Tội phạm kết thúc là gì? Phân biệt tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc?

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem! 

Thông tin:
4 trang 3 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tội phạm kết thúc là gì? Phân biệt tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc?

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem! 

Tội phạm kết thúc là gì? Phân biệt tội phạm hoàn thành và tội
phạm kết thúc?
1. Tội phạm là gì?
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật
này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ
hoặc phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất
của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao
nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà
mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Tội phạm kết thúc là gì?
Trong Bộ luật hình sự cũng đưa ra những khái niệm như “chuẩn bị phạm tội”, “phạm tội chưa đạt”, tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội” nhưng không có một khái niệm nào về tội phạm hoàn thành và tội phạm kết
thúc. Thời điểm tội phạm kết thúc là khi hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt, không còn xảy ra trên thực
tế.Việc xác định đúng thời điểm tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc có ý nghĩa trong việc xác định
trách nhiệm hình sự của tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng phạm, phòng vệ chính
đáng.
3. Dấu hiệu nhận biết tội phạm kết thúc
Tội phạm kết thúc khi hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt không còn xảy ra trên thực tế. Tội phạm kết
thúc có thể xảy ra trong các trường hợp sau:
– Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã được mục đích;
– Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã bị ngăn cản nên không thực hiện tiếp được;
– Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã tự ý dừng lại.
4. Phân biệt tội phạm kết thúc và tội phạm hoàn thành
4.1. Thời điểm tội phạm hoàn thành:
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong
cấu thành tội phạm theo BLHS đối với từng tội danh. Như vậy, thời điểm tội phạm hoàn thành không phụ
thuộc vào việc người phạm tội đã thỏa mãn mục đích của mình hay chưa. Muốn xác định thời điểm tội phạm
hoàn thành thì cần căn cứ vào:
- Tầm quan trọng của khách thể, yêu cầu bảo vệ đối với từng loại khách thể.
- Đặc điểm của từng loại tội phạm: tội có cấu thành vật chất hay tội có cấu thành hình thức.
Tội có cấu thành hình thức được xem là hoàn thành từ khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội quy
định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm, không quan tâm có hậu quả xảy ra trên thực tế hay
chưa. VD của loại tội này đó là tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội đe dọa giết người, tội cướp tài sản...
Tội có cấu thành vật chất được xem là hoàn thành khi hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả được quy định là
cấu thành bắt buộc của tội danh đó. Đặc điểm của trường hợp hoàn thành này là người phạm tội đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, khách thể đã bị xâm phạm; hậu quả tác hại của hành vi phạm tội đã xảy
ra theo quy định của cấu thành tội phạm, hậu quả xảy ra trên thực tế là dấu hiệu bắt buộc. VD: tội giết
người, trộm cắp tài sản…
Ví dụ: Đối với tội cướp tài sản, chỉ cần người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực thì tội
phạm được xem là đã hoàn thành; nhưng đối với tội trộm cắp thì tội phạm chỉ được xem là hoàn thành khi
người phạm tội đã lấy được tài sản của người khác.
Tội phạm hoàn thành không có nghĩa là tội phạm chấm dứt hay tạm ngừng trên thực tế.
4.2. Thời điểm tội phạm kết thúc
Thời điểm tội phạm kết thúc và hoàn thành có thể trùng nhau hoặc không.
Ví dụ 1: A dùng súng bắn B và B chết ngay tức khắc
=> Thời điểm tội phạm hoàn thành và kết thúc trùng nhau.
Ví dụ 2: A dùng súng bắn B nhưng B không chết mà bị thương, sau khi nhập viện cấp cứu thì chết sau 2
ngày.
=> Thời điểm tội phạm kết thúc (A bắn B) xảy ra trước khi thời điểm tội phạm hoàn thành (B chết).
Ví dụ 3: A cướp túi xách của B, và bị công an bắt ngay sau đó.
=> Thời điểm tội phạm hoàn thành (cướp được túi xách) xảy ra trước thời điểm tội phạm kết thúc (bị Công
an bắt được).
Việc xác định đúng thời điểm tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc có ý nghĩa trong việc xác định trách
nhiệm hình sự của tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng phạm, phòng vệ chính đáng.
Như vậy, so với thời điểm tội phạm hoàn thành, thời điểm tội phạm kết thúc có thể xảy ra trước, xảy ra cùng
hoặc xảy ra sau thời điểm tội phạm hoàn thành. Việc xác định thời điểm tội phạm kết thúc và phân biệt nó
với thời điểm tội phạm hoàn thành có ý nghĩa đối với việc áp dụng một số chế định của luật hình sự như chế
định đồng phạm, chế định phòng vệ chính đáng cũng như chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vấn để còn có thể tham gia tiếp là người đồng phạm hay không cũng như còn có thể phòng vệ chính đáng
được hay không không phụ thuộc vào thời điểm tội phạm hoàn thành mà phụ thuộc vào thời điểm tội phạm
kết thúc. Tương tự như vậy, thời điểm để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời điểm tội
phạm kết thúc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các tội kéo dài.
5. Chuẩn bị phạm tội (Điều 14 BLHS 2015)
"Điều 14. Chuẩn bị phạm tội
1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện
khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập
hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a
khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114,
115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của
Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của
Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự."
6. Phạm tội chưa đạt (Điều 15 BLHS 2015)
"Điều 15. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt."
Căn cứ vào thái độ, tâm lý của người phạm tội đối với việc chưa đạt có hai loại phạm tội chưa đạt:
Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: Là trường hợp người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ
cho là cần thiết để gây hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan hậu quả đó không xảy ra (chưa đạt về
hậu quả, hoàn thành về hành vi). (Ví dụ: Một người có ý định giết người khác, đã dùng súng bắn 3 phát vào
nạn nhân và tin nạn nhân đã chết nên bỏ đi, nhưng sau đó nạn nhân được cứu chữa nên không chết. Ở đây
người phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng lại không xảy ra. Trường hợp
này người phạm tội dừng lại mặc dù không còn gì ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa
chừng chấm dứt thực hiện tội phạm, vì người phạm tội đã thỏa mãn với hành vi nhưng chưa thỏa mãn về
hậu quả).
Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: Là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực
hiện hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra (chưa đạt về hậu
quả, chưa hoàn thành về hành vi). (Ví dụ: Một người có ý định dùng dao găm đâm nhiều nhát vào 1 người
để tước đoạt tính mạng người đó, nhưng mới đâm được 1 nhát thì bị người khác giữ tay lại, không đâm tiếp
được nữa và nạn nhân không chết, chỉ bị thương. Trường hợp này người phạm tội chưa đâm được như ý
muốn, chưa tin vào hậu quả xảy ra và hậu quả cũng không xảy ra.)
Điều 57 Bộ luật Hình sự quy định về việc quyết định hình phạt với hành vi phạm tội chưa đạt như sau:
- Hình phạt đối với hành vi phạm tội chưa đạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội
phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định
phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
- Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình
phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật
quy định.
7. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 BLHS 2015)
"Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy
không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm;
nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội này."
| 1/4

Preview text:

Tội phạm kết thúc là gì? Phân biệt tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc?
1. Tội phạm là gì?
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật
này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ
hoặc phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất
của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao
nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà
mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Tội phạm kết thúc là gì?
Trong Bộ luật hình sự cũng đưa ra những khái niệm như “chuẩn bị phạm tội”, “phạm tội chưa đạt”, tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội
” nhưng không có một khái niệm nào về tội phạm hoàn thành và tội phạm kết
thúc. Thời điểm tội phạm kết thúc là khi hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt, không còn xảy ra trên thực
tế.Việc xác định đúng thời điểm tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc có ý nghĩa trong việc xác định
trách nhiệm hình sự của tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng phạm, phòng vệ chính đáng.
3. Dấu hiệu nhận biết tội phạm kết thúc
Tội phạm kết thúc khi hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt không còn xảy ra trên thực tế. Tội phạm kết
thúc có thể xảy ra trong các trường hợp sau:
– Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã được mục đích;
– Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã bị ngăn cản nên không thực hiện tiếp được;
– Hành vi phạm tội chấm dứt vì chủ thể đã tự ý dừng lại.
4. Phân biệt tội phạm kết thúc và tội phạm hoàn thành
4.1. Thời điểm tội phạm hoàn thành:
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong
cấu thành tội phạm theo BLHS đối với từng tội danh. Như vậy, thời điểm tội phạm hoàn thành không phụ
thuộc vào việc người phạm tội đã thỏa mãn mục đích của mình hay chưa. Muốn xác định thời điểm tội phạm
hoàn thành thì cần căn cứ vào:
- Tầm quan trọng của khách thể, yêu cầu bảo vệ đối với từng loại khách thể.
- Đặc điểm của từng loại tội phạm: tội có cấu thành vật chất hay tội có cấu thành hình thức.
Tội có cấu thành hình thức được xem là hoàn thành từ khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội quy
định trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm, không quan tâm có hậu quả xảy ra trên thực tế hay
chưa. VD của loại tội này đó là tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội đe dọa giết người, tội cướp tài sản...
Tội có cấu thành vật chất được xem là hoàn thành khi hành vi phạm tội đã gây ra hậu quả được quy định là
cấu thành bắt buộc của tội danh đó. Đặc điểm của trường hợp hoàn thành này là người phạm tội đã thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, khách thể đã bị xâm phạm; hậu quả tác hại của hành vi phạm tội đã xảy
ra theo quy định của cấu thành tội phạm, hậu quả xảy ra trên thực tế là dấu hiệu bắt buộc. VD: tội giết
người, trộm cắp tài sản…
Ví dụ: Đối với tội cướp tài sản, chỉ cần người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực thì tội
phạm được xem là đã hoàn thành; nhưng đối với tội trộm cắp thì tội phạm chỉ được xem là hoàn thành khi
người phạm tội đã lấy được tài sản của người khác.
Tội phạm hoàn thành không có nghĩa là tội phạm chấm dứt hay tạm ngừng trên thực tế.
4.2. Thời điểm tội phạm kết thúc
Thời điểm tội phạm kết thúc và hoàn thành có thể trùng nhau hoặc không.
Ví dụ 1: A dùng súng bắn B và B chết ngay tức khắc
=> Thời điểm tội phạm hoàn thành và kết thúc trùng nhau.
Ví dụ 2: A dùng súng bắn B nhưng B không chết mà bị thương, sau khi nhập viện cấp cứu thì chết sau 2 ngày.
=> Thời điểm tội phạm kết thúc (A bắn B) xảy ra trước khi thời điểm tội phạm hoàn thành (B chết).
Ví dụ 3: A cướp túi xách của B, và bị công an bắt ngay sau đó.
=> Thời điểm tội phạm hoàn thành (cướp được túi xách) xảy ra trước thời điểm tội phạm kết thúc (bị Công an bắt được).
Việc xác định đúng thời điểm tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc có ý nghĩa trong việc xác định trách
nhiệm hình sự của tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng phạm, phòng vệ chính đáng.
Như vậy, so với thời điểm tội phạm hoàn thành, thời điểm tội phạm kết thúc có thể xảy ra trước, xảy ra cùng
hoặc xảy ra sau thời điểm tội phạm hoàn thành. Việc xác định thời điểm tội phạm kết thúc và phân biệt nó
với thời điểm tội phạm hoàn thành có ý nghĩa đối với việc áp dụng một số chế định của luật hình sự như chế
định đồng phạm, chế định phòng vệ chính đáng cũng như chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vấn để còn có thể tham gia tiếp là người đồng phạm hay không cũng như còn có thể phòng vệ chính đáng
được hay không không phụ thuộc vào thời điểm tội phạm hoàn thành mà phụ thuộc vào thời điểm tội phạm
kết thúc. Tương tự như vậy, thời điểm để xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời điểm tội
phạm kết thúc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các tội kéo dài.
5. Chuẩn bị phạm tội (Điều 14 BLHS 2015)
"Điều 14. Chuẩn bị phạm tội
1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện
khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập
hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a
khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.

2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114,
115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của
Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của
Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự."

6. Phạm tội chưa đạt (Điều 15 BLHS 2015)
"Điều 15. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt."
Căn cứ vào thái độ, tâm lý của người phạm tội đối với việc chưa đạt có hai loại phạm tội chưa đạt:
Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: Là trường hợp người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ
cho là cần thiết để gây hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan hậu quả đó không xảy ra (chưa đạt về
hậu quả, hoàn thành về hành vi). (Ví dụ: Một người có ý định giết người khác, đã dùng súng bắn 3 phát vào
nạn nhân và tin nạn nhân đã chết nên bỏ đi, nhưng sau đó nạn nhân được cứu chữa nên không chết. Ở đây
người phạm tội đã hành động như ý muốn và tin là hậu quả sẽ xảy ra nhưng lại không xảy ra. Trường hợp
này người phạm tội dừng lại mặc dù không còn gì ngăn cản nhưng cũng không được coi là tự nguyện nửa
chừng chấm dứt thực hiện tội phạm, vì người phạm tội đã thỏa mãn với hành vi nhưng chưa thỏa mãn về hậu quả).
Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: Là trường hợp người phạm tội vì nguyên nhân khách quan, chưa thực
hiện hết các hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả không xảy ra (chưa đạt về hậu
quả, chưa hoàn thành về hành vi). (Ví dụ: Một người có ý định dùng dao găm đâm nhiều nhát vào 1 người
để tước đoạt tính mạng người đó, nhưng mới đâm được 1 nhát thì bị người khác giữ tay lại, không đâm tiếp
được nữa và nạn nhân không chết, chỉ bị thương. Trường hợp này người phạm tội chưa đâm được như ý
muốn, chưa tin vào hậu quả xảy ra và hậu quả cũng không xảy ra.)
Điều 57 Bộ luật Hình sự quy định về việc quyết định hình phạt với hành vi phạm tội chưa đạt như sau:
- Hình phạt đối với hành vi phạm tội chưa đạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội
phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định
phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.
- Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình
phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.
7. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 BLHS 2015)
"Điều 16. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy
không có gì ngăn cản.

Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm;
nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội này."