Sài Gòn, Pháp ráo riết thực hiện mưu đồ xâm lược Việt
Nam. Đêm 22 rạng sáng 23/9/1945, quân đội Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn- Chợ Lợn
(Nam Bộ). Sáng 23/9/1945, Hội nghị liên tịch giữa Xứ ủy, cùng các Ủy ban và đại diện Tổng
bộ Việt Minh nhanh chóng thống nhất, đề ra chủ trương hiệu triệu quân, dân Nam Bộ đứng
lên kháng chiến. Ngày 25/10/1945, Hội nghị cán bộ Đảng bộ Nam Bộ họp tại Thiên Hộ, Cái
Bè (Mỹ Tho) quyết định những biện pháp cấp bách nhằm củng cố lực lượng vũ trang, xây
dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí mật trong nội đô; tổ chức, phát động toàn dân kháng chiến
đẩy lùi cuộc tấn công của thực dân Pháp.
Nhân dân tỉnh Nam Bộ nêu cao tinh thần “Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”, đứng lên dùng
các loại vũ khí thô sơ, gậy tầm vông, giáo mác chống trả quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập,
tự do. Nhân dân Sài Gòn- Chợ Lớn tiên phong ngăn cản bước tiến, kìm hãm, bao vây địch
trong thành phố bằng các chướng ngại vật, ổ chiến đấu trên đường, phá hủy cơ sở điện nước;
truy bắt bọn Việt gian, tay sai của Pháp.
Nhân dân miền Bắc nhanh chóng hưởng ứng và kịp thời chi viện. Ngày 26/9/1945, những chi
đội ưu tú được trang bị vũ khí tốt nhất lên đường chi viện cho Nam Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi thư khích lệ, tuyên dương và tặng danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc” cho nhân dân Nam
Bộ. (Ở miền Trung, cuộc chiến của quân dân Nha Trang mở đầu cho cuộc chiến dũng cảm,
kiên cường của quân dân khắp mặt trận Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.)
Để làm thất bại âm mưu “diệt cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh của quân Tưởng và tay sai,
Đảng và Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng mâu thuận
kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc” với quân Tưởng. Đề ra nhiều đối sách đối phó
với các hoạt động khiêu khích, gây xung đột vũ trang, thực hiện giao thiệp thân thiện và ứng
xử mềm dẻo với yêu sách của quân Tưởng và các tổ chức đảng phái chính trị, nhất là số cầm
đầu Việt Quốc, Việt Cách. Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật bằng cách “Thông cáo
Đảng Cộng sản Đông Dương tự ý giải tán, ngày 11/11/1945”. Để lại một bộ phận hoạt động
công khai với danh nghĩa “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”. Chính phủ Việt
Nam đồng ý cung cấp lương thực, thực phẩm cho 20 vạn quân Tưởng và nhân nhượng cho
chúng sử dụng đồng tiền Quan kim, Quốc tệ song hành cùng đồng bạc Đông Dương. Hồ Chí
Minh đồng ý bổ sung thêm 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng viên của Việt
Quốc, Việt Cách; cải tổ, mở rộng thành phần Chính phủ Liên hiệp với sự tham gia của nhân
sĩ, trí thức, người không đảng phái và một số thành phần cầm đầu tổ chức phản động tay sai, …
Đầu năm 1946, Chính phủ Pháp và Trung Hoa dân quốc ký kết bản Hiệp ước Trùng Khánh
(Hiệp ước Hoa- Pháp, ngày 28/2/1946). Nội dung hiệp định: 
Pháp đưa quân ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, thay cho
20 vạn quân Tưởng rút về nước, hạn cuối cùng là ngày 31/3/1946. 
Pháp sẽ nhượng lại cho Tưởng nhiều quyền lợi ở Trung Quốc và Việt Nam.
 Đây là một bản hiệp ước bán rẻ lợi ích dân tộc, chà đạp nền độc lập của Việt Nam, hợp
pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp. Chính phủ và nhân dân Việt Nam
phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với 2 kẻ thù xâm lược to lớn Pháp và Tưởng trong khi
thực lực cách mạng vẫn còn non yếu.
Trước tình hình phức tạp, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định,
đánh giá âm mưu, ý đồ chính trị của Pháp, Tưởng và ra bản Chỉ thị Tình hình và chủ trương
ngày 3/3/1946. Chỉ thị nêu rõ: 
Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình
người, nhìn nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài
nước mà chủ trương cho đúng. 
Chủ trương tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích kinh tế, nhưng đòi
Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam. 
Lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp mà diệt bọn phản động bên trong, tay sai của
Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích, ly gián ta và Pháp  Thúc đẩy quân
Tưởng về nước, bớt một kẻ thù nguy hiểm.
Ngày 6/3/1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ký với Jean Sainteny (đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp) bản Hiệp định sơ bộ.
Nội dung bản Hiệp định: 
Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện,
tài chính và quân đội riêng. 
Việc thống nhất đất nước sẽ được quyết định bằng trưng cầu ý dân. 
Việt Nam đồng ý để 15.000 quân đội Pháp ra miền Bắc thay 20 vạn quân Tương rút về nước. 
Quân Pháp phải rút khỏi Việt Nam sau 5 năm, mỗi năm rút 1/5. 
Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. 
Tiếp tục tiến hành đàm phán để giải quyết mối quan hệ Việt- Pháp. Hai bên sẽ mở
cuộc đàm phán tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris.
Ngay sau khi ký kết Hiệp định sơ bộ, ngày 9/3/1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị
“Hòa để tiến” => Phân tích, đánh giá chủ trương hòa hoãn và khả năng phát triển tình hình. Nêu rõ: 
Tiếp tục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không được có một phút ngừng nghỉ
công việc sửa sọa, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào. 
NHẤT ĐỊNH không để cho việc đám phán với Pháp làm nhụt chí quyết chiến của dân
tộc, nhất là với đồng bào Nam bộ và các chiến sĩ ngoài mặt trận 
Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng (chú ý đào tạo cán bộ chính trị và quân sự, gây
dựng cơ sở đảng, củng cố phong trào quần chúng,...)
 Đến tháng 12/1946, Đảng đã có sự phát triển về chất lượng và số lượng
Để giữ vững nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Đãng đã tiếp tục kiên trì đấu tranh
ngoài giao đầy khó khăn trong suốt năm 1946 cả trong và ngoài nước. 
19/4 – 10/5/1946, đại diện chính phủ VN và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt. 
Trong 4 tháng từ ngày 31/5, theo lời mời của chủ tịch Quốc hội Pháp, chủ tịch HCM
cùng phái đoàn chính phủ VN chính thức ghé thăm Cộng hòa Pháp => thu được nhiều
thành công về mặt đối ngoại, giúp nhân dân Pháp hiểu hơn về đấu tranh chính nghĩa ở VN 
6/7 – 10/9/1946, phái đoàn Quốc hội VN do Phạm Văn Đồng dần đâu đến thăm thân
thiện và tham dự đàm phán chính thức giữa hai bên Việt – Pháp tại Hội nghị
Fontainbleau => Không thành công vì vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm
lược của thực dân Pháp
Với thiện chí hữu nghị, hòa bình, nhân nhượng để đảm bảo an toàn cho phái
đoàn VN trở về nước, 14/9 Chủ tịch HCM đã ký với Marius Moutet – đại diện
chính phủ Pháp bản Tạm ước 14/9 tại Marseill:
o Đồng ý nhân nhượng thêm 1 số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở VN
o Hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam bộ và tiếp tục đàm phán
Trong khi đó tại, thời hạn quân đội Tưởng phải rút về nước đã hết (trước 31/3/1946) nhưng
quân đội Tưởng vẫn trì hoãn kéo dài; Các thế lực thục dân hiếu chiến Pháp ở HN móc nối,
cấu kết với tay sai phản động Đại Việt, Quốc dân Đảng, ráo riết chuẩn bị âm mưu đảo chính, dự vào 14/7/1946.
 Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết của Đảng và Chính phủ, rạng sáng ngày
12/7/1946, lực lượng công an đã tấn công bất ngờ vào trụ sở của bọn Đại Việt, Quốc
dân Đảng tại số nhà 132 Duvigneau, nhanh chóng khống chế bọn phản động có vũ trang.
 Với thắng lợi quan trọng này đã đập tan mưu đồ lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tay sai phản động
Ngày 20/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn về đến cảng Hải Phòng, bác đã viết bài
“Công việc khẩn cấp bây giờ” 
Nêu rõ những nhiệm vụ cấp bách cần làm về mặt quân sự, chính trị, khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng với cuộc kháng chiến kiến quốc 
Dự đoán đúng về khả năng đối đầu quân sự giữa VN và Pháp 
Chỉ đạo từng bước chuyển sang tình trạng chiến tranh và chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài 
Tiếp tục cầm chân địch ở Nam bộ và trong các thành phố, thị xã ở Miền Bắc 
Khẩn trương tổng di dời chuyển ác cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ 
Tại nơi Pháp chiếm đóng, thực hiện tiêu thổ kháng chiến “Vườn không nhà trống”,
“Phá hoại để kháng chiến” nhằm ngăn cản bước tiến địch
Những chủ trương, biện pháp và đối sách đúng đắn của Đảng cùng với tinh thần quyết đoán,
sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch HCM, trong những năm đầu chính quyền cách mạng còn
non trẻ đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng
Ngăn bước tiến địch ở Nam Bộ
Vạch trần và làm thất bại âm mưu chống phá của kẻ thù
Củng cố, giữ vững và bảo vệ bộ máy chính quyền nhà nước và những thành quả từ cuộc CMT8
Tạo nên thời kỳ hòa hõa để tranh thủ xây dựng thực lực, sẵn sàng cho kháng chiến lâu dài
Thành quả (1945-1946): Nâng cao ý chí tự lực tự cường, quyết tâm bảo vệ độc lập tự do.
Thực hành nhân nhượng với nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Tăng cường đại
đoàn kết dân tộc, phát triển lực lượng cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Anh, Mỹ, Trung Quốc tại lễ ký kết
Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946.
(Nguồn: Trang Tin Điện Tử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh)
Bản Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946
(Nguồn: Trang Tin Điện Tử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh) Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) - Nước cờ ngoại giao Xuất sắc của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. (n.d.). Trang Tin Điện Tử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh.
Retrieved January 17, 2024, from https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/hiep-dinh-so-bo-6-3-
1946-va-tam-uoc-14-9-1946-nuoc-co-ngoai-giao-xuat-sac-cua-dang-va-chu-tich-1491884243