Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám - Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Tôn Đức Thắng

Sau cách mạng tháng 8/1945 cùng với diễn biến của tình hình thế giới đã mang lại choViệt Nam không ít thuận lợi trong việc quản lý đất nước. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam lạikhông thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi " thù trong, giặc ngoài". Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

1. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Sau cách mạng tháng 8/1945 cùng với diễn biến của tình hình thế giới đã mang lại cho
Việt Nam không ít thuận lợi trong việc quản đất nước. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam lại
không thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi " thù trong, giặc ngoài" Những tàn dư sau chiến
tranh đang ngày càng tàn phá mạnh mẽ. thể nói, tình hình Việt Nam lúc bấy giờ "ngàn
cân treo sợi tóc".
a. Thuận lợi sau cách mạng tháng 8
- Hệ thống XHCN được hình thành trên diện rộng do Liên Xô đứng đầu.
- Phong trào đấu tranh của Việt Nam giành được nhiều thắng lợi vẻ vang thì song
song tình hình thế giới cũngnhiều chuyển biến tốt đẹp với ựu phát triển mạnh mẽ
của phong trào cách mạng thế giới hệ thống hội chủ nghĩa, góp phần tạo nên
chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam.
- Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; có Đảng và hệ thống chính quyền cách
mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở.
b. Khó khăn sau cách mạng tháng 8:
- Hệ thống chính quyền mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về
nhiều mặt.
- Hậu quả của chế độ cũ để lại rất nặng nè
+ Nạn đói
+ Nạn dốt: Hơn 95% dân số mù chữ
+ Ngân sách quốc gia trống rỗng
- Thù trong giặc ngoài
+ Từ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc lấy danh nghĩa
giải giáp quân Nhật nhưng âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Mang theo bọn phản
động Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đảng tìm mọi cách chống phá chính
quyền cách mạng.
+ Từ tuyến 16 trở vào Nam: Quân Anh với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, nhưng
âm mưu lại giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược, tạo điều kiện cho quân Pháp quay lại xâm
lược miền Nam.
Nền độc lập chính quyền non trẻ của Việt Nam bị đặt trong tình thế Ngàn cân
treo sợi tóc”
2. Nội dung Chủ trương kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945.
2.1. Tư tưởng chỉ đạo chiến lược:
Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan của ta và địch, Chỉ
thị “Kháng chiến kiến quốc” chỉ rõ: “Cách mạng Đông Dương lúc này vẫn cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng”. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì cả
nước ta chưa được hoàn toàn độc lập. Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp sản chưa kết
thúc. Vì thế giai cấp vô sản vẫn phải hǎng hái, kiên quyết đến cùng để hoàn thành nhiệm
vụ thiêng liêng ấy.
Khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
Trước đây, chỉ đạo chiến lược của Đảng ta đề cao vấn đề giải phóng dân tộc, giải
phóng Tổ quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, khẩu hiệu chiến đấu vẫn
“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” nhưng không phải giành độc lập giữ độc
lập. Mục tiêu hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân giữ vững nền độc lập vừa mới gây
dựng được.
2.2. Xác định kẻ thù
Đế quốc Nhật Thiên hoàng Hirohito Trước đây, chúng ta xác định kẻ thù thực
dân Pháp, đến khi Nhật xâm chiếm nước ta thì nước ta xác định kẻ thù Pháp Nhật.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, chiếm đóng nước ta thì Đảng ta lại xác định kẻ thù chính
là phát xít Nhật, hoạt động kháng Nhật cứu nước được đẩy lên cao trào. Ngày 15 tháng 8
năm 1945, Sự đầu hàng của được tuyên bố và chiến tranh Thế giới thứ hai chính thức kết
thúc.
Đến sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta rất nhiều kẻ thù: quân Nhật chưa rút
hết, thực dân Pháp vẫn đóng quân Việt Nam, phía Bắc quân Tưởng, phía nam
quân Anhạt kéo vào nước ta. Nhưng quân Nhật đã thất bại trong chiến tranh Thế giới,
chịu tổn thất nặng nề và sẽ sớm rút lui về nước hoàn toàn. Quân Tưởng Giới Thạch mặc
âm mưu chiếm đóng nước ta, thiết lập chế độ tay sai nhưng mục đích chính của
chúng là ở Trung Quốc. Còn đối với quân Anh, mục tiêu chính của chúng là chiếm được
hoàn toàn thuộc địa ở Ấn Độ, ở Châu Phi chứ không phải Đông Dương.
Phân tích âm mưu tính chất của từng kẻ thù, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
quyết định chính sách hòa hoãn với quân Tưởng nêu rõ: “Kẻ thù chính của nhân dân
Đông Dương lúc này thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào
chúng”.
Chỉ thị nhấn mạnh phải lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống thực dân Pháp xâm
lược; mở rộng Việt Minh để thu hút mọi tầng lớp nhân dân, trong đó chú trọng vận động
địa chủ, phong kiến đồng bào Công giáo...; thống nhất mặt trận Việt -Miên -Lào
chống Pháp xâm lược. Kiên quyết giành độc lập -tự do -hạnh phúc dân tộc, thực hiện chế
độ dân chủ cộng hoà, cải thiện đời sống nhân dân.
2.3. Phương hướng nhiệm vụ
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đưa ra những nhiệm vụ cấp bách nhất cách
mạng cần phải hoàn thành trong giai đoạn mới. Chỉ thị này là một bước chỉ đạo vô cùng
quan trọng khi tình hình thế giới trong nước rất phức tạp, không lợi cho sự phát
triển của cách mạng. Nói chung, chỉ thị tập trung vào một số nhiệm vụ chính như sau:
2.3.1. Về chính trị
Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc chống thực dân Phápxây dựng đất nước,
củng cố chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị bọn nội phản. Phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sức dân để xây dựng bảo vệ chính quyền cách
mạng. Bên cạnh đó tiến hành cải tổ chính phủ, sửa đổi cách làm việc của chính quyền
nhân dân địa phương trước khi tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, lập Chính phủ
chính thức và ban hành Hiến pháp.
2.3.2. Về quân sự
Liên tục động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến, dùng lối đánh du
kích với phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân vùng địch chiếm đóng, mở
rộng chiến tranh du kích ở Campuchia và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
Phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để cổ động nhân dân thi hành chính
sách bất hợp tác các thành thị quân địch làm chủ thi hành “nhà không đồng vắng”
nếu quân Pháp tràn về quê. Điều cốt yếu phải duy trì liên lạc giữa các khu vực tác
chiến để thống nhất chỉ huy. Bất cứ nơi nào rút khỏi thành phố, quân ta phải chiếm giữ
những địa điểm chiến lược để tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Các vùng chiến tranh chưa
lan đến cũng phải chuẩn bị đối phó khi tiến khi lui, kế hoạch tiến công cũng như kế
hoạch rút lui cũng phải hết sức chu đáo, kỹ lưỡng.
Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn và kẻ thù chính, coi
sự nhân nhượng với kẻ địch cũng một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong
hoàn cảnh cụ thể.
2.3.3. Về ngoại giao
Kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng, tương
trợ”. Phương châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” và
“muốn ngoại giao được thắng lợi phải biểu dương thực lực”. Đối với Tưởng thì chủ
trương Hoa – Việt thân thiện, đối với Pháp độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.
Tận dụng khả năng hòa hoãn, đàm phán để xây dựng lực lượng, củng cố chính
quyền nhân dân. Đồng thời vẫn đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến
tranh lan ra cả nước khi có kẻ địch bội ước.
2.3.4. Về kinh tế tài chính
Cho phép các xí nghiệp bị phát xít Nhật bỏ hoang hoạt động lại, khai thác hầm mỏ,
cho phép nhân đầu vốn vào kinh doanh các nghiệp, hầm mỏ này, khuyến khích
giới công thương thành lập hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia công cuộc tái thiết
đất nước.
Đẩy mạnh cách mạng tăng gia sản xuất, chống đói theo phương châm: “Tấc đất
tấc vàng”, “Nhường cơm sẻ áo”, “Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc”. Kêu
gọi lòng yêu nước thương của đồng bào, thành lập quỹ cứu trợ, xây dựng kho thóc cứu
trợ, tổ chức “bữa cháo cầm hơi”… Khuyến khích thanh niên tự tổ chức thành các “cứu
đói”, các “đội quân trừ giặc đói” để trồng trọt, lấy lương thực cho dân nghèo hoặc
quyên góp cho các quỹ cứu trợ, tổ chức tiếp tế, mua gạo của người giàu bán rẻ cho
người nghèo, chuyên chở gạo từ chỗ thừa sang chỗ thiếu.
Thực hiện khuyến nông sữa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc “Cụ
Hồ”, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh, định lại ngạch thuế, xây dựng nền tài
chính độc lập.
2.3.5. Về văn hóa, xã hội
Tổ chức bình dân học vụ, tích cực xóa chữ, mở các trường đại học, phổ thông
trung học, cải cách việc học với tinh thần mới, xóa bỏ cách dạy học nhồi nhét, tuyển
truyền cổ động văn hóa cứu, xây dựng nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học
hóa, dân tộc hóa và đại chúng hóa.
Khuyến khích sản xuất nông nghiệp, làm cho tá điền và địa chủ nhân nhượng nhau
để tiếp tục cấy cày như thường, “Tấc đất tấc vàng”, tổ chức tiếp tế, ngăn cấm đầu cơ tích
trữ, tổ chức cứu trợ dân nghèo, thực hành khẩu hiệu “sẻ cơm nhường áo” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Về phần Chính phủ, phải lo nhập cảng ngũ cốc. Những công việc trên đây,
muốn các kết quả, các đồng chí phải hết sức vận động các tầng lớp phú hào, địa chủ
tham gia cùng.
2.4. Biện pháp cụ thể
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm
vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển:
Về Đảng, cần duy trì hệ thống tổ chức mật hoặc nửa công khai, kết nạp thêm
đảng viên mới, tập trung gây dựng thêm sở Đảng đoàn thể, mở rộng các tổ chức
nghiên cứu chủ nghĩa Mác, bao gồm cả những người có khuynh hướng cộng sản hoặc có
cảm tình với tổ chức, nhưng phải do những người cộng sản kiểm soát. Trong công tác
phát triển đảng viên củng cố tổ chức đảng, Chỉ thị nêu phải tránh cả hai khuynh
hướng: một số nơi tổ chức Đảng quá hẹp, quá chậm, chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi,
câu chấp của thời kỳ hoạt động hoàn toàn bí mật; một số nơi khác thì tổ chức Đảng quá
rộng và quá nhanh dễ làm cho các thành phần phức tạp dễ trà trộn vào tổ chức.
Đồng thời, bản Chỉ thị cũng nêu rõ: c tổ chức Đảng phải giữ vững duy trì
sinh hoạt đều đặn, xây dựng, củng cố các chi bộ Đảng trong các cơ quan hành chính hay
các hội hợp pháp. Thành lập chi bộ trong quân đội, phối hợp hoạt động mật với hoạt
động công khai, trong đó đặc biệt coi trọng đến hoạt động mật không để xảy ra
xung đột giữa các cơ quan bí mật và cơ quan công khai.
Về Mặt trận Việt Minh, cố gắng hết sức thể để phát triển các tổ chức cứu quốc,
liên kết các tổ chức này lên toàn kì, toàn quốc. Sửa đổi điều lệ cho các tổ chức cứu quốc
để thích ứng với hoàn cảnh mới, mở rộng Mặt trận Việt Minh, thành lập các tổ chức cứu
quốc mới, giải quyết mâu thuẫn giữa Ủy ban nhân dân và Ủy ban Việt Minh, củng cố sự
lãnh đạo của Đảng Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam -Lào -Campuchia chống
thực dân Pháp xâm lược.
Tổng bộ Việt Minh phải thành lập một bộ tuyên truyền để điều khiển các tờ báo
trong mặt trận ra một loại sách phổ thông của mặt trận. Những người cộng sản bắt
buộc phải vào các đoàn thể cứu quốc làm việc, vận dụng trong các ủy ban Việt
Minh ở địa phương cũng như trong Tổng bộ Việt Minh cho đến trên toàn quốc. Củng cố
các đảng đoàn trong các đoàn thể mặt trận do đó duy trìcủng cố được quyền lãnh
đạo mặt trận.
Chỉ thị còn đề ra những biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính
quyền, kháng chiến ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng quyển cử...
3. Nguyên nhân trực tiếp bùng nổ cuộc kháng chiến và quá trình hình thành nội dung cơ bản
đường lối tháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
a) Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến
- Với tâm xâm lược nước ta một lần nữa, Pháp đã những hành động trắng trợn, vi
phạm các điều đã kết với chính phủ ta như: hiệp định bộ (6-3), tạm ước (14- 9). Sau
khi được đưa quân ra miền Bắc , Pháp đã có những hành động đánh chiếm Hải Phòng, Lạng
Sơn, tước vũ khí bộ đội ta ở Hà Nội.
- Mặc dù chúng ta đã nhân nhượng với Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, Pháp càng
lấn tới, đến lúc chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm
kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc của mình. Do đó vào đêm 19-12-1946, cuộc kháng
chiến toàn quốc bùng nổ tại pháo đài Láng.
b) Quá trình hình thành nội dung bản đường lối tháng chiến chống thực dân Pháp của
Đảng.
Bối cảnh lịch sử nước ta lúc bấy giờ:
- Đảng, Chính phủ nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng với Pháp Hiệp
định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9. Chấp hành chủ trương của Chính phủ, nhân dân ta kiên trì
đấu tranh giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng, đề phòng khả năng
bất trắc phải kháng chiến chống Pháp lâu dài.
o Chính phủ Pháp không thành thật trong việc Hiệp định bộ 6/3/1946
Tạm ước 14/9/1946 với Việt Nam, nên xong lại tìm cách phá hoại, đẩy
mạnh việc chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa.
+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.
+Bắc Bộ Trung Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, thực dân Pháp khiêu khích, tiến công ta
Hải Phòng Lạng Sơn. Tháng 12/1946, chúng chiếm đóng trái phép Đà Nẵng, Hải
Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng.
+ Hà Nội, tình hình nghiêm trọng hơn. Trong các ngày 15 và 16/12, quân Pháp bắn súng,
ném lựu đạn ở nhiều nơi: đốt Nhà Thông tinphố Tràng Tiền, chiếm đóng quan Bộ Tài
chính Bộ Giao thông công chính. Chúng còn cho xe phá các công sự của ta phố
Đúc, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, đầu cầu Long Biên,
khu Cửa Đông… Trắng trợn hơn, trong các ngày 18 19/12/1946, tướng Moóclie gửi tối
hậu thư đòi ta phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự
vệ chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được
chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động!
o Trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ có một con
đường: cầm vũ khí kháng chiến chống thực Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc
lập, tự do.
o Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng, Chính phủ ta phải quyết định kịp thời.
Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân
kháng chiến. Ngày 18 19/12/1946, Hội nghị bất thường mở rộng Ban
Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà
Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động cả
nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
o Tối 19/12/1946, thay mặt Trung ương Đảng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra phát động cả nước đứng lênLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến,
kháng chiến chống thực dân Pháp. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã tác
động mạnh mẽ đến toàn thể dân tọc ta. Lời kêu gọi của Người là tiếng gọi của
non sông, mệnh lệnh tiến công cách mạng, giục giã, soi đường cho nhân
dân ta đứng lên đánh giặc, cứu nước.
o Nội dung và phương châm kháng chiến của Đảng ta?
- Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Xuất phát từ những nguyên bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mac-Lenin;
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, của bối cảnh lịch sử lúc bầy giờ; Xuất phát từ
truyền thống yêu nước của nhân dân ta và được kế thừa những kinh nghiệm đánh giặc ngoại
xâm của cha ông. Đường lối kháng chiến của Đẳng đã được đề ra cùng đúng đắn, sang
tạo kịp thời. tác dụng to lớn trong việc đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng vào giai
đoạn ổn định và phát triển đúng hướng.
4. Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
Cơ sở đường lối kháng chiến
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch HCM (20/12/1946)
- Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trungương Đảng vào ngày 22/12/1946
- Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh xuất bản đầu
năm 1947.
Mục đích cuộc kháng chiến
- Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành độc lập dân tộc, từng bước xây dựng chế
độ mới
Tính chất của cuộc kháng chiến
- cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, 1 cuộc chiến tranh chính nghĩa, toàn dân
kháng chiến, toàn diện kháng chiến
Phương châm kháng chiến
- Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh
+ Đường lối kháng chiến toàn dân: Toàn dân đánh giặc với tinh thần mỗi người dân 1
chiến sĩ, mỗi đường phố là một mặt trận, mỗi làng xã là một pháo đài đánh giặc
Tác dụng: Tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, toàn dân cho cách mạng
+ Đường lối kháng chiến toàn diện: Đánh giặc trên tất cả các mặt
Chính trị: đoàn kết toàn dân, tranh thủ thêm bạn, cô lập kẻ thù
Quân sự: Đánh địchở khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng
Kinh tế: tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế của ta
Văn hóa, XH: đánh đổ văn hóa nô dịch, xây dựng nền văn hóa mới
Tác dụng: tạo sức mạnh toàn diện cho CM VN đánh thắng Pháp
5. Những điểm mới trong Đại hội II của Đảng (2/1951)
- Đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai.
- Đại hội đã thông quan Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, gồm các nội dung
quan trọng sau đây:
+ Xác định tính chất của hội Việt Nam lúc này 3 tính chất: “dân chủ nhân dân,
một phần thuộc địa và nửa phong kiến”.
+ Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến
và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây
cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”
+ Động lực của cách mạng Việt Nam có 4 giai cấp: công nhân, nông dân, giai cấp tiểu tư
sản sản dân tộc. Lấy nền tảng giai cấp công-nông-trí; giai cấp công nhân đóng
vai trò là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam
+ Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của CM Việt Nam nhất định sẽ tiến lên
CNXH.
6. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt
- Nhằm làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi (Jean de Lattre de
Tassigny), từ đầu năm 1951, Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự
có quy mô tương đối lớn đánh vào các vùng chiếm đóng của địch ở địa bàn trung
du và đồng bằng Bắc Bộ, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển
cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch.
- Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ chỉ
đạo đẩy mạnh việc chăm lo phát triển thực lực, củng cố và tăng cường sức mạnh
hậu phương kháng chiến. Tháng 4-1952, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ ba của Đảng đề ra những quyết sách lớn về công tác “chỉnh Đảng, chỉnh quân”,
xác định đó là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội
giai đoạn này. Vận động nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, khắc phục
khó khăn, hăng hái lao động, bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng
cung cấp đủ cho bộ đội.
- Từ đầu năm 1953, Đảng chủ trương đẩy mạnh thực hiện các cải cách dân
chủ, phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, giảm tức tiến tới cải cách
ruộng đất nhằm góp phần thúc đẩy kháng chiến mau thắng lợi, thực hiện mục tiêu
người cày có ruộng.
- Ngày 4-12-1953, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật cải
cách ruộng đất và ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc
lệnh Luật cải cách ruộng đất. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ hàng
ngàn hécta ruộng đất các loại nông cụ, trâu bò, liệu sản xuất nông nghiệp đã được
chia cho nông dân nghèo, nhất là bần, cố nông. Thắng lợi này đã làm nức
lòng bộ đội nơi tiền tuyến, tăng thêm quyết tâm giết giặc, lập công, góp phần tích
cực động viên sức người, sức của cho Chiến dịch Điện Biên Phủ...
7. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến
- Ý nghĩa:
*Trong nước:
- Thắng lợi này kết thúc ách thống trị gần 1 thế kỉ của thực dân Pháp trên đất nước ta.
- Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, chuyển sang giai đoạn Xã hội chủ nghĩa.
* Quốc tế:
- Giáng một đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu dịch của chủ nghĩa đế
quốc, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.
- Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
NhLng bài hMc kinh nghiệm
- Kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc chống phong kiến. Nhiệm vụ chống
phong kiến phải tiến hành kế hoạch, từng bước để vừa phát triển lực lượng cách
mạng, vừa giữ vững khối đoàn kết dân tộc.
- Xác định quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện, lâu dài
dựa vào sức mình là chính. Đây là bí quyết thắng lợi của cuộc kháng chiến.
- Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương vững mạnh để đẩy
mạnh kháng chiến.
- Kiên quyết kháng chiến lâu dài, đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Kết
hợp chặt chẽ giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích.
- Xây dựng Đảng vững mạnh và bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, với đường lối
chiến tranh nhân dân đúng đắn, chủ trương chính sách kháng chiến ngày càng
hoàn chỉnh, có ý chí quyết chiến và quyết thắng kẻ thù. Có đội ngũ đảng viên dũng cảm,
kiên cường, là những chiến sĩ tiên phong trong chiến đấu và trong sản xuất.
| 1/11

Preview text:

1. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Sau cách mạng tháng 8/1945 cùng với diễn biến của tình hình thế giới đã mang lại cho
Việt Nam không ít thuận lợi trong việc quản lý đất nước. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam lại
không thể tránh khỏi được nhiều khó khăn khi " thù trong, giặc ngoài" Những tàn dư sau chiến
tranh đang ngày càng tàn phá mạnh mẽ. Có thể nói, tình hình Việt Nam lúc bấy giờ là "ngàn cân treo sợi tóc".
a. Thuận lợi sau cách mạng tháng 8
- Hệ thống XHCN được hình thành trên diện rộng do Liên Xô đứng đầu.
- Phong trào đấu tranh của Việt Nam giành được nhiều thắng lợi vẻ vang thì song
song tình hình thế giới cũng có nhiều chuyển biến tốt đẹp với ựu phát triển mạnh mẽ
của phong trào cách mạng thế giới và hệ thống xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo nên
chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam.
- Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; có Đảng và hệ thống chính quyền cách
mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở.
b. Khó khăn sau cách mạng tháng 8:
- Hệ thống chính quyền mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt.
- Hậu quả của chế độ cũ để lại rất nặng nè + Nạn đói
+ Nạn dốt: Hơn 95% dân số mù chữ
+ Ngân sách quốc gia trống rỗng - Thù trong giặc ngoài
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc lấy danh nghĩa là
giải giáp quân Nhật nhưng âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Mang theo bọn phản
động Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam cách mạng đảng tìm mọi cách chống phá chính quyền cách mạng.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam: Quân Anh với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, nhưng
âm mưu lại giúp đỡ Pháp quay trở lại xâm lược, tạo điều kiện cho quân Pháp quay lại xâm lược miền Nam.
 Nền độc lập và chính quyền non trẻ của Việt Nam bị đặt trong tình thế “ Ngàn cân treo sợi tóc”
2. Nội dung Chủ trương kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945.
2.1. Tư tưởng chỉ đạo chiến lược:
Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan của ta và địch, Chỉ
thị “Kháng chiến kiến quốc” chỉ rõ: “Cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng”. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì cả
nước ta chưa được hoàn toàn độc lập. Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa kết
thúc. Vì thế giai cấp vô sản vẫn phải hǎng hái, kiên quyết đến cùng để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy.
Khẩu hiệu đấu tranh vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
Trước đây, chỉ đạo chiến lược của Đảng ta đề cao vấn đề giải phóng dân tộc, giải
phóng Tổ quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, khẩu hiệu chiến đấu vẫn là
“Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ độc
lập. Mục tiêu hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân là giữ vững nền độc lập vừa mới gây dựng được.
2.2. Xác định kẻ thù
Đế quốc Nhật Thiên hoàng Hirohito Trước đây, chúng ta xác định kẻ thù là thực
dân Pháp, đến khi Nhật xâm chiếm nước ta thì nước ta xác định kẻ thù là Pháp – Nhật.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, chiếm đóng nước ta thì Đảng ta lại xác định kẻ thù chính
là phát xít Nhật, hoạt động kháng Nhật cứu nước được đẩy lên cao trào. Ngày 15 tháng 8
năm 1945, Sự đầu hàng của được tuyên bố và chiến tranh Thế giới thứ hai chính thức kết thúc.
Đến sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta có rất nhiều kẻ thù: quân Nhật chưa rút
hết, thực dân Pháp vẫn đóng quân ở Việt Nam, phía Bắc là quân Tưởng, phía nam là
quân Anh ồ ạt kéo vào nước ta. Nhưng quân Nhật đã thất bại trong chiến tranh Thế giới,
chịu tổn thất nặng nề và sẽ sớm rút lui về nước hoàn toàn. Quân Tưởng Giới Thạch mặc
dù có âm mưu chiếm đóng nước ta, thiết lập chế độ tay sai nhưng mục đích chính của
chúng là ở Trung Quốc. Còn đối với quân Anh, mục tiêu chính của chúng là chiếm được
hoàn toàn thuộc địa ở Ấn Độ, ở Châu Phi chứ không phải Đông Dương.
Phân tích âm mưu và tính chất của từng kẻ thù, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
quyết định chính sách hòa hoãn với quân Tưởng và nêu rõ: “Kẻ thù chính của nhân dân
Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Chỉ thị nhấn mạnh phải lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống thực dân Pháp xâm
lược; mở rộng Việt Minh để thu hút mọi tầng lớp nhân dân, trong đó chú trọng vận động
địa chủ, phong kiến và đồng bào Công giáo...; thống nhất mặt trận Việt -Miên -Lào
chống Pháp xâm lược. Kiên quyết giành độc lập -tự do -hạnh phúc dân tộc, thực hiện chế
độ dân chủ cộng hoà, cải thiện đời sống nhân dân.
2.3. Phương hướng nhiệm vụ
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đưa ra những nhiệm vụ cấp bách nhất mà cách
mạng cần phải hoàn thành trong giai đoạn mới. Chỉ thị này là một bước chỉ đạo vô cùng
quan trọng khi tình hình thế giới và trong nước rất phức tạp, không có lợi cho sự phát
triển của cách mạng. Nói chung, chỉ thị tập trung vào một số nhiệm vụ chính như sau:
2.3.1. Về chính trị
Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc chống thực dân Pháp và xây dựng đất nước,
củng cố chính quyền nhân dân bằng cách kiên quyết trừng trị bọn nội phản. Phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sức dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách
mạng. Bên cạnh đó tiến hành cải tổ chính phủ, sửa đổi cách làm việc của chính quyền
nhân dân địa phương trước khi tiến hành tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, lập Chính phủ
chính thức và ban hành Hiến pháp. 2.3.2. Về quân sự
Liên tục động viên lực lượng toàn dân trường kỳ kháng chiến, dùng lối đánh du
kích với phương pháp bất hợp tác triệt để của nhân dân ở vùng địch chiếm đóng, mở
rộng chiến tranh du kích ở Campuchia và phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào.
Phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành chính
sách bất hợp tác ở các thành thị quân địch làm chủ và thi hành “nhà không đồng vắng”
nếu quân Pháp tràn về quê. Điều cốt yếu là phải duy trì liên lạc giữa các khu vực tác
chiến để thống nhất chỉ huy. Bất cứ nơi nào rút khỏi thành phố, quân ta phải chiếm giữ
những địa điểm chiến lược để tiến có thể đánh, lui có thể giữ. Các vùng chiến tranh chưa
lan đến cũng phải chuẩn bị đối phó khi tiến khi lui, kế hoạch tiến công cũng như kế
hoạch rút lui cũng phải hết sức chu đáo, kỹ lưỡng.
Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn và kẻ thù chính, coi
sự nhân nhượng với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể.
2.3.3. Về ngoại giao
Kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng, tương
trợ”. Phương châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” và
“muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. Đối với Tưởng thì chủ
trương Hoa – Việt thân thiện, đối với Pháp độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.
Tận dụng khả năng hòa hoãn, đàm phán để xây dựng lực lượng, củng cố chính
quyền nhân dân. Đồng thời vẫn đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến
tranh lan ra cả nước khi có kẻ địch bội ước.
2.3.4. Về kinh tế tài chính
Cho phép các xí nghiệp bị phát xít Nhật bỏ hoang hoạt động lại, khai thác hầm mỏ,
cho phép tư nhân đầu tư vốn vào kinh doanh các xí nghiệp, hầm mỏ này, khuyến khích
giới công thương thành lập hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia công cuộc tái thiết đất nước.
Đẩy mạnh cách mạng tăng gia sản xuất, chống đói theo phương châm: “Tấc đất là
tấc vàng”, “Nhường cơm sẻ áo”, “Công việc cứu đói cũng cần như việc đánh giặc”. Kêu
gọi lòng yêu nước thương của đồng bào, thành lập quỹ cứu trợ, xây dựng kho thóc cứu
trợ, tổ chức “bữa cháo cầm hơi”… Khuyến khích thanh niên tự tổ chức thành các “cứu
đói”, và các “đội quân trừ giặc đói” để trồng trọt, lấy lương thực cho dân nghèo hoặc
quyên góp cho các quỹ cứu trợ, tổ chức tiếp tế, mua gạo của người giàu và bán rẻ cho
người nghèo, chuyên chở gạo từ chỗ thừa sang chỗ thiếu.
Thực hiện khuyến nông sữa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc “Cụ
Hồ”, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh, định lại ngạch thuế, xây dựng nền tài chính độc lập.
2.3.5. Về văn hóa, xã hội
Tổ chức bình dân học vụ, tích cực xóa mù chữ, mở các trường đại học, phổ thông
trung học, cải cách việc học với tinh thần mới, xóa bỏ cách dạy học nhồi nhét, tuyển
truyền cổ động văn hóa cứu, xây dựng nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học
hóa, dân tộc hóa và đại chúng hóa.
Khuyến khích sản xuất nông nghiệp, làm cho tá điền và địa chủ nhân nhượng nhau
để tiếp tục cấy cày như thường, “Tấc đất tấc vàng”, tổ chức tiếp tế, ngăn cấm đầu cơ tích
trữ, tổ chức cứu trợ dân nghèo, thực hành khẩu hiệu “sẻ cơm nhường áo” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Về phần Chính phủ, phải lo nhập cảng ngũ cốc. Những công việc trên đây,
muốn các kết quả, các đồng chí phải hết sức vận động các tầng lớp phú hào, địa chủ tham gia cùng.
2.4. Biện pháp cụ thể
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm
vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển:
Về Đảng, cần duy trì hệ thống tổ chức bí mật hoặc nửa công khai, kết nạp thêm
đảng viên mới, tập trung gây dựng thêm cơ sở Đảng đoàn thể, mở rộng các tổ chức
nghiên cứu chủ nghĩa Mác, bao gồm cả những người có khuynh hướng cộng sản hoặc có
cảm tình với tổ chức, nhưng phải do những người cộng sản kiểm soát. Trong công tác
phát triển đảng viên và củng cố tổ chức đảng, Chỉ thị nêu rõ phải tránh cả hai khuynh
hướng: ở một số nơi tổ chức Đảng quá hẹp, quá chậm, chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi,
câu chấp của thời kỳ hoạt động hoàn toàn bí mật; một số nơi khác thì tổ chức Đảng quá
rộng và quá nhanh dễ làm cho các thành phần phức tạp dễ trà trộn vào tổ chức.
Đồng thời, bản Chỉ thị cũng nêu rõ: Các tổ chức Đảng phải giữ vững và duy trì
sinh hoạt đều đặn, xây dựng, củng cố các chi bộ Đảng trong các cơ quan hành chính hay
các hội hợp pháp. Thành lập chi bộ trong quân đội, phối hợp hoạt động bí mật với hoạt
động công khai, trong đó đặc biệt coi trọng đến hoạt động bí mật và không để xảy ra
xung đột giữa các cơ quan bí mật và cơ quan công khai.
Về Mặt trận Việt Minh, cố gắng hết sức có thể để phát triển các tổ chức cứu quốc,
liên kết các tổ chức này lên toàn kì, toàn quốc. Sửa đổi điều lệ cho các tổ chức cứu quốc
để thích ứng với hoàn cảnh mới, mở rộng Mặt trận Việt Minh, thành lập các tổ chức cứu
quốc mới, giải quyết mâu thuẫn giữa Ủy ban nhân dân và Ủy ban Việt Minh, củng cố sự
lãnh đạo của Đảng ở Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam -Lào -Campuchia chống
thực dân Pháp xâm lược.
Tổng bộ Việt Minh phải thành lập một bộ tuyên truyền để điều khiển các tờ báo
trong mặt trận và ra một loại sách phổ thông của mặt trận. Những người cộng sản bắt
buộc phải vào các đoàn thể cứu quốc mà làm việc, và vận dụng trong các ủy ban Việt
Minh ở địa phương cũng như trong Tổng bộ Việt Minh cho đến trên toàn quốc. Củng cố
các đảng đoàn trong các đoàn thể mặt trận và do đó duy trì và củng cố được quyền lãnh đạo mặt trận.
Chỉ thị còn đề ra những biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính
quyền, kháng chiến ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng quyển cử...
3. Nguyên nhân trực tiếp bùng nổ cuộc kháng chiến và quá trình hình thành nội dung cơ bản
đường lối tháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
a) Nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến
- Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, Pháp đã có những hành động trắng trợn, vi
phạm các điều đã kí kết với chính phủ ta như: hiệp định Sơ bộ (6-3), tạm ước (14- 9). Sau
khi được đưa quân ra miền Bắc , Pháp đã có những hành động đánh chiếm Hải Phòng, Lạng
Sơn, tước vũ khí bộ đội ta ở Hà Nội.
- Mặc dù chúng ta đã nhân nhượng với Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, Pháp càng
lấn tới, đến lúc chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, toàn Đảng toàn dân ta quyết tâm
kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc của mình. Do đó vào đêm 19-12-1946, cuộc kháng
chiến toàn quốc bùng nổ tại pháo đài Láng.
b) Quá trình hình thành nội dung cơ bản đường lối tháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng.
Bối cảnh lịch sử nước ta lúc bấy giờ:
- Đảng, Chính phủ và nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng kí với Pháp Hiệp
định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9. Chấp hành chủ trương của Chính phủ, nhân dân ta kiên trì
đấu tranh giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng, đề phòng khả năng
bất trắc phải kháng chiến chống Pháp lâu dài. o
Chính phủ Pháp không thành thật trong việc kí Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và
Tạm ước 14/9/1946 với Việt Nam, nên kí xong lại tìm cách phá hoại, đẩy
mạnh việc chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa.
+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.
+ Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, thực dân Pháp khiêu khích, tiến công ta ở
Hải Phòng và Lạng Sơn. Tháng 12/1946, chúng chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải
Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng.
+ Ở Hà Nội, tình hình nghiêm trọng hơn. Trong các ngày 15 và 16/12, quân Pháp bắn súng,
ném lựu đạn ở nhiều nơi: đốt Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài
chính và Bộ Giao thông công chính. Chúng còn cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò
Đúc, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, đầu cầu Long Biên,
khu Cửa Đông… Trắng trợn hơn, trong các ngày 18 và 19/12/1946, tướng Moóclie gửi tối
hậu thư đòi ta phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự
vệ chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được
chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động! o
Trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ có một con
đường: cầm vũ khí kháng chiến chống thực Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập, tự do. o
Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng, Chính phủ ta phải có quyết định kịp thời.
Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân
kháng chiến
. Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường mở rộng Ban
Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà
Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động cả
nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. o
Tối 19/12/1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến phát ,
động cả nước đứng lên
kháng chiến chống thực dân Pháp. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã tác
động mạnh mẽ đến toàn thể dân tọc ta. Lời kêu gọi của Người là tiếng gọi của
non sông, là mệnh lệnh tiến công cách mạng, giục giã, soi đường cho nhân
dân ta đứng lên đánh giặc, cứu nước. o
Nội dung và phương châm kháng chiến của Đảng ta?
- Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Xuất phát từ những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mac-Lenin;
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, của bối cảnh lịch sử lúc bầy giờ; Xuất phát từ
truyền thống yêu nước của nhân dân ta và được kế thừa những kinh nghiệm đánh giặc ngoại
xâm của cha ông. Đường lối kháng chiến của Đẳng đã được đề ra vô cùng đúng đắn, sang
tạo và kịp thời. Có tác dụng to lớn trong việc đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng vào giai
đoạn ổn định và phát triển đúng hướng.
4. Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 
Cơ sở đường lối kháng chiến
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch HCM (20/12/1946)
- Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Trungương Đảng vào ngày 22/12/1946
- Tác phẩm “ Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh xuất bản đầu năm 1947. 
Mục đích cuộc kháng chiến
- Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành độc lập dân tộc, từng bước xây dựng chế độ mới 
Tính chất của cuộc kháng chiến
- Là cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, 1 cuộc chiến tranh chính nghĩa, toàn dân
kháng chiến, toàn diện kháng chiến  Phương châm kháng chiến
- Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh
+ Đường lối kháng chiến toàn dân: Toàn dân đánh giặc với tinh thần mỗi người dân là 1
chiến sĩ, mỗi đường phố là một mặt trận, mỗi làng xã là một pháo đài đánh giặc 
Tác dụng: Tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, toàn dân cho cách mạng
+ Đường lối kháng chiến toàn diện: Đánh giặc trên tất cả các mặt
Chính trị: đoàn kết toàn dân, tranh thủ thêm bạn, cô lập kẻ thù
Quân sự: Đánh địchở khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng
Kinh tế: tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế của ta
Văn hóa, XH: đánh đổ văn hóa nô dịch, xây dựng nền văn hóa mới 
Tác dụng: tạo sức mạnh toàn diện cho CM VN đánh thắng Pháp
5. Những điểm mới trong Đại hội II của Đảng (2/1951)
- Đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai.
- Đại hội đã thông quan Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, gồm các nội dung quan trọng sau đây:
+ Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân dân,
một phần thuộc địa và nửa phong kiến”.
+ Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến
và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây
cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”
+ Động lực của cách mạng Việt Nam có 4 giai cấp: công nhân, nông dân, giai cấp tiểu tư
sản và tư sản dân tộc. Lấy nền tảng là giai cấp công-nông-trí; giai cấp công nhân đóng
vai trò là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam
+ Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của CM Việt Nam nhất định sẽ tiến lên CNXH.
6. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt
- Nhằm làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi (Jean de Lattre de
Tassigny), từ đầu năm 1951, Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự
có quy mô tương đối lớn đánh vào các vùng chiếm đóng của địch ở địa bàn trung
du và đồng bằng Bắc Bộ, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển
cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch.
- Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ chỉ
đạo đẩy mạnh việc chăm lo phát triển thực lực, củng cố và tăng cường sức mạnh
hậu phương kháng chiến. Tháng 4-1952, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ ba của Đảng đề ra những quyết sách lớn về công tác “chỉnh Đảng, chỉnh quân”,
xác định đó là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội
giai đoạn này. Vận động nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, khắc phục
khó khăn, hăng hái lao động, bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng
cung cấp đủ cho bộ đội.
- Từ đầu năm 1953, Đảng chủ trương đẩy mạnh thực hiện các cải cách dân
chủ, phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, giảm tức tiến tới cải cách
ruộng đất nhằm góp phần thúc đẩy kháng chiến mau thắng lợi, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng.
- Ngày 4-12-1953, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật cải
cách ruộng đất và ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc
lệnh Luật cải cách ruộng đất. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ hàng
ngàn hécta ruộng đất và các loại nông cụ, trâu bò, tư liệu sản xuất nông nghiệp đã được
chia cho nông dân nghèo, nhất là bần, cố nông. Thắng lợi này đã làm nức
lòng bộ đội nơi tiền tuyến, tăng thêm quyết tâm giết giặc, lập công, góp phần tích
cực động viên sức người, sức của cho Chiến dịch Điện Biên Phủ...
7. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến - Ý nghĩa: *Trong nước:
- Thắng lợi này kết thúc ách thống trị gần 1 thế kỉ của thực dân Pháp trên đất nước ta.
- Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, chuyển sang giai đoạn Xã hội chủ nghĩa. * Quốc tế:
- Giáng một đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế
quốc, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.
- Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
NhLng bài hMc kinh nghiệm
- Kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Nhiệm vụ chống
phong kiến phải tiến hành có kế hoạch, từng bước để vừa phát triển lực lượng cách
mạng, vừa giữ vững khối đoàn kết dân tộc.
- Xác định và quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện, lâu dài và
dựa vào sức mình là chính. Đây là bí quyết thắng lợi của cuộc kháng chiến.
- Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương vững mạnh để đẩy mạnh kháng chiến.
- Kiên quyết kháng chiến lâu dài, đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Kết
hợp chặt chẽ giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích.
- Xây dựng Đảng vững mạnh và bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, với đường lối
chiến tranh nhân dân đúng đắn, có chủ trương và chính sách kháng chiến ngày càng
hoàn chỉnh, có ý chí quyết chiến và quyết thắng kẻ thù. Có đội ngũ đảng viên dũng cảm,
kiên cường, là những chiến sĩ tiên phong trong chiến đấu và trong sản xuất.