lOMoARcPSD| 58886076
Họ và tên: Lại Ngọc Linh
MSV: 23061267
Câu 1: Tại sao “Tổ chức quốc tế liên Chính phủ” là chủ thể phái sinh của Luật quốc tế ?
Tổ chức quốc tế liên chính phủ là một trong những chủ thể của Luật quốc tế. Chủ thể của Luật
quốc tế là bộ phận cấu thành cơ bản của quan hệ pháp luật quốc tế, là thực thể tham gia vào quan
hệ quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, đồng thời có khả năng
chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi mà nó gây ra.
Tổ chức quốc tế là thực thể liên kết giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế
trên cơ sở ĐƯQT, ra đời trên cơ sở các hiệp ước quốc tế được các quốc gia thành lập nên. Điều
này có nghĩa là sự tồn tại và hoạt động của tổ chức quốc tế phụ thuộc vào sự đồng thuận và
thỏa thuận giữa các quốc gia. Khác với các quốc gia, tổ chức quốc tế không sở hữu chủ
quyền. Chủ quyền là quyền tối cao và độc lập của một quốc gia, bao gồm quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Tổ chức quốc tế chỉ có những quyền hạn nhất định được trao cho bởi các quốc
gia thành viên. Tất cả các hoạt động của tổ chức quốc tế đều phải tuân thủ các nguyên tắc và quy
định của luật quốc tế. Luật quốc tế là tập hợp các quy tắc và chuẩn mực điều chỉnh quan hệ giữa
các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế.
Quyền hạn của tổ chức quốc tế được quy định trong các văn kiện thành lập (hiến chương,
điều lệ...) và các hiệp ước liên quan. Phạm vi quyền hạn này thường bị giới hạn bởi những gì mà
các quốc gia thành viên đồng ý trao cho tổ chức.
Các quyết định quan trọng của tổ chức quốc tế đều phải tuân theo các quy định của luật
quốc tế và sự đồng thuận của các quốc gia thành viên. Điều này cho thấy tổ chức quốc tế không
có một ý chí độc lập mà phụ thuộc vào ý chí của các quốc gia thành viên.
VD: Liên Hợp Quốc được thành lập sau Thế chiến thứ hai với mục tiêu duy trì hòa bình và
an ninh quốc tế. Quyền hạn của Liên hợp Quốc được quy định trong Hiến chương Liên hợp
Quốc, và các quyết định quan trọng đều phải được thông qua bởi Hội đồng Bảo an, trong đó các
nước thành viên thường trực có quyền phủ quyết.
Mặc dù tổ chức quốc tế đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại, nhưng vị
thế pháp lý của chúng vẫn phụ thuộc vào các quốc gia thành viên. Điều này có nghĩa là các t
chức quốc tế không thể vượt quá những giới hạn mà các quốc gia thành viên đã đặt ra. Vì những
lý do trên, tổ chức quốc tế được coi là "phái sinh" từ các quốc gia, không có một vị thế pháp
hoàn toàn độc lập.
Câu 2: Đường cơ sở và các cách xác định đường cơ sở theo Công ước Luật Biển 1982 của
Liên Hợp Quốc. Đường cơ sở Việt Nam ?
Đường cơ sở là đường ranh giới cơ bản để xác định phạm vi các vùng biển thuộc chủ
quyền và quyền chủ quyền của một quốc gia ven biển. Từ đường cơ sở này, các quốc gia sẽ tính
toán chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Đường cơ sở là điểm xuất phát để tính toán các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền
của một quốc gia, từ đó xác định phạm vi mà quốc gia đó có quyền thực hiện các hoạt động kinh
tế, khai thác tài nguyên và bảo vệ an ninh. Đường cơ sở đóng vai trò quan trọng trong việc giải
lOMoARcPSD| 58886076
quyết các tranh chấp về biển đảo, đặc biệt là trong việc xác định các vùng chồng lấn, tranh chấp
về quyền khai thác tài nguyên.
Cách xác định đường cơ sở:
1. Đường cơ sở thông thường:
- đường ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ
lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận. (Điều 5, Công ước luật biển 1982) - Ưu
điểm: Phương pháp này đơn giản, dễ xác định và được áp dụng rộng rãi.
- Hạn chế: Không phù hợp với những vùng biển có bờ biển phức tạp, bị chia cắt bởi các đảo, đá
ngầm.
2. Đường cơ sở thẳng:
- đường thẳng nối lin các điểm thích hợp, được sử dụng khi bờ biển bị khoét sâu, lồi lõm
hoặc có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, hoặc ở nơi nào bờ biển cực kỳ
không ổn định do có một châu thổ và do những điều kiện tự nhiên khác (Điều 7). Với mục đích
để bao gồm các vùng nước nằm trong các vịnh hẹp, đầm phá, hoặc các vùng nước nằm giữa các
đảo nằm sát bờ biển vào trong lãnh hải của quốc gia ven biển.
- Điều kiện:
+ Tuyến đường cơ sở thẳng phải đi theo xu hướng chung của bờ biển
+ c vùng biển bên trong đường cơ sở phải gắn với đất liền đủ đến mức đặt dưới chế đ
nội thủy, nghĩa là tuyến đường cơ sở thẳng vạch ra không được cách xa bờ.
- Ưu điểm: Đảm bảo sự ổn định và tính liên tục của đường cơ sở, bảo vệ lợi ích của quốc gia ven
biển. - Hạn chế :
+ c bãi cạn lúc nổi lúc chìm không được chọn làm các điểm cơ sở, trừ trường hợp ở đó có
những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô lên khỏi mặt nước, hoặc việc
kẻ đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.
+ Khi vạch ra đường cơ sở thẳng phải lưu ý không được làm cho lãnh hải của một quốc gia
khác bị tách khỏi biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế.
+ Việc xác định các điểm thích hợp để nối thành đường cơ sở thẳng có thể gây tranh cãi và
cần có các cơ sở khoa học kỹ thuật để đảm bảo tính chính xác.
3. Đường cơ sở quần đảo:
- đường cơ sở thẳng nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nổi xa nhất
củaquần đảo. Đường cơ sở này phải đảm bảo các điều kiện:
+ Khu vực trong đường cơ sở quần đảo phải có tỉ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai
san hô, từ tỷ số 1/1 đến 9/1
+ Chiều dài từ các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; có thể có tối đa 3% tổng s
đường cơ sở dài quá 100 hải lý nhưng cũng không được quá 125 hải
+ Tuyến đường cơ sở không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của hòn đảo
+ Không được phép làm cho lãnh hải của một quốc gia khác tách rời khỏi biển cả hay vùng
đặc quyền kinh tế
lOMoARcPSD| 58886076
Đường cơ sở không phải là đường biên giới quốc gia trên biển nhưng nó là cơ sở để xác
định đường biên giới đó. Đường biên giới quốc gia trên biển chính là đường song song với đường
cơ sở và cách đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng của lãnh hải.
Đường cơ sở của Việt Nam hiện nay là đường cơ sở thẳng. Điều này có nghĩa là thay
vì sử dụng đường ngấn nước triều thấp nhất như một đường cơ sở thông thường, Việt Nam đã lựa
chọn nối các điểm cụ thể trên bản đồ lại thành một đường thẳng gãy khúc để xác định ranh giới
bên trong của lãnh hải. Quyết định này được đưa ra dựa trên đặc điểm địa lý phức tạp của bờ biển
Việt Nam, với nhiều vịnh hẹp, đảo và đá ngầm. Đường cơ sở thẳng giúp bao quát các vùng nước
này vào trong lãnh hải, bảo vệ lợi ích quốc gia về an ninh, kinh tế và khai thác tài nguyên biển.
Việt Nam đã xác định 11 điểm cơ sở chính trên bản đồ, nối liền các điểm này lại tạo thành
đường cơ sở thẳng. Tuy nhiên, hệ thống đường cơ sở này vẫn còn mở, nghĩa là điểm đầu và điểm
cuối chưa được xác định cụ thể. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn đang trong quá trình đàm phán
và thống nhất với các quốc gia láng giềng về vị trí chính xác của các điểm này.
Việc lựa chọn đường cơ sở thẳng mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam : Đường cơ sở
thẳng khẳng định rõ ràng chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và đảo, giúp Việt Nam
kiểm soát tốt hơn các vùng biển gần bờ, khai thác tài nguyên biển một cách hiệu quả và bảo vệ an
ninh quốc phòng, tạo ra cơ sở pháp lý để Việt Nam giải quyết các tranh chấp biển đảo, bảo vệ
quyền lợi quốc gia trên biển.
Tuy nhiên, việc xác định đường cơ sở thẳng cũng đặt ra những thách thức: Việc xác định
đường cơ sở có thể dẫn đến tranh chấp với các quốc gia có chung biển, biến đổi khí hậu làm mực
nước biển dâng cao, có thể ảnh hưởng đến vị trí của các điểm cơ sở.
Tóm lại, đường cơ sở thẳng là một vấn đề quan trọng đối với Việt Nam, liên quan đến chủ
quyền quốc gia, an ninh và phát triển kinh tế. Việc xác định và bảo vệ đường cơ sở là một nhiệm
vụ lâu dài và đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của cả hệ thống chính trị.

Preview text:

lOMoARcP SD| 58886076
Họ và tên: Lại Ngọc Linh MSV: 23061267
Câu 1: Tại sao “Tổ chức quốc tế liên Chính phủ” là chủ thể phái sinh của Luật quốc tế ?
Tổ chức quốc tế liên chính phủ là một trong những chủ thể của Luật quốc tế. Chủ thể của Luật
quốc tế là bộ phận cấu thành cơ bản của quan hệ pháp luật quốc tế, là thực thể tham gia vào quan
hệ quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, đồng thời có khả năng
chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi mà nó gây ra.
Tổ chức quốc tế là thực thể liên kết giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế
trên cơ sở ĐƯQT, ra đời trên cơ sở các hiệp ước quốc tế được các quốc gia thành lập nên. Điều
này có nghĩa là sự tồn tại và hoạt động của tổ chức quốc tế phụ thuộc vào sự đồng thuận và
thỏa thuận giữa các quốc gia. Khác với các quốc gia, tổ chức quốc tế không sở hữu chủ
quyền. Chủ quyền là quyền tối cao và độc lập của một quốc gia, bao gồm quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Tổ chức quốc tế chỉ có những quyền hạn nhất định được trao cho bởi các quốc
gia thành viên. Tất cả các hoạt động của tổ chức quốc tế đều phải tuân thủ các nguyên tắc và quy
định của luật quốc tế. Luật quốc tế là tập hợp các quy tắc và chuẩn mực điều chỉnh quan hệ giữa
các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế.
Quyền hạn của tổ chức quốc tế được quy định trong các văn kiện thành lập (hiến chương,
điều lệ...) và các hiệp ước liên quan. Phạm vi quyền hạn này thường bị giới hạn bởi những gì mà
các quốc gia thành viên đồng ý trao cho tổ chức.
Các quyết định quan trọng của tổ chức quốc tế đều phải tuân theo các quy định của luật
quốc tế và sự đồng thuận của các quốc gia thành viên. Điều này cho thấy tổ chức quốc tế không
có một ý chí độc lập mà phụ thuộc vào ý chí của các quốc gia thành viên.
VD: Liên Hợp Quốc được thành lập sau Thế chiến thứ hai với mục tiêu duy trì hòa bình và
an ninh quốc tế. Quyền hạn của Liên hợp Quốc được quy định trong Hiến chương Liên hợp
Quốc, và các quyết định quan trọng đều phải được thông qua bởi Hội đồng Bảo an, trong đó các
nước thành viên thường trực có quyền phủ quyết.
Mặc dù tổ chức quốc tế đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại, nhưng vị
thế pháp lý của chúng vẫn phụ thuộc vào các quốc gia thành viên. Điều này có nghĩa là các tổ
chức quốc tế không thể vượt quá những giới hạn mà các quốc gia thành viên đã đặt ra. Vì những
lý do trên, tổ chức quốc tế được coi là "phái sinh" từ các quốc gia, không có một vị thế pháp lý hoàn toàn độc lập.
Câu 2: Đường cơ sở và các cách xác định đường cơ sở theo Công ước Luật Biển 1982 của
Liên Hợp Quốc. Đường cơ sở Việt Nam ?
Đường cơ sở là đường ranh giới cơ bản để xác định phạm vi các vùng biển thuộc chủ
quyền và quyền chủ quyền của một quốc gia ven biển. Từ đường cơ sở này, các quốc gia sẽ tính
toán chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Đường cơ sở là điểm xuất phát để tính toán các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền
của một quốc gia, từ đó xác định phạm vi mà quốc gia đó có quyền thực hiện các hoạt động kinh
tế, khai thác tài nguyên và bảo vệ an ninh. Đường cơ sở đóng vai trò quan trọng trong việc giải lOMoARcP SD| 58886076
quyết các tranh chấp về biển đảo, đặc biệt là trong việc xác định các vùng chồng lấn, tranh chấp
về quyền khai thác tài nguyên.
● Cách xác định đường cơ sở:
1. Đường cơ sở thông thường:
- Là đường ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ
lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận. (Điều 5, Công ước luật biển 1982) - Ưu
điểm: Phương pháp này đơn giản, dễ xác định và được áp dụng rộng rãi.
- Hạn chế: Không phù hợp với những vùng biển có bờ biển phức tạp, bị chia cắt bởi các đảo, đá ngầm.
2. Đường cơ sở thẳng:
- Là đường thẳng nối liền các điểm thích hợp, được sử dụng khi bờ biển bị khoét sâu, lồi lõm
hoặc có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, hoặc ở nơi nào bờ biển cực kỳ
không ổn định do có một châu thổ và do những điều kiện tự nhiên khác (Điều 7). Với mục đích
để bao gồm các vùng nước nằm trong các vịnh hẹp, đầm phá, hoặc các vùng nước nằm giữa các
đảo nằm sát bờ biển vào trong lãnh hải của quốc gia ven biển. - Điều kiện:
+ Tuyến đường cơ sở thẳng phải đi theo xu hướng chung của bờ biển
+ Các vùng biển bên trong đường cơ sở phải gắn với đất liền đủ đến mức đặt dưới chế độ
nội thủy, nghĩa là tuyến đường cơ sở thẳng vạch ra không được cách xa bờ.
- Ưu điểm: Đảm bảo sự ổn định và tính liên tục của đường cơ sở, bảo vệ lợi ích của quốc gia ven biển. - Hạn chế :
+ Các bãi cạn lúc nổi lúc chìm không được chọn làm các điểm cơ sở, trừ trường hợp ở đó có
những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô lên khỏi mặt nước, hoặc việc
kẻ đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.
+ Khi vạch ra đường cơ sở thẳng phải lưu ý không được làm cho lãnh hải của một quốc gia
khác bị tách khỏi biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế.
+ Việc xác định các điểm thích hợp để nối thành đường cơ sở thẳng có thể gây tranh cãi và
cần có các cơ sở khoa học kỹ thuật để đảm bảo tính chính xác.
3. Đường cơ sở quần đảo:
- Là đường cơ sở thẳng nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nổi xa nhất
củaquần đảo. Đường cơ sở này phải đảm bảo các điều kiện:
+ Khu vực trong đường cơ sở quần đảo phải có tỉ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành đai
san hô, từ tỷ số 1/1 đến 9/1
+ Chiều dài từ các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; có thể có tối đa 3% tổng số
đường cơ sở dài quá 100 hải lý nhưng cũng không được quá 125 hải lý
+ Tuyến đường cơ sở không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của hòn đảo
+ Không được phép làm cho lãnh hải của một quốc gia khác tách rời khỏi biển cả hay vùng đặc quyền kinh tế lOMoARcP SD| 58886076
Đường cơ sở không phải là đường biên giới quốc gia trên biển nhưng nó là cơ sở để xác
định đường biên giới đó. Đường biên giới quốc gia trên biển chính là đường song song với đường
cơ sở và cách đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng của lãnh hải.
Đường cơ sở của Việt Nam hiện nay là đường cơ sở thẳng. Điều này có nghĩa là thay
vì sử dụng đường ngấn nước triều thấp nhất như một đường cơ sở thông thường, Việt Nam đã lựa
chọn nối các điểm cụ thể trên bản đồ lại thành một đường thẳng gãy khúc để xác định ranh giới
bên trong của lãnh hải. Quyết định này được đưa ra dựa trên đặc điểm địa lý phức tạp của bờ biển
Việt Nam, với nhiều vịnh hẹp, đảo và đá ngầm. Đường cơ sở thẳng giúp bao quát các vùng nước
này vào trong lãnh hải, bảo vệ lợi ích quốc gia về an ninh, kinh tế và khai thác tài nguyên biển.
Việt Nam đã xác định 11 điểm cơ sở chính trên bản đồ, nối liền các điểm này lại tạo thành
đường cơ sở thẳng. Tuy nhiên, hệ thống đường cơ sở này vẫn còn mở, nghĩa là điểm đầu và điểm
cuối chưa được xác định cụ thể. Điều này cho thấy Việt Nam vẫn đang trong quá trình đàm phán
và thống nhất với các quốc gia láng giềng về vị trí chính xác của các điểm này.
Việc lựa chọn đường cơ sở thẳng mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam : Đường cơ sở
thẳng khẳng định rõ ràng chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển và đảo, giúp Việt Nam
kiểm soát tốt hơn các vùng biển gần bờ, khai thác tài nguyên biển một cách hiệu quả và bảo vệ an
ninh quốc phòng, tạo ra cơ sở pháp lý để Việt Nam giải quyết các tranh chấp biển đảo, bảo vệ
quyền lợi quốc gia trên biển.
Tuy nhiên, việc xác định đường cơ sở thẳng cũng đặt ra những thách thức: Việc xác định
đường cơ sở có thể dẫn đến tranh chấp với các quốc gia có chung biển, biến đổi khí hậu làm mực
nước biển dâng cao, có thể ảnh hưởng đến vị trí của các điểm cơ sở.
Tóm lại, đường cơ sở thẳng là một vấn đề quan trọng đối với Việt Nam, liên quan đến chủ
quyền quốc gia, an ninh và phát triển kinh tế. Việc xác định và bảo vệ đường cơ sở là một nhiệm
vụ lâu dài và đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của cả hệ thống chính trị.