Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện | Tiểu luận Nhà nước pháp luật

Quyền lực nhà nước là một trong những chủ đề được quan tâm, tranh luận đầy sôi  nổi trong xã hội hiện đại và được đưa vào làm đề tài nghiên cứu rộng rãi. Tuy  nhiên, cho đến nay ở Việt Nam chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách  toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh của đề tài. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
25 trang 4 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện | Tiểu luận Nhà nước pháp luật

Quyền lực nhà nước là một trong những chủ đề được quan tâm, tranh luận đầy sôi  nổi trong xã hội hiện đại và được đưa vào làm đề tài nghiên cứu rộng rãi. Tuy  nhiên, cho đến nay ở Việt Nam chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách  toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh của đề tài. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

7 4 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
--------------------------
TIỂU LUẬN
MÔN: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Đề tài: Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay:
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Tăng Mai Phương
Mã sinh viên : 2155270057
Lớp tín chỉ : NP02001_1_LR
Lớp hành chính : Quản lí kinh tế K41
HÀ NỘI - 2023
MỤC LỤC
A. PHẦN MU ĐẦU ...............................................................................................
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................
5. Tính mới và đóng góp của đề tài .....................................................................
6. Kết cấu của tiểu luận ........................................................................................
B. NỘI DUNG .......................................................................................................
Chương I: Lý luận chung về tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
1.1. Khái niệm về quyền hành pháp ở Việt Nam
1.2. Đặc điểm của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.3. Vai trò của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4. Nội dung của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.1. Tính chất của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.2. Chức năng của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.3. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Viêt Nam
Chương II: Thực trạng tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013
2.1.1. Vị trí, tính chất của Chính phủ được xác định lại theo hướng quan
thực hiện quyền hành pháp
2.1.2. Mối quan hệ giữa Chính phủ với các quan nhà nước khác được xác
định lại theo tinh thần mới
2.1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Chính phủ cũng được xác định với tính
cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
2.1.4. Hình thức hoạt động của Chính phủ thể hiện nổi bật cơ chế vận hành và
thực thi quyền hành pháp của Chính phủ
2.1.5. Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ thể hiện rõ tính cách là cơ quan thực
hiện quyền hành pháp
2.2. Ưu điểm và hạn chế trong tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến
pháp năm 2013
Chương III: Giải pháp hoàn thiện tổ chức quyền hành pháp trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
3.1. Yêu cầu hoàn thiện tổ chức quyền hành pháp ở nước ta hiện nay
3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức quyền hành pháp trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. PHẦN MU ĐẦU
Đề tài: Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải
pháp hoàn thiện
1. Lý do chọn đề tài
Quyền lực nhà nước là một trong những chủ đề được quan tâm, tranh luận
đầy sôi nổi trong xã hội hiện đạiđược đưa vào làm đề tài nghiên cứu rộng rãi.
Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam chưa một công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh của đề tài, chínhvậy việc nghiên cứu về
tổ chức quyền lực nhà nước vẫn đang được đặt ra như một nhu cầu cấp bách
cần thiết đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay khi Đảng Nhà nước ta
đang từng bước tổ chức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân. Cùng với sự chuyển biến về kinh tế, bộ máy nhà nước cũng cần
sự thay đổi tương ứng sao cho phù hợp với các yêu cầu của xã hội. Theo quan
niệm phổ biến hiện nay trong các sách báo chính trF- pháp lH trong ngoài
nước,cấu quyền lực nhà nước của bất kI quốc gia hiện đại nào cũng đều bao
gJm 3 nhánh quyền lực: quyền lập pháp, hành pháp và quyền tư pháp. Chủ trương
của Đảng Nhà nước ta về việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền hội chủ
nghĩa Việt Nam, trong đó quyền lực nhà nước thống nhất, sự phân công
phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các quyền này đJng nhất. Trong điều
kiện đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu cấu trúc quyền lực nhà nước sẽ sở
cho quá trình tìm hiểu về tính chất quyền lực nhà nước, mở đường làm sáng tỏ nội
dụng của quyền lực nhà nước và từ đó là điều kiện để tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước. Xét về lFch sử thì quyền hành pháp- quyền điều hành đất nước là nhánh
quyền lực hình thành sớm hơn so với các nhánh quyền lực khác, gắn liền với
lFch sử nhà nước. Do vậy, trên thực tế quyền hành pháp luôn nổi lêntrung tâm
của quyền lực nhà nước. Hành pháp mạnh biết quản lH, biết dẫn dắt các quá trình
hội phát triển phù hợp với các quy luật của tự nhiên hội tất yếu dẫn dắt
đất nước tới phát triển, phJn vinh, còn khi hành pháp yếu không có khả năng quản
lH tất yếu dẫn đất nước tới những cuộc khủng hoảng về chính trF, kinh tế- hội.
Mặc dù Hiến pháp đã ghi nhận khá rõ về các quyền trong hệ thống quyền lực nhà
nước, nhưng làm sao thể đảm bảo thực hiện đúng trên thực tế, lại vấn đề
không đơn giản, nhất đối với việc thực hiện quyền hành pháp. Trong chế
thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, việc xác đFnh chính xác vF trí,
vai trò của quyền hành pháp ảnh hưởng rất lớn đến các quyền khác trong
cấu quyền lực nhà nước toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm thế nào
để thể phát huy hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện quyền này một vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu.
Xuất phát từ những lH do trên, với mong muốn góp phần vào công cuộc
nghiên cứu đó, em đã lựa chọn đề tài “Tổ chức quyền hành phápViệt Nam hiện
nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên sở làm sáng tỏ những vấn đề lH luận về quyền hành pháp, cách tổ
chức thực hiện quyền hành pháp và thực trạng tổ chức quyền hành pháp đJng thời
đề xuất giải pháp hoàn thiện, giúp bản thân trang bF hệ thống lại kiến thức, lH
luận về tổ chức quyền hành pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam một cách logic. ĐJng thời vận dụng kiến thức vào việc học, liên
hệ với thực tiễn của đất nước, từ đó góp phần nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn về
vF trí, vai trò của quyền hành pháp đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích nội dung tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam.
- Đánh giá được thực trạng cùng với đónhững ưu điểm, hạn chế trong các quy
đFnh pháp luật cách tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong thực tế gắn với
Hiến pháp năm 2013.
- Đưa ra những yêu cầu đổi mới trong công cuộc cải cách đất nước hiện nay đJng
thời đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện việc tổ chức, thực hiện
quyền hành pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay: Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: Từ ngày 20/04/2023 đến ngày 01/05/2023.
- Phạm vi không gian: Trên phạm vi cả nước.
- Phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu về quyền hành pháp, vF trí, vai trò của nó
trong cấu tổ chức quyền lực nhà nước cách tổ chức, thực hiện quyền hành
pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, đây một đề tài khó
rộng, khả năng còn hạn chế, do vậy, em chỉ nghiên cứu đề tài theo hướng những
vấn đề lH luậnbản; phân tích quy đFnh của pháp luật Việt Nam về quyền hành
phápkhái quát thực trạng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lFch sử, phép biện chứng duy vật.
- Phương pháp nghiên cứu: Thống kê, tổng hợp và phân tích đánh giá, so sánh đối
chiếu, khái quát hoá, quy nạp, diễn dFch.
5. Tính mới và đóng góp của đề tài
5.1. Tính mới của đề tài.
- Đề tài nghiên cứu cụ thể các quy đFnh của pháp luật về quyền hành pháp, vF trí,
vai trò, H nghĩa của quyền hành pháp trong cấu tổ chức quyền lực nhà nước,
cách tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013.
- Đánh giá những ưu điểmhạn chế trong các quy đFnh của pháp luật Việt Nam
về vF trí, vai trò của quyền hành pháp, cũng như các chủ thể thực hiện quyền này.
- Đề tài đưa ra những phương hướng giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện
quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay.
5.2. Đóng góp của đề tài.
Đề tài có thể đóng góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu những vấn đề lH
luận và thực tiễn áp dụng, tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay.
ĐJng thời góp phần nhận thức đúng đắn hơn về vF trí, vai trò, H nghĩa của quyền
hành pháp đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như của toàn
hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp
quyền đhy mạnh phát triển nền kinh tế theo sự vận hành của nền kinh tế thF
trường.
6. Kết cấu của tiểu luận
Gm phn m đu, kt lun, danh mục ti liu tham kho, nội
dung của đề ti gm
3 chương:
Chương I: LH luận chung về tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Giải pháp hoàn thiện tổ chức quyền hành pháp trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
B. NỘI DUNG
Chương I: Lý luận chung về tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
1.1. Khái niệm về quyền hành pháp ở Việt Nam
Hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ
phận của quyền lực nhà nước, trong đó các cơ quan nhà nước thực hiện quyền hành
pháp trên cơ sở một hệ thống thể chế pháp lH nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Ở Việt Nam, tJn tại những quan niệm khác nhau về quyền hành pháp.
Thứ nhất, quyền hành pháp một trong ba quyền trong cấu quyền lực
nhà nước, bên cạnh quyền lập pháp và quyền pháp. Quyền hành pháp do các
quan hành chính nhà nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ
của mình. Quyền hành pháp bao gJm hai quyền: quyền lập quy quyền hành
chính. Quyền lập quy quyền ban hành những văn bản pháp quy dưới luật, để cụ
thể hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban hành trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Quyền hành chính là quyền tổ chức quản lH tất cả các mặt, các quan hệ
hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước. Quyền hành chính bao gJm các
quyền về tổ chức nhân sự trong quan hành chính, quyền tổ chức thực thi áp
dụng pháp luật trong các mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ chức với tổ chức
và giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội.
Thứ hai, hành pháp theo quan điểm hiện đại được hiểu theo hai nghĩa: một là
tổ chức thi hành luật; hai là chủ động khởi thảo, hoạch đFnh chính sách đối nội, đối
ngoại và tổ chức thực thi các chính sách đó.
Thứ ba, quyền hành pháp một bộ phận tạo thành cấu quyền lực nhà
nước. Quyền hành pháp được hiểu là quyền thi hành pháp luật. Trong cơ cấu quyền
lực nhà nước, quyền hành pháp một khái niệm chung dùng để chỉ một bộ phận
quyền lực- quyền thi hành pháp luật, phản ánh mối quan hệ quyền lực giữa các bộ
phận hợp thành của quyền lực nhà nước. Chủ thể chủ yếu của quyền hành pháp là
Chính phủ (cơ quan hành pháp trung ương) với tính chất điển hình của quan
này thực hiện hoạt động chấp hành điều hành các hoạt động của đời sống
hội.Việt Nam, các chủ thể thực hiện quyền hành pháp không chỉ Chính phủ,
các quan hành pháp trung ương, một số các quan nhà nước đFa
phương cũng thực hiện quyền lực này.
Thứ quyền hành pháp nói một cách phổ quát là quyền tổ chức bảo đảm,,
bảo vệ việc thực thi luật trong hệ thống chính trF và đời sống xã hội.
Thứ năm, quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện H chí chung của quốc
gia do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính bản, xuyên suốt mọi hoạt động của
quyền nàyquản lH nhà nước thực chất tổ chức thực hiện pháp luật để bảo
đảm an ninh, an toàn và phát triển hội. Thực hiện quyền này đòi hỏi Chính phủ
và các thành viên của Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết đoán kFp thờiquyền uy
tập trung thống nhất.
Quyền hành pháp không xuất hiện trong mọi chế độ của xã hội loài người mà
chỉ xuất hiện khi có sự ra đời của nhà nước pháp luật. Tuy ra đời cùng với
nhà nước và pháp luật nhưng không phải ở mọi thời kI quyền hành pháp đều được
quan niệm giống nhau, sự phát triển theo thời gian. Đa số các nước xã hội
chủ nghĩa quyền lực nhà nước không được phân chia theo chế phân quyền
được tổ chức theo cơ chế tập quyền.
1.2. Đặc điểm của quyền hành pháp ở Việt Nam
Là một trong ba bộ phận cơ bản cấu thành quyền lực nhà nước, quyền hành
pháp cũng có những đặc điểm cơ bản của quyền lực nhà nước.
Hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới
sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuân theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các quan Nhà nước trong thực hiện các quyền
lập
pháp, hành pháp, tư pháp.
Chính phủ là cơ quan Hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, quan chấp hành của
Quốc hội.
Hệ thống hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay là hệ thống hành pháp của một đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thF
trường và hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, quyền hành pháp còn có những đặc điểm đặc thù sau đây:
Quyền hành pháp có tính quyền lực nhà nước và độc lập tương đối so với các
nhánh quyền lực khác. Việt Nam các quan hành pháp do các cơ quan dân
cử lập ra, thực hiện các hoạt động chấp hành điều hành. Mặc các quan
hành pháp do quan quyền lực lập ra, nhưng không nghĩa quyền hành
pháp chỉ là quyền phái sinh từ cơ quan quyền lực.
Quyền hành pháp có khả năng phản ánh một cách chính xác nhất những nhu
cầu củahội. Quyền hành pháp không chỉ dừng lại ở việc thi hành pháp luật
còn bao gJm cả việc quản lH, điều hành, lãnh đạo các hoạt động trong hầu hết
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một trong các nhánh quyền lực có sự đụng
chạm mạnh nhất tới quyền và lợi ích của công dân trong quá trình thực thiquản
lH.
1.3. Vai trò của quyền hành pháp ở Việt Nam
Hành pháp cùng với lập pháp pháp tiếp tục thể chế hóa tổ chức
thực hiện các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng.
Hành pháp cùng với lập pháp pháp bảo đảm quyền lực nhà nước
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hành pháp giữ vai trò quan trọng nhất trong việc hiện thực hóa các quy đFnh
về quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức và xã hội.
1.4. Nội dung của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.1. Tính chất của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.1.1. Tính chủ động (đề xuất, khởi xướng việc xây dựng chính sách)
1.4.1.2. Tính chấp hành (tính chất thi hành pháp luật)
Tính chấp hành của hành phápkhả năng làm cho pháp luật được thực
hiện trên thực tế bằng sức mạnh của nhà nước, hay nói một cách kháckhả năng
đưa pháp luật vào đời sống của các quan nắm giữ quyền hành pháp. Chính phủ
trách nhiệm đưa pháp luật vào đời sống xã hộiđảm bảo cho mọi chính sách
pháp luật của Đảng Nhà nước được thực hiện, được tuân thủ một cách
nghiêm minh. Chính phủ Việt Nam trong quá trình chấp hành Hiến pháp, pháp luật
của Quốc hội, chỉ nhiệm vụ thực thi đúngđầy đủ mà không có quyền " phủ
quyết" như ở một số nước tư bản.
Không có tính chất chấp hành của Chính phủ- chủ thể nắm quyền hành
pháp chủ yếu ở trung ương thì các văn bản pháp luật của nhà nước không thể thực
hiện được. Bên cạnh đó Ut ban nhân dân các cấp cũng là các quan chấp hành
của Hội đJng nhân dân. Các chủ thể này thực hiện quyền hành pháp ở đFa phương.
1.4.1.3. Tính hành chính Nhà nước
Hành chính là hoạt động quản lH, điều hành và phục vụ trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội trong đó hành chính công (hành chính nhà nước)
giữ vF trí đặc biệt quan trọng. Ngoài tính chất chấp hành, các cơ quan hành pháp
Việt Nam còn được xác đFnh là các cơ quan hành chính Nhà nước, thực hiện chức
năng quản lH, điều hành. Tính hành chính làm cho quyền hành pháp có tính độc lập
tương đối, có khả năng phát huy được tính chủ động, sáng tạo của mình trong việc
quản lH các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.4.2. Chức năng của quyền hành pháp ở Việt Nam
Chức năng của quyền hành pháp là những phương diện hoạt động mà thông
qua đó quyền hành pháp được triển khai để thực thi pháp luật và tiến hành các hoạt
động quản lH, điều hành và phục vụ xã hội.
1.4.2.1. Chức năng đảm bảo an ninh, chính trF và trật tự an toàn xã hội
1.4.2.2. Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
1.4.2.3. Chức năng thực thi pháp luật
1.4.2.4. Chức năng tài phán
1.4.2.5. Chức năng quản lH, điều hành
1.4.3. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.3.1. Mô hình Chính phủ ở trung ương
Ở các nước theo chế độ Tổng thống thì Tổng thống là người đảm nhiệm các
chức năng hành pháp, trực tiếp lãnh đạo điều hành Chính phủ. Ở mô hình này
Hiến pháp không quy đFnh rõ Chính phủ bao gJm Thủ tướng và các Bộ trưởng, mà
tất cả quyền hành pháp được trao cho Tổng thống.
Còn các nước chính thể Cộng hoà lưung tính thì bộ máy hành pháp
được trao cho Nguyên thủ quốc gia - Tổng thống và Thủ tướng Chính phủ - người
đứng đầu Chính phủ, cùng các thành viên Chính phủ. Các chủ thể này đều có thực
quyền trong quá trình thực hiện quyền hành pháp.
nước ta, mvi thời kI khác nhau, cách tổ chức quyền lực nhà nước cũng
như quyền hành pháp có những nét khác nhau. Chính phủ là chủ thể cơ bản nhưng
không phải chủ thể duy nhất thực hiện quyền hành pháp. Bên cạnh Chính phủ
một số cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện quyền hành pháp, nhưng các cơ quan
này không phải chủ thể chủ yếu thực hiện quyền hành pháp. Qua các thời kI
khác nhau, chủ thể thực hiện quyền hành pháp có sự khác nhau. Nhưng nhìn chung,
mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào Chính phủ
Ut ban nhân dân các cấp. Hiện nay Nguyên thủ quốc gia không nhiều thhm
quyền về lĩnh vực hành pháp giống như Nguyên thủ quốc giacác nước Cộng hoà
Tổng thống và Cộng hoà lưung tính.
1.4.3.2. Mô hình Ut ban nhân dân ở đFa phương
Ut ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở đFa phương, được
lập ra để thực hiện những chức năng quản lH nhà nước ở đFa phương. Ut ban nhân
dân được tổ chức theo ba cấp: Tỉnh (Thành phố trực thuộc trung ương tương
đương), Huyện (quận, thành phố thuộc tỉnh, thF xã), Xã (phường thF trấn). Mô hình
tổ chức các đơn vF hành chính theo cấp tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo, triển khai
mệnh lệnh quản lH từ trên cũng như việc phân cấp quản lH cho cấp dưới.
Trên thế giới đã có nhiều hình thức tổ chứcquan quản lH nhà nước ở đFa
phương. Mô hình bổ nhiệm từ trên là mô hình được áp dụng từ rất xa xưa. Sau này
hình thức này được bổ sung bởi một hội đJng đFa phương, hội đJng này do dân cư
bầu rachỉ đóng vai trò tư vấn. mô hình quản lH đFa phươngviệc quản lH
được thực hiện bởi một ut ban do dântrực tiếp bầu ra (ở Mx) hoặc do các hội
đJng đFa phương cấp dưới bầu ra (Ut ban hành chính huyện của Việt Nam trước
đây). Hiện nay mô hình quản lH đFa phương ở một số nước trên thế giới được thực
hiện bởi một hội đJng (Hội đJng tự quản, Hội đJng nhân dân), Hội đJng lập ra
quan chấp hành của mình như Ut ban chấp hành, Ut ban nhân dân (Ở Việt Nam và
các nước xã hội chủ nghĩa), ThF trưởng ở Pháp, quản trF trưởngMx. Ở Việt Nam
hình tổ chức cơ quan chính quyền đFa phương theo kiểu Hội đJng nhân dân
cơ quan chấp hành của nó được thành lập ở tất cả các đơn vF hành chính.
Chương II: Thực trạng tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013
2.1.1. Vị trí, tính chất của Chính phủ được xác định lại theo hướng quan
thực hiện quyền hành pháp
Hiến pháp năm 2013 xác đFnh lại vF trí, tính chất của Chính phủ “Chính phủ
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
Chính phủ là một thiết chế độc lập nắm quyền thống nhất quản lH điều hành
các mặt đời sống kinh tế- xã hội của đất nước, trước hết là quyết đFnh những vấn đề
về chủ trương, cơ chế, chính sách, thể chế quản lH hành chính nhà nước. Các quyết
đFnh của Chính phủ phải được tất cả các quan, tổ chức trong hội, trong hệ
thống chính trF, bộ máy nhà nước tôn trọng và chấp hành nghiêm túc. Chính phủ
thiết chế có thhm quyền cao nhất đối với hệ thống hành chính nhà nước. Cách thức
quy đFnh mới này không đơn thuần chỉ sự chuyển đổi vF trí quy đFnh thể
hiện nhận thức mới, một bước chuyển rất bản trong nhận thức về phân công
quyền lực, về vF trí, vai trò của Chính phủ trong các mối quan hệ quyền lực. Quy
đFnh kiểu cũ cho thấy vF trí của Chính phủ về căn bản chưa hoàn toàn là cơ quan có
tính độc lập tương đối mà vẫnquan phái sinh. Quy đFnh mới này khẳng đFnh,
Chính phủ là một thiết chế độc lập- thiết chế hành chín
h phân biệt với thiết chế lập pháp- Quốc hội (Quốc hội quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và thiết chế xét xử-
Tòa án (Tòa nhân dân dân tối cao quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam).
Hiến pháp đã ghi nhận một chức năng, nhiệm vụ tính chất nổi bật và cũng
quan trọng nhất của Chính phủ, đó “thực hiện quyền hành pháp”. Quy đFnh
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp bao hàm cả vF trí của Chính phủ trong phân
công thực hiện quyền lực nhà nước, và chức năng hành pháp của Chính phủ.
Nói Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, trước hết nói đến việc phân
công quyền lực (phân quyền) giữa các nhánh quyền lực nhà nước, theo đó, Quốc
hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành
pháp, Tòa án nhân dân thực hiện quyền pháp. Giữa 3 quan (3 nhánh quyền
lực) này có sự phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lực được
trao. Sự phân công quyền lực này vừa bảo đảm tính thống nhất, vừa bảo đảm tính
phối hợp kiểm soát lẫn nhau, trên sở hướng tới sự cân bằng bảo đảm sự
thông suốt của quyền lực. Đây bước tiến có tính đột phá trong lFch sử lập hiến
nước ta. Quy đFnh Chính phủ quan thực hiện hành pháp mang lại cho Chính
phủ một vF thế mới trong bộ máy nhà nước, bảo đảm tính độc lập tương đối hơn
trong quan hệ với quan lập pháp quan pháp. Với chức năng thực hiện
quyền hành pháp, Chính phủ thực hiện việc hoạch đFnh điều hành chính sách
quốc gia, tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật để duy trì và bảo vệ trật tự cộng
cộng, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp vẫn tiếp tục giữ quy đFnh “Chính phủ quan chấp hành của
Quốc hội”. Tính chất “cơ quan chấp hành của Quốc hội” của Chính phủ việc
Chính phủ có nhiệm kI theo nhiệm kI của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ phải
đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm,
Quốc hội bãi bỏ văn bản của Chính phủ trái Hiến pháp, luật, nghF quyết của Quốc
hội; chấp hành và tổ chức thi hành các đạo luật, các nghF quyết của Quốc hội. Đây
là thể hiện tính chFu sự giám sát, chFu trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ và các thành viên Chính phủ trước Quốc hội; là cơ sở cho việc thực hiện quyền
giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ; bảo đảm sự gắn chặt chẽ
giữa Chính phủ Quốc hội, bảo đảm tính thống nhất trong việc thực hiện quyền
lập pháp hành pháp. Chính phủ trách nhiệm phải tuân thủ thực hiện các
luật, nghF quyết của Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội, chFu trách nhiệm
giải trình trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.
2.1.2. Mối quan hệ giữa Chính phủ với các quan nhà nước khác được xác
định lại theo tinh thần mới
Trước hết trong mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Hiến pháp
năm 2013 đã bỏ quy đFnh về thhm quyền của Quốc hội quyết đFnh chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh, tạo điều kiện cho Chính phủ các chủ thể khác chủ động,
linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh; phân đFnh hơn phạm vi
chính sách các vấn đề quan trọng do Quốc hội Chính phủ quyết đFnh trong
một số lĩnh vực (như Quốc hội quyết đFnh mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ
bản phát triển kinh tế- hội của đất nước, quyết đFnh chính sáchbản về tài
chính, tiền tệ quốc gia... , còn Chính phủ thhm quyền ban hành các chính sách,
biện pháp cụ thể để quản lH, điều hành các lĩnh vực).
Về mối quan hệ trong lĩnh vực điều ước quốc tế (đàm phán, kH kết, gia nhập
tổ chức thực hiện điều ước quốc tế), Hiến pháp năm 2013 đã tạo lập sự phân
công khoa học, hợp lH nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tFch nước, Chính
phủ Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Quốc hội “phê chuhn, quyết đFnh gia nhập
hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ
quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các
tổ chức quốc tế khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người,
quyền nghĩa vụbản của công dân các điều ước quốc tế khác trái với luật,
nghF quyết của Quốc hội” (khoản 4 Điều 70). Chủ tFch nước “quyết đFnh đàm phán,
kH điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuhn, quyết đFnh gia
nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy đFnh tại khoản 14 Điều 70;
quyết đFnh phê chuhn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân
danh Nhà nước(khoản 6 Điều 88); Thủ tướng Chính phủ “quyết đFnh chỉ đạo
việc đàm phán, chỉ đạo việc kH, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế Cộng hòa hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên” (khoản 5 Điều 98).
Mối quan hệ giữa Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ
chức chính trF xã hội được quy đFnh tại Điều 101 Hiến pháp năm 2013. Về nguyên
tắc, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ làm việc của các thiết chế nhà nước
không quy đFnh trong Hiến pháp. Tuy nhiên, do tính đặc thù của hệ thống chính trF
nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức chính trF- hội vF trí, vai
trò quan trọng đối với hoạt động của Chính phủ cũng như của cả bộ máy nhà nước
nói chung, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trF dưới sự
lãnh đạo của Đảng trong quản lH điều hành các mặt đời sống kinh tế- xã hội của đất
nước.
Về sự tham dự phiên họp Chính phủ của người đứng đầu Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương các tổ chức chính trF - xã hội lần
đầu tiên được quy đFnh tại Hiến pháp năm 1980 với 2 điểm đáng chú H: (1) Sự
không bình đẳng trong việc tham dự phiên họp Chính phủ, theo đó Chủ tFch Tổng
Công đoàn Việt Nam (nay Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) được quyền tham
dự; còn người đứng đầu Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tổ
chức chính trF - xã hội khác thì được mời tham dự; (2) Điều kiện được mời tham dự
là “khi cần thiết”.
So với Hiến pháp năm 1980, thì việc tham dự phiên họp Chính phủ của
người đứng đầu Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quan trung
ương các tổ chức chính trF - hội được Hiến pháp năm 2013 quy đFnh phù hợp
hơn với tính chất và nội dung mối quan hệ giữa Chính phủ với các tổ chức này, đó
mối quan hệ phối hợp giám sát, phản biện hội trên những vấn đề liên
quan.
2.1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Chính phủ cũng được xác định với tính
cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
Cụ thể hóa chức năng hành pháp, tại Điều 96, Hiến pháp năm 2013 đã quy
đFnh khái quát các nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Chính phủ như sau:
- Hiến pháp sửa đổi đã ghi nhận vai trò hoạch đFnh chính sách của Chính phủ,“Đề
xuất, y dựng chính ch trình Quốc hội, Ut ban thường vụ Quốc hội quyết đFnh
hoặc quyết đFnh theo thhm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…”.(khoản 2
Điều 96)
- Quy đFnhhơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành
Hiến pháp và pháp luật (khoản 1);
- Thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài
sản của Nhân dân (khoản 3 Điều 96)
Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã b sung quyền ban
hành văn bản pháp quy của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập để
thực hiện chức năng hành pháp “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lH các văn bản trái pháp
luật theo quy đFnh của luật” (Điều 100).
Hiến pháp khẳng đFnh Thủ tướng Chính phủngười đứng đầu Chính phủ.
Quy đFnh rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng đối với Chính phủ, nhất
đối với hệ thống HCNN.
Thủ tướng Chính phủ thực sự trở thành nhân tố đFnh hướng các mục tiêu
chung thúc đhy, đFnh hướng xây dựng chính sách toàn bộ hoạt động của
Chính phủ hệ thống HCNN từ Trung ương tới đFa phương trong việc thực hiện
các chức năng, thhm quyền theo quy đFnh của pháp luật.
Đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới có một số
sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệmnhân; thể hiện hơn vF
trí, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách
vừa là thành viên Chính phủ, đJng thời là một thiết chế có trách nhiệm quản lH nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước. Theo đó, “Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan
ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, quan ngang bộ; chFu trách nhiệm quản lH
nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công(khoản 1 Điều 99). Bộ trưởng, Thủ
trưởng quan ngang bộ: “Tổ chức thi hành theo dõi việc thi hành pháp luật
liên quan đến ngành,nh vực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); “Ban
hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc
thi hành các văn bản đó và xử lH các văn bản trái pháp luật theo quy đFnh của luật”
(Điều 100).
2.1.4. Hình thức hoạt động của Chính phủ thể hiện nổi bật cơ chế vận hành và
thực thi quyền hành pháp của Chính phủ
Hiến pháp tiếp tục khẳng đFnh nguyên tắc “Chính phủ làm việc theo chế độ
tập thể, quyết đFnh theo đa số” (Điều 95) nhưng không còn giữ quy đFnh: “Những
vấn đề quan trọng thuộc thhm quyền của Chính phủ phải được thảo luận quyết
đFnh theo đa số” như Điều 115 của Hiến pháp năm 1992 nữa. Tinh thần các
nhiệm vụ trong Chính phủ phải được phân đFnh rõ ràng cho các chức danh. Những
vấn đề nào thật cần thiết đưa ra họp bàn chung trong Chính phủ thì mới quyết đFnh
tập thể và theo đa số.
Về trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng quan ngang bộ, Hiến pháp
xác lậpmối quan hệ trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ
trưởng, Thủ trưởng quan ngang bộ. Hiến pháp mới đã bổ sung một số quy đFnh
mới: Khẳng đFnh vF trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng quan ngang bộ là
người đứng đầu lãnh đạo công tác của Bộ, quan ngang bộ; chFu trách nhiệm
quản lH nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi
việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực công tác trong phạm vi toàn
quốc; chFu trách nhiệm nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ Quốc
hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng với các thành viên khác của
Chính phủ chFu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ (Điều 97).
Với các sửa đổi, bổ sung cụ thể nêu trên, vF trí, vai trò của Thủ tướng
Chính phủ đã được nâng cao hơn một bước, đủ quyền hạn để đFnh hướng mục
tiêu chung và thúc đhy việc xây dựng chính sách cũng như các hoạt động của Chính
phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương tới đFa phương trong việc thực
hiện các chức năng, thhm quyền theo quy đFnh của pháp luật.
2.1.5. Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ thể hiện rõ tính cách là cơ quan thực
hiện quyền hành pháp
Về vấn đề trách nhiệm của Chính phủ, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế
thừa quy đFnh của Hiến pháp năm 1992: “Chính phủ chFu trách nhiệm trước Quốc
hội báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tFch
nước”.
Trách nhiệm của Chính phủ phải báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tFch nước thực hiện trách nhiệm giải trình trước Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tFch nước. Thông qua báo cáo công tác của
Chính phủ, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tFch nước thực hiện việc
giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm quản lH
điều hành của Chính phủ. Đây cũng là yêu cầu bảo đảm công khai, minh bạch hoạt
động quản lH điều hành của Chính phủ. Chính phủ một tập thể. Quyền lực của
Chính phủ xuất phát từ Hiến pháp. Nhân dân thông qua Hiến pháp trao quyền lực
cho Chính phủ. Chính phủ được trao quyền lực của Nhân dân thì phải chFu trách
nhiệm trước Nhân dân, biểu hiện cụ thể trước hết chFu trách nhiệm trước
Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, chFu trách nhiệm trước Quốc hội tức là chFu trách nhiệm trước Nhân dân.
Chính phủ chFu trách nhiệm trước Quốc hội cũng là biểu hiện của mối quan hệ chặt
chẽ giữa Chính phủ với Quốc hội trong phân công kiểm soát quyền lực. Điều
này khác với chế độ cộng hòa tổng thống, nơi mà việc phân chia và đối trọng quyền
lựcphương tiện chủ yếu để kiểm soát quyền lực, bảo đảm cho quyền lực không
bF lạm dụng. Quyền lực nhà nước được phân chia cho 3 nhánh lập pháp, hành pháp
pháp, độc lập tách biệt nhau. Cả Tổng thốngcác Bộ trưởng đều không
phải là thành viên của Quốc hội, nên không phải chFu trách nhiệm trước Quốc hội.
Đối với Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng chFu trách nhiệm trước Quốc hội
về hoạt động của Chính phủ những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ
tFch nước; báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc thhm quyền
giải quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Điều 98).
Đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: báo cáo công tác trước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan
trọng thuộc trách nhiệm quản lH (Điều 99).
Như vậy, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kI
quá độ lên Chủ nghĩa hội (bổ sung, phát triển năm 2011), kế thừa Hiến pháp
năm 1992 trên sở kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, quy đFnh của Hiến
pháp năm 2013 đã thể hiện tinh thần tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của
Chính phủ, xây dựng Chính phủ mạnh, hệ thống hành chính nhà nước thống nhất,
thông suốt, hiệu lực và hiệu quả, phù hợp với nền kinh tế thF trường đFnh hướng xã
hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa.
Phù hợp với tính chất, vF trí, chức năng của Chính phủ, cũng như của Thủ tướng
Chính phủ và của Bộ trưởng, Thủ trưởng quan ngang Bộ đã được đổi mới, hoàn
thiện hơn theo hướng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tập thể Chính phủ, đJng
thời đề cao xác đFnh hơn thhm quyền, trách nhiệm nhân của Thủ tưởng
Chính phủ, của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong quản lH, điều hành.
2.2. Ưu điểm và hạn chế trong tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến
pháp năm 2013
| 1/25

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT -------------------------- TIỂU LUẬN
MÔN: NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Đề tài: Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay:
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện Họ và tên sinh viên : Nguyễn Tăng Mai Phương Mã sinh viên : 2155270057 Lớp tín chỉ : NP02001_1_LR Lớp hành chính : Quản lí kinh tế K41 HÀ NỘI - 2023 MỤC LỤC
A. PHẦN MU ĐẦU ...............................................................................................
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................
5. Tính mới và đóng góp của đề tài .....................................................................
6. Kết cấu của tiểu luận ........................................................................................
B. NỘI DUNG .......................................................................................................
Chương I: Lý luận chung về tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
1.1. Khái niệm về quyền hành pháp ở Việt Nam
1.2. Đặc điểm của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.3. Vai trò của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4. Nội dung của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.1. Tính chất của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.2. Chức năng của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.3. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Viêt Nam
Chương II: Thực trạng tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013
2.1.1. Vị trí, tính chất của Chính phủ được xác định lại theo hướng cơ quan
thực hiện quyền hành pháp
2.1.2. Mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan nhà nước khác được xác
định lại theo tinh thần mới
2.1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Chính phủ cũng được xác định rõ với tính
cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
2.1.4. Hình thức hoạt động của Chính phủ thể hiện nổi bật cơ chế vận hành và
thực thi quyền hành pháp của Chính phủ
2.1.5. Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ thể hiện rõ tính cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
2.2. Ưu điểm và hạn chế trong tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013
Chương III: Giải pháp hoàn thiện tổ chức quyền hành pháp trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
3.1. Yêu cầu hoàn thiện tổ chức quyền hành pháp ở nước ta hiện nay
3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức quyền hành pháp trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. PHẦN MU ĐẦU
Đề tài: Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện 1. Lý do chọn đề tài
Quyền lực nhà nước là một trong những chủ đề được quan tâm, tranh luận
đầy sôi nổi trong xã hội hiện đại và được đưa vào làm đề tài nghiên cứu rộng rãi.
Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh của đề tài, chính vì vậy việc nghiên cứu về
tổ chức quyền lực nhà nước vẫn đang được đặt ra như một nhu cầu cấp bách và
cần thiết đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước ta
đang từng bước tổ chức xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân. Cùng với sự chuyển biến về kinh tế, bộ máy nhà nước cũng cần
có sự thay đổi tương ứng sao cho phù hợp với các yêu cầu của xã hội. Theo quan
niệm phổ biến hiện nay trong các sách báo chính trF- pháp lH ở trong và ngoài
nước, cơ cấu quyền lực nhà nước của bất kI quốc gia hiện đại nào cũng đều bao
gJm 3 nhánh quyền lực: quyền lập pháp, hành pháp và quyền tư pháp. Chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta về việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, trong đó quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các quyền này là đJng nhất. Trong điều
kiện đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu cấu trúc quyền lực nhà nước sẽ là cơ sở
cho quá trình tìm hiểu về tính chất quyền lực nhà nước, mở đường làm sáng tỏ nội
dụng của quyền lực nhà nước và từ đó là điều kiện để tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước. Xét về lFch sử thì quyền hành pháp- quyền điều hành đất nước là nhánh
quyền lực hình thành sớm hơn so với các nhánh quyền lực khác, nó gắn liền với
lFch sử nhà nước. Do vậy, trên thực tế quyền hành pháp luôn nổi lên là trung tâm
của quyền lực nhà nước. Hành pháp mạnh biết quản lH, biết dẫn dắt các quá trình
xã hội phát triển phù hợp với các quy luật của tự nhiên và xã hội tất yếu dẫn dắt
đất nước tới phát triển, phJn vinh, còn khi hành pháp yếu không có khả năng quản
lH tất yếu dẫn đất nước tới những cuộc khủng hoảng về chính trF, kinh tế- xã hội.
Mặc dù Hiến pháp đã ghi nhận khá rõ về các quyền trong hệ thống quyền lực nhà
nước, nhưng làm sao có thể đảm bảo thực hiện đúng trên thực tế, lại là vấn đề
không đơn giản, nhất là đối với việc thực hiện quyền hành pháp. Trong cơ chế
thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay, việc xác đFnh chính xác vF trí,
vai trò của quyền hành pháp có ảnh hưởng rất lớn đến các quyền khác trong cơ
cấu quyền lực nhà nước và toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm thế nào
để có thể phát huy hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện quyền này là một vấn đề
cần tiếp tục nghiên cứu.
Xuất phát từ những lH do trên, với mong muốn góp phần vào công cuộc
nghiên cứu đó, em đã lựa chọn đề tài “Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện
nay: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lH luận về quyền hành pháp, cách tổ
chức thực hiện quyền hành pháp và thực trạng tổ chức quyền hành pháp đJng thời
đề xuất giải pháp hoàn thiện, giúp bản thân trang bF và hệ thống lại kiến thức, lH
luận về tổ chức quyền hành pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam một cách logic. ĐJng thời vận dụng kiến thức vào việc học, liên
hệ với thực tiễn của đất nước, từ đó góp phần nhận thức đúng đắn, sâu sắc hơn về
vF trí, vai trò của quyền hành pháp đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích nội dung tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam.
- Đánh giá được thực trạng cùng với đó là những ưu điểm, hạn chế trong các quy
đFnh pháp luật và cách tổ chức thực hiện quyền hành pháp trong thực tế gắn với Hiến pháp năm 2013.
- Đưa ra những yêu cầu đổi mới trong công cuộc cải cách đất nước hiện nay đJng
thời đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện việc tổ chức, thực hiện quyền hành pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay: Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện. 3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian: Từ ngày 20/04/2023 đến ngày 01/05/2023.
- Phạm vi không gian: Trên phạm vi cả nước.
- Phạm vi nội dung: Tập trung nghiên cứu về quyền hành pháp, vF trí, vai trò của nó
trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước và cách tổ chức, thực hiện quyền hành
pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, đây là một đề tài khó và
rộng, khả năng còn hạn chế, do vậy, em chỉ nghiên cứu đề tài theo hướng những
vấn đề lH luận cơ bản; phân tích quy đFnh của pháp luật Việt Nam về quyền hành
pháp và khái quát thực trạng tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lFch sử, phép biện chứng duy vật.
- Phương pháp nghiên cứu: Thống kê, tổng hợp và phân tích đánh giá, so sánh đối
chiếu, khái quát hoá, quy nạp, diễn dFch.
5. Tính mới và đóng góp của đề tài
5.1. Tính mới của đề tài.
- Đề tài nghiên cứu cụ thể các quy đFnh của pháp luật về quyền hành pháp, vF trí,
vai trò, H nghĩa của quyền hành pháp trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước,
cách tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013.
- Đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong các quy đFnh của pháp luật Việt Nam
về vF trí, vai trò của quyền hành pháp, cũng như các chủ thể thực hiện quyền này.
- Đề tài đưa ra những phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện
quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay.
5.2. Đóng góp của đề tài.
Đề tài có thể đóng góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu những vấn đề lH
luận và thực tiễn áp dụng, tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay.
ĐJng thời góp phần nhận thức đúng đắn hơn về vF trí, vai trò, H nghĩa của quyền
hành pháp đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như của toàn xã
hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp
quyền và đhy mạnh phát triển nền kinh tế theo sự vận hành của nền kinh tế thF trường.
6. Kết cấu của tiểu luận
G m ph n m đ u, k t lu n, danh mục t i li u tham kh o, nội dung của đề t i g m 3 chương:
Chương I: LH luận chung về tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Giải pháp hoàn thiện tổ chức quyền hành pháp trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay B. NỘI DUNG
Chương I: Lý luận chung về tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
1.1. Khái niệm về quyền hành pháp ở Việt Nam
Hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ
phận của quyền lực nhà nước, trong đó các cơ quan nhà nước thực hiện quyền hành
pháp trên cơ sở một hệ thống thể chế pháp lH nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Ở Việt Nam, tJn tại những quan niệm khác nhau về quyền hành pháp.
Thứ nhất, quyền hành pháp là một trong ba quyền trong cơ cấu quyền lực
nhà nước, bên cạnh quyền lập pháp và quyền tư pháp. Quyền hành pháp do các cơ
quan hành chính nhà nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ
của mình. Quyền hành pháp bao gJm hai quyền: quyền lập quy và quyền hành
chính. Quyền lập quy là quyền ban hành những văn bản pháp quy dưới luật, để cụ
thể hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban hành trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Quyền hành chính là quyền tổ chức quản lH tất cả các mặt, các quan hệ
xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước. Quyền hành chính bao gJm các
quyền về tổ chức nhân sự trong cơ quan hành chính, quyền tổ chức thực thi và áp
dụng pháp luật trong các mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ chức với tổ chức
và giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội.
Thứ hai, hành pháp theo quan điểm hiện đại được hiểu theo hai nghĩa: một là
tổ chức thi hành luật; hai là chủ động khởi thảo, hoạch đFnh chính sách đối nội, đối
ngoại và tổ chức thực thi các chính sách đó.
Thứ ba, quyền hành pháp là một bộ phận tạo thành cơ cấu quyền lực nhà
nước. Quyền hành pháp được hiểu là quyền thi hành pháp luật. Trong cơ cấu quyền
lực nhà nước, quyền hành pháp là một khái niệm chung dùng để chỉ một bộ phận
quyền lực- quyền thi hành pháp luật, phản ánh mối quan hệ quyền lực giữa các bộ
phận hợp thành của quyền lực nhà nước. Chủ thể chủ yếu của quyền hành pháp là
Chính phủ (cơ quan hành pháp ở trung ương) với tính chất điển hình của cơ quan
này là thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành các hoạt động của đời sống xã
hội. Ở Việt Nam, các chủ thể thực hiện quyền hành pháp không chỉ có Chính phủ,
các cơ quan hành pháp ở trung ương, mà một số các cơ quan nhà nước ở đFa
phương cũng thực hiện quyền lực này.
Thứ tư, quyền hành pháp nói một cách phổ quát là quyền tổ chức bảo đảm,
bảo vệ việc thực thi luật trong hệ thống chính trF và đời sống xã hội.
Thứ năm, quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện H chí chung của quốc
gia do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của
quyền này là quản lH nhà nước mà thực chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo
đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội. Thực hiện quyền này đòi hỏi Chính phủ
và các thành viên của Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết đoán kFp thời và quyền uy tập trung thống nhất.
Quyền hành pháp không xuất hiện trong mọi chế độ của xã hội loài người mà
nó chỉ xuất hiện khi có sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Tuy ra đời cùng với
nhà nước và pháp luật nhưng không phải ở mọi thời kI quyền hành pháp đều được
quan niệm giống nhau, mà có sự phát triển theo thời gian. Đa số các nước xã hội
chủ nghĩa quyền lực nhà nước không được phân chia theo cơ chế phân quyền mà
được tổ chức theo cơ chế tập quyền.
1.2. Đặc điểm của quyền hành pháp ở Việt Nam
Là một trong ba bộ phận cơ bản cấu thành quyền lực nhà nước, quyền hành
pháp cũng có những đặc điểm cơ bản của quyền lực nhà nước.
Hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt dưới
sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuân theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Chính phủ là cơ quan Hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Hệ thống hành pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay là hệ thống hành pháp của một đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thF
trường và hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, quyền hành pháp còn có những đặc điểm đặc thù sau đây:
Quyền hành pháp có tính quyền lực nhà nước và độc lập tương đối so với các
nhánh quyền lực khác. Ở Việt Nam các cơ quan hành pháp là do các cơ quan dân
cử lập ra, thực hiện các hoạt động chấp hành và điều hành. Mặc dù các cơ quan
hành pháp là do cơ quan quyền lực lập ra, nhưng không có nghĩa là quyền hành
pháp chỉ là quyền phái sinh từ cơ quan quyền lực.
Quyền hành pháp có khả năng phản ánh một cách chính xác nhất những nhu
cầu của xã hội. Quyền hành pháp không chỉ dừng lại ở việc thi hành pháp luật mà
nó còn bao gJm cả việc quản lH, điều hành, lãnh đạo các hoạt động trong hầu hết
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một trong các nhánh quyền lực có sự đụng
chạm mạnh nhất tới quyền và lợi ích của công dân trong quá trình thực thi và quản lH.
1.3. Vai trò của quyền hành pháp ở Việt Nam
Hành pháp cùng với lập pháp và tư pháp tiếp tục thể chế hóa và tổ chức
thực hiện các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng.
Hành pháp cùng với lập pháp và tư pháp bảo đảm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hành pháp giữ vai trò quan trọng nhất trong việc hiện thực hóa các quy đFnh
về quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức và xã hội.
1.4. Nội dung của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.1. Tính chất của quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.1.1. Tính chủ động (đề xuất, khởi xướng việc xây dựng chính sách)
1.4.1.2. Tính chấp hành (tính chất thi hành pháp luật)
Tính chấp hành của hành pháp là khả năng làm cho pháp luật được thực
hiện trên thực tế bằng sức mạnh của nhà nước, hay nói một cách khác là khả năng
đưa pháp luật vào đời sống của các cơ quan nắm giữ quyền hành pháp. Chính phủ
có trách nhiệm đưa pháp luật vào đời sống xã hội và đảm bảo cho mọi chính sách
pháp luật của Đảng và Nhà nước được thực hiện, và được tuân thủ một cách
nghiêm minh. Chính phủ Việt Nam trong quá trình chấp hành Hiến pháp, pháp luật
của Quốc hội, chỉ có nhiệm vụ thực thi đúng và đầy đủ mà không có quyền " phủ
quyết" như ở một số nước tư bản.
Không có tính chất chấp hành của Chính phủ- chủ thể nắm quyền hành
pháp chủ yếu ở trung ương thì các văn bản pháp luật của nhà nước không thể thực
hiện được. Bên cạnh đó Ut ban nhân dân các cấp cũng là các cơ quan chấp hành
của Hội đJng nhân dân. Các chủ thể này thực hiện quyền hành pháp ở đFa phương.
1.4.1.3. Tính hành chính Nhà nước
Hành chính là hoạt động quản lH, điều hành và phục vụ trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội trong đó hành chính công (hành chính nhà nước)
giữ vF trí đặc biệt quan trọng. Ngoài tính chất chấp hành, các cơ quan hành pháp ở
Việt Nam còn được xác đFnh là các cơ quan hành chính Nhà nước, thực hiện chức
năng quản lH, điều hành. Tính hành chính làm cho quyền hành pháp có tính độc lập
tương đối, có khả năng phát huy được tính chủ động, sáng tạo của mình trong việc
quản lH các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.4.2. Chức năng của quyền hành pháp ở Việt Nam
Chức năng của quyền hành pháp là những phương diện hoạt động mà thông
qua đó quyền hành pháp được triển khai để thực thi pháp luật và tiến hành các hoạt
động quản lH, điều hành và phục vụ xã hội.
1.4.2.1. Chức năng đảm bảo an ninh, chính trF và trật tự an toàn xã hội
1.4.2.2. Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
1.4.2.3. Chức năng thực thi pháp luật
1.4.2.4. Chức năng tài phán
1.4.2.5. Chức năng quản lH, điều hành
1.4.3. Mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam
1.4.3.1. Mô hình Chính phủ ở trung ương
Ở các nước theo chế độ Tổng thống thì Tổng thống là người đảm nhiệm các
chức năng hành pháp, trực tiếp lãnh đạo và điều hành Chính phủ. Ở mô hình này
Hiến pháp không quy đFnh rõ Chính phủ bao gJm Thủ tướng và các Bộ trưởng, mà
tất cả quyền hành pháp được trao cho Tổng thống.
Còn ở các nước có chính thể Cộng hoà lưung tính thì bộ máy hành pháp
được trao cho Nguyên thủ quốc gia - Tổng thống và Thủ tướng Chính phủ - người
đứng đầu Chính phủ, cùng các thành viên Chính phủ. Các chủ thể này đều có thực
quyền trong quá trình thực hiện quyền hành pháp.
Ở nước ta, mvi thời kI khác nhau, cách tổ chức quyền lực nhà nước cũng
như quyền hành pháp có những nét khác nhau. Chính phủ là chủ thể cơ bản nhưng
không phải là chủ thể duy nhất thực hiện quyền hành pháp. Bên cạnh Chính phủ
một số cơ quan nhà nước khác cũng thực hiện quyền hành pháp, nhưng các cơ quan
này không phải là chủ thể chủ yếu thực hiện quyền hành pháp. Qua các thời kI
khác nhau, chủ thể thực hiện quyền hành pháp có sự khác nhau. Nhưng nhìn chung,
mô hình tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam tập trung chủ yếu vào Chính phủ và
Ut ban nhân dân các cấp. Hiện nay Nguyên thủ quốc gia không có nhiều thhm
quyền về lĩnh vực hành pháp giống như Nguyên thủ quốc gia ở các nước Cộng hoà
Tổng thống và Cộng hoà lưung tính.
1.4.3.2. Mô hình Ut ban nhân dân ở đFa phương
Ut ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước ở đFa phương, được
lập ra để thực hiện những chức năng quản lH nhà nước ở đFa phương. Ut ban nhân
dân được tổ chức theo ba cấp: Tỉnh (Thành phố trực thuộc trung ương và tương
đương), Huyện (quận, thành phố thuộc tỉnh, thF xã), Xã (phường thF trấn). Mô hình
tổ chức các đơn vF hành chính theo cấp tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo, triển khai
mệnh lệnh quản lH từ trên cũng như việc phân cấp quản lH cho cấp dưới.
Trên thế giới đã có nhiều hình thức tổ chức cơ quan quản lH nhà nước ở đFa
phương. Mô hình bổ nhiệm từ trên là mô hình được áp dụng từ rất xa xưa. Sau này
hình thức này được bổ sung bởi một hội đJng đFa phương, hội đJng này do dân cư
bầu ra và chỉ đóng vai trò tư vấn. Có mô hình quản lH đFa phương là việc quản lH
được thực hiện bởi một ut ban do dân cư trực tiếp bầu ra (ở Mx) hoặc do các hội
đJng đFa phương cấp dưới bầu ra (Ut ban hành chính huyện của Việt Nam trước
đây). Hiện nay mô hình quản lH đFa phương ở một số nước trên thế giới được thực
hiện bởi một hội đJng (Hội đJng tự quản, Hội đJng nhân dân), Hội đJng lập ra cơ
quan chấp hành của mình như Ut ban chấp hành, Ut ban nhân dân (Ở Việt Nam và
các nước xã hội chủ nghĩa), ThF trưởng ở Pháp, quản trF trưởng ở Mx. Ở Việt Nam
mô hình tổ chức cơ quan chính quyền đFa phương theo kiểu Hội đJng nhân dân và
cơ quan chấp hành của nó được thành lập ở tất cả các đơn vF hành chính.
Chương II: Thực trạng tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013
2.1.1. Vị trí, tính chất của Chính phủ được xác định lại theo hướng cơ quan
thực hiện quyền hành pháp
Hiến pháp năm 2013 xác đFnh lại vF trí, tính chất của Chính phủ “Chính phủ
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội”.
Chính phủ là một thiết chế độc lập nắm quyền thống nhất quản lH điều hành
các mặt đời sống kinh tế- xã hội của đất nước, trước hết là quyết đFnh những vấn đề
về chủ trương, cơ chế, chính sách, thể chế quản lH hành chính nhà nước. Các quyết
đFnh của Chính phủ phải được tất cả các cơ quan, tổ chức trong xã hội, trong hệ
thống chính trF, bộ máy nhà nước tôn trọng và chấp hành nghiêm túc. Chính phủ là
thiết chế có thhm quyền cao nhất đối với hệ thống hành chính nhà nước. Cách thức
quy đFnh mới này không đơn thuần chỉ là sự chuyển đổi vF trí quy đFnh mà nó thể
hiện nhận thức mới, một bước chuyển rất cơ bản trong nhận thức về phân công
quyền lực, về vF trí, vai trò của Chính phủ trong các mối quan hệ quyền lực. Quy
đFnh kiểu cũ cho thấy vF trí của Chính phủ về căn bản chưa hoàn toàn là cơ quan có
tính độc lập tương đối mà vẫn là cơ quan phái sinh. Quy
đFnh mới này khẳng đFnh,
Chính phủ là một thiết chế độc lập- thiết chế hành chín
h phân biệt với thiết chế lập pháp- Quốc hội (Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và thiết chế xét xử-
Tòa án (Tòa nhân dân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam).
Hiến pháp đã ghi nhận một chức năng, nhiệm vụ có tính chất nổi bật và cũng
là quan trọng nhất của Chính phủ, đó là “thực hiện quyền hành pháp”. Quy đFnh
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp bao hàm cả vF trí của Chính phủ trong phân
công thực hiện quyền lực nhà nước, và chức năng hành pháp của Chính phủ.
Nói Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, trước hết là nói đến việc phân
công quyền lực (phân quyền) giữa các nhánh quyền lực nhà nước, theo đó, Quốc
hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành
pháp, Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Giữa 3 cơ quan (3 nhánh quyền
lực) này có sự phối hợp và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực hiện quyền lực được
trao. Sự phân công quyền lực này vừa bảo đảm tính thống nhất, vừa bảo đảm tính
phối hợp và kiểm soát lẫn nhau, trên cơ sở hướng tới sự cân bằng và bảo đảm sự
thông suốt của quyền lực. Đây là bước tiến có tính đột phá trong lFch sử lập hiến ở
nước ta. Quy đFnh Chính phủ là cơ quan thực hiện hành pháp mang lại cho Chính
phủ một vF thế mới trong bộ máy nhà nước, bảo đảm tính độc lập tương đối hơn
trong quan hệ với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp. Với chức năng thực hiện
quyền hành pháp, Chính phủ thực hiện việc hoạch đFnh và điều hành chính sách
quốc gia, tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật để duy trì và bảo vệ trật tự cộng
cộng, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp vẫn tiếp tục giữ quy đFnh “Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội”. Tính chất là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” của Chính phủ là việc
Chính phủ có nhiệm kI theo nhiệm kI của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ phải là
đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm,
Quốc hội bãi bỏ văn bản của Chính phủ trái Hiến pháp, luật, nghF quyết của Quốc
hội; chấp hành và tổ chức thi hành các đạo luật, các nghF quyết của Quốc hội. Đây
là thể hiện tính chFu sự giám sát, chFu trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ và các thành viên Chính phủ trước Quốc hội; là cơ sở cho việc thực hiện quyền
giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ; là bảo đảm sự gắn bó chặt chẽ
giữa Chính phủ và Quốc hội, bảo đảm tính thống nhất trong việc thực hiện quyền
lập pháp và hành pháp. Chính phủ có trách nhiệm phải tuân thủ và thực hiện các
luật, nghF quyết của Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội, chFu trách nhiệm
giải trình trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.
2.1.2. Mối quan hệ giữa Chính phủ với các cơ quan nhà nước khác được xác
định lại theo tinh thần mới
Trước hết là trong mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Hiến pháp
năm 2013 đã bỏ quy đFnh về thhm quyền của Quốc hội quyết đFnh chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh, tạo điều kiện cho Chính phủ và các chủ thể khác chủ động,
linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh; phân đFnh rõ hơn phạm vi
chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội và Chính phủ quyết đFnh trong
một số lĩnh vực (như Quốc hội quyết đFnh mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ
cơ bản phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, quyết đFnh chính sách cơ bản về tài
chính, tiền tệ quốc gia... , còn Chính phủ có thhm quyền ban hành các chính sách,
biện pháp cụ thể để quản lH, điều hành các lĩnh vực).
Về mối quan hệ trong lĩnh vực điều ước quốc tế (đàm phán, kH kết, gia nhập
và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế), Hiến pháp năm 2013 đã tạo lập sự phân
công khoa học, hợp lH nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tFch nước, Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Quốc hội “phê chuhn, quyết đFnh gia nhập
hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ
quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các
tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật,
nghF quyết của Quốc hội” (khoản 4 Điều 70). Chủ tFch nước “quyết đFnh đàm phán,
kH điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước; trình Quốc hội phê chuhn, quyết đFnh gia
nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế quy đFnh tại khoản 14 Điều 70;
quyết đFnh phê chuhn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế khác nhân
danh Nhà nước” (khoản 6 Điều 88); Thủ tướng Chính phủ “quyết đFnh và chỉ đạo
việc đàm phán, chỉ đạo việc kH, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên” (khoản 5 Điều 98).
Mối quan hệ giữa Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trF xã hội được quy đFnh tại Điều 101 Hiến pháp năm 2013. Về nguyên
tắc, các vấn đề liên quan đến mối quan hệ làm việc của các thiết chế nhà nước
không quy đFnh trong Hiến pháp. Tuy nhiên, do tính đặc thù của hệ thống chính trF
nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trF- xã hội có vF trí, vai
trò quan trọng đối với hoạt động của Chính phủ cũng như của cả bộ máy nhà nước
nói chung, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trF dưới sự
lãnh đạo của Đảng trong quản lH điều hành các mặt đời sống kinh tế- xã hội của đất nước.
Về sự tham dự phiên họp Chính phủ của người đứng đầu Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương các tổ chức chính trF - xã hội lần
đầu tiên được quy đFnh tại Hiến pháp năm 1980 với 2 điểm đáng chú H: (1) Sự
không bình đẳng trong việc tham dự phiên họp Chính phủ, theo đó Chủ tFch Tổng
Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) được quyền tham
dự; còn người đứng đầu Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trF - xã hội khác thì được mời tham dự; (2) Điều kiện được mời tham dự là “khi cần thiết”.
So với Hiến pháp năm 1980, thì việc tham dự phiên họp Chính phủ của
người đứng đầu Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung
ương các tổ chức chính trF - xã hội được Hiến pháp năm 2013 quy đFnh phù hợp
hơn với tính chất và nội dung mối quan hệ giữa Chính phủ với các tổ chức này, đó
là mối quan hệ phối hợp và giám sát, phản biện xã hội trên những vấn đề có liên quan.
2.1.3. Nhiệm vụ, thẩm quyền của Chính phủ cũng được xác định rõ với tính
cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
Cụ thể hóa chức năng hành pháp, tại Điều 96, Hiến pháp năm 2013 đã quy
đFnh khái quát các nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Chính phủ như sau:
- Hiến pháp sửa đổi đã ghi nhận vai trò hoạch đFnh chính sách của Chính phủ,“Đề
xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ut ban thường vụ Quốc hội quyết đFnh
hoặc quyết đFnh theo thhm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…”.(khoản 2 Điều 96)
- Quy đFnh rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành
Hiến pháp và pháp luật (khoản 1);
- Thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài
sản của Nhân dân (khoản 3 Điều 96)
Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban
hành văn bản pháp quy của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập để
thực hiện chức năng hành pháp “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lH các văn bản trái pháp
luật theo quy đFnh của luật” (Điều 100).
Hiến pháp khẳng đFnh Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ.
Quy đFnh rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng đối với Chính phủ, nhất là
đối với hệ thống HCNN.
Thủ tướng Chính phủ thực sự trở thành nhân tố đFnh hướng các mục tiêu
chung và thúc đhy, đFnh hướng xây dựng chính sách và toàn bộ hoạt động của
Chính phủ và hệ thống HCNN từ Trung ương tới đFa phương trong việc thực hiện
các chức năng, thhm quyền theo quy đFnh của pháp luật.
Đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới có một số
sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân; thể hiện rõ hơn vF
trí, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách
vừa là thành viên Chính phủ, đJng thời là một thiết chế có trách nhiệm quản lH nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước. Theo đó, “Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan
ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chFu trách nhiệm quản lH
nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công” (khoản 1 Điều 99). Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ: “Tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật
liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); “Ban
hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc
thi hành các văn bản đó và xử lH các văn bản trái pháp luật theo quy đFnh của luật” (Điều 100).
2.1.4. Hình thức hoạt động của Chính phủ thể hiện nổi bật cơ chế vận hành và
thực thi quyền hành pháp của Chính phủ
Hiến pháp tiếp tục khẳng đFnh nguyên tắc “Chính phủ làm việc theo chế độ
tập thể, quyết đFnh theo đa số” (Điều 95) nhưng không còn giữ quy đFnh: “Những
vấn đề quan trọng thuộc thhm quyền của Chính phủ phải được thảo luận và quyết
đFnh theo đa số” như Điều 115 của Hiến pháp năm 1992 nữa. Tinh thần là các
nhiệm vụ trong Chính phủ phải được phân đFnh rõ ràng cho các chức danh. Những
vấn đề nào thật cần thiết đưa ra họp bàn chung trong Chính phủ thì mới quyết đFnh tập thể và theo đa số.
Về trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp
xác lập rõ mối quan hệ trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Hiến pháp mới đã bổ sung một số quy đFnh
mới: Khẳng đFnh rõ vF trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là
người đứng đầu và lãnh đạo công tác của Bộ, cơ quan ngang bộ; chFu trách nhiệm
quản lH nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi
việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực công tác trong phạm vi toàn
quốc; chFu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc
hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách, cùng với các thành viên khác của
Chính phủ chFu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ (Điều 97).
Với các sửa đổi, bổ sung cụ thể nêu trên, vF trí, vai trò của Thủ tướng
Chính phủ đã được nâng cao hơn một bước, có đủ quyền hạn để đFnh hướng mục
tiêu chung và thúc đhy việc xây dựng chính sách cũng như các hoạt động của Chính
phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương tới đFa phương trong việc thực
hiện các chức năng, thhm quyền theo quy đFnh của pháp luật.
2.1.5. Cơ chế trách nhiệm của Chính phủ thể hiện rõ tính cách là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
Về vấn đề trách nhiệm của Chính phủ, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế
thừa quy đFnh của Hiến pháp năm 1992: “Chính phủ chFu trách nhiệm trước Quốc
hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tFch nước”.
Trách nhiệm của Chính phủ phải báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tFch nước là thực hiện trách nhiệm giải trình trước Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tFch nước. Thông qua báo cáo công tác của
Chính phủ, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tFch nước thực hiện việc
giám sát, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lH
điều hành của Chính phủ. Đây cũng là yêu cầu bảo đảm công khai, minh bạch hoạt
động quản lH điều hành của Chính phủ. Chính phủ là một tập thể. Quyền lực của
Chính phủ xuất phát từ Hiến pháp. Nhân dân thông qua Hiến pháp trao quyền lực
cho Chính phủ. Chính phủ được trao quyền lực của Nhân dân thì phải chFu trách
nhiệm trước Nhân dân, mà biểu hiện cụ thể và trước hết là chFu trách nhiệm trước
Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, chFu trách nhiệm trước Quốc hội tức là chFu trách nhiệm trước Nhân dân.
Chính phủ chFu trách nhiệm trước Quốc hội cũng là biểu hiện của mối quan hệ chặt
chẽ giữa Chính phủ với Quốc hội trong phân công và kiểm soát quyền lực. Điều
này khác với chế độ cộng hòa tổng thống, nơi mà việc phân chia và đối trọng quyền
lực là phương tiện chủ yếu để kiểm soát quyền lực, bảo đảm cho quyền lực không
bF lạm dụng. Quyền lực nhà nước được phân chia cho 3 nhánh lập pháp, hành pháp
và tư pháp, độc lập và tách biệt nhau. Cả Tổng thống và các Bộ trưởng đều không
phải là thành viên của Quốc hội, nên không phải chFu trách nhiệm trước Quốc hội.
Đối với Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng chFu trách nhiệm trước Quốc hội
về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ
tFch nước; báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc thhm quyền
giải quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Điều 98).
Đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: báo cáo công tác trước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan
trọng thuộc trách nhiệm quản lH (Điều 99).
Như vậy, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kI
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), kế thừa Hiến pháp
năm 1992 và trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, quy đFnh của Hiến
pháp năm 2013 đã thể hiện rõ tinh thần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ, xây dựng Chính phủ mạnh, hệ thống hành chính nhà nước thống nhất,
thông suốt, hiệu lực và hiệu quả, phù hợp với nền kinh tế thF trường đFnh hướng xã
hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phù hợp với tính chất, vF trí, chức năng của Chính phủ, cũng như của Thủ tướng
Chính phủ và của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã được đổi mới, hoàn
thiện hơn theo hướng, phát huy vai trò, trách nhiệm của tập thể Chính phủ, đJng
thời đề cao và xác đFnh rõ hơn thhm quyền, trách nhiệm cá nhân của Thủ tưởng
Chính phủ, của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong quản lH, điều hành.
2.2. Ưu điểm và hạn chế trong tổ chức quyền hành pháp ở Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013