Tóm tắt bài giảng chương 4 - Môn chủ nghĩa xã hội khoa học| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
17 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tóm tắt bài giảng chương 4 - Môn chủ nghĩa xã hội khoa học| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

74 37 lượt tải Tải xuống
CHƯƠNG 4 - DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ NHÀ NƯỚC XHCN
Chương này nhằm giúp sinh viên nhận thức đầy đủ đúng bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung ở Việt Nam
nói riêng. Sinh viên khả năng vận dụng lý luận về dân chủ hội chủ nghĩa và
nhà nước hội chủ nghĩa vào việc phân tích những vấn đề thực tiễn liên quan,
trước hết là trong công việc, nhiệm vụ của cá nhân. Giúp sinh viên khẳng định bản
chất tiến bộ của nền dân chủhội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa; có thái
độ phê phán những quan điểm sai trái phủ nhận tính chất tiến bộ của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
1. DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ
1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
2. NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1. Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.2. Mối quan hệ giữa dân chủ hội chủ nghĩa nhà nước hội chủ
nghĩa
3. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.3. Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Chí Bảo, Thái Ninh(1991), Dân chủsản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, NXB Sự thật,Hà nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà nội
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa hội (Bổ sung phát triển năm 2011), NXB Sự
thật, Hà nội.
1
4. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ( 2014), Giáo trình cao cáp
luận chính trị, tập 3 – Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội
5.Đào Trí Úc (2015), , NXB Đại học QuốcGiáo trình Nhà nước pháp quyền
gia Hà Nội
Nội dung chi tiết
A. DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quan niệm về dân chủ, nền dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
* Sơ lược lịch sử của vấn đề dân chủ:
Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người. Trong
lịch sử phát triển xã hội loài người thuật ngữ dân chủ đã xuất hiện từ rất sớm. Nó
bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại và được ghép lại bởi hai từ “Demos” có nghĩa là
“dân”, “dân chúng” và “Kratos” có nghĩa là “sức mạnh”, “quyền lực”. Như vậy
theo nghĩa gốc, dân chủ là “quyền lực hay sức mạnh thuộc về nhân dân”, coi nhân
dân là cội nguồn của quyền lực. Tuy nhiên, nội hàm khái niệm nhân dân ở từng
thời kỳ, từng chế độ xã hội khác nhau là khác nhau.
Dân chủ sơ khai: Theo Ph. Ăngghen trong giai đoạn cuối của xã hội cộng
sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của dân chủ mà Ph. Ăngghen gọi
đó là dân chủ nguyên thủy. Thực tiễn cho thấy, thời kỳ công xã nguyên thủy, trong
sinh hoạt cộng đồng, khi con người biết tổ chức thành xã hội, bắt đầu xuất hiện nhu
cầu về tổ chức. Cho nên trong xã hội mọi thành viên bên cạnh việc bình đẳng tham
gia vào các hoạt động xã hội, cũng cần phải cử ra người đứng đầu để điều hành các
công việc đồng thời phế bỏ người đứng đầu nếu không thực hiện đúng quy định
chung, tất cả những việc đó đều diễn ra thông qua đại hội nhân dân. Đây là hình
thức dân chủ sơ khai, chất phác của những tổ chức cộng đồng tự quản trong xã hội
chưa có giai cấp.
Dân chủ chủ nô: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô lập ra nhà
nước để bảo vệ lợi ích giai cấp mình và giữ ổn định xã hội. Đó là nhà nước dân chủ
của chủ nô, thực hiện sự thống trị của thiểu số đối với đa số người lao động là nô
lệ. Giai cấp chủ nô chính thức sử dụng thuật ngữ “dân chủ” nghĩa là nhà nước dân
chủ chủ nô có “quyền lực của dân”. Nhưng “dân” lúc này theo quy định của pháp
luật gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và những người tự
do, còn đa phần nhân dân là nô lệ không được coi là dân trong xã hội. Xét về thực
2
chất quyền lực vẫn tập trung trong tay thiểu số người. Có thể nói nhà nước dân chủ
đầu tiên ra đời trong lịch sử là nhà nước dân chủ của chủ nô.
Dân chủ phong kiến: dân chủ theo nghĩa một chế độ đã hoàn toàn biến mất.
Mọi quyền lực đều thuộc về ông vua (quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều nằm
trong tay ông vua), người dân không có một chút quyền nào, kể cả quyền sở hữu.
Tuy nhiên, dân chủ vẫn còn tồn tại với tư cách là một giá trị văn hoá. Bởi hàng loạt
nô lệ được giải phóng, được coi là người. Người nông nô được hưởng một chút ít
quyền lợi sau khi đã nộp tô cho địa chủ.
Dân chủ tư sản: Nhà nước dân chủ tư sản ra đời, là một nấc thang trong sự
phát triển dân chủ. Nhân dân có quyền dân chủ hơn. Tuy nhiên, về thực chất vẫn
không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là của
thiểu số giai cấp bóc lột – giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ dân
chủ nhưng thực tế quyền lực thực sự vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa: Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành
công đã làm xuất hiện nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động đã
giành lại được quyền lực thực sự của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành
nhà nước đầu tiên thực hiện quyền lực của nhân dân. Đây là nền dân chủ rộng rãi
nhất trong lịch sử, quyền lực hoàn toàn thuộc về tay nhân dân.
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trước đây và từ thực tiễn lịch sử ra đời, phát
triển của dân chủ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu ra một số quan niệm cơ bản về
dân chủ:
Thứ nhất: Dân chủ với tư cách là quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ là
sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của con người phản ánh
những giá trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân chống
lại áp bức bóc lột, bất công.
Thứ hai: Với tư cách là một phạm trù chính trị, dân chủ gắn với một kiểu
nhà nước, một giai cấp cầm quyền và mang bản chất của giai cấp thống trị. Theo
nghĩa này, dân chủ sẽ mất đi khi xã hội không còn giai cấp và do đó, dân chủ cũng
là một phạm trù lịch sử.
Thứ ba: Với tư cách là một hệ giá trị, dân chủ phản ánh trình độ phát triển
của cá nhân và cộng đồng trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức bất
công, nô dịch và tiến tới tự do, bình đẳng. Theo nghĩa này thì dân chủ có giá trị
3
nhân văn rất lớn, nó sẽ tồn tại lâu dài trong xã hội, kể cả khi giai cấp và nhà nước
mất đi.
* Nền dân chủ
Khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ra đời, giai cấp và bất bình
đẳng xuất hiện, các hình thức xã hội tự quản không còn phù hợp. Xã hội cần đến
những tổ chức chính trị với những công cụ bạo lực có tính cưỡng chế để điều chỉnh
các hoạt động của xã hội. Trong điều kiện như vậy nhà nước ra đời và kể từ đó
quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật, dân chủ
được thể hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi: “chính thể dân
chủ” hay “nền dân chủ”.
Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính
chất của nhà nước; là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể
của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa
bằng pháp luật.
* Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ hay chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống thiết chế
(chính trị, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội) được xác lập và thực thi trong xã
hội theo mục tiêu thực hiện quyền lực cai trị (quản lý, điều khiển, kiểm soát … xã
hội) thực sự thuộc về nhân dân.
2. Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất hiện từ sau thắng lợi vĩ đại của Cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917. Nó ra đời trên cơ sở kế
thừa các giá trị dân chủ trước đó, nhất là kế thừa các giá trị của nền dân chủ tư sản.
Bởi trong bức tranh chung về tiến trình phát triển của lịch sử, chế độ tư bản là nấc
thang cận kề để từ đó bước lên nấc thang tiếp theo là chủ nghĩa xã hội và cuối cùng
là chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, dân chủ xã hội chủ nghĩa khác hẳn về chất so với
dân chủ tư sản.
Sự hình thành dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về
chất của dân chủ, điều này thể hiện rõ ở các đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa:
Thứ nhất: Với tư cách là một chế độ nhà nước, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo
đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa là dân chủ xã hội chủ
nghĩa không phải là nền dân chủ của thiểu số và cho thiểu số bóc lột, có đặc quyền
4
đặc lợi và muốn có đặc quyền đặc lợi; ngược lại nó là nền dân chủ cho đa số và vì
đa số. Đây là đặc trưng thể hiện bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất giai cấp công nhân vừa có tính
nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc
Thứ hai: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên chế độ công
hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội, đáp ứng sự phát triển ngày
càng cao của lực lượng sản xuất, nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh
thần không ngừng tăng lên của toàn thể nhân dân lao động. Bởi thế nó kết hợp hài
hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn thể xã hội. Đặc trưng
này thể hiện rõ bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nó sẽ dần bộc lộ
ngày càng đầy đủ hơn trong quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ do đảng cộng sản lãnh
đạo. Chính sự lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản là nhân tố có ý nghĩa quyết
định đối với sự vận động và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi đảng
cộng sản đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, được trang bị lý luận khoa học và cách mạng là chủ nghĩa Mác - Lênin, là
người vạch ra đường lối, chính sách để phát triển đất nước, cũng như giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin cho đông đảo quần chúng nhân dân, nâng họ lên trình độ tự giác
tham gia vào quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm cho nền dân
chủ đó phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Với ý nghĩa
đó dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ nhất nguyên về chính trị. Đảm bảo sự
lãnh đạo của đảng cộng sản là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa - nhà nước của dân, do dân và vì dân - xây dựng trên cơ sở
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức do
đảng cộng sản lãnh đạo. Nhà nước có chức năng thể chế hóa đường lối của đảng về
các quyền tự do dân chủ của nhân dân thành hiến pháp, pháp luật và tổ chức thực
hiện chúng, dảm bảo mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
trước pháp luật.
Thứ năm: Giống như bất kỳ một nền dân chủ nào trước đây đều mang bản
chất giai cấp thống trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng mang bản chất giai cấp
nhưng là bản chất của giai cấp công nhân, có lợi ích thống nhất với lợi ích của
nhân dân lao động. Nền dân chủ này thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần
5
chúng nhân dân, nhưng đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số
giai cấp áp bức, bóc lột và phản động.
3. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Với những luận điểm khái quát về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã hội chủ
nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản vì:
Thứ nhất: Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin thì
động lực của quá trình phát triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là
dân chủ. Bởi vì, để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, cũng như
để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý và phát triển xã hội
đòi hỏi phải phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là phải làm cho quần
chúng nhân dân tham gia một cách thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi
công việc của nhà nước, của xã hội. Đúng như V. I. Lênin nói “Chủ nghĩa xã hội
không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống… chủ nghĩa xã hội
sinh động sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”1. Có như thế
dân chủ mới đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, và là điều kiện tiền đề thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là điều kiện cần thiết và tất yếu để mỗi công dân
được sống trong bầu không khí thực sự dân chủ.
Thứ hai: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình vận động và
thực hành dân chủ. Chính quá trình ấy đã biến dân chủ từ khả năng trở thành hiện
thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời đưa các giá trị, chuẩn mực,
nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng xã hội mới. Làm cho quá trình xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng thực hiện chuyển giao
quyền lực thực sự về cho nhân dân, để nhân dân trở thành người làm chủ và sáng
tạo ra xã hội mới.
Thứ ba: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình
thành và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội chỉ thực
sự thành công khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng. Bởi khi đó nhân
dân mới thực sự là chủ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và một nền dân chủ như
vậy mới bảo đảm cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội, cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản.
6
Thứ tư: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là quá trình thực hiện
dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, đồng thời cũng
vừa là quá trình chống lại những biểu hiên dân chủ cực đoan, vô chính phủ, lợi
dụng dân chủ để đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, ngăn ngừa mọi hành vi coi
thường kỷ cương, pháp luật. Đây cũng là khía cạnh quan trọng khẳng định tầm
quan trọng phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, sự tái hiện bức tranh về sự ra đời và phát triển của các chế độ dân
chủ cho ta thấy, dân chủ có quá trình phát triển của riêng nó, dân chủ manh nha
trong xã hội nguyên thủy, trở thành một chế độ chính trị trong xã hội nô lệ, trì trệ
thoái lui trong chế độ phong kiến, đạt bước tiến dài trong xã hội tư bản, nhưng
cũng chính ở đây nó bước tới giới hạn cuối cùng của các chế độ dân chủ do giai
cấp bóc lột nắm quyền lực chính trị. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bước ngoặt lớn
nhất trong lịch sử phát triển dân chủ bởi vì nó là nền dân chủ mà quyền lực thuộc
về nhân dân.
B. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XHCN
1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
Từ thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế, C. Mác đã
kết luận rằng, giai cấp công nhân không chỉ chiếm lấy và sử dụng bộ máy nhà
nước sẵn có để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Trái lại, muốn hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải dùng bạo lực để đạp tan bộ máy
quan liêu, ăn bám của giai cấp tư sản và thay thế vào đó bộ máy nhà nước kiểu mới
của giai cấp công nhân - nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì không có nhà nước
kiểu mới - nhà nước xã hội chủ nghĩa thì cũng không thể tiến hành thắng lợi nhiệm
vụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng và bảo vệ xã hội mới. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra
đời là kết quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, Đảng cộng sản thực
hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội; là tổ chức chính trị thuộc kiến trúc
thượng tầng được xây dựng lên từ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; là nhà nước
kiểu mới thay thế nhà nước tư sản; là hình thức chuyên chính vô sản trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Là một trong những tổ chức cơ bản của hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện và thực hiện quyền
lực của nhân dân. Chính vì vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền
lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của
7
nhân dân, được thể hiện qua hai chức năng chủ yếu của nó là thống trị giai cấp và
chức năng xã hội.
2. Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
* Đặc trưng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, bất kỳ nhà nước nào cũng có các
đặc trưng cơ bản là quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định; có hệ thống
các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên
trong xã hội; có hệ thống thuế để nuôi bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, do bản chất
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp công nhân, vừa có
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn
có những đặc trưng riêng của nó, thể hiện:
Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để đàn áp một giai
cấp nào đó, mà là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân lao động; nhưng vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó đối với nhà nước
vẫn được duy trì.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với
Nhà nước tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của
tất cả những người lao động, tức tuyệt đại đa số nhân dân; và chuyên chính, trấn áp
đối với thiểu số những kẻ bóc lột, những kẻ phản động đi ngược lại với lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực trấn áp, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn coi mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ bản
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các ông cho rằng, chức năng bạo lực trấn áp
không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo
lực, mà mặt cơ bản của nó là tổ chức và xây dựng toàn diện xã hội mới, xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;
là phương thức thể hiện và thực hiện dân chủ. Theo V. I. Lênin, con đường vận
động và phát triển của nó là ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân,
mở rộng dân chủ, nhằm lôi cuốn ngày càng đông đảo nhân dân tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội.
Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, "nhà nước
không còn nguyên nghĩa", là nhà nước "nửa nhà nước". Sau khi cơ sở kinh tế-xã
8
hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi, thì nhà nước cũng không còn, nhà nước "tự
tiêu vong". Đây cũng là đặc trưng cơ bản nỗi bật của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
* Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ chức có
hiệu quả công việc xây dựng xã hội mới, cả bằng việc sử dụng những công cụ bạo
lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội. Do đó, có
thể nói rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản đó là:
Thứ nhất, chức năng tổ chức, xây dựng, đây là chức năng cơ bản của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, đặc trưng cho bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chức năng tổ chức xây dựng chính là việc nhà nước sử dụng công cụ luật pháp và
các công cụ kinh tế, tổ chức để tập hợp lực lượng của xã hội nhằm sáng tạo ra xã
hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…Muốn thực hiện được chức
năng này và để xây dựng được mọi mặt của xã hội mới xã hội chủ nghĩa cần cải
tạo những dấu tích của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là công việc hết sức
phức tạp và khó khăn.
Thứ hai, chức năng bạo lực, trấn áp. Thực hiện chức năng này, nhà nước xã
hội chủ nghĩa sử dụng các công cụ như luật pháp và các công cụ bạo lực để đập tan
sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ
độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội. Chức năng bạo lực, trấn
áp là chức năng truyền thống vốn có của nhà nước, do đó bạo lực trấn áp cũng là
chức năng không thể thiếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chức năng này thể hiện
rõ nhất trong giai đoạn giành chình quyền của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai chức năng tổ chức, xây dựng và bạo lực, trấn áp có mối quan hệ biện
chứng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ giành chính quyền,
nhiệm vụ bạo lực, trấn áp phải đăt lên hàng đầu, còn trong thời kỳ xây dựng xã hội
mới xã hội chủ nghĩa thì chức năng xây dựng là chức năng cơ bản và quan trọng,
nó quyết định đến việc thực hiện thành công mục tiêu của công cuộc xây dựng xã
hội mới. Lênin khẳng định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tạo ra một
xã hội mới, đó là chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan trọng
hơn cả sự đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản. Tuy nhiên, ngay cả trong giai
đoạn hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội, kẻ thù ở mọi thời điểm, không từ bất kỳ
một thủ đoạn nào cả kể bạo lực nhằm phá hoại những thành quả của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, khôi phục lại trật tự tư bản chủ nghĩa của chúng vì thế, nhà
nước xã hội chủ nghĩa vẫn cần chú ý tới chức năng bạo lực, trấn áp.
9
Ví như nước Nga - XôViết dù giành được chính quyền vẫn phải tiến hành
bạo lực, trấn áp. Vì bọn bạch vệ cấu kết cùng 14 nước để quốc để phá hoại thành
qủa của cuộc cách mạng.
Trung Quốc: sự kiện Thiên an môn.
Việt Nam: Sự kiện Tây Nguyên năm 2004.
* Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Xuất phát từ hai chức năng trên nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm
vụ chính là:
Quản lý, xây dựng và phát triển kinh tế. Cải thiện và không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Quản lý văn hóa xã hội, xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa, thực hiện giáo dục đào tạo con người phát triển toàn
diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân…
Cụ thể: Trong lĩnh vực kinh tế: để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, nhà nước
vô sản phải nhanh chóng phát triển mạnh các lực lượng sản xuất, củng cố kỷ luật
lao động mới, nâng cao năng suất lao động được xem là nhiệm vụ cơ bản, hàng
đầu.
Trong lĩnh vực xã hội: phải xây dựng quan hệ xã hội mới, tạo ra những tổ
chức lao động mới có khả năng vận dụng những thành tựu mới nhất của khoa học
và kỹ thuật với sự tập hợp đông đảo những người lao động: cải tạo dần tầng lớp
tiểu sản xuất hàng hoá thông qua một công tác tổ chức lâu dài. Đề cập chức năng
tổ chức xây dựng của Nhà nước chuyên chính vô sản, V. I. Lênin dành sự chú ý đặc
biệt cho nhiệm vụ quản lý. Sau khi giành được chính quyền, theo V. I. Lênin, vũ
khí duy nhất mà nhờ đó giai cấp vô sản có thể chiến thắng giai cấp tư sản là quản
lý.
Trong nhiệm vụ quản lý toàn diện đời sống xã hội, V. I. Lênin xem quản lý
nhà nước trong thời kỳ chuyên chính vô sản thực chất là quản lý kinh tế. Nhìn nhận
nhiệm vụ này từ góc độ đấu tranh giai cấp, góc độ chính trị, V. I. Lênin quan niệm:
nhiệm vụ căn bản của mọi xã hội quá độ chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa là ở
chỗ giai cấp vô sản thống trị... phải chiến thắng giai cấp tư sản... tức là chúng ta
phải đạt được chiến thắng đó trong lĩnh vực tổ chức kinh tế quốc dân, tổ chức sản
xuất, trong lĩnh vực kiểm kê và kiểm soát có tính chất toàn dân. Ngoài ra, nhà nước
xã hội chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối nội và đối ngoại nhằm quản lý
mọi mặt của đời sống xã hội, tạo điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội hình
10
thành, phát triển, xây dựng quan hệ ngoại giao với các tổ chức, dân tộc, quốc gia
trên thế giới.
3. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ tình trạng người
bóc lột người, xoá bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu, xây dựng xã hội không còn áp bức
bóc lột, con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh. Để thực hiện mục
tiêu vĩ đại ấy của cách mạng, tất yếu phải trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, khó
khăn và phức tạp, đó chính là thời kỳ quá độ. Và theo C. Mác, "giữa xã hội tư bản
và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản" [C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.19, tr.47]
Tính tất yếu phải có nhà nước xã hội chủ nghĩa còn được luận giải bằng thực
tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1) Trong thời kỳ này, các giai cấp bóc lột tuy đã bị xóa bỏ về phương diện
chính trị, nhưng chưa bị xoá bỏ hoàn toàn về mặt giai cấp. Chúng hoạt động chống
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này khiến cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động cần phải nắm vững công cụ chuyên chính là Nhà nước xã hội
chủ nghĩa để trấn áp mọi sự phản kháng của các thế lực đi ngược lại lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động; bảo vệ thành quả của cách mạng; xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
2) Trong thời kỳ quá độ cũng còn các giai cấp, tầng lớp trung gian khác. Do
địa vị kinh tế-xã hội của mình, các giai cấp, tầng lớp này không thể tự mình đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đó giai cấp công nhân phải tuyên truyền, thuyết
phục, lôi cuốn họ đi theo mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở đây,
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là thiết chế cần thiết đảm bảo sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội, đảm bảo cho lực lượng xã hội to lớn
này thành lực lượng có tổ chức.
3) Để mở rộng dân chủ, chống lại mọi hành vi ngược lại những chuẩn mực
dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ của nhân dân, cũng đòi hỏi phải có một
thiết chế nhà nước phù hợp. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể chế hoá trong Hiến
pháp, pháp luật xã hội chủ nghĩa và được thực hiện bằng những thiết chế tương
ứng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa
11
tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quá trình dân
chủ hoá đời sống xã hội.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hôi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với ý nghĩa đó nhà nước xã
hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy, để đảm bảo thành công cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện
nhà nước xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình cách
mạng xã hội củ nghĩa.
Tóm tắt chương
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hội
là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử phát triển xã hội loài người
từ trước tới nay. Nó diễn ra toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong tiến trình cách mạng đó, việc xây dựng nền dân chủ, nhà nước và nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng riêng có của nó là một tất yếu khách
quan. Trong quá trình này nhiều vấn đề chính trị xã hội cũng cần được giải quyết
trên những nguyên tắc cơ bản của nó, trong đó phải kể đến vấn đề dân tộc và tôn
giáo. Có như thế chúng ta mới có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Một số nội dung cơ bản cần nắm trong chương
này gồm:
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, tiếp thu những tư
tưởng tiến bộ trước đây và từ thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã nêu ra một số quan niệm cơ bản về dân chủ: Dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân; Dân chủ là một phạm trù chính trị, dân chủ gắn với
một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền và mang bản chất của giai cấp thống
trị; dân chủ là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển của cá nhân và cộng đồng
trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức bất công, nô dịch và tiến tới tự do,
bình đẳng.
2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hay chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ
thống thiết chế (chính trị, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội) được xác lập và thực
thi trong xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền lực cai trị (quản lý, điều khiển, kiểm
soát … xã hội) thực sự thuộc về nhân dân.
12
3. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau: Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân
dân; là nền dân chủ được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu của toàn xã hội; Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ do đảng
cộng sản lãnh đạo; được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và là nền dân chủ mang bản chất giai cấp công nhân.
4. Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu vì dân chủ vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là quá trình vận động và thực hành dân
chủ, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản,
đồng thời cũng vừa là quá trình chống lại những biểu hiên dân chủ cực đoan, vô
chính phủ, lợi dụng dân chủ để đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, ngăn ngừa
mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật; là quy luật của sự hình thành và hoàn
thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
5. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, Đảng cộng sản
thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội; là tổ chức chính trị thuộc kiến
trúc thượng tầng được xây dựng lên từ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; là nhà
nước kiểu mới thay thế nhà nước tư sản; là hình thức chuyên chính vô sản trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
6. Đặc trưng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa: nhà nước xã hội chủ nghĩa là
công cụ thực hiện lợi ích cho tất cả những người lao động; là công cụ của chuyên
chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của tất cả những người lao động trấn áp đối với
thiểu số những kẻ bóc lột, phản động; là kiểu nhà nước mà chức năng cơ bản của
nó là tổ chức và xây dựng toàn diện xã hội mới; nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm
trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và là một kiểu nhà nước đặc biệt, "nhà nước
không còn nguyên nghĩa", là nhà nước "nửa nhà nước".
7. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản là chức năng bạo lực,
trấn áp và chức năng tổ chức, xây dựng. Hai chức năng tổ chức, xây dựng và bạo
lực, trấn áp có mối quan hệ biện chứng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trong đó chức năng tổ chức, xây dựng, đây là chức năng cơ bản của nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
8. Việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu vì trong thời kỳ
này, các giai cấp bóc lột tuy đã bị xóa bỏ về phương diện chính trị, nhưng chưa bị
xoá bỏ hoàn toàn về mặt giai cấp. Chúng hoạt động chống lại sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, vẫn còn các giai cấp, tầng lớp trung gian khác. Do địa
13
vị kinh tế xã hội của mình, các giai cấp, tầng lớp này không thể tự mình đi lên chủ
nghĩa xã hội cần có nhà nước dẫn dắt. Và để mở rộng dân chủ, chống lại mọi hành
vi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ của nhân
dân, cũng đòi hỏi phải có một thiết chế nhà nước phù hợp.
8.2. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 8.2.1. Khái niệm
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa 8.2.1.1. Khái niệm văn hóa và nền văn hóa * Văn hóa
Văn hóa là một thuật ngữ xuất hiện khá sớm trong lịch sử loài người. Nó mang
nhiều nghĩa khác nhau tùy vào thời gian và bối cảnh lịch sử. Khái niệm văn hóa có
một nội hàm hết sức phong phú, bởi vậy cho đến nay có khá nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ bao quát nhất, có thể định nghĩa
văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng
lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, nó biểu hiện trình
độ phát triển của xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Đây là khái niệm văn
hóa phản ánh khá đầy đủ những khía cạnh bản chất của văn hóa của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Theo định nghĩa này, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người
được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các
tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động
tinh thần của con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần có sự thống nhất chặt chẽ với nhau. Trong đó cơ sở vật chất đóng
vai trò quyết định sự phát triển của văn hóa tinh thần, còn văn hóa tinh thần cũng
có sự tác động trở lại với cơ sở vật chất ấy. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, trong điều kiện xã hội có giai cấp, thì nội dung của văn hóa cũng có tính
giai cấp. Từ đó có thể nói tới các khái niệm theo tính giai cấp đó, như khi nói: nền
văn hóa tư sản, nền văn hóa vô sản hay nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. * Nền văn
hóa Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được
hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử. Mọi
nền văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản
chất của giai cấp cầm quyền. Một nền văn hóa lành mạnh phải được xây dựng trên
một nền kinh tế lành mạnh, nơi mà có những nguyên tắc công bằng thực sự vì đời
sống của người lao động. Và ngược lại, một nền kinh tế không lành mạnh vẫn còn
bất bình đẳng và phân hóa sâu sắc thì không thể có một nền văn hóa lành mạnh
14
được. Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa thì chính trị là yếu tố quy định
khuynh hướng phát triển và tạo nên nội dung thức hệ của một nền văn hóa. 8.2.1.2.
Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Sự phát triển của văn hóa qua từng hình
thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao là sự phát triển toàn diện của con người và của
toàn xã hội. Văn hóa không chỉ đơn thuần phản ánh quá trình phát triển của con
người mà còn phản ánh trình độ làm chủ xã hội của con người. Lịch sử xã hội loài
người phát triển từ thấp đến cao, từ tổ chức xã hội đơn giản (cộng sản nguyên
thủy) đến xã hội hiện đại và tiến bộ (xã hội chủ nghĩa). Song song với quá trình
phát triển đó, con người dần dần tiến tới để nhận thức được những quy luật khách
quan của xã hội và tới chỗ sáng tạo ra lịch sử một cách tích cực và tự giác. Điều đó
chứng tỏ rằng, tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của xã hội loài người thì có
một nền văn hóa phù hợp với nó. Cùng với sự ra đời của xã hội tiến bộ - xã hội chủ
nghĩa, văn hóa của loài người cũng đạt tới trình độ hoàn thiện và tiến bộ hơn - đó
là văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được
xây dựng trên cơ sở hệ giá trị tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân (chủ
nghĩa Mác - Leenin) do Đảng cộng sản lãnh đạo; có sự kế thừa, tiếp thu chọn lọc
những tinh hoa văn hóa đã được con người sáng tạo trong lịch sử. Như vậy, nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có bản chất giai cấp khác căn bản so với
các nền văn hóa trước đây. và theo V.I.Lênin “nền văn hóa vô sản không phải bỗng
nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa
phát minh ra…Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những
kiến thức mà loài người tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội
của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”1 8.2.2. Đặc trưng của nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có những đực trưng cơ bản khác với
những nền văn hóa trước đây, thể hiện: Một là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa lấy hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt lõi, chủ đạo
quyết định phương hướng phát triển của nền văn hóa. Do vây, nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân. Hai là, nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, đó là nền
văn hóa được sáng tạo bởi nhân dân lao động và phục vụ lợi ích của nhân dân lao
động. Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển trên cơ sở kế
thừa, tiếp thu những giá trị của nền văn hóa nhân loại, đặt dưới sự lãnh đạo, quản
lý của giai cấp công nhân thông qua tổ chức tiên phong là đảng cộng sản. 8.2.3.
Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Trong tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu vì
những lý do sau: Thứ nhất, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng có
tính chất toàn diện, triệt để diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
15
trong đó có lĩnh vực văn hóa. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin mỗi phương
thức sản xuất sẽ sản sinh ra một phương thức sinh hoạt văn hóa tinh thần tương
ứng. Xây dựng phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa tất yếu phải xây dựng
phương thức sinh hoạt văn hóa tinh thần mới, đó là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại những tâm lý, ý
thức của xã hội cũ để lại, do đó xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu
để giải phóng nhân dân lao động khỏi ảnh hưởng tư tưởng và ý thức của xã hội cũ
lạc hậu, đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ
văn hóa. Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan
trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa cho quần chúng nhân dân lao động. Có
như thế nhân dân mới đích thực trở thành chủ nhân của đất nước, của xã hội. Thứ
tư, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan vì văn hóa
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội . 8.2.4.
Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa 8.2.4.1. Nội
dung xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việc xây dựng nền văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: Một là, nâng cao trình độ
dân trí, trình độ học vấn cho nhân dân, xây dựng đội ngũ trí thức của xã hội. Bởi vì
theo V.I.Lênin “chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân
quần chúng nhân dân”1 , quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần,
trí lực, tư tưởng… càng có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện, đó là những con người
có tinh thần và năng lực xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; là con người lao
động mới; là con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế trong
sáng; là con người có lối sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao. Ba là, Xây dựng
lối sống mới xã hội chủ nghĩa, một lối sông phù hợp với hệ giá trị văn hóa mới. Đó
là lối sống giữa người với người coi nhau như anh em, bạn bè, đồng chí, một người
vì mọi người, mọi người vì mỗi người, các hủ tục phản động bị xóa bỏ, mọi cá
nhân được bình đẳng và tự do phát triển, xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột bất công,
Một lối sống mà hệ tư tưởng của giai cấp công nhân giữ vai trò chủ đạo. Bốn là,
xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là gia đình tiến bộ, hôn nhân một
vợ, một chồng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, quan hệ giữa các thành viên là
quan hệ dân chủ, bình đẳng, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Gia đình được xây
dựng vững chắc trở thành tế bào lành mạnh của xã hội và là tổ ấm thực sự cho mỗi
cá nhân. 8.2.4.2. Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Để xây dựng
được nền văn hóa xã hội chủ nghĩa với những nội dung như trên, cần thực hiện một
số phương thức sau: Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội; làm cho hệ tư
16
tưởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân. Bởi “những tư tưởng thống trị của một
thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị”. Đây là phương
thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Thứ
hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với mọi hoạt động tư tưởng - văn hóa của toàn xã
hội. Đây là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Thứ ba, thực hiện phương thức kết
hợp giữa việc kế thừa đối với những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp
thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa không hình thành từ hư vô, trái lại nó được hình thành trên cơ sở kế thừa
những giá trị văn hóa của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Nó là phương thức
để xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phong phú và đa dạng. Thứ tư, sử
dụng mọi hình thức thích hợp để lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân dân
tham gia vào hoạt động văn hóa, bởi nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là
người hưởng thụ văn hóa. Hơn nữa, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân lao động.
17
| 1/17

Preview text:

CHƯƠNG 4 - DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ NHÀ NƯỚC XHCN
Chương này nhằm giúp sinh viên nhận thức đầy đủ và đúng bản chất của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung ở Việt Nam
nói riêng. Sinh viên có khả năng vận dụng lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và
nhà nước xã hội chủ nghĩa vào việc phân tích những vấn đề thực tiễn liên quan,
trước hết là trong công việc, nhiệm vụ của cá nhân. Giúp sinh viên khẳng định bản
chất tiến bộ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa; có thái
độ phê phán những quan điểm sai trái phủ nhận tính chất tiến bộ của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
1. DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ
1.2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
2. NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1. Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
2.2. Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa
3. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3.3. Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Tài liệu tham khảo
1. Hoàng Chí Bảo, Thái Ninh(1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, NXB Sự thật,Hà nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà nội
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011), NXB Sự thật, Hà nội. 1
4. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ( 2014), Giáo trình cao cáp lý
luận chính trị, tập 3 – Chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội
5.Đào Trí Úc (2015), Giáo trình Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội Nội dung chi tiết
A. DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quan niệm về dân chủ, nền dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
* Sơ lược lịch sử của vấn đề dân chủ:
Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người. Trong
lịch sử phát triển xã hội loài người thuật ngữ dân chủ đã xuất hiện từ rất sớm. Nó
bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại và được ghép lại bởi hai từ “Demos” có nghĩa là
“dân”, “dân chúng” và “Kratos” có nghĩa là “sức mạnh”, “quyền lực”. Như vậy
theo nghĩa gốc, dân chủ là “quyền lực hay sức mạnh thuộc về nhân dân”, coi nhân
dân là cội nguồn của quyền lực. Tuy nhiên, nội hàm khái niệm nhân dân ở từng
thời kỳ, từng chế độ xã hội khác nhau là khác nhau.
Dân chủ sơ khai: Theo Ph. Ăngghen trong giai đoạn cuối của xã hội cộng
sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của dân chủ mà Ph. Ăngghen gọi
đó là dân chủ nguyên thủy. Thực tiễn cho thấy, thời kỳ công xã nguyên thủy, trong
sinh hoạt cộng đồng, khi con người biết tổ chức thành xã hội, bắt đầu xuất hiện nhu
cầu về tổ chức. Cho nên trong xã hội mọi thành viên bên cạnh việc bình đẳng tham
gia vào các hoạt động xã hội, cũng cần phải cử ra người đứng đầu để điều hành các
công việc đồng thời phế bỏ người đứng đầu nếu không thực hiện đúng quy định
chung, tất cả những việc đó đều diễn ra thông qua đại hội nhân dân. Đây là hình
thức dân chủ sơ khai, chất phác của những tổ chức cộng đồng tự quản trong xã hội chưa có giai cấp.
Dân chủ chủ nô: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô lập ra nhà
nước để bảo vệ lợi ích giai cấp mình và giữ ổn định xã hội. Đó là nhà nước dân chủ
của chủ nô, thực hiện sự thống trị của thiểu số đối với đa số người lao động là nô
lệ. Giai cấp chủ nô chính thức sử dụng thuật ngữ “dân chủ” nghĩa là nhà nước dân
chủ chủ nô có “quyền lực của dân”. Nhưng “dân” lúc này theo quy định của pháp
luật gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và những người tự
do, còn đa phần nhân dân là nô lệ không được coi là dân trong xã hội. Xét về thực 2
chất quyền lực vẫn tập trung trong tay thiểu số người. Có thể nói nhà nước dân chủ
đầu tiên ra đời trong lịch sử là nhà nước dân chủ của chủ nô.
Dân chủ phong kiến: dân chủ theo nghĩa một chế độ đã hoàn toàn biến mất.
Mọi quyền lực đều thuộc về ông vua (quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều nằm
trong tay ông vua), người dân không có một chút quyền nào, kể cả quyền sở hữu.
Tuy nhiên, dân chủ vẫn còn tồn tại với tư cách là một giá trị văn hoá. Bởi hàng loạt
nô lệ được giải phóng, được coi là người. Người nông nô được hưởng một chút ít
quyền lợi sau khi đã nộp tô cho địa chủ.
Dân chủ tư sản: Nhà nước dân chủ tư sản ra đời, là một nấc thang trong sự
phát triển dân chủ. Nhân dân có quyền dân chủ hơn. Tuy nhiên, về thực chất vẫn
không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là của
thiểu số giai cấp bóc lột – giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản giương cao ngọn cờ dân
chủ nhưng thực tế quyền lực thực sự vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa: Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành
công đã làm xuất hiện nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động đã
giành lại được quyền lực thực sự của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành
nhà nước đầu tiên thực hiện quyền lực của nhân dân. Đây là nền dân chủ rộng rãi
nhất trong lịch sử, quyền lực hoàn toàn thuộc về tay nhân dân.
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
Tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trước đây và từ thực tiễn lịch sử ra đời, phát
triển của dân chủ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu ra một số quan niệm cơ bản về dân chủ:
Thứ nhất: Dân chủ với tư cách là quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ là
sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của con người phản ánh
những giá trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân chống
lại áp bức bóc lột, bất công.
Thứ hai: Với tư cách là một phạm trù chính trị, dân chủ gắn với một kiểu
nhà nước, một giai cấp cầm quyền và mang bản chất của giai cấp thống trị. Theo
nghĩa này, dân chủ sẽ mất đi khi xã hội không còn giai cấp và do đó, dân chủ cũng
là một phạm trù lịch sử.
Thứ ba: Với tư cách là một hệ giá trị, dân chủ phản ánh trình độ phát triển
của cá nhân và cộng đồng trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức bất
công, nô dịch và tiến tới tự do, bình đẳng. Theo nghĩa này thì dân chủ có giá trị 3
nhân văn rất lớn, nó sẽ tồn tại lâu dài trong xã hội, kể cả khi giai cấp và nhà nước mất đi. * Nền dân chủ
Khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ra đời, giai cấp và bất bình
đẳng xuất hiện, các hình thức xã hội tự quản không còn phù hợp. Xã hội cần đến
những tổ chức chính trị với những công cụ bạo lực có tính cưỡng chế để điều chỉnh
các hoạt động của xã hội. Trong điều kiện như vậy nhà nước ra đời và kể từ đó
quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật, dân chủ
được thể hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi: “chính thể dân
chủ” hay “nền dân chủ”.
Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính
chất của nhà nước; là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể
của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng pháp luật.
* Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ hay chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống thiết chế
(chính trị, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội) được xác lập và thực thi trong xã
hội theo mục tiêu thực hiện quyền lực cai trị (quản lý, điều khiển, kiểm soát … xã
hội) thực sự thuộc về nhân dân.
2. Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất hiện từ sau thắng lợi vĩ đại của Cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917. Nó ra đời trên cơ sở kế
thừa các giá trị dân chủ trước đó, nhất là kế thừa các giá trị của nền dân chủ tư sản.
Bởi trong bức tranh chung về tiến trình phát triển của lịch sử, chế độ tư bản là nấc
thang cận kề để từ đó bước lên nấc thang tiếp theo là chủ nghĩa xã hội và cuối cùng
là chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, dân chủ xã hội chủ nghĩa khác hẳn về chất so với dân chủ tư sản.
Sự hình thành dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về
chất của dân chủ, điều này thể hiện rõ ở các đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất: Với tư cách là một chế độ nhà nước, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo
đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa là dân chủ xã hội chủ
nghĩa không phải là nền dân chủ của thiểu số và cho thiểu số bóc lột, có đặc quyền 4
đặc lợi và muốn có đặc quyền đặc lợi; ngược lại nó là nền dân chủ cho đa số và vì
đa số. Đây là đặc trưng thể hiện bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất giai cấp công nhân vừa có tính
nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc
Thứ hai: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên chế độ công
hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội, đáp ứng sự phát triển ngày
càng cao của lực lượng sản xuất, nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh
thần không ngừng tăng lên của toàn thể nhân dân lao động. Bởi thế nó kết hợp hài
hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn thể xã hội. Đặc trưng
này thể hiện rõ bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nó sẽ dần bộc lộ
ngày càng đầy đủ hơn trong quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ do đảng cộng sản lãnh
đạo. Chính sự lãnh đạo toàn diện của đảng cộng sản là nhân tố có ý nghĩa quyết
định đối với sự vận động và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi đảng
cộng sản đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, được trang bị lý luận khoa học và cách mạng là chủ nghĩa Mác - Lênin, là
người vạch ra đường lối, chính sách để phát triển đất nước, cũng như giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin cho đông đảo quần chúng nhân dân, nâng họ lên trình độ tự giác
tham gia vào quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm cho nền dân
chủ đó phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Với ý nghĩa
đó dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ nhất nguyên về chính trị. Đảm bảo sự
lãnh đạo của đảng cộng sản là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư: Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa - nhà nước của dân, do dân và vì dân - xây dựng trên cơ sở
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức do
đảng cộng sản lãnh đạo. Nhà nước có chức năng thể chế hóa đường lối của đảng về
các quyền tự do dân chủ của nhân dân thành hiến pháp, pháp luật và tổ chức thực
hiện chúng, dảm bảo mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật.
Thứ năm: Giống như bất kỳ một nền dân chủ nào trước đây đều mang bản
chất giai cấp thống trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng mang bản chất giai cấp
nhưng là bản chất của giai cấp công nhân, có lợi ích thống nhất với lợi ích của
nhân dân lao động. Nền dân chủ này thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần 5
chúng nhân dân, nhưng đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số
giai cấp áp bức, bóc lột và phản động.
3. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Với những luận điểm khái quát về chủ nghĩa xã hội, về dân chủ xã hội chủ
nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản vì:
Thứ nhất: Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin thì
động lực của quá trình phát triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là
dân chủ. Bởi vì, để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, cũng như
để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý và phát triển xã hội
đòi hỏi phải phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là phải làm cho quần
chúng nhân dân tham gia một cách thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi
công việc của nhà nước, của xã hội. Đúng như V. I. Lênin nói “Chủ nghĩa xã hội
không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống… chủ nghĩa xã hội
sinh động sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”1. Có như thế
dân chủ mới đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, và là điều kiện tiền đề thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là điều kiện cần thiết và tất yếu để mỗi công dân
được sống trong bầu không khí thực sự dân chủ.
Thứ hai: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình vận động và
thực hành dân chủ. Chính quá trình ấy đã biến dân chủ từ khả năng trở thành hiện
thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời đưa các giá trị, chuẩn mực,
nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng xã hội mới. Làm cho quá trình xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng thực hiện chuyển giao
quyền lực thực sự về cho nhân dân, để nhân dân trở thành người làm chủ và sáng tạo ra xã hội mới.
Thứ ba: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình
thành và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội chỉ thực
sự thành công khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng. Bởi khi đó nhân
dân mới thực sự là chủ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và một nền dân chủ như
vậy mới bảo đảm cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội, cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. 6
Thứ tư: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là quá trình thực hiện
dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, đồng thời cũng
vừa là quá trình chống lại những biểu hiên dân chủ cực đoan, vô chính phủ, lợi
dụng dân chủ để đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, ngăn ngừa mọi hành vi coi
thường kỷ cương, pháp luật. Đây cũng là khía cạnh quan trọng khẳng định tầm
quan trọng phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, sự tái hiện bức tranh về sự ra đời và phát triển của các chế độ dân
chủ cho ta thấy, dân chủ có quá trình phát triển của riêng nó, dân chủ manh nha
trong xã hội nguyên thủy, trở thành một chế độ chính trị trong xã hội nô lệ, trì trệ
thoái lui trong chế độ phong kiến, đạt bước tiến dài trong xã hội tư bản, nhưng
cũng chính ở đây nó bước tới giới hạn cuối cùng của các chế độ dân chủ do giai
cấp bóc lột nắm quyền lực chính trị. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bước ngoặt lớn
nhất trong lịch sử phát triển dân chủ bởi vì nó là nền dân chủ mà quyền lực thuộc về nhân dân.
B. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XHCN
1. Khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa
Từ thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế, C. Mác đã
kết luận rằng, giai cấp công nhân không chỉ chiếm lấy và sử dụng bộ máy nhà
nước sẵn có để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Trái lại, muốn hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải dùng bạo lực để đạp tan bộ máy
quan liêu, ăn bám của giai cấp tư sản và thay thế vào đó bộ máy nhà nước kiểu mới
của giai cấp công nhân - nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì không có nhà nước
kiểu mới - nhà nước xã hội chủ nghĩa thì cũng không thể tiến hành thắng lợi nhiệm
vụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng và bảo vệ xã hội mới. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra
đời là kết quả đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, Đảng cộng sản thực
hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội; là tổ chức chính trị thuộc kiến trúc
thượng tầng được xây dựng lên từ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; là nhà nước
kiểu mới thay thế nhà nước tư sản; là hình thức chuyên chính vô sản trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Là một trong những tổ chức cơ bản của hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện và thực hiện quyền
lực của nhân dân. Chính vì vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền
lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của 7
nhân dân, được thể hiện qua hai chức năng chủ yếu của nó là thống trị giai cấp và chức năng xã hội.
2. Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa
* Đặc trưng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, bất kỳ nhà nước nào cũng có các
đặc trưng cơ bản là quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định; có hệ thống
các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên
trong xã hội; có hệ thống thuế để nuôi bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, do bản chất
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp công nhân, vừa có
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn
có những đặc trưng riêng của nó, thể hiện:
Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để đàn áp một giai
cấp nào đó, mà là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân lao động; nhưng vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó đối với nhà nước vẫn được duy trì.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với
Nhà nước tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của
tất cả những người lao động, tức tuyệt đại đa số nhân dân; và chuyên chính, trấn áp
đối với thiểu số những kẻ bóc lột, những kẻ phản động đi ngược lại với lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Ba là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực trấn áp, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn coi mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ bản
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các ông cho rằng, chức năng bạo lực trấn áp
không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo
lực, mà mặt cơ bản của nó là tổ chức và xây dựng toàn diện xã hội mới, xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;
là phương thức thể hiện và thực hiện dân chủ. Theo V. I. Lênin, con đường vận
động và phát triển của nó là ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân,
mở rộng dân chủ, nhằm lôi cuốn ngày càng đông đảo nhân dân tham gia quản lý
nhà nước, quản lý xã hội.
Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, "nhà nước
không còn nguyên nghĩa", là nhà nước "nửa nhà nước". Sau khi cơ sở kinh tế-xã 8
hội cho sự tồn tại của nhà nước mất đi, thì nhà nước cũng không còn, nhà nước "tự
tiêu vong". Đây cũng là đặc trưng cơ bản nỗi bật của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
* Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thực hiện cả bằng tổ chức có
hiệu quả công việc xây dựng xã hội mới, cả bằng việc sử dụng những công cụ bạo
lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội. Do đó, có
thể nói rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản đó là:
Thứ nhất, chức năng tổ chức, xây dựng, đây là chức năng cơ bản của nhà
nước xã hội chủ nghĩa, đặc trưng cho bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chức năng tổ chức xây dựng chính là việc nhà nước sử dụng công cụ luật pháp và
các công cụ kinh tế, tổ chức để tập hợp lực lượng của xã hội nhằm sáng tạo ra xã
hội mới về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…Muốn thực hiện được chức
năng này và để xây dựng được mọi mặt của xã hội mới xã hội chủ nghĩa cần cải
tạo những dấu tích của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là công việc hết sức phức tạp và khó khăn.
Thứ hai, chức năng bạo lực, trấn áp. Thực hiện chức năng này, nhà nước xã
hội chủ nghĩa sử dụng các công cụ như luật pháp và các công cụ bạo lực để đập tan
sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ
độc lập, chủ quyền của đất nước, giữ vững an ninh xã hội. Chức năng bạo lực, trấn
áp là chức năng truyền thống vốn có của nhà nước, do đó bạo lực trấn áp cũng là
chức năng không thể thiếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chức năng này thể hiện
rõ nhất trong giai đoạn giành chình quyền của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai chức năng tổ chức, xây dựng và bạo lực, trấn áp có mối quan hệ biện
chứng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ giành chính quyền,
nhiệm vụ bạo lực, trấn áp phải đăt lên hàng đầu, còn trong thời kỳ xây dựng xã hội
mới xã hội chủ nghĩa thì chức năng xây dựng là chức năng cơ bản và quan trọng,
nó quyết định đến việc thực hiện thành công mục tiêu của công cuộc xây dựng xã
hội mới. Lênin khẳng định, việc tích cực xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tạo ra một
xã hội mới, đó là chức năng quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, quan trọng
hơn cả sự đập tan sự phản kháng của giai cấp tư sản. Tuy nhiên, ngay cả trong giai
đoạn hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội, kẻ thù ở mọi thời điểm, không từ bất kỳ
một thủ đoạn nào cả kể bạo lực nhằm phá hoại những thành quả của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, khôi phục lại trật tự tư bản chủ nghĩa của chúng vì thế, nhà
nước xã hội chủ nghĩa vẫn cần chú ý tới chức năng bạo lực, trấn áp. 9
Ví như nước Nga - XôViết dù giành được chính quyền vẫn phải tiến hành
bạo lực, trấn áp. Vì bọn bạch vệ cấu kết cùng 14 nước để quốc để phá hoại thành
qủa của cuộc cách mạng.
Trung Quốc: sự kiện Thiên an môn.
Việt Nam: Sự kiện Tây Nguyên năm 2004.
* Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Xuất phát từ hai chức năng trên nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ chính là:
Quản lý, xây dựng và phát triển kinh tế. Cải thiện và không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Quản lý văn hóa xã hội, xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa, thực hiện giáo dục đào tạo con người phát triển toàn
diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân…
Cụ thể: Trong lĩnh vực kinh tế: để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, nhà nước
vô sản phải nhanh chóng phát triển mạnh các lực lượng sản xuất, củng cố kỷ luật
lao động mới, nâng cao năng suất lao động được xem là nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu.
Trong lĩnh vực xã hội: phải xây dựng quan hệ xã hội mới, tạo ra những tổ
chức lao động mới có khả năng vận dụng những thành tựu mới nhất của khoa học
và kỹ thuật với sự tập hợp đông đảo những người lao động: cải tạo dần tầng lớp
tiểu sản xuất hàng hoá thông qua một công tác tổ chức lâu dài. Đề cập chức năng
tổ chức xây dựng của Nhà nước chuyên chính vô sản, V. I. Lênin dành sự chú ý đặc
biệt cho nhiệm vụ quản lý. Sau khi giành được chính quyền, theo V. I. Lênin, vũ
khí duy nhất mà nhờ đó giai cấp vô sản có thể chiến thắng giai cấp tư sản là quản lý.
Trong nhiệm vụ quản lý toàn diện đời sống xã hội, V. I. Lênin xem quản lý
nhà nước trong thời kỳ chuyên chính vô sản thực chất là quản lý kinh tế. Nhìn nhận
nhiệm vụ này từ góc độ đấu tranh giai cấp, góc độ chính trị, V. I. Lênin quan niệm:
nhiệm vụ căn bản của mọi xã hội quá độ chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa là ở
chỗ giai cấp vô sản thống trị... phải chiến thắng giai cấp tư sản... tức là chúng ta
phải đạt được chiến thắng đó trong lĩnh vực tổ chức kinh tế quốc dân, tổ chức sản
xuất, trong lĩnh vực kiểm kê và kiểm soát có tính chất toàn dân. Ngoài ra, nhà nước
xã hội chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối nội và đối ngoại nhằm quản lý
mọi mặt của đời sống xã hội, tạo điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội hình 10
thành, phát triển, xây dựng quan hệ ngoại giao với các tổ chức, dân tộc, quốc gia trên thế giới.
3. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ tình trạng người
bóc lột người, xoá bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu, xây dựng xã hội không còn áp bức
bóc lột, con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh. Để thực hiện mục
tiêu vĩ đại ấy của cách mạng, tất yếu phải trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, khó
khăn và phức tạp, đó chính là thời kỳ quá độ. Và theo C. Mác, "giữa xã hội tư bản
và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang
xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản" [C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.47]
Tính tất yếu phải có nhà nước xã hội chủ nghĩa còn được luận giải bằng thực
tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1) Trong thời kỳ này, các giai cấp bóc lột tuy đã bị xóa bỏ về phương diện
chính trị, nhưng chưa bị xoá bỏ hoàn toàn về mặt giai cấp. Chúng hoạt động chống
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này khiến cho giai cấp công nhân và
nhân dân lao động cần phải nắm vững công cụ chuyên chính là Nhà nước xã hội
chủ nghĩa để trấn áp mọi sự phản kháng của các thế lực đi ngược lại lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động; bảo vệ thành quả của cách mạng; xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
2) Trong thời kỳ quá độ cũng còn các giai cấp, tầng lớp trung gian khác. Do
địa vị kinh tế-xã hội của mình, các giai cấp, tầng lớp này không thể tự mình đi lên
chủ nghĩa xã hội. Trước thực tế đó giai cấp công nhân phải tuyên truyền, thuyết
phục, lôi cuốn họ đi theo mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở đây,
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là thiết chế cần thiết đảm bảo sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội, đảm bảo cho lực lượng xã hội to lớn
này thành lực lượng có tổ chức.
3) Để mở rộng dân chủ, chống lại mọi hành vi ngược lại những chuẩn mực
dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ của nhân dân, cũng đòi hỏi phải có một
thiết chế nhà nước phù hợp. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể chế hoá trong Hiến
pháp, pháp luật xã hội chủ nghĩa và được thực hiện bằng những thiết chế tương
ứng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa 11
tất yếu gắn liền với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quá trình dân
chủ hoá đời sống xã hội.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hôi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với ý nghĩa đó nhà nước xã
hội chủ nghĩa là phương thức, phương tiện, là một công cụ chủ yếu của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy, để đảm bảo thành công cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện
nhà nước xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tiến trình cách mạng xã hội củ nghĩa. Tóm tắt chương
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hội
là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử phát triển xã hội loài người
từ trước tới nay. Nó diễn ra toàn diện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong tiến trình cách mạng đó, việc xây dựng nền dân chủ, nhà nước và nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng riêng có của nó là một tất yếu khách
quan. Trong quá trình này nhiều vấn đề chính trị xã hội cũng cần được giải quyết
trên những nguyên tắc cơ bản của nó, trong đó phải kể đến vấn đề dân tộc và tôn
giáo. Có như thế chúng ta mới có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Một số nội dung cơ bản cần nắm trong chương này gồm:
1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, tiếp thu những tư
tưởng tiến bộ trước đây và từ thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của dân chủ, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã nêu ra một số quan niệm cơ bản về dân chủ: Dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân; Dân chủ là một phạm trù chính trị, dân chủ gắn với
một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền và mang bản chất của giai cấp thống
trị; dân chủ là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển của cá nhân và cộng đồng
trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức bất công, nô dịch và tiến tới tự do, bình đẳng.
2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hay chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ
thống thiết chế (chính trị, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội) được xác lập và thực
thi trong xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền lực cai trị (quản lý, điều khiển, kiểm
soát … xã hội) thực sự thuộc về nhân dân. 12
3. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau: Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân
dân; là nền dân chủ được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu của toàn xã hội; Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ do đảng
cộng sản lãnh đạo; được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và là nền dân chủ mang bản chất giai cấp công nhân.
4. Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu vì dân chủ vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là quá trình vận động và thực hành dân
chủ, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản,
đồng thời cũng vừa là quá trình chống lại những biểu hiên dân chủ cực đoan, vô
chính phủ, lợi dụng dân chủ để đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, ngăn ngừa
mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật; là quy luật của sự hình thành và hoàn
thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
5. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, Đảng cộng sản
thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội; là tổ chức chính trị thuộc kiến
trúc thượng tầng được xây dựng lên từ cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội; là nhà
nước kiểu mới thay thế nhà nước tư sản; là hình thức chuyên chính vô sản trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
6. Đặc trưng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa: nhà nước xã hội chủ nghĩa là
công cụ thực hiện lợi ích cho tất cả những người lao động; là công cụ của chuyên
chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của tất cả những người lao động trấn áp đối với
thiểu số những kẻ bóc lột, phản động; là kiểu nhà nước mà chức năng cơ bản của
nó là tổ chức và xây dựng toàn diện xã hội mới; nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm
trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và là một kiểu nhà nước đặc biệt, "nhà nước
không còn nguyên nghĩa", là nhà nước "nửa nhà nước".
7. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng cơ bản là chức năng bạo lực,
trấn áp và chức năng tổ chức, xây dựng. Hai chức năng tổ chức, xây dựng và bạo
lực, trấn áp có mối quan hệ biện chứng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trong đó chức năng tổ chức, xây dựng, đây là chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
8. Việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu vì trong thời kỳ
này, các giai cấp bóc lột tuy đã bị xóa bỏ về phương diện chính trị, nhưng chưa bị
xoá bỏ hoàn toàn về mặt giai cấp. Chúng hoạt động chống lại sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, vẫn còn các giai cấp, tầng lớp trung gian khác. Do địa 13
vị kinh tế xã hội của mình, các giai cấp, tầng lớp này không thể tự mình đi lên chủ
nghĩa xã hội cần có nhà nước dẫn dắt. Và để mở rộng dân chủ, chống lại mọi hành
vi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những giá trị dân chủ của nhân
dân, cũng đòi hỏi phải có một thiết chế nhà nước phù hợp.
8.2. XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 8.2.1. Khái niệm
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa 8.2.1.1. Khái niệm văn hóa và nền văn hóa * Văn hóa
Văn hóa là một thuật ngữ xuất hiện khá sớm trong lịch sử loài người. Nó mang
nhiều nghĩa khác nhau tùy vào thời gian và bối cảnh lịch sử. Khái niệm văn hóa có
một nội hàm hết sức phong phú, bởi vậy cho đến nay có khá nhiều định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ bao quát nhất, có thể định nghĩa
văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng
lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, nó biểu hiện trình
độ phát triển của xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Đây là khái niệm văn
hóa phản ánh khá đầy đủ những khía cạnh bản chất của văn hóa của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Theo định nghĩa này, văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người
được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các
tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động
tinh thần của con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định văn hóa vật chất và
văn hóa tinh thần có sự thống nhất chặt chẽ với nhau. Trong đó cơ sở vật chất đóng
vai trò quyết định sự phát triển của văn hóa tinh thần, còn văn hóa tinh thần cũng
có sự tác động trở lại với cơ sở vật chất ấy. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, trong điều kiện xã hội có giai cấp, thì nội dung của văn hóa cũng có tính
giai cấp. Từ đó có thể nói tới các khái niệm theo tính giai cấp đó, như khi nói: nền
văn hóa tư sản, nền văn hóa vô sản hay nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. * Nền văn
hóa Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được
hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử. Mọi
nền văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản
chất của giai cấp cầm quyền. Một nền văn hóa lành mạnh phải được xây dựng trên
một nền kinh tế lành mạnh, nơi mà có những nguyên tắc công bằng thực sự vì đời
sống của người lao động. Và ngược lại, một nền kinh tế không lành mạnh vẫn còn
bất bình đẳng và phân hóa sâu sắc thì không thể có một nền văn hóa lành mạnh 14
được. Nếu kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa thì chính trị là yếu tố quy định
khuynh hướng phát triển và tạo nên nội dung thức hệ của một nền văn hóa. 8.2.1.2.
Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Sự phát triển của văn hóa qua từng hình
thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao là sự phát triển toàn diện của con người và của
toàn xã hội. Văn hóa không chỉ đơn thuần phản ánh quá trình phát triển của con
người mà còn phản ánh trình độ làm chủ xã hội của con người. Lịch sử xã hội loài
người phát triển từ thấp đến cao, từ tổ chức xã hội đơn giản (cộng sản nguyên
thủy) đến xã hội hiện đại và tiến bộ (xã hội chủ nghĩa). Song song với quá trình
phát triển đó, con người dần dần tiến tới để nhận thức được những quy luật khách
quan của xã hội và tới chỗ sáng tạo ra lịch sử một cách tích cực và tự giác. Điều đó
chứng tỏ rằng, tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của xã hội loài người thì có
một nền văn hóa phù hợp với nó. Cùng với sự ra đời của xã hội tiến bộ - xã hội chủ
nghĩa, văn hóa của loài người cũng đạt tới trình độ hoàn thiện và tiến bộ hơn - đó
là văn hóa xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được
xây dựng trên cơ sở hệ giá trị tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân (chủ
nghĩa Mác - Leenin) do Đảng cộng sản lãnh đạo; có sự kế thừa, tiếp thu chọn lọc
những tinh hoa văn hóa đã được con người sáng tạo trong lịch sử. Như vậy, nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có bản chất giai cấp khác căn bản so với
các nền văn hóa trước đây. và theo V.I.Lênin “nền văn hóa vô sản không phải bỗng
nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa
phát minh ra…Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những
kiến thức mà loài người tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội
của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”1 8.2.2. Đặc trưng của nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có những đực trưng cơ bản khác với
những nền văn hóa trước đây, thể hiện: Một là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa lấy hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt lõi, chủ đạo
quyết định phương hướng phát triển của nền văn hóa. Do vây, nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân. Hai là, nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc, đó là nền
văn hóa được sáng tạo bởi nhân dân lao động và phục vụ lợi ích của nhân dân lao
động. Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển trên cơ sở kế
thừa, tiếp thu những giá trị của nền văn hóa nhân loại, đặt dưới sự lãnh đạo, quản
lý của giai cấp công nhân thông qua tổ chức tiên phong là đảng cộng sản. 8.2.3.
Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Trong tiến trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu vì
những lý do sau: Thứ nhất, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng có
tính chất toàn diện, triệt để diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, 15
trong đó có lĩnh vực văn hóa. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin mỗi phương
thức sản xuất sẽ sản sinh ra một phương thức sinh hoạt văn hóa tinh thần tương
ứng. Xây dựng phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa tất yếu phải xây dựng
phương thức sinh hoạt văn hóa tinh thần mới, đó là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, trong qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại những tâm lý, ý
thức của xã hội cũ để lại, do đó xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu
để giải phóng nhân dân lao động khỏi ảnh hưởng tư tưởng và ý thức của xã hội cũ
lạc hậu, đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ
văn hóa. Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan
trong quá trình nâng cao trình độ văn hóa cho quần chúng nhân dân lao động. Có
như thế nhân dân mới đích thực trở thành chủ nhân của đất nước, của xã hội. Thứ
tư, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan vì văn hóa
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội . 8.2.4.
Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa 8.2.4.1. Nội
dung xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việc xây dựng nền văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: Một là, nâng cao trình độ
dân trí, trình độ học vấn cho nhân dân, xây dựng đội ngũ trí thức của xã hội. Bởi vì
theo V.I.Lênin “chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân
quần chúng nhân dân”1 , quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần,
trí lực, tư tưởng… càng có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Hai là, xây dựng con người mới phát triển toàn diện, đó là những con người
có tinh thần và năng lực xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; là con người lao
động mới; là con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế trong
sáng; là con người có lối sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao. Ba là, Xây dựng
lối sống mới xã hội chủ nghĩa, một lối sông phù hợp với hệ giá trị văn hóa mới. Đó
là lối sống giữa người với người coi nhau như anh em, bạn bè, đồng chí, một người
vì mọi người, mọi người vì mỗi người, các hủ tục phản động bị xóa bỏ, mọi cá
nhân được bình đẳng và tự do phát triển, xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột bất công,
Một lối sống mà hệ tư tưởng của giai cấp công nhân giữ vai trò chủ đạo. Bốn là,
xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là gia đình tiến bộ, hôn nhân một
vợ, một chồng trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, quan hệ giữa các thành viên là
quan hệ dân chủ, bình đẳng, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Gia đình được xây
dựng vững chắc trở thành tế bào lành mạnh của xã hội và là tổ ấm thực sự cho mỗi
cá nhân. 8.2.4.2. Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Để xây dựng
được nền văn hóa xã hội chủ nghĩa với những nội dung như trên, cần thực hiện một
số phương thức sau: Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội; làm cho hệ tư 16
tưởng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân. Bởi “những tư tưởng thống trị của một
thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị”. Đây là phương
thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Thứ
hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý của
nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với mọi hoạt động tư tưởng - văn hóa của toàn xã
hội. Đây là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Thứ ba, thực hiện phương thức kết
hợp giữa việc kế thừa đối với những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp
thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa không hình thành từ hư vô, trái lại nó được hình thành trên cơ sở kế thừa
những giá trị văn hóa của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Nó là phương thức
để xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phong phú và đa dạng. Thứ tư, sử
dụng mọi hình thức thích hợp để lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân dân
tham gia vào hoạt động văn hóa, bởi nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là
người hưởng thụ văn hóa. Hơn nữa, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự
nghiệp của quần chúng nhân dân lao động. 17