Tóm tắt câu hỏi vấn đáp - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Tóm tắt câu hỏi vấn đáp - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
LLQHQT
1. Vô chính phủ là gì? Nêu lập luận về vô chính phủ của chủ nghĩa hiện thực.
Tình trạng vô chính phủ là một hệ thống niềm tin phản đối quyền lực của chính phủ,
ủng hộ sự tự quản hoặc cơ chế đồng thuận cộng đồng. Thuật ngữ này đã trở thành từ
đồng nghĩa với hỗn loạn và sự sụp đổ của trật tự dân sự.
Thuật ngữ này bắt nguồn từ một từ Hy Lạp có nghĩa là "không có người cai trị"
Hiểu rõ hơn về tình trạng vô chính phủ
Tình trạng vô chính phủ được chia thành hành hai trường phái tư tưởng riêng biệt.
Một trường phái bác bỏ tất cả các cơ quan chính phủ, ủng hộ niềm tin vào quyền tự do
của cá nhân và quyền tự quản.
Trường phái khác bác bỏ quyền lực của chính phủ, ủng hộ niềm tin vào chủ nghĩa tập
thể,hoặc tính ưu việt của nhóm so với cá nhân.
Các phê phán phổ biến về tình trạng vô chính phủ là nó dẫn đến tình trạng vô luật
pháp vàhỗn loạn. Dù vậy, các tín đồ của triết lí này cho rằng các xã hội vẫn có thể tồn
tại nguyên vẹn và thậm chí phát triển mạnh nếu không bị cai trị bởi các hệ thống phân cấp truyền thống.
=> Tình trạng thiếu vắng một siêu chính phủ đứng trên các quốc gia trong quan hệ
quốc tế được gọi là tình trạng vô chính phủ. VÔ CHÍNH PHỦ CỦA CNHT
-CNHT cổ điển và CNHT cấu trúc/ tân hiện thực đều dự đoán rằng trong một hệ
thống quốc tế VCP có gây ra xung đột, nhưng vẫn có sự bất đồng về cách thức VCP sẽ gây ra xung đột
-Trong khi những người theo chủ nghĩa hiện thực cổ điển cho rằng tính không thể
tránh khỏi của chiến tranh trong 1 hệ thống VCP là do xu hướng phá hoại của bản
chất con người, thì những người theo chủ nghĩa hiện thực cấu trúc lại cho rằng điều
này chẳng liên quan gì đến lý do tại sao các quốc gia tham gia vào cuộc tranh giành
quyền lực. Thay vào đó, CNHT cấu trúc tập trung vào cấu trúc của xã hội quốc tế để
giải thích tại sao các quốc gia lại hành xử theo xu hướng xung đột đó
-Trong khi CNHT cổ điển cho rằng chiến tranh là tất yếu, những người theo CNHT
cấu trúc cho rằng: mặc dù không có sự hài hòa tự động trong tình trạng VCP nhưng
có thể tạo ra cảm giác trật tự trong tình trạng VCP thông qua sự cân bằng quyền lực.
- -Đối với những người theo CNHT cấu trúc, không chỉ các quốc gia là tác nhân có
liên quan trong chính trị quốc tế mà còn là các quốc gia cường quốc có vai trò
quantrọng đối với sự cân bằng quyền lực trong hệ thống quốc tế. Có ý kiến cho rằng
tỷ lệ quyền lực giữa các cường quốc ảnh hường đến triển vọng hòa bình, chứng tỏ
rằng cấu trúc của hệ thống quốc tế về đơn cực, lưỡng cực hoặc đa cực và bất kì sự
thay đổi quyền lực nào dẫn đến có thể làm tăng hoặc giảm khả năng xảy ra xung đột
quốc tế. Trong trường hợp này, CNHT cấu trúc cho rằng VCP vẫn là nguyên nhân dễ
gây chiến tranh, tuy nhiên các yếu tố của VCP có thể được khắc phục bằngcách cấu
trúc cán cân quyền lực theo cách làm giảm nguy cơ xung đột.
2. Tại sao A. Wendt lại cho rằng “Vô chính phủ là những gì các quốc gia tạo nên”?
3. Nêu đặc tính của chủ thể quốc gia theo thuyết hiện thực.
Giả định đầu tiên của chủ nghĩa hiện thực là quốc gia-dân tộc (thường được viết tắt là
'nhànước') là chủ thể chính trong quan hệ quốc tế. Các cơ quan khác tồn tại, chẳng
hạn như cánhân và tổ chức, nhưng quyền lực của họ bị hạn chế. Theo chủ nghĩa hiện
thực, các quốc gia tồn tại trong một hệ thống quốc tế vô chính phủ, trong đó họ cuối
cùng phụ thuộc vào khả năng hoặc sức mạnh của chính mình để thúc đẩy lợi ích quốc
gia của họ. Lợi ích quốcgia quan trọng nhất là sự tồn vong của quốc gia, bao gồm cả
người dân, hệ thống chính trị và toàn vẹn lãnh thổ. Các lợi ích chính khác của những
người theo chủ nghĩa hiện thực bao gồm việc bảo tồn nền văn hóa và nền kinh tế của
một quốc gia. Những người theo chủ nghĩa hiện thực cho rằng, chừng nào thế giới còn
bị chia cắt thành các quốc gia-dân tộc trong một bối cảnh vô chính phủ, lợi ích quốc
gia sẽ vẫn là bản chất của chính trị quốctế.Waltz quan niệm : các quốc gia như những
chủ thể hợp lý đơn nhất tồn tại trong một hệ thống “tự lực” (nghĩa là một hệ thống mà
mỗi quốc gia phải tự bảo vệ mình).
4.Nêu luận điểm của thuyết hiện thực tấn công về “bá quyền”.
Khác với chủ nghĩa hiện thực cổ điển nhấn mạnh cấp độ phân tích cá nhân, chủ nghĩa
tân hiện thực nhấn mạnh cấp độ phân tích hệ thống quốc tế khi phân tích nguyên nhân
các quốc gia tìm cách theo đuổi quyền lực. Theo đó, các nhà tân hiện thực cho rằng
trong mộthệ thống vô chính phủ, sự phân bổ quyền lực tương đối giữa các quốc gia
trong hệ thống chính là yếu tố then chốt đối với an ninh của mỗi quốc gia. Vì thế các
quốc gia tìm cách nâng cao quyền lực, vì càng có nhiều quyền lực thì vị trí của nước
đó trong hệ thống thế giới càng cao và an ninh của quốc gia đó càng được đảm bảo.
Trong chủ nghĩa tân hiện thực, câu hỏi về giới hạn mục tiêu theo đuổi quyền lực được
trả lời khác nhau.Trường phái “hiện thực tấn công” (offensive realism)cho rằng quyền
lực không có giới hạn và các quốc gia cần đạt được càng nhiều quyền lực càng tốt
nhằm đảm bảo an ninh và chiếm thế áp đảo so với các quốc gia khác trong hệ thống.
John Mearsheimer là đại diện nổi tiếng nhất của trường phái này. Theo Mearsheimer,
quốc gia chỉ có thể đảm bảo an ninh và lợi ích một cách hiệu quả nhất nếu trở thành
nước mạnh nhất trong hệ thống quốc tế hay khu vực. Ông sử dụng khái niệm “bá
quyền khu vực” để diễn tả lập luận này.
Theo cách nhìn trên, thì với sức mạnh đang lên, không một quốc gia náo chấp nhận
làm một cường quốc nguyên trạng (status quo power) mà sẽ cố gắng thay đổi trật tự
quốc tế hiện hữu để trở thành bá quyền trong khu vực. Quan điểm này khiến
Mearsheimer thành một lý thuyết gia đại diện cho trường phái bi quan về sự trỗi dậy
của các cường quốc, đặc biệt là với trường hợp sự trỗi dậy của Trung Quốc.
5. Nêu lập luận của chủ nghĩa hiện thực về cân bằng quyền lực. Hệ thống quốc tế
hiện nay có tồn tại cân bằng quyền lực không? Tại sao? a. Lập luận
Lý thuyết cân bằng quyền lực là một nguyên lý cốt lõi của cả lý thuyết cổ điển và
tânhiện thực và tìm cách giải thích sự hình thành liên minh. Do ý tưởng của chủ nghĩa
hiệnthực mới về chủ nghĩa vô chính phủ là kết quả của hệ thống quốc tế, các quốc gia
phảiđảm bảo sự tồn tại của mình thông qua việc duy trì hoặc gia tăng quyền lực của
mình trong một thế giới tự lực. Không có thẩm quyền nào ở trên quốc gia để giải cứu
nótrong trường hợp bị một bá chủ tấn công , các quốc gia cố gắng ngăn chặn một bá
quyềntiềm năng phát sinh bằng cách cân bằng chống lại nó. Theo Kenneth Waltz ,
người sánglập chủ nghĩa hiện thực mới, "chính trị cân bằng quyền lực chiếm ưu thế ở
bất cứ nơi nàocó hai, và chỉ có hai yêu cầu được đáp ứng: đó là trật tự vô chính phủ và
trật tự đó đượctạo ra bởi các đơn vị mong muốn tồn tại". Họ có thể làm điều này
thông qua "cân bằngnội bộ" , khi một quốc gia sử dụng các nỗ lực bên trong như tăng
cường năng lực kinh tế,phát triển các chiến lược thông minh và tăng cường sức mạnh
quân sự, hoặc thông qua"cân bằng bên ngoài", xảy ra khi các quốc gia thực hiện các
biện pháp bên ngoài để tăngcường an ninh của họ bằng cách thành lập các đồng minh.
Các quốc gia hài lòng với vịtrí của họ trong hệ thống được gọi là các quốc gia
"nguyên trạng", trong khi những quốcgia tìm cách thay đổi cán cân quyền lực theo
hướng có lợi cho họ thường được gọi là "cácquốc gia theo chủ nghĩa xét lại" và khao
khát quyền bá chủ, do đó sửa chữa sự cân bằng.Những người theo chủ nghĩa hiện thực
khẳng định rằng sự cân bằng là khi các quốc gialiên minh chống lại mối đe dọa đang
thịnh hành và dẫn đến một thế giới an toàn hơn trongkhi trong một thế giới đi theo
nhóm, an ninh trở nên khan hiếm do các bá quyền đang trỗidậy không bị kiểm soát.
[71] Với hoạt động đoàn kết, quốc gia bị đe dọa từ bỏ hy vọngngăn chặn kẻ xâm lược
giành lấy quyền lực bằng cái giá phải trả của mình và thay vào đógia nhập lực lượng
với kẻ thù nguy hiểm của mình để giành được ít nhất một phần nhỏ chiến lợi phẩm.
Chủ nghĩa hiện thực phòng thủ
Những người theo chủ nghĩa hiện thực phòng thủ nhấn mạnh rằng nếu bất kỳ quốc gia
nào trở nên quá hùng mạnh, thì sự cân bằng sẽ xảy ra khi các cường quốc khác xây
dựng lực lượng của họ và hình thành một liên minh cân bằng. Vì kết quả là tình thế
tiến thoái lưỡng nan về an ninh này sẽ khiến bá quyền tham vọng trở nên kém an toàn
hơn, những người theo chủ nghĩa hiện thực phòng thủ cho rằng lợi ích của một quốc
gia là duy trì hiện trạng hơn là tối đa hóa sức mạnh của mình.
Chủ nghĩa hiện thực tấn công
Những người theo chủ nghĩa hiện thực tấn công chấp nhận rằng các quốc gia bị đe
dọa thường cân bằng với những kẻ thù nguy hiểm, tuy nhiên, họ cho rằng sự cân bằng
thường không hiệu quả và sự kém hiệu quả này tạo cơ hội cho kẻ xâm lược thông
minh lợi dụng đối thủ của mình. Vượt qua Buck , thay vì tham gia một liên minh cân
bằng, là một chiến thuật tấn công khác mà các nhà hiện thực chỉ ra khi tranh luận về
lý thuyết cân bằng quyền lực. Những người theo chủ nghĩa hiện thực tấn công tin rằng
các biện pháp cân bằng nội bộ như tăng chi tiêu quốc phòng, thực hiện nghĩa vụ quân
sự, chỉ có hiệu quả ở một mức độ nhất định vì thường có những giới hạn đáng kể về
số lượng nguồn lực bổ sung mà một quốc gia bị đe dọa có thể tập hợp để chống lại kẻ
xâm lược.Tuy nhiên, vì những người theo chủ nghĩa hiện thực tấn công đưa ra giả
thuyết rằng các quốc gia luôn tìm cách tối đa hóa sức mạnh của mình, nên các quốc
gia "luôn tham gia hiệu quả vào việc cân bằng nội bộ"
b. Hệ thống quốc tế hiện nay có tồn tại cân bằng quyền lực không? Vì sao? Trong hệ
thống quốc tế hiện nay vẫn tồn tại cân bằng quyền lực. Vì (về mặt lý thuyết) không
quốc gia nào được phép trở nên quá hùng mạnh trong hệ thống quốc tế. Nếu một quốc
gia cố gắng vận may và phát triển quá mức, như Đức Quốc xã vào những năm
1930,thì nó sẽ gây ra chiến tranh vì các quốc gia khác sẽ thành lập một liên minh để
cố gắng đánh bại nó – tức là khôi phục lại sự cân bằng. Hệ thống cân bằng quyền lực
này là một trong những lý do khiến quan hệ quốc tế trở nên vô chính phủ. Không một
quốc gia đơn lẻ nào có thể trở thành một cường quốc toàn cầu và thống nhất thế giới
dưới sự cai trị trựctiếp của nó. những người theo chủ nghĩa hiện thực mô tả sự cân
bằng quyền lực là một chiến lược thận trọng để quản lý một thế giới không an toàn,
những người chỉ trích coi đó là một cách hợp pháp hóa chiến tranh và xâm lược.
6. Nêu lập luận của chủ nghĩa tự do về phụ thuộc lẫn nhau
Sự phụ thuộc lẫn nhau là tình trạng của mối quan hệ giữa hai bên mà trong đó thiệt
hạicủa việc cắt đứt quan hệ hay giảm bớt các trao đổi là tương đương nhau đối với
mỗi bên.Còn theo Joseph Nye, sự phụ thuộc lẫn nhau đề cập đến tình trạng mà trong
đó các tácnhân hay sự kiện trong các bộ phận khác nhau của hệ thống ảnh hưởng đến nhau.
Khái niệm “phụ thuộc lẫn nhau” bắt đầu được nghiên cứu từ đầu những năm 1970
khixuất hiện ba thay đổi quan trọng trong quan hệ quốc tế. Thứ nhất, các quốc gia
ngày càngtrở nên phụ thuộc lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực vấn đề, từ thương mại tới an ninh.
Sự phụ thuộc lẫn nhau thường được phân tích trong mối quan hệ với toàn cầu hóa.
Toàncầu hóa và sự phụ thuộc kinh tế đã gia tăng nhanh chóng khi các quốc gia theo
đuổi cácchính sách khá tự do về thương mại, đầu tư, và di cư trong thế kỷ 19. Toàn
cầu hóa đôikhi được định nghĩa là sự phụ thuộc diễn ra ở cấp độ toàn cầu. Cuộc cách
mạng thông tincàng làm cho mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau của toàn cầu hóa giữa các
quốc gia ngày càngphức tạp thêm. Sự gia tăng gần đây trong cuộc phản kháng chống
lại toàn cầu hóa, mộtphần, là những phản ứng trước những thay đổi do sự phụ thuộc kinh tế mang tới.
Về tác động của sự phụ thuộc lẫn nhau, những người theo chủ nghĩa tự do có những
quanđiểm sau:Những nhà tự do cho rằng sự phụ thuộc kinh tế sẽ dẫn đến hòa bình và
thịnh vượng. Traođổi thương mại gia tăng sẽ mang lại nhiều lợi nhuận, khiến họ
không muốn tiến hànhchiến tranh và xâm chiếm lẫn nhau. Hay nói cách khác, lợi ích
của thương mại sẽ lớn hơn lợi ích mà các quốc gia thu được qua chiến tranh và xâm
chiến lãnh thổ. Chính vì vậy sựphụ thuộc lẫn nhau sẽ nuôi dưỡng hòa bình.
Quan điểm thứ hai của những nhà tự do về sự phụ thuộc kinh tế là sự phụ thuộc kinh
tếgiúp gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau. Như Bruce Russet giải thích: “khi một người
tham giavào thương mại quốc tế họ có thể tiếp cận nhiều thông tin và ý tưởng mà
không thể cóđược từ các nguồn khác”. Do đó thương mại và sự phụ thuộc lẫn nhau
làm gia tăng hiểubiết lẫn nhau, giảm các hiểu lầm – vốn là một trong những nguyên nhân của chiến tranh.
Quan điểm thứ ba của những nhà tự do gắn sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế với hòa
bìnhthông qua cơ cấu trong nước. Lập luận này cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau làm
thay đổinhững sắp xếp trong nước của một quốc gia, làm gia tăng ảnh hưởng của
những nhóm cólợi ích trong các mối quan hệ thương mại hòa bình. Cụ thể là thương
mại tự do chuyểncán cân quyền lực từ giai cấp cầm quyền truyền thống – được cho là
chú ý vào việc tìmkiếm vinh quang và những hành động hiếu chiến, sang giai cấp
thương mại – vốn quantâm đến việc tạo ra của cải hơn là tìm kiếm vinh quang quân
sự. Quan điểm này có nguồngốc từ Jean – Baptiste Say (1767-1832), một nhà kinh tế
học người Pháp. Say cho rằngthương mại sẽ dẫn đến ảnh hưởng ngày càng gia tăng
của giai cấp trung lưu vốn hướngđến việc tạo ra của cải hơn là tiến hành chiến
tranh.với sự gia tăng toàn cầu hóa cũng như sự vắng bóng các cuộc chiến tranh giữa
các cườngquốc kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, có thể thấy rằng dường như
quan điểm củachủ nghĩa tự do đang thắng thế. Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia
tăng sẽ tiếp tục làmột đặc điểm quan trọng và một xu thế định hình tương lai của nền
chính trị quốc tế đương đại.
7. Nêu nguyên nhân hình thành, tác dụng của tổ chức quốc tế trong quan hệ
quốc tế theo thuyết tự do ? a. Nguyên nhân hình thành
Chủ nghĩa tự do nhấn mạnh vai trò của các thể chế và thể chế quốc tế trong việc tạo
điềukiện thuận lợi cho sự hợp tác giữa các quốc gia. b. Tác dụng
Lý do chính tại sao các tổ chức quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác là họ cung
cấpthông tin, giúp giảm các vấn đề hành động tập thể giữa các quốc gia trong việc
cung cấphàng hóa công cộng và thực thi tuân thủ. Cuốn sách năm 1984 của Robert
Keohane AfterHegemony đã sử dụng những hiểu biết sâu sắc từ kinh tế học thể chế
mới để lập luận rằnghệ thống quốc tế có thể duy trì ổn định trong trường hợp không
có bá quyền, do đó bác bỏlý thuyết ổn định bá quyền. Keohane cho thấy rằng hợp tác
quốc tế có thể được duy trìthông qua các tương tác lặp đi lặp lại, tính minh bạch và giám sát.
8. Tại sao Mearsheimer lại cho rằng các thể chế quốc tế chỉ là lời hứa hão? A/c
có đồng ý với quan điểm của Mearsheimer?
Tác giả bắt đầu điều tra tuyên bố rằng các thể chế, chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu
vàTổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, đẩy các quốc gia ra khỏi xung đột và thúc
đẩyhòa bình (Mearsheimer, 1995). Để đạt được mục tiêu này, tác giả so sánh và đối
chiếucả trường phái tư tưởng hiện thực và trường phái thể chế, như sau:
1. Những người theo chủ nghĩa hiện thực lập luận rằng các thể chế không thể ảnh
hưởngrõ rệt đến triển vọng hòa bình và ổn định quốc tế không chỉ vì chúng thiếu tác
động độc lập đối với hành vi của các quốc gia, mà về cơ bản chúng phản ánh sự phân
bổ quyền lực trên thế giới và dựa trên các mô hình tư lợi của các cường quốc. (Mearsheimer, 1995).
Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa Thể chế thừa nhận rằng các thể chế là những
thựcthể độc lập có khả năng đưa các quốc gia thoát khỏi chiến tranh và xung đột
không chỉ bằng cách thay đổi khuynh hướng của họ và do đó thay đổi hành vi của nhà
nước, mà còn bằng cách ngăn cản các quốc gia mưu đồ hành vi tư lợi trên cơ sở mọi
di chuyển ảnh hưởng đến vị trí quyền lực tương đối của họ (Mearsheimer, 1995).
2. Tác giả tin rằng chủ nghĩa thể chế không có chỗ đứng trong bối cảnh chính trị hiện
đại, và trên thực tế nó đã được các quốc gia thống trị ở phương Tây sử dụng trong Kỷ
nguyên Chiến tranh Lạnh để đàn áp các quốc gia khác hoặc để đạt được lợi thế tương đối.
3. Tác giả mua ý tưởng của những người theo chủ nghĩa hiện thực rằng các quốc gia
có rất ít lý do để tin tưởng lẫn nhau và cạnh tranh quốc tế đang ở trạng thái cạnh
tranhan ninh không ngừng (Mearsheimer, 1995). Do đó, các thể chế quốc tế không thể
tuyên bố có ảnh hưởng trong việc duy trì hòa bình và ổn định thế giới.
4. Để nhấn mạnh quan điểm của mình, tác giả lập luận rằng các quốc gia đương đại
vận hành theo cả mô hình định hướng tấn công và định hướng phòng thủ, phù hợp với
trường phái tư tưởng hiện thực.
5. Ông gợi ý rằng các quốc gia đương đại không chỉ tìm kiếm cơ hội để lợi dụng lẫn
nhau mà còn hoạt động để đảm bảo rằng các quốc gia khác không lợi dụng họ, phù
hợp với quan điểm hiện thực (Mearsheimer, 1995).
6. Để cung cấp bằng chứng, ông lập luận rằng các quốc gia đương thời được thúc đẩy
chủ yếu bởi mối quan tâm về lợi ích tương đối khi xem xét tham gia hợp tác với các
quốc gia khác (Mearsheimer, 1995).
Ngoài ra, tác giả gợi ý rằng các quốc gia hiện đại thường do dự trong việc theo đuổi
các thỏa thuận hợp tác với các quốc gia khác do lo sợ rằng các quốc gia khác sẽ gian
lận trongthỏa thuận hợp đồng nhằm tăng lợi thế cạnh tranh tương đối của họ (Mearsheimer, 1995).
Do đó, ông cho rằng các quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới xây dựng và thiết kế
các thể chế, không phải để duy trì hòa bình và ổn định thế giới mà để duy trì sự phân
bổ quyền lực thế giới của họ, hoặc thậm chí tăng cường nó (Mearsheimer, 1995).
Theo tôi, những khẳng định này bị ảnh hưởng bởi dòng tư tưởng hiện thực.
7. Tác giả chọc thủng khẳng định của những người theo chủ nghĩa thể chế tự do rằng
các thể chế là nguyên nhân quan trọng của hòa bình và ổn định bằng cách gợi ý rằng
rất khó để kết nối hợp tác và ổn định. Ông lập luận rằng khẳng định này không thể
đúng vì nhữngngười theo chủ nghĩa thể chế tự do từ chối thừa nhận thực tế rằng mối
quan tâm về lợi ích tương đối là trở ngại chính cho sự hợp tác giữa các quốc gia (Mearsheimer, 1995)
8. Để kết luận, tác giả lập luận rằng chủ nghĩa thể chế tự do không hề tạo ra nền tảng
vững chắc để hiểu các quan hệ quốc tế, chứ không đề cập đến việc các thể chế không
thúcđẩy sự ổn định và quyền lực thế giới như những người theo chủ nghĩa thể chế tự
do đề xuất (Mearsheimer, 1995).
9. Từ phân tích có phê phán của mình về quan điểm của những người theo chủ nghĩa
hiện thực và những người theo chủ nghĩa thể chế, tác giả nhận thấy rằng các thể chế
có ảnh hưởng không đáng kể đến hành vi của nhà nước, và do đó ít đảm bảo cho việc
tăng cườnghòa bình và ổn định trong xã hội đương đại.
9. Phân tích các khái niệm quyền lực cứng, quyền lực mềm, sức mạnh thông minh
1. Quyền lực cứng, quyền lực mềm
Các định nghĩa về quyền lực đều thống nhất rằng quyền lực hàm chứa năng lực của
mộtchủ thể nhằm thay đổi hành vi của các chủ thể khác trong quan hệ quyền lực.
Trong quanhệ quyền lực, có ba cách cơ bản để tác động tới hành vi của người khác để
có được kếtquả một chủ thể mong muốn: đó là ép buộc họ bằng sự đe dọa (bạo lực...),
dụ dỗ họ bằnglợi ích (vật chất, danh vọng,...), thu hút, hấp dẫn họ (bằng sức hấp dẫn,
các giá trị, tưtưởng,...). Hai cách trước thường được biết đến như dùng quyền lực
cứng, cách thứ ba làcách dùng quyền lực mềm.
Quyền lực cứng (hard power) là quyền lực có được dựa trên sức mạnh quân sự và
kinhtế. Thomas Schelling đã chỉ ra hai nguồn chính của quyền lực cứng là sự đe dọa
và dụ dỗ,và hai nguồn này có liên hệ rất gần gũi với nhau.
Quyền lực mềm (soft power) là quyền lực được thực hiện thông qua
sự hấp dẫn (attraction) và thuyết phục (persuation). Những tư tưởng cơ bản của
"Quyền lựcmềm" - coi sự hấp dẫn là một loại quyền lực -xuất hiện trong tư tưởng
kinh tế - chính trịphương Đông cổ đại. Nhưng quyền lực mềm chỉ thực sự phát triển
thành một lý thuyếthiện đại vào cuối thế kỷ XX với những nghiên cứu của Joseph
Nye và Lukes. Khái niệmnày, sau đó, được Joseph Nye nghiên cứu và phát triển thành
một học thuyết. Joseph Nyecho rằng quyền lực mềm là khả năng đoạt lấy thứ mình
muốn thông qua sự hấp dẫn thayvì ép buộc. Về bản chất, quyền lực mềm là khả năng
tạo ra ảnh hưởng với người khácbằng cách tác động tới hệ thống giá trị của người
khác, làm thay đổi cách suy nghĩ củangười khác, và qua đó khiến người khác mong
muốn chính điều mà mình mong muốn.
Quyền lực cứng và quyền lực mềm có liên hệ với nhau. Chúng là hai khía cạnh thể
hiệnkhả năng giành được mục tiêu của một người bằng việc tác động lên hành vi của
nhữngngười khác. Quyền lực cứng rất quan trọng nhưng nó không thể giải quyết được
mọi vấnđề. Quyền lực cứng là sự tác động từ bên ngoài đến các đối tượng của quyền
lực, vì vậychi phí để sử dụng và duy trì quyền lực cứng thường cao và tiềm ẩn nguy
cơ chống đối.Quyền lực chỉ thực sự hiệu quả khi nó có được tính chính đáng. Quyền
lực mềm nằm ở lẽphải và sự thuyết phục, nó tác động đến các đối tượng của quyền
lực, làm cho sự thay đổinhận thức và hành vi diễn ra từ bên trong. Sự thuyết phục để
tạo ra lòng tin, sự tin tưởng,được coi là tạo nên tính chính đáng. Vì vậy, quyền lực
cứng và quyền lực mềm có tácđộng và có khả năng củng cố lẫn nhau. Quyền lực cứng
là “hậu phương”, là một trongnhững cơ sở để phát huy quyền lực mềm. Quyền lực
mềm hấp dẫn khi chúng bắt nguồn từthành công về vật chất, những thứ do quyền lực cứng mang lại.
Quyền lực mềm là sự bồi đắp cho những khiếm khuyết của quyền lực cứng chứ
khôngphải là sự phản chiếu hay mặt đối lập của quyền lực cứng. Trong nhiều trường
hợp, chỉ sửdụng quyền lực mềm là không đủ mà cần phải có sự kết hợp giữa quyền
lực mềm vàquyền lực cứng. Nói cách khác, quyền lực mềm là khả năng tự nâng cao
tố chất để hấpdẫn và thuyết phục người khác, từ đó đạt được điều mình cần. Do đó,
tính hiệu lực củaquyền lực mềm không thể được đo lường chính xác. Trong rất nhiều
trường hợp, quyềnlực cứng không được trực tiếp sử dụng, nhưng nó là hậu phương để
quyền lực mềm đượcthực thi hoặc làm tăng sức thuyết phục và hiệu quả của quyền
lực mềm. Các nhà lãnh đạo hay thậm chí các cá nhân cũng đều sử dụng cả hai loại
quyền lực này tuỳ theo thời điểmvà hoàn cảnh. Khả năng kết hợp giữa “quyền lực
mềm” và “quyền lực cứng” được gọi là“quyền lực thông minh” (smart power), một
hình thức sử dụng quyền lực quan trọng ngàycàng có ý nghĩa và ảnh hưởng trong thế giới hiện đại.
Mặc dù quyền lực mềm ban đầu được nói tới trong quan hệ giữa các quốc gia, nhưng
chủthể của quyền lực mềm hiện nay không chỉ là các quốc gia mà là tất cả các chủ thể
trongquan hệ quốc tế, chẳng hạn như các NGO, các thể chế quốc tế, các chủ thể khác
trong các mối quan hệ quyền lực trong một quốc gia, trong các tổ chức và giữa các cá
nhân. Quyềnlực mềm thể hiện trong các mối quan hệ giữa các nước, giữa người lãnh
đạo và nhân viên,giữa những người cầm quyền và nhân dân, giữa các thành viên của
một tổ chức, giữa cáctổ chức với nhau... Quyền lực mềm được sử dụng rộng rãi cả
trong quan hệ đối ngoại và đối nội, cho dù cách gọi tên có khác nhau.
Trong đối nội của các quốc gia, các nhà điều hành thông minh đều biết rằng việc lãnh
đạokhông chỉ là ra lệnh, mà nó còn liên quan đến việc lãnh đạo bằng cách làm gương
và thuhút những người khác làm những điều mình muốn. Việc điều hành một tổ chức
hay các cánhân hiệu quả không phải lúc nào cũng bằng việc ra lệnh hoặc đe dọa.
Quyền lực của mộtnhà lãnh đạo sẽ lớn hơn nếu người đó có thể làm cho những người
khác chia sẻ và đónggóp vào hệ giá trị của mình. Điều này được thực hiện dần dần,
kết hợp với những điều không nhìn thấy được, chẳng hạn như tính cách, các giá trị, sự
định hướng và một tầmnhìn được xem là hợp lý và có đạo đức.
Trong một nền dân chủ, sự cưỡng bức không bao giờ là một lựa chọn ưu tiên.Với ưu
thếtạo ra sự đồng thuận, huy động được vốn xã hội với chi phí ít nhất và đặc biệt là
huy độngđược sự tham gia tự nguyện lớn nhất, các mục tiêu như thúc đẩy dân chủ
trong một quốcgia sẽ dễ đạt được hơn thông qua quyền lực mềm và trong đa số các
trường hợp, hiệu quảhơn khi sử dụng được quyền lực thông minh. 2. Quyền lực thông minh
Trước hết phải khẳng định rằng quyền lực thông minh không phải là một loại quyền
lựcthứ ba. Quyền lực thông minh là sự kết hợp hay pha trộn giữa quyền lực mềm và
quyềnlực cứng. Đó là khả năng xác định bối cảnh, lợi dụng các xu hướng và sử dụng
hợp lýquyền lực cứng và quyền lực mềm để đạt được hiệu quả cao nhất. Nó được coi
là phù hợphơn với các nền dân chủ, nơi mà sự tham gia có tính tự giác được đặt lên
hàng đầu và mọisự cưỡng bức đều bị coi là phá vỡ các nguyên tắc dân chủ.
Sử dụng quyền lực thông minh là một vấn đề rất khó, nó đòi hỏi cùng lúc phải có
mộtquyền lực cứng đủ mạnh để cưỡng chế hoặc thể hiện năng lực cưỡng chế khi cần
thiết vàsự nhạy cảm chính trị, sự sáng tạo và linh hoạt của người cầm quyền.
Quyền lực thông minh phù hợp với nền dân chủ. Việc sử dụng quyền lực thông minh
làđặc trưng của nền dân chủ. Thứ nhất, nó thể hiện được sự tôn trọng các quyền con
người,quyền cá nhân,những yếu tố quan trọng nhất trong nền dân chủ, vì vậy, nó dễ
được chấpnhận hơn và tạo được hiệu ứng tâm lý tích cực hơn. Thứ hai, nhà nước cũng
phải thể hiện có đủ năng lực và nguồn lực để phục vụ nền dân chủ và đồng thời có đủ
nguồn lực để duytrì các giá trị cơ bản, duy trì trật tự xã hội và mở ra một tầm nhìn cho sự phát triển chung.
Việc sử dụng quyền lực thông minh sẽ đem lại hiệu quả cao nhất, huy động được sự
đồngthuận và vốn xã hội.
Cơ chế phản hồi trong sử dụng quyền lực thông minh linh hoạt hơn. Cơ chế phản hồi
này giúp cho chính quyền củng cố được cả quyền lực cứng và quyền lực mềm của
mình theohướng phù hợp hơn với yêu cầu thực tế và nguyện vọng của người dân.
Việc xây dựng vàcủng cố quyền lực cứng và quyền lực mềm của cả chính quyền và
người dân sẽ hoànthiện dần các kỹ năng dân chủ, từ đó giúp cho việc phân tích các
tình huống chính trịchính xác hơn và chất lượng của dân chủ được nâng cao hơn.
Với một cơ chế phản hồi hiệu quả và thiết thực, sử dụng quyền lực thông minh là
mộtphương thức để cân bằng giữa tính hiệu quả trong hoạt động của nhà nước và sự tham giacủa người dân.
Một quốc gia muốn có được quyền lực thông minh trong nền dân chủ thì bên cạnh sự
hấpdẫn về chính sách và pháp luật, nền hành chính tinh gọn, hiệu quả và sự minh
bạch tronghoạt động của chính quyền, cần có đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ, có
trách nhiệm vàđạo đức, biết và dám chịu trách nhiệm trước công dân. Việc sử dụng
quyền lực thôngminh dựa rất nhiều vào năng lực và uy tín, sức hấp dẫn của cá nhân
người lãnh đạo, và vìsức hút của các cá nhân chỉ kéo dài chừng nào nó nhận được sự
thừa nhận và có thể làmthoả mãn những người đi theo, nên đào tạo đội ngũ cán bộ
lãnh đạo là cả một quá trìnhliên tục. Bên cạnh đó, người lãnh đạo phải đánh giá được
hoàn cảnh, biết được khi nào sửdụng quyền lực cứng và khi nào sử dụng quyền lực
mềm để đạt được các mục tiêu mộtcách hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất. Sự hiệu
quả của các chính sách và nền hànhchính trong thực tiễn, sự ổn định của xã hội là
những yếu tố tạo nên uy tín và sức lôi cuốncho quyền lực lãnh đạo.
Trong sử dụng quyền lực thông minh, sự cưỡng chế cũng là một công cụ được tính
đến đểtạo ra một hậu phương vững chắc cho việc thực thi quyền lực mềm. Mặc dù sự
cưỡng chếkhông phải là một ưu tiên trong nền dân chủ, nhưng nó là cần thiết để duy
trì trật tự xã hộivà giữ ổn định các giá trị cơ bản, bao quát, được cả xã hội thừa nhận.
Quyền lực cứng, quyền lực mềm hay quyền lực thông minh là những điều được vận
dụnghàng ngày trong đời sống, dù có đặt tên cho nó hay không. Điều quan trọng là
nhận thứcđược trong hoàn cảnh và thời điểm nào sử dụng quyền lực loại nào là hợp
lý. Và còn quantrọng hơn nữa là nhận thức đúng ý nghĩa của từng loại quyền lực,
quan tâm củng cố cácloại quyền lực một cách hợp lý, tạo ra được sức mạnh tối đa của
một quốc gia. Các loạiquyền lực này đều tồn tại trong nền dân chủ, và việc nhận thức
và kiểm soát được cácquyền lực này sẽ làm cho dân chủ đạt tới một chất lượng cao hơn.
10. Phân biệt các kiểu vô chính phủ theo thuyết kiến tạo của Wendt
Vô chính phủ Hobbes:
Đặc trưng bởi sự thù địch và xung đột.
Các quốc gia xem nhau là kẻ thù (enemies).
Môi trường quốc tế được xem là một cuộc chiến tồn tại, nơi các quốc gia luôn
trong tình trạng đối đầu và sẵn sàng sử dụng bạo lực để bảo vệ mình.
Các quốc gia có xu hướng tăng cường sức mạnh quân sự và theo đuổi chính sách an ninh nghiêm ngặt. Vô chính phủ Locke:
Đặc trưng bởi sự cạnh tranh nhưng không mang tính thù địch.
Các quốc gia xem nhau là đối thủ (rivals).
Mặc dù vẫn tồn tại cạnh tranh và xung đột, các quốc gia nhận thức được lợi ích
của hợp tác và thường tìm cách giải quyết xung đột thông qua thương lượng và các biện pháp hoà bình.
Các quốc gia tôn trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và tìm kiếm sự cân bằng quyền lực. Vô chính phủ Kant:
Đặc trưng bởi sự hợp tác và thân thiện.
Các quốc gia xem nhau là bạn bè (friends).
Môi trường quốc tế được xem là một cộng đồng chung, nơi các quốc gia sẵn sàng
hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau để đạt được lợi ích chung.
Các quốc gia xây dựng các thể chế quốc tế và thực hiện các chính sách nhằm thúc
đẩy hoà bình và an ninh tập thể.
Wendt nhấn mạnh rằng các kiểu vô chính phủ này không phải là bất biến mà có thể
thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào cách các quốc gia tương tác và xây dựng các
quan hệ quốc tế của mình. Các quốc gia có thể chuyển từ một kiểu vô chính phủ này
sang một kiểu khác thông qua các quá trình xã hội hóa, đàm phán và hợp tác.
11. Các lý thuyết đưa ra giả định gì về bản chất con người?
1. Realism (Chủ nghĩa hiện thực):
Giả định về bản chất con người: Con người được coi là ích kỷ, tự bảo vệ, và có xu
hướng tìm kiếm quyền lực và an ninh cho bản thân và quốc gia của mình.
Ví dụ: Lý thuyết tự ái của Machiavelli và Hobbes giả định rằng con người tự nhiên là
ích kỷ và độc lập, và quốc gia cũng phản ánh các phẩm chất này.
2. Liberalism (Chủ nghĩa tự do):
Giả định về bản chất con người: Con người được coi là có khả năng hợp tác, hình
thành liên kết xã hội và tìm kiếm sự công bằng và tự do.
Ví dụ: Lý thuyết hợp tác xã hội cho rằng con người có khả năng hợp tác và tìm kiếm
sự phát triển và hòa bình thông qua các hình thức hợp tác quốc tế.
3. Constructivism (Chủ nghĩa kiến tạo):
Giả định về bản chất con người: Con người được coi là xã hội hóa và được định hình
bởi các giá trị, niềm tin và quan điểm xã hội.
Ví dụ: Lý thuyết kiến tạo cho rằng con người không chỉ làm động lực cho hành động
quốc tế, mà cũng là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội và văn hóa.
4. Marxism (Chủ nghĩa Marx):
Giả định về bản chất con người: Con người được coi là bị xã hội hóa bởi các điều kiện
vật chất và giai cấp xã hội, và hành động của họ phản ánh lợi ích của giai cấp mà họ thuộc về.
Ví dụ: Lý thuyết Marx về quốc tế cho rằng hành động quốc tế của các quốc gia được
xác định bởi mục tiêu của lớp cai trị và mục tiêu phản kháng của giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Tóm lại:
Các lý thuyết quan hệ quốc tế đưa ra các giả định khác nhau về bản chất con người, từ
ích kỷ đến hợp tác và xã hội hóa.
Cách mà các lý thuyết này hiểu về bản chất con người ảnh hưởng đến cách mà họ giải
thích hành động và quan hệ quốc tế.
12. Các lý thuyết đưa ra giả định gì về chủ thể của QHQT? Chủ thể nào là quan trọng hơn trong CTQT
1. Realism (Chủ nghĩa hiện thực):
Giả định về chủ thể: Trong chủ nghĩa hiện thực, chủ thể chính là các quốc gia hoặc
các đại diện của quốc gia, và hành động của họ được xác định bởi việc tăng cường
quyền lực và bảo vệ lợi ích quốc gia.
Quan trọng hơn: Trong chủ nghĩa hiện thực, quốc gia được coi là chủ thể quan trọng
nhất, và các hành động của họ nhằm tăng cường quyền lực và bảo vệ lợi ích của mình.
2. Liberalism (Chủ nghĩa tự do):
Giả định về chủ thể: Trong chủ nghĩa tự do, chủ thể không chỉ giới hạn ở quốc gia mà
còn bao gồm các tổ chức quốc tế, các nhóm dân sự và các cá nhân. Họ coi chủ thể
không chỉ là quốc gia mà còn là các tập thể và cá nhân trong xã hội quốc tế.
Quan trọng hơn: Trong chủ nghĩa tự do, các tổ chức quốc tế và các nhóm dân sự cũng
được coi là chủ thể quan trọng. Họ coi hợp tác và quyết định chung của các chủ thể
này là cần thiết để đạt được mục tiêu chung như phát triển kinh tế, bảo vệ nhân quyền và duy trì hòa bình.
3. Constructivism (Chủ nghĩa kiến tạo):
Giả định về chủ thể: Trong chủ nghĩa kiến tạo, chủ thể không chỉ được hiểu như là
các quốc gia hay các tổ chức quốc tế mà còn là những ý nghĩa, giá trị và nhận thức
được tạo ra và duy trì bởi các toàn thể xã hội quốc tế.
Quan trọng hơn: Trong chủ nghĩa kiến tạo, ý nghĩa và giá trị của các chủ thể không
chỉ được xác định bởi quyền lực và quyền lợi mà còn bởi sự tương tác xã hội và quan hệ giữa chúng.
Quan trọng hơn trong quan hệ quốc tế:
Mặc dù mỗi lý thuyết đều có quan điểm riêng về chủ thể, không có lý thuyết nào có
thể mô tả hoàn toàn và đầy đủ về một môi trường quốc tế phức tạp. Trong thực tế, các
chủ thể đều đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, và tùy thuộc vào ngữ cảnh
và cách tiếp cận mà mỗi lý thuyết đề xuất, một chủ thể có thể trở nên quan trọng hơn
so với những chủ thể khác trong một ngữ cảnh cụ thể.
13. Khái niệm: bản sắc chung và cộng đồng an ninh của thuyết kiến tạo?
1. Bản sắc chung (Shared Identity) Khái niệm:
Bản sắc chung là một tập hợp các giá trị, niềm tin và chuẩn mực mà một nhóm các
quốc gia hoặc các chủ thể quốc tế chia sẻ. Nó phản ánh cách mà các quốc gia nhìn
nhận về chính mình và về nhau, cũng như cách họ hiểu và xác định lợi ích của mình. Nội hàm:
Nhận thức và tương tác: Bản sắc chung được hình thành thông qua quá trình
tương tác liên tục giữa các quốc gia. Qua những tương tác này, các quốc gia phát
triển những hiểu biết và nhận thức chung về các vấn đề quốc tế.
Giá trị và niềm tin: Các giá trị và niềm tin chung tạo nên một cảm giác đồng
thuận và liên kết giữa các quốc gia. Điều này có thể bao gồm các giá trị về dân
chủ, nhân quyền, pháp quyền, hòa bình, và hợp tác quốc tế.
Chuẩn mực và hành vi: Bản sắc chung thúc đẩy các quốc gia hành động theo các
chuẩn mực và quy tắc nhất định, giúp định hình các chính sách và quyết định đối ngoại. Ví dụ:
Liên minh châu Âu (EU): Các quốc gia thành viên EU chia sẻ một bản sắc chung dựa
trên các giá trị về dân chủ, nhân quyền và pháp quyền, điều này giúp tạo nên sự đoàn
kết và hợp tác sâu rộng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội.
2. Cộng đồng an ninh (Security Community) Khái niệm:
Cộng đồng an ninh là một nhóm các quốc gia hoặc các chủ thể quốc tế mà giữa họ có
một mức độ lòng tin cao và không còn thấy cần thiết phải sử dụng bạo lực để giải
quyết xung đột. Các quốc gia trong cộng đồng an ninh chia sẻ một niềm tin chung
rằng các xung đột giữa họ sẽ được giải quyết một cách hòa bình. Nội hàm:
Lòng tin và hợp tác: Cộng đồng an ninh được xây dựng trên nền tảng của lòng tin
và hợp tác giữa các quốc gia. Các quốc gia trong cộng đồng này tin tưởng vào
khả năng giải quyết các xung đột thông qua đối thoại và đàm phán thay vì bạo lực.
Cơ chế giải quyết xung đột: Các quốc gia phát triển các cơ chế và thể chế để giải
quyết xung đột một cách hòa bình, bao gồm các tổ chức quốc tế, hiệp định an
ninh, và quy tắc ứng xử chung.
Lợi ích chung: Các quốc gia trong cộng đồng an ninh nhận thức rõ ràng về lợi ích
chung của họ trong việc duy trì hòa bình và ổn định. Họ nhận thấy rằng hợp tác
và đoàn kết sẽ mang lại lợi ích lớn hơn so với xung đột và đối đầu. Ví dụ:
NATO (Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương): NATO là một ví dụ điển hình về
cộng đồng an ninh, nơi các thành viên cam kết bảo vệ lẫn nhau và giải quyết các vấn
đề an ninh thông qua hợp tác và đối thoại thay vì xung đột quân sự. Tóm lại
Bản sắc chung và cộng đồng an ninh trong lý thuyết kiến tạo nhấn mạnh tầm
quan trọng của các giá trị, niềm tin, và chuẩn mực chung trong việc xây dựng môi
trường quốc tế hòa bình và ổn định.
Bản sắc chung giúp tạo ra một cảm giác đoàn kết và liên kết giữa các quốc gia,
thúc đẩy họ hành động theo các chuẩn mực và quy tắc chung.
Cộng đồng an ninh dựa trên lòng tin và hợp tác, nơi các quốc gia tin tưởng vào
khả năng giải quyết xung đột một cách hòa bình và nhận thấy lợi ích lớn từ việc
duy trì hòa bình và ổn định.
Những khái niệm này không chỉ giúp giải thích cách mà các quốc gia có thể vượt
qua các xung đột và xây dựng môi trường quốc tế hòa bình, mà còn nhấn mạnh
tầm quan trọng của các yếu tố xã hội và nhận thức trong việc định hình chính trị quốc tế.
14. Phân tích nội hàm khái niệm “lợi ích quốc gia” của chủ nghĩa hiện thực, chủ
nghĩa tự do và chủ nghĩa kiến tạo?
1. Chủ nghĩa hiện thực (Realism)
Nội hàm của lợi ích quốc gia:
An ninh và sự tồn tại: An ninh quốc gia và sự tồn tại của quốc gia là ưu tiên hàng
đầu. Trong một hệ thống quốc tế vô chính phủ, nơi không có quyền lực trung
ương điều hành, các quốc gia phải tự đảm bảo an ninh của mình.
Quyền lực: Lợi ích quốc gia chủ yếu xoay quanh việc duy trì và tăng cường
quyền lực. Quyền lực bao gồm sức mạnh quân sự, kinh tế và ảnh hưởng chính trị.
Thực dụng và tự lực: Các quốc gia phải dựa vào chính mình để bảo vệ và thúc
đẩy lợi ích của mình. Điều này dẫn đến một chính sách đối ngoại thực dụng, tập
trung vào việc đạt được các mục tiêu cụ thể và bảo vệ lợi ích quốc gia. Cách tiếp cận:
Cạnh tranh và xung đột: Quốc gia hành động dựa trên sự cân nhắc lợi ích của
mình trong một môi trường cạnh tranh, nơi xung đột và chiến tranh là những khả năng luôn hiện hữu.
Cân bằng quyền lực: Các quốc gia thường tìm cách duy trì hoặc thay đổi sự cân
bằng quyền lực để ngăn chặn sự thống trị của một quốc gia khác.
2. Chủ nghĩa tự do (Liberalism)
Nội hàm của lợi ích quốc gia:
Phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội: Lợi ích quốc gia không chỉ bao gồm an ninh
và quyền lực mà còn bao gồm sự phát triển kinh tế, phúc lợi xã hội và nâng cao
chất lượng cuộc sống của công dân.
Hợp tác và ổn định: Hợp tác quốc tế, thông qua các thể chế và tổ chức quốc tế,
được coi là công cụ quan trọng để đạt được lợi ích quốc gia. Các quốc gia nhận ra
rằng thông qua hợp tác, họ có thể đạt được nhiều lợi ích hơn so với khi hành động đơn lẻ.
Nhân quyền và dân chủ: Bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền và các giá trị dân chủ
cũng là một phần của lợi ích quốc gia, vì chúng tạo ra sự ổn định nội bộ và tăng
cường vị thế quốc tế của quốc gia. Cách tiếp cận:
Hợp tác và liên minh: Quốc gia thường xây dựng liên minh và đối tác chiến lược
để giải quyết các thách thức chung và thúc đẩy lợi ích quốc gia.
Thể chế quốc tế: Các tổ chức quốc tế và luật pháp quốc tế đóng vai trò quan trọng
trong việc duy trì hòa bình và ổn định, qua đó giúp quốc gia đạt được lợi ích của mình.
3. Chủ nghĩa kiến tạo (Constructivism)
Nội hàm của lợi ích quốc gia:
Nhận thức và bản sắc: Lợi ích quốc gia không phải là cố định mà được hình thành
và thay đổi qua quá trình tương tác xã hội và nhận thức. Bản sắc và giá trị chung
giữa các quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc định hình lợi ích quốc gia.
Quy chuẩn và thể chế: Các quy chuẩn và thể chế quốc tế ảnh hưởng mạnh mẽ đến
cách các quốc gia xác định và theo đuổi lợi ích của mình. Các quốc gia điều chỉnh
lợi ích của mình dựa trên các quy chuẩn này.
Tính biến đổi: Lợi ích quốc gia có thể thay đổi tùy theo ngữ cảnh và thời gian,
phụ thuộc vào sự thay đổi trong nhận thức, bản sắc và môi trường quốc tế. Cách tiếp cận:
Tương tác và xã hội hóa: Quốc gia không chỉ cạnh tranh hoặc hợp tác mà còn học hỏi
và thay đổi bản sắc và lợi ích thông qua quá trình tương tác liên tục với các chủ thể khác.
Quy chuẩn và giá trị: Quốc gia hành động dựa trên các quy chuẩn và giá trị chung,
điều này có thể dẫn đến việc định nghĩa lại lợi ích quốc gia trong bối cảnh thay đổi. Tóm tắt và so sánh
Chủ nghĩa hiện thực: Tập trung vào an ninh, quyền lực và lợi ích vật chất. Quốc
gia hành động thực dụng trong một môi trường cạnh tranh và xung đột.
Chủ nghĩa tự do: Nhấn mạnh phát triển kinh tế, hợp tác quốc tế và tôn trọng nhân
quyền. Quốc gia xây dựng liên minh và dựa vào các thể chế quốc tế để đạt được lợi ích.
Chủ nghĩa kiến tạo: Chú trọng đến nhận thức, bản sắc và quy chuẩn xã hội. Lợi
ích quốc gia được hình thành và thay đổi qua quá trình tương tác xã hội và học hỏi.
Các cách tiếp cận này không chỉ phản ánh sự đa dạng trong lý thuyết quan hệ quốc tế
mà còn cung cấp khung phân tích để hiểu và đánh giá các chính sách và hành động
của các quốc gia trên trường quốc tế.