Tóm tắt lý thuyết - Chủ nghĩa khoa học xã hội | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt lý thuyết - Chủ nghĩa khoa học xã hội | Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC
2.1Những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
Khoa học xã hội học ra đời trong bối cảnh kinh tế – xã hội châu Âu thế kỷ XIX. Tính tất yếu đó bộc lộ ở nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện vật chất và tinh thần, các tiền đề cần thiết cho sự nhận thức xã hội. Lúc bấy giờ
các cuộc cách mạng công nghiệp và thương mại đã làm lung lay tận gốc hệ thống thiết chế kinh tế – xã hội cũ từng tồn tại hàng ngàn năm trước đó ở Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, Ý và các nước khác. Hình thái kinh tế – xã hội kiểu phong
kiến bị sụp đổ từng mảng lớn trước sức mạnh bành trướng của lực lượng sản xuất và thị trường hàng hóa công nghiệp của nền đại công nghiệp
Dưới tác động của tự do hóa thương mại, tự do hóa sản xuất và đặc biệt là tự do hóa lao động, hệ thống tổ chức quản lý kinh tế – xã hội theo kiểu truyền thống đã bị thay thế bằng các phương thức tổ chức kinh tế – xã hội hiện đại.
Kiểu sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện và phát huy tác dụng. Hình thành và phát triển hệ thống nhà máy, xí nghiệp, tập đòan kinh tế có khả năng tạo ra khối lượng lớn hàng hóa, thu hút nhiều lao động nông thôn ra thành thị, mở
rộng hệ thống thị trường nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp.
Họat động buôn bán và sản xuất được tổ chức lại theo qui mô đại công nghiệp cơ khí lúc đầu đã xuất hiện ở Anh, sau đó ở Pháp, Hà Lan, Đức và các nước khác. Điều đó tạo thành những bước chuyển đổi đột phá trong quá trình biến
đổi kinh tế – xã hội ở các nước này. Riêng về mặt kinh tế, chỉ sau khoảng một trăm năm phát triển, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã sản xuất được một khối lượng sản phẩm ước tính bằng tổng khối lượng của cải vật chất do lòai người
tạo ra trong suốt lịch sử phát triển từ trước cho đến khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Đại công nghiệp đã sản xuất ra được khối lượng hàng hóa với giá rẻ, được Marx và Engels ví như những viên “trọng pháo bắn thủng tất cả những bức
vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngọai một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục”. Kết quả là nền tảng kinh tế – xã hội theo hướng phong kiến, cùng với nó là chế độ phong kiến, quan hệ xã hội phong kiến
châu Au bị trốc tận gốc và sụp đổ tan tành.
Biến đổi kinh tế làm thay đổi sâu sắc đời sống chính trị, văn hóa xã hội. Của cải, đất đai, tư bản không còn tập trung trong tay tầng lớp phong kiến, quí tộc, tăng lữ mà rơi vào tay giai cấp tư sản. Sự phân chia giai cấp, sự phân tầng xã
hội và phân hóa giàu nghèo diễn ra trên qui mô rộng lớn với tính chất quyết liệt, sâu sắc. Nền công nghiệp với qui mô lớn đã đẩy nhanh quá trình đô thị hóa cùng sự tích tụ dân cư, phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng.
Kỹ thuật, công nghệ và khoa học phát triển nhanh chóng góp phần hình thành và phát triển tầng lớp xã hội mới là những người trí thức, đội ngũ hành chính, quản lý và công nhân kỹ thuật. Sản xuất công nghiệp với qui mô lớn đòi hỏi
phải mở mang buôn bán, giao lưu và thị trường nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa công nghiệp. Từ đó hình thành nên từng lớp doanh nhân, thương nhân.
Sự phân hóa trong lối sống của thành thị và nông thôn diễn ra với tốc độ nhanh chóng, tỉ lệ thuận với quá trình đô thị hóa. Quan hệ giưã thành thị và nông thôn trở thành quan hệ phụ thuộc. Nông dân bị tách khỏi ruộng đật trở thành
người làm thuê cho giới chủ tư bản công nghiệp ở thành phố. Việc nông dân rời bỏ cộng đồng làng quê, nông dân ra thành phố sinh sống đã kéo theo những biến đổi lớn trong thiết chế gia đình. Đời sống cá nhân và gia đình bị xô đẩy,
xé vụn và bị cuốn hút vào họat động kinh tế kiểu thị trường và lối sống cạnh tranh, vụ lợi. Xuất hiện “chủ nghĩa thành thị” dựa vào kinh tế công nghiệp
Các hình thức tổ chức xã hội theo kiểu phong kiến trước đây bị lung lay, xáo trộn và biến đổi mạnh mẽ. Tổ chức và thiết chế tôn giáo, cụ thể là giáo hội trước kia rất có thế lực nay bị mất dần vai trò và quyền lực chính trị trong đời
sống xã hội trước sức ép của họat động kinh tế diễn ra sôi động. Việc nhà thờ bị tách ra khỏi nhà nước và nhà trường là một biểu hiện rõ rệt nhất của sự biến đổi xã hội trong lĩnh vực tổ chức đời sống vật chất và tinh thần ở xã hội
châu Âu thế kỷ XVIII – XIX.
Do đó, luật pháp ngày càng tập trung vào việc điều tiết các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích và quan hệ xã hội mới xuất hiện, chưa từng có ở xã hội phong kiến. Các thiết chế hành chính , tổ chức hành chính cũng ra đời và biến đổi để
phục vụ cho giai cấp tư sản.
Tóm lại, sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ trật tự xã hội phong kiến gây những xáo trộn và biến đổi sâu rộng trong đời sống xã hội. Quan hệ, tương tác và cấu trúc xã hội trở nên phức tạp, mất ổn
định, gây ra những hậu quả khó lường. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực tiễn:
-phải lập lại trật tự, ổn định xã hội;
-nảy sinh nhu cầu tìm hiểu, giải thích các hiện tượng, các quá trình kinh tế xã hội và giải quyết các vấn đề của thời kỳ khủng hỏang xã hội lúc bấy giờ.
Nói cách khác, xã hội học đã ra đời một cách tất yếu trong bối cảnh kinh tế-xã hội châu Au thế kỷ XIX nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức và nhu cầu thiết lập ổn định, trật tự xã hội
2.1 Điều kiện phát triển chính trị – xã hội
Các sự kiện chính trị – xã hội quan trọng nhất góp phần làm thay đổi căn bản thể chế chính trị, trật tự xã hội và các thiết chế xã hội châu Au thế kỷ XVIII – XIX là các cuộc cách mạng, nhất là cách mạng Pháp năm 1789. cuộc cách
mạng này đã mở đầu cho thời kì tan rã chế độ phong kiến, nhà nước quân chủ và thay thế trật tự xã hội cũ bằng trật tự chính trị xã hội mới với sự thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản.
Về mặt văn hóa – tư tưởng, đại cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII với khẩu hiệu “tự do, bình đẵng, bác ái” đã khơi dậy những biến đổi mang tính cách mạng trong văn hóa, tư tưởng, nhận thức và hành động chính trị của giai cấp
công nhân và quần chúng lao động về quyền con người và quyền bình đẵng giai cấp. Cùng với sự biến đổi chính trị có tính chất cách mạng ở Pháp là các biến động chính trị theo con đường “tiến hóa” ở Anh, Đức, Ý và các nước khác.
Đặc điểm chung của những thay đổi to lớn trong đời sống chính trị châu Au lúc bấy giờ là quyền lực chính trị chuyển sang giai cấp tư sản và một thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất. Biến đổi chính trị xã hội đã góp phần củng cố
và phát triển chủ nghĩa tư bản. Điều này thể hiện ở việc hình thành những điều kiện có lợi cho tự do buôn bán, tự do sản xuất, tự do cạnh tranh, tự do ngôn luận tư sản và đặc biệt là tự do bóc lột sức lao động công nhân, làm căng
thẳng thêm mối quan hệ giữa giai cấp thống trị-tư sản và giai cấp bị trị-vô sản.
Mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích giữa các tầng lớp xã hội và nhất là giữa giai cấp công nhân vô sản và giai cấp tư sản đã lên đến đỉnh điểm làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới vào nữa cuối thế kỷ XIX – công xã Pari
1871, và sau này cuộc cách mạng tháng mười Nga vĩ đại năm 1917. Các cuộc cách mạng này đã thổi bùng lên ngọn lửa nhiệt tình cách mạng và lí tưởng xã hội chủ nghĩa trong các tầng lớp tiến bộ xã hội, nhất là giai cấp công nhân vô
sản và các dân tộc bị áp bức trên phạm vi tòan thế giới.Những biến động chính trị xã hội và đặc biệt là cuộc cách mạng Pháp đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử xã hội học như sau:
Thứ nhất: đó là sự kiện xã hội học đầu tiên ra đời trên thế giới với tư cách là một khoa học ở nước Pháp – cái nôi của Đại cách mạng Pháp rồi sau đó mới xuất hiện ở nước Anh, Đức, Ý, Mỹ.
Thứ hai: các công trình của các nhà xã hội học người Pháp như Auguste Comte, Emile Durkhem, nhà xã hội học người Anh Herbert Spencer, nhà xã hội học người Đức Georg Simmel, và đặc biệt là những người sáng lập ra chủ nghĩa
cộng sản khoa học, lãnh tụ thiên tài và người thầy của giai cấp vô sản Karl Marx và Engels đều chịu ảnh hưởng của học thuyết xã hội chủ nghĩa Pháp.
Thứ ba: những biến động kinh tế, chính trị và văn hóa ở xã hội Pháp đã khiến các nhà xã hội học tiền bối đặt ra những câu hỏi lí luận cơ bản không chỉ với xã hội học của Pháp mà của tòan bộ lí luận xã hội học thế kỷ XIX. Đó là vấn
đê trật tự xã hội, bất bình đẳng xã hội và làm thế nào phát hiện và sử dụng các qui luật tổ chức xã hội để góp phần tạo dựng, củng cố trật tự xã hội và tiến bộ xã hội.
Trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội như vậy, các nhà tư tưởng xã hội, các nhà xã hội học châu Au thế kỷ XIX đã ra sức tìm hiểu, mô tả, phân tích các quá trình, hiện tượng xã hội để phản ánh và giải thích đầy đủ những
biến động chính trị, xã hội đang diễn ra xung quanh họ. Các nhà xã hội học thế kỷ XIX tập trung vào nghiên cứu những vấn đề nảy sinh từ những khủng hỏang, mất ổn định, mất trật tự chính trị xã hội lúc bấy giờ. Một số nhà xã hội
học tiến bộ đã chỉ ra con đường và biện pháp lập lại trật tự và duy trì sự tiến bộ xã hội.
3. Một số đóng góp của các nhà sáng lập xã hội họ
3.1. Auguste Comte (1798-1857)
Auguste Comte là nhà lý thuyết xã hội, nhà triết học thực chứng người Pháp là người khai sinh xã hội học. Sinh ra trong một gia đình Gia tô giáo theo xu hướng quân chủ nhưng ông sớm trở thành một người có tư tưởng tự do
và cách mạng. Năm 16 tuổi ông vào học ở trường Đại học bách khoa và ba năm sau, tức lúc 19 tuổi ông được làm thư ký cho Saint – Simon, sau khi tách khỏi Saint - Simon năm ông bắt đầu giảng giáo trình triết học thực chứng.
Ông từng là người sáng lập ra hiệp hội thực chứng luận. Ông là người đã chứng kiến những cuộc chiến tranh, những biến động to lớn về chính trị ở Pháp thế kỷ XIX. Ông có các công trình cơ bản như “Triết học thực chứng”,
“Hệ thống chính trị học thực chứng”.
Tư tưởng của Comte chịu ảnh hưởng của khoa học tự nhiên như Vật lý học, sinh vật học. Theo ông, xã hội học là khoa học về xã hội và các bộ phận cấu thành và các quá trình của nó. Ông còn gọi nó là vật lý học xã hội.
1
Ông đưa ra 3 nguyên tắc để xây dựng ngành xã hội học: dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm, thực chứng luận và thuyết vật lí.
Vật lý Xã hội học của Comte bao gồm 2 bộ phận phận chính: Tĩnh học xã hội và Động học xã hội (cơ thể xã hội)
Thứ nhất, Tĩnh học xã hội và các yếu tố cấu thành xã hội:
- Tĩnh học xã hội là một bộ phận của xã hội học, nghiên cứu trật tự xã hội, cấu trúc xã hội và các mối liên hệ giữa chúng, tức là các yếu tố có thể coi là tĩnh của xã hội. Comte nghiên cứu các mặt tĩnh của xã hội như:
+ Cá nhân: với tư cách là những thành phần, những đơn vị cấu thành cấu trúc xã hội. Khi nghiên cứu về cá nhân ông xem xét về năng lực, nhu cầu bên trong của cá nhân và khả năng tiếp nhận của cá nhân khi tham gia các mối
quan hệ trong xã hội
Sau đó, quan niệm của ông về cá nhân thay đổi. Ông coi cá nhân không phải là một đơn vị xã hội đích thực của cấu trúc xã hội. Ông cho rằng việc nghiên cứu cá nhân thuộc về lĩnh vực sinh vật học. Nghiên cứu xã hội học chủ
yếu nghiên cứu các thiết chế xã hội, các tổ chức xã hội
+ Gia đình: là đơn vị xã hội, thiết chế xã hội cơ bản nhất, sơ đẳng nhất. Ông nghiên cứu thành phần gia đình, cấu trúc gia đình, các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Các nghiên cứu này chỉ mang tính sơ lược,
thiếu đầy đủ so với Marx và Enghels…
- Cấu trúc xã hội: (cơ cấu xã hội): là vấn đề thực sự có ý nghĩa về lý luận xã hội học của ông. Cấu trúc xã hội là một hệ thống được tạo ra từ những cấu trúc khác nhỏ hơn, đơn giản hơn gọi là tiểu cấu trúc. Do đó, hiểu được cấu
trúc xã hội có nghĩa là nắm được đặc điểm, các thuộc tính và các mối liên hệ của các tiểu cấu trúc xã hội. Tĩnh học tập trung nghiên cứu cấu trúc xã hội của các thiết chế như gia đình, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật… Qua phân tích cấu
trúc xã hội và cho rằng nó phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp thể hiện qua sự phân hóa, đa dạng hóa, chuyên môn hóa cũng như mức độ liên kết của các tiểu cấu trúc xã hội. Comte còn cho rằng sự duy trì trật tự xã
hội, duy trì các tiểu cấu trúc cần phải có sự can thiệp của quyền lực nhà nứơc, sự đòan kết, liên kết của các bộ phận, sự chuyên môn hóa và các yếu tố như ngôn ngữ, tôn giáo… có khả năng duy trì trật tự và ổn định xã hội.
Thứ hai, Động học xã hội là lĩnh vực nghiên cứu các qui luật biến đổi xã hội trong các hệ thống xã hội theo thời gian.
Qua việc tìm hiểu sự vận động của xã hội, ông đưa ra quy luật ba giai đọan để giải thích về sự phát triển của xã hội.
- Giai đọan 1: Giai đọan thần học (thần linh)
Giai đoạn này bắt đầu từ thời đại chiếm hữu nô lệ và mọi quan niệm đều bị chi phối bởi sự tưởng tượng về thế lực siêu nhiên, siêu nhân. Các sự kiện xã hội đựơc giải thích một cách thần bí. Ngoài ra các quan hệ xã hội bi chi
phối bởi quan hệ quân sự giữa các quốc gia vì tranh giành lãnh thổ nên còn gọi là giai đọan thần học – quân sự. Vì thế nên lãnh đạo xã hội thời kì này là các giáo sỹ, mục sư, tăng lữ.
- Giai đọan 2: Giai đoạn siêu hình
Gia đoạn này tuy đã có sự tiến bộ, song những gì biết đựơc vẫn còn bị chi phối bởi trí tưởng tựơng nhưng vai trò của bằng chứng trở nên rõ rệt, buộc đầu óc con người phải phù hợp với thực tế. Các quan hệ xã hội, kinh tế, chính
trị trở nên mềm dẻo, linh họat nhằm phát triển kinh tế. Lãnh đạo xã hội là các nhà thông thái, triết học.
- Giai đọan 3: Giai đoạn thực chứng khoa học
Giai đoạn này tri thức khoa học thực sự thống trị, yếu tố quan sát và bằng chứng chiếm vị trí chủ đạo. Quan hệ xã hội vận hành trên cơ sở quan hệ SX công nghiệp. Lãnh đạo, thủ lĩnh là các nhà khoa học, nhà thực chứng luận.
Xã hội sẽ lần lượt trải qua 3 giai đọan nhưng mỗi nơi thì trải qua ở những thời điểm khác nhau do dân số, chính trị… Comte còn cho rằng xã hội học ra đời vào giai đọan cuối là một tất yếu lịch sử. Ông đưa ra bảng phân lọai các
ngành khoa học tự nhiên: tóan học, cơ học, vật lý học, hóa học, sinh học và Xã hội học. Vô cơ đơn giản hơn hữu cơ nên hiểu biết về vô cơ tự nhiên sớm đạt đến thực chứng.
Phương pháp luận thực chứng kiểu Comte: ông cho rằng xã hội học có nhiệm vụ sắp xếp, lập lại trật tự xã hội. Xã hội học có thể phát hiện, chứng minh làm sáng tỏ các qui luật tổ chức và biến đổi của xã hội bằng phương pháp
luận của chủ nghĩa thực chứng như Vật lý học hay Sinh vật học. Comte gọi xã hội học là Vật lý học xã hội… Phương pháp nghiên cứu Xã hội học này được chia thành 4 phương pháp căn bản: 1. Phương pháp quan sát, 2. Phương
pháp thực nghiệm, 3. Phương pháp so sánh, 4. Phương pháp lịch sử.
3.2. Karl Marx (1818-1883)
Marx là một nhà triết học, nhà lý luận lớn, là nhà sang lập chủ nghĩa cộng sản khoa học. Marx không để lại một lý thuyết hoàn chỉnh về Xã hội học nhưng toàn bộ di sản của ông ảnh hưởng rất lớn đến Xã hội học – Học thuyết về hình
thái kinh tế xã hội là một tiêu biểu điển hình.
Theo Marx sự phân hóa xã hội thành các gia cấp là các mối quan hệ xã hội, trong đó ẩn chứa những xung đột giai cấp và đấu tranh giai cấp. Cuộc đời và sự nghiệp của Marx gắn liền với quá trình kết hợp giữa nghiên cứu khoa học và
hoàn cảnh thực tiễn. Học thuyết lý luận về giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Marx đã chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, đề cao vai trò của người cộng sản.Marx cho rằng, nguyễn nhân dẫn đến sự bất
bình đẳng và phần tầng xã hội là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân và thay vào đó chế độ sở hữu của toàn xã hội để xây dựng xã hội công bằng và văn minh.
Về quy luật phát triển của lịch sử, Marx đã chỉ ra lịch sử xã hội loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội:
-Hình thái kinh tế xã hội công xã nguyên thủy;
-Hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ;
-Hình thái kinh tế xã hội phong kiến;
-Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa;
-Hình thái kinh tế xã hội công sản chủ nghĩa;
3.3. Herbert Spencer (1820-1903)
Herbert Spencer là mô t nhà triết học, nhà Xã hội học người Anh. Ông sinh năm 1820 tại Derby, Anh, gia đình ông theo đạo Tin Lành. Năm 1851, ông viết cuốn “Tĩnh học xã hội”, thuật ngữ này ông chịu ảnh hưởng
của Auguste Comte.
Do ảnh hưởng thuyết tiến hóa của Darwin (1809 – 1882), ông đưa ra quan điểm tiến hóa xã hô i. Theo Spencer, cuộc sống của con người không chỉ là một sự liên tục mà còn là đỉnh cao của quá trình tiến hóa lâu dài,
nhưng ông lại cho rằng có một sự phát trển song song của tinh thần và thể xác chứ không giản lược tinh thần vào thể xác. Quan niệm này của ông là mô t quan niệm máy móc, nhưng mă t khác, những khái niệm, các nguyên lý xã hội
học của Spencer có ý nghĩa rất quan trọng đối với khoa học xã hội học hiện đại. Những phân tích về tác nhân của xã hội và các nguyên lý tiến hóa xã hội, nguyên lý về chức năng và cấu trúc xã hội đóng vai trò là nền tảng hình thành
nên xu hướng chức năng luận trong Xã hội học.
Ông chủ yếu học ở cha và người thân trong gia đình, ông có kiến thức vững chắc về toán học, khoa học tự nhiên và quan tâm nghiên cứu khoa học xã hội. Ông tin tưởng vào “bàn tay vô hình” tức là cơ chế thị trường
và tự do cạnh tranh trong việc duy trì trật tự xã hội, là người đưa ra quan niệm về sự tiến hoá (chỉ có cá nhân nào, hệ thống xã hội nào thích nghi với môi trường xung quanh thì mới có thể tồn tại được).
Các nguyên lý cơ bản của xã hội học:
Siêu sinh thể xã hội: xã hội như một siêu sinh thể. Ông cho rằng xã hội như hiện tượng tự nhiên, hữu cơ, vô cơ… vận động và phát triển theo qui luật. Xã hôi học không nên sa đà vào phân tích các đặc thù lịch sử
của xã hội mà nên tìm kiếm các thuộc tính, đặc điểm chung, phổ biến, tổng quát và những mối liên hệ nhân quả giữa các sự vật, hiện tượng xã hội.
2
-Nguyên lý tiến hoá xã hội: Xã hội tiến hoá theo cấu trúc nhỏ, đơn giản, không ổn định đến xã hội có cấu trúc lớn, liên kết bền vững…Qui mô cơ thể tỉ lệ thuận với nhu cầu của sự phân hoá xã hội.
Ông phân chia tác nhân của hiện tượng xã hội ra thành:
-Tác nhân chủ quan: trí tuệ, thể lực, các trạng thái xúc cảm.
-Tác nhân bên ngoài: môi trường, đất, nước, không khí…
-Tác nhân tự sinh: bắt nguồn từ điều kiện bên trong và bên ngoài như dân số, mối liên hệ, tương tác giữa các xã hội.
-Cũng như cơ thể sinh học thì cơ thể xã hội cũng có các cơ quan chuyên môn hoá đảm bào cho nhu cầu sống của xã hội. Các cơ quan chuyên môn hoá đều có khả năng sinh tồn và phát triển. Nhưng cái khác ở cơ thể xã hội là các
quan chuyên môn hoá tác động tích cực một cách gián tiếp lẫn nhau thông qua ngôn ngữ, kí hiệu mà cơ thể sinh vật không có.
Cơ thể xã hội: các bộ phận tác động lẫn nhau dẫn đến phát triển, suy tàn, phát triển…
Những phân tích về các tác nhân xã hội và các nguyên lí tiến hoá xã hội, nguyên lí về chức năng và cấu trúc xã hội đóng vai trò là nền tảng hình thành nên xu hướng chức năng luận trong xã hội.
Một số tác giả phê phán ông quá đề cao phương pháp luận qui đồng xã hội với cơ thể sinh học. Vấn đề khách quan và chủ quan của phương pháp luận:
*Khó khăn khách quan:
+ nguyên nhân từ đối tượng nghiên cứu: các hiện tượng, quá trình xã hội luôn gắn với động cơ, nhu cầu, tình cảm…xhh không phải là khoa học chính xác. Mặc dù đối tượng nghiên cứu là sự tiến hoá của cơ thể xh và lịch sử tự nhiên.
+ Không đo lường được trạng thái chủ quan của cá nhân, nhóm xh.
+ Không nghiên cứu hết mà nghiên cứu những chủ đề được lựa chọn, thu thập các số liệu đã chọn.
+ Khắc phục: thu thập hết.
*Khó khăn chủ quan: thộc về trình độ, quan niệm, ý thức người nghiên cứu.
+Phân loại xã hội học
+ Xã hội quân sự: Kiểu xh thời chiến, kiểm soát, độc đoán. Chế độ phân phối diễn ra theo chiều dọc mang tính tập trung cao độ từ dưới lên trên do nhà nước quản lý, kiểm soát.
+ Xã hội công nghiệp: là xã hội thời bình, ít tập trung và ít độc đoán, mục tiêu là sản xuất. chế độ kiểm soát mềm dẻo.
3.4. Emile Durkheim (1858-1917)
Emile Durkheim, là nhà Xã hội học người Pháp, người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng và chủ nghĩa cấu trúc trong Xã hội học hiện đại. Ông sinh ra trong một gia đình Do Thái .Do học giỏi nên năm
1879, ông được nhận vào học ở trường Escole Normail và cũng tại nơi đây ông đã hoàn thành luận án tiến sĩ.Ông bắt đầu giảng dạy tại trường Đại học Tổng hợp Bordeaux lúc 29 tuổi. Trong thời gian làm việc ở Bordeaux, ông đã
hoàn thành một công trình Xã hội học đồ sộ. Ông cho ra đời các tác phẩm:
Các quy tắc của phương pháp xã hội học (1895), Tự tử (1897),
Các hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo (1912).
Năm 1913, học hàm giáo sư khoa học giáo dục của Durkheim được chính thức đổi thành giáo sư khoa học giáo dục và xã hội học, và ông trở thành nhà Xã hội học chính thức đầu tiên ở nước Pháp => Sự kiện này
cùng với việc ông đưa vào giảng dạy môn Xã hội học trong nhà trường đại học đã mở đầu cho bước tiến quan trọng của Xã hội học với tư cách là khoa học độc lập ở Pháp.
Ông sống trong một xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và kĩ thuật. Vì vậy, ông luôn cho rằng Xã hội học có nhiệm vụ hàng đầu là tìm ra các quy luật xã hội để từ đó tạo ra trật
tự xã hội trong xã hội hiện đại.
Xã hội học của ông chịu ảnh hưởng của các nhà tư tưởng xã hội, các nhà khoa học Châu Âu như: Auguste Comte, Herbert Spencer, Saint – Simon,…
Theo ông, xã hội tồn tại bên ngoài cá nhân và có trước cá nhân với nghĩa là các nhân được sinh ra trong xã hội và phải tuân thủ các chuẩn mực, phép tắc xã hội đã có sẵn trước khi cá nhân sinh ra. Vì vậy, Xã hội học
cần phải xem xét hệ thống xã hội, cấu trúc xã hội và các hiện tượng xã hội với tư cách là các sự vật, các bằng chứng, các sự kiện đang tác động tới đời sống cá nhân.
Mặc khác, Durkheim cho rằng xã hội biến đối từ xã hội đơn giản đến xã hội phức tạp, sự tiến hóa xã hội diễn ra chủ yếu dưới tác động của các yếu tố xã hội trong đó có sự biến đổi trong cách phân công lao động của
xã hội.
Quan niệm của ông về xã hội học: Có thể định nghĩa xã hội học là khoa học nghiên cứu các sự kiện xã hội. Do sự kiện xã hội có thể tồn tại dưới hình thức các thiết chế xã hội, các chuẩn mực đạo đức nên ta còn bắt
gặp nhiều định nghĩa khác của ông về xã hội học. Ví dụ: Ông định nghĩa xã hội học là khoa học về các sự kiện đạo đức.
Một số khái niệm của Durkheim:
Sự kiện xã hội:
Có tính vật chất: nhóm người, dân cư.
Phi vật chất: hệ thống giá trị, chuẩn mực, phong tục.
Sự kiện vật chất là sự kiện bên ngòai, áp đặt vào cá nhân.
Sự kiện xã hội mang đặc điểm: tính khách quan, tính phổ biến, tính cưỡng chế.
Mặc dù sự kiện xã hội tồn tại bên ngòai cá nhân nhưng nó kiểm sóat cá nhân vì cơ chế “xã hội hóa” cá nhân.
Đoàn kết xã hội: là mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa các cá nhân với nhau, cá nhân với nhóm xã hội. Nếu không có đòan kết xã hội thì các cá nhân riêng lẽ sẽ không tạo thành xã hội.
Có 2 lọai đòan kết xã hội:
Đoàn kết cơ học: là kiểu đòan kết dựa trên sự giống nhau giữa các giá trị, phong tục, tín ngưỡng… tồn tại trong xã hội truyền thống, xã hội nông nghiệp, nhỏ, ý thức cộng đồng cao, luật tục là phổ biến. Đoàn kết xã
hội hữu cơ: kiểu đòan kết phong phú, đa dạng trong xã hội công nghiệp, dựa trên sự phân công và chuyên môn hóa cao trong sản xuất..Ông đấu tranh với cả triết học xã hội của Comte và Spencer. Ông phê phán hai nhà xã hội học này
chỉ tuyên bố rằng các sự kiện xã hội là những sự kiện tự nhiên nhưng không đối xử với chúng như là các sự vật mà lại chủ yếu áp dụng phương pháp thuần túy tư tưởng.Ông phê phán triết học và cả lịch sử học vì cả hai khoa học này
chỉ lo phát hiện ra cái ý nghĩa chung mà nhân loại hướng vào chứ không phải là tìm kiếm mối quan hệ nhân quả của các sự kiện.Theo ông, xã hội học coi các hiện tượng xã hội như là sự vật và phải xử lý như các sự vật, tức là xử
chúng với tư cách là các dữ chứng tạo thành một xuất phát điểm của nghiên cứu khoa học.
3.5. Max Weber (1864-1920)
3
Weber chào đời tại Erfurt trong vùng Thuringer nước Đức. Năm 1882, Weber vào học luật tại Đại học Heidelberg. Sau đó, ông phục vụ trong quân đội Đức tại Strasbourg.
Tác phẩm chính: xhh tôn giáo, tôn giáo Trung quốc, tôn giáo An độ.
Phương pháp luận XHH:-Quan niệm của Max Weber về phương pháp khoa học:
Khoa học tự nhiên Khoa học xã hội
Thứ nhất Đối tượng nghiên cứu Là sự kiện vật lý Họat động xã hội của con người
Thứ 2 Tri thức xã hội Trong thiên nhiên, bên ngòai cá nhân Hiểu biết về xã hội, do con người tạo ra.
Thứ 3 Phương pháp nghiên cứu Quan sát tự nhiên, tường thuật Lý giải động cơ, quan niệm, thái độ…
Khoa học xã hội thực sự là khoa học, trung lập, khách quan và tự do, không bị ràng buộc bởi hệ thống giá trị trong quá trình nghiên cứu. Ong cũng thừa nhận khoa học xã hội có khi cũng rất phi khoa học (thứ nhất).
Quan niệm của Weber giống Durkheim: trong nghiên cứu phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, khoa học… khoa học xã hội có tính độc lập.
Quan niệm về xã hội học: Xã hội học là khoa học giải nghĩa họat động xã hội và tiến tới cách giải thích nhân quả về đường lối và hệ quả của hành động xã hội.
Theo ông nghiên cứu hành động xã hội mà chỉ xem xét, phân tích những đặc điểm quan sát được từ bên ngòai thì không đủ, thậm chí còn không có ý nghĩa xhh mà còn phải nắm bắt, lý giải được hiện tượng bên trong nó.
Có 2 lọai lý giải: trực tiếp: nắm bắt ý nghĩa hành động thông qua quan sát trực tiếp. Gián tiếp: thông qua cảm nhận để nhận xét.
Khó áp dụng khái niệm chính xác của khoa học tự nhiên để chỉ hành động xã hội.
Xã hội học của Weber là để chỉ động cơ và ý nghĩa của hành động xã hội, tức là giải thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành động xã hội, vừa có đặc điểm của khoa học xã hội, tức là giải thích mục đích, nhu cầu, ý nghĩa của
hành động xã hội.
Khái niệm hành động xã hội: là việc chủ thể gắn cho hành vi của mình một ý nghĩa chủ quan nào đó. Hành động kể cả hành động thụ động và không thụ động. Được gọi là hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó tính đến hành
vi của người khác trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Nó định hướng hành động.
Ông giải thích sự định hướng của hành động xã hội thông qua việc phân chia hành động xã hội làm 4 loại:
Hành động hợp lý theo mục đích; Hành động hợp lý theo giá trị; Hành động theo truyền thống; Hành động mang tính cảm xúc
Ông nghiên cứu mối quan hệ giữa tôn giáo với kinh tế và thông qua đó để nhìn nhận về vai trò của tôn giáo và văn hoá đối với sự phát triển của xã hội. Ông cho rằng sự phát triển của xã hội không chỉ do động lực kinh tế mà ngoài ra
còn do yếu tố tôn giáo, văn hoá…
Về quan điểm quyền lực xã hội và bất bình đẳng xã hội, ông cho rằng yếu tố kinh tế không phải là yếu tố quyết định (khác với K. Marx) mà các yếu tố như uy tín, dòng dõi, dân tộc, chủng tộc, sắc đẹp… cũng là những nguyên nhân
làm nên sự bất đẳng và quyền lực trong xã hội. Ngoài ra trong xã hội hiện đại, các yếu tố như cơ may cuộc sống và khả năng tiếp cận thị trường của các cá nhân có ý nghĩa lớn trong việc xác định địa vị xã hội và tạo ra những bất bình
đẳng trong xã hội.
Đóng góp về phương pháp: Ông đã để lại nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng phương pháp quan sát, giải thích, giải nghĩa và phương pháp thực nghiệm.
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG – CHỨC NĂNG – NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC
1.1. Xã hội học là gì?
Khái niệm: Xã hội học là một môn khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hôi, nghiên cứu các tương tác xã hội, đặc biệt đi sâu nghiên cứu có hệ thống sự phát triển cấu trúc, mối tương quan xã hội, hành vi xã hội được thể hiện trong
quá trình họat động của con người trong các nhóm, tổ chức xã hội.
Vd: Một nghiên cứu nào đó của ai? Về nội dung gì? Kết quả? ( Xã hội học), ngắn.
1.2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
Trong quá trnh nghiên cứu xã hô i học c!n lưu $:
Đòi hỏi phải xác định được rõ những của mà Xã hội học quan tâm.pham vi cu thể hành vi mang tính xãhôi
Các là đối tượng của tất cả các ngành thuộc về khoa học xã hội chứ không chỉ riêng ngành Xã hộii học.hiện tượng xã hội
Giống những khoa học khác, xã hội học cũng có nhiều trường phái khác nhau, nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau. V vậy, đối tượng nghiên cứu của xã hội học cũng được nhn nhận khác nhau. Có thể nói trong một thời gian
dài, xã hội học bị xem là khủng hoảng về mặt lí luận, bởi những bất đồng về đối tượng nghiên cứu của các trường phái xã hội học. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều đó với các cách tiếp cận sau:
Thứ nhất, tiếp cận vĩ mô : đây là hướng tiếp cận của xã hội học Châu Âu, xác định xã hội học là khoa học về các hệ thống xã hội. Theo trường phái này, hành động xã hội của cá nhân chịu sự chi phối của các cơ chế xã hội mà biểu
hiện là các thiết chế xã hội, các giá trị, chuẩn mực xã hội. Các cơ chế này tạo thành những khuôn mẫu, qui tắc xã hội bắt buộc mọi cá nhân trong xã hội phải chấp nhận và tuân theo. Như vậy, đối tượng nghiên cứu xã hội học theo
trường phái này là các cơ cấu, các hệ thống xã hội mà biểu hiện của nó là các thiết chế xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, gi áo dục, gia đ nh,... Cách tiếp cận vĩ mô cho rằng xã hội là một hệ thống thống nhất hành động của cá
nhân, cho nên muốn đạt đến sự thống nhất trong xã hội th chỉ c!n hoàn thiện cơ cấu xã hội. Như vậy, cách tiếp cận này đã tin tưởng tuyệt đối vào sự chi phối của xã hội đối với hành động xã hội của cá nhân
Thứ hai, tiếp cận vi mô: đây là hướng tiếp cận của xã hội học Mỹ, theo cách tiếp cận này, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là hành vi xã hội hay hành động xã hội của con người. Các cơ chế hnh thành các hành động đó bao
gồm các tương tác xã hội giữa các cá nhân, sự hnh thành động cơ và các tác nhân hành động của nhóm. Như vậy, chúng ta chỉ c!n chuẩn hóa hành động xã hội th xã hội sẽ đạt được sự thống nhất xã hội. Tiếp cận vi mô đã chỉ ra
hành động xã hội của cá nhân trong các tnh huống xã hội cụ thể để hướng tới chuẩn hóa nhung không nói rõ được cơ chế chi phối xã hội đối với hành động xã hội.
4
Thứ ba, cách tiếp cận tích hợp: cách tiếp cận này cho rằng, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là cả xã hội loài người và hành vi xã hội của con người , có thể thấy, đây là sự tổng hợp của trường phái xã hội học Châu Âu (vĩ mô)
và trường phái xã hội học Mỹ (vi mô). Qua ba cách tiếp cận trên, chúng ta có thế thấy được vấn đề gây tranh cãi: với hướng tiếp cận thứ nhất, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội th xã hội học đã bị
triết học lấn át. Tiếp cận vi mô, là nghiên cứu hành vi, hành động xã hội của cá nhân, hướng này tâm l$ học sẽ lân át và với cách tiếp cận thứ ba, xã hội bị cho là có đối tượng nghiên cứu không rõ ràng, do con người và xã hội còn là
đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác, không riêng g xã hội học.
2. Chức năng của xã hội học
2.1. Chức năng nhận thức
Trang bị cho người học thống tri thức khoa học về sự phát triển và cácc quá trình xã hội, phản ánh tính quy luật khách quan trong quá trình vận động, biến đổi của các hiện tượng xã hội, đồng thời chỉ ra cơ chế của quá trình
chuyển biến đó.
Tức là, xã hội học giúp ta biết thêm về các tri thức khoa học cơ bản về sự phát triển và các hiện tượng của xã hội theo quy luật vốn có của nó, chỉ ra nguồn gốc, phương thức diễn biến và cơ chế của các quá trình phát triển xã hội, hay
các mối quan hệ giữa người và xã hội. Lấy ví dụ về tục thờ cá Ông ở khu vực các tỉnh ven biển từ miền Trung vào miên Nam. Vì sao người dân nơi đây lại có tính ngưỡng thờ cúng đặc biệt đó ? Nếu áp dụng phương thức
nghiên cứu xã hội học, ta sẽ biết rằng, tục thờ cá Ông được bắt nguồn từ tục thờ thần Poriak hay Po Riyak thần Biển hay thần Sóng biển của người Chăm. sau khi trải qua sự bản địa hóa, tục thờ cá Ông trở thành tín
ngưỡng của người Việt. Việc cư dân ở các vùng biển thờ cúng cá Ông là do cuộc sống mưu sinh, sinh hoạ của họ gắng liền với biển nên bão tố, sóng to gió lớn luôn là hiểm nguy đối với họ. Khi đó, cá Ông trở thành chỗ dựa
tinh thần trong niềm tin bất diệt của ngư dân.Họ cho rằng thần Nam Hải hiện thân cá Voi để cứu nhân độ thế, cứu giúp ngư dân trên biển khi có sóng to gió lớn, vượt qua tai nạn. Niềm tin này, ban đầu là một nhu cầu giúp
người ta chịu đựng gian khổ hiểm nguy trong cuộc mưu sinh, dần dần dấu vết của niềm tin hằn sâu vào tiềm thức, trở thành tín ngưỡng dân gian. Từ đó, giúp thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân, trở thành chổ dựa
tin thần cho các cư dân ven biển.
2.2. Chức năng thực tiễn
Liên quan trực tiếp với chức năng nhâ n thức.
+ Cung cấp cho chủ thể hành động cơ sở khoa học lý luận và thựctế để lựa chọn mô hình hành động cần thiết, thích hợp.
+ Cung cấp cho chủ thể quản lý xã hội ở tầm “vĩ mô” và “vi mô” cơ sở khoa học lý luận và thực tế về đối tượng quản lý để lựa chọnhình thức, nội dung, phương pháp quản lý thích hợp.
Chức năng thực tiễn của xã hô i học luôn luôn bắt nguồn từ bản chất khoa học của các quá trình nhâ n thức.
Khi nghiên cứu thực trạng của các quan hệ xã hội, những tri thức xã hội học tạo điều kiện đề con người có thể kiểm soát được quan hệ xã hội của mình và điều hoà các quan hệ đó phù hợp với yêu cầu khách quan của sự vận động,
biến chuyển và tiến bộ xã hội.
Năng lực dự báo: trên cơ sở nắm bắt chính xác các quy luật và xu hướng phát triển của xã hội thông qua các mối quan hệ xã hội. Tri thức xã hội học tạo tiền đề và là điều kiện đề thiết kế và điều chỉnh mối liên kết xã hội, phục vụ tốt
công tác quản lý xã hội một cách khoa học.
Củng cố mối liên hệ giữa khoa học với đời sống thực tế, phát huy tác dụng của xã hội học đối với công tác tổ chức, quản lý và điều tiết xã hội nói chung. Phát huy năng lực dự báo, quản lý và chỉ đạo.
Nhâ n thức khoa học luôn luôn bao hàm yếu tố dự đóan khoa học.
Trên cơ sở phân tích thực trạng xã hô i dựa trên nhữngg mối quan hê tương tác trong quá trình vận đô ng phát triển xã hô i sẽ làm sáng tỏ triển vọng của sự vâ n đô ng và phát triển của xãhô„i trong tương lai gần cũng như tương lai xa.
VD: Các công trình khoa học sử dụng các phương pháp thuật ngữ khái niệm XHH để nghiên cứu các vấn đề XH trong thời kì đổi mới ở nước ta. Các xúc này đã cung cấp thông tin bằng chứng làm luận chứng khoa học cho việc tiếp
tục các đổi mới và hoàn thiện các chính sách Kinh tế. Xã hội
Chức năng tư tưởng
-Chức năng này thể hiện ở việc phục vụ cho việc giáo dục quan chúng theo định hưởng xã hội chủ nghĩa phát huy ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường đang tác. động đến mọi mặt của đời sống
-Trong việc giáo dục tư tưởng quân chủng theo chủ nghĩa Mác- Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh, XHH vũ trang cho mọi người tri thức về quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa XHH Mác Lê
còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tư duy khoa học thói quen nếp suy xét trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, năm bắt và hành động hợp với quy luật khách
quan và phát huy được bản chất tốt đẹp của xã hội chủ nghĩa
Từ đó, xã hội học giúp chúng ta nhận thức đẩy du sức mạnh và vị trí của con người trong hệ thống xã hội, góp phần nâng cao tính tích cực xã hội của cá nhân và hình thành nên tư duy khoa học trong khi xem xét, phân tích, nhận định,
dự báo về các sự kiện hiện tưởng và quá trình xã hội.
-Lâ p trường của nhà xã hô i học chân chính phải luôn luôn đảm bảo tính khách quan, khoa học trong quá trình nghiên cứu.
Tóm lại chức năng tư tưởng có quan hệ với chức năng nhận thức và thực tiễn. Chức năng tư tưởng của XhCN cũng đóng vai trò kim chỉ nam định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn cho nghiên cứu XHH
3. Nhiệm vụ của xã hội học ( Đưa ví dụ, diễn giải nội dung, ý nghĩa)
3.3.1 Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận
- Nhiệm vụ hàng đầu của XHH là xây dựng và phát triển hệ thống các khái niệm, phạm trù, lý thuyết khoa học riêng mang tính đặc thù của nó.
- XHH có nhiệm vụ hình thành và phát triển công tác nghiên cứu luận để củng cố định máy khái niệm vừa tìm cứu và tích lũy tri thức tiến đến phát triển nhảy vọt về chất trong lý thuyết và PPNC trong hệ thống khái niệm và khoa học
tri thức.
=> Nhiệm vụ nghiên cứu của XHH hướng dẫn đến hình thành và phát triển hệ thống lý luận, PPNC và tổ chức nghiên cứu một cơ sở, hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn nhắm đáp ứng y/c phát triển KT – XH của đất nước ta.
Ví dụ là "nghiên cứu về tác động của công nghệ thông tin đối với cuộc sống hàng ngày của con người".
*Nhiệm vụ này yêu cầu người nghiên cứu tìm hiểu về cách mà công nghệ thông tin đã thay đổi cách chúng ta sống và làm việc. Nghiên cứu này có thể tập trung vào các khía cạnh như:
- Tác động của công nghệ thông tin đối với cách chúng ta giao tiếp: Kỹ thuật công nghệ thông tin có tạo ra sự cô lập trong cuộc sống hàng ngày hay nó là một công cụ kết nối người với nhau?
- Tác động của công nghệ thông tin đối với công việc: Công nghệ đã thay đổi những công việc nào? Nó ảnh hưởng đến thị trường lao động như thế nào? Và nó có tạo ra cơ hội mới hay gây ra bất kỳ điều gì không?
- Tác động của công nghệ thông tin đối với gia đình và cộng đồng: Công nghệ đã thay đổi cách chúng tương tác với gia đình và cộng đồng xung quanh. Nghiên cứu có thể nghiên cứu về sự thay đổi nghiên cứu trong cách chúng ta liên
lạc, chia sẻ thông tin và tổ chức các hoạt động xã hội.
3.3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm
- Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm trong xã hội học là tìm hiểu và phân tích các hiện tượng, quy luật và quan hệ xã hội thông qua việc tiến hành các thí nghiệm hoặc nghiên cứu trường hợp. Mục tiêu chính của nghiên cứu thực
nghiệm xã hội học là thu thập dữ liệu sống từ thực tế và áp dụng phương pháp khoa học để hiểu rõ hơn về xã hội và hoạt động của nó đối với con người.Ví dụ về nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm trong xã hội học có thể là:
- Nghiên cứu về tác động của các chính sách công cộng: Một nghiên cứu thực nghiệm có thể tiến hành đánh giá kết quả hiệu quả của các chính sách công cộng như chính sách giáo dục, chính sách chi tiêu công cộng, hoặc chính sách
phân phối đầu vào. Điều này nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu ngẫu nhiên kiểm soát và tiến hành các cách cải cách trong một số khu vực để so sánh sự khác biệt với nhóm đối chứng.
- Nghiên cứu về hoạt động xã hội của công nghệ mới: Một nghiên cứu thực tế có thể được thực hiện để hiểu rõ hơn về hoạt động của công nghệ mới đến xã hội. Ví dụ, một nghiên cứu có thể xem xét tác động của mạng xã hội và
truyền thông kỹ thuật số đến sự tương tác xã hội, quan hệ giữa các cá nhân và hình thành cộng đồng trực tuyến
- Nghiên cứu về tác động xã hội của các chương trình giáo dục và đào tạo: Một nghiên cứu thực nghiệm có thể được tiến hành để đánh giá tác động của các chương trình giáo dục và đào tạo để cải thiện khả năng làm việc , thu nhập và
chất lượng cuộc sống của cá nhân và cộng đồng.
- Bằng cách tiến hành các thực nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội học, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tác động xã hội của các nhà quản lý và chính sách, tạo ra cơ sở tăng cường và phát triển xã hội.
Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng
5
- Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng xã hội học là khám phá và hiểu các tương tác xã hội, cấu trúc và luật pháp trong xã hội và áp dụng các công thức đó vào thực tế để giải quyết các vấn đề xã hội và cải tiến chất lượng cuộc sống tốt
hơn. Dưới đây là một số công cụ nghiên cứu ứng dụng của xã hội học
+ Nghiên cứu hành vi con người và tương tác xã hội: Xã hội học có thể nghiên cứu các mô hình tương tác trong các nhóm xã hội, hành vi tập thể, ảnh hưởng của văn hóa và tính năng vào quan hệ xã hội . Điều này có thể giúp các tổ
chức văn hóa và chính phủ hiểu được khách hàng, cải thiện khả năng quản lý nhân sự và xây dựng các chính sách xã hội công bằng.
+ Nghiên cứu xã hội hóa và đấu tranh xã hội: Xã hội học có thể nghiên cứu các tiến trình xã hội hóa và đấu tranh xã hội, như sự hình thành và tiến trình phát triển của nhóm phụ nữ, nhóm dân tộc, tầng lớp xã hội. Kết quả này có thể
hỗ trợ việc xây dựng các chính sách xã hội, đấu tranh cho công bằng xã hội và giảm đói nghèo.
+ Nghiên cứu xã hội và sức khỏe: Xã hội học cũng có thể giúp nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sức khỏe trong cộng đồng như bệnh tật, tình trạng tâm thần, quan hệ gia đình và hoạt động của môi trường xã hội hội đến sức khỏe.
Những nghiên cứu này có thể cung cấp dữ liệu quan trọng cho các chương trình chăm sóc sức khỏe, xây dựng chính sách y tế và tăng cường thông tin về sức khỏe trong cộng đồng.
+ Nghiên cứu xã hội và phân tích dữ liệu: Xã hội học cũng có thể giúp phân tích dữ liệu xã hội, chẳng hạn như dữ liệu từ mạng xã hội, địa lý dữ liệu và môi trường dữ liệu. Việc phân tích dữ liệu xã hội có thể giúp các tổ chức và cơ
quan chính phủ đưa ra quyết định dựa trên viễn thông và sự kết hợp giữa các yếu tố xã hội, kinh tế và môi trường.
Như vậy, nghiên cứu ứng dụng xã hội học có thể tạo ra những hiểu biết sâu sắc về quan hệ xã hội, tương tác và cấu trúc xã hội và áp dụng những kết quả đó vào thực tế để tạo ra những giải pháp đồng thời điểm rất cần thiết cho xã hội.
Ví dụ về nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng có thể là "nghiên cứu về ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong mạng bảo mật".
* Trong nhiệm vụ này, người nghiên cứu sẽ tiến hành một nghiên cứu để khám phá và áp dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo để nâng cao tính an toàn và bảo mật trong mạng hệ thống. Quá trình nghiên cứu có thể diễn ra như sau:
+ Xác định mục tiêu: Người nghiên cứu xác định mục tiêu nghiên cứu, cải thiện khả năng phát hiện các cuộc tấn công mạng, giảm thiểu rủi ro bảo mật, hay tăng cường khả năng phòng các mối đe dọa mạng.
+ Thu thập dữ liệu: Người nghiên cứu thu thập dữ liệu về các cuộc tấn công mạng, các biểu hiện cụ thể và mẫu hành động của các cuộc tấn công, cũng như dữ liệu về các giải pháp bảo mật hiện có.
+ Phát triển và huấn luyện mô hình: Sử dụng dữ liệu đã thu thập, người nghiên cứu xây dựng và huấn luyện một mô hình trí tuệ nhân tạo, như mạng nơ-ron, máy học hoặc học sâu để phân loại các cuộc tấn công mạng và nhận diện
các cuộc tấn công tấn công trong thời gian thực hiện.+ Kiểm tra định nghĩa và đánh giá: Sau khi mô hình hóa huấn luyện viên, người nghiên cứu tiến trình kiểm tra và đánh giá hiệu suất của mô hình bằng cách sử dụng thử nghiệm
kiểm tra dữ liệu. Các giá trị được đánh giá chỉ như độ chính xác, độ nhạy và độ cụ thể sẽ được tính toán để đánh giá kết quả hiệu quả của mô hình.+ Áp dụng và phát triển khai báo: Nếu mô hình đạt được kết quả hiệu quả, người
nghiên cứu có thể ứng dụng mô hình vào hệ thống thực tế trong mạng bảo mật lớn. Từ đó, các công ty và tổ chức có thể tự động phát hiện và ngăn chặn các cuộc tấn công mạng bằng một cách hiệu quả hơn.
4. Quan hệ giữa xã hội học với các khoa học khác
4.1. Quan hệ giữa xã hội học với triết học
Triết học nghiên cứu về các qui luật chung về sự hình thành và phát triển xã hội. Quan hệ giữa triết học và xã hội học là quan hệ giữa . Các nhà xã hội học mácxít vận dụng chủ nghĩa duy vậtKhoa học cụ thể với thế giới quan khoa học
lịch sử và phép biện chứng duy vật làm công cụ lý luận sắc bén để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Trong quan hệ với triết học, các nhà Xã hội học tránh hai quan niệm cản trở sự phát triển của Xã hội học.
Quan niệm thứ nhất: Cho rằng xã hội học là một bộ phận của triết học, quan niệm này đã đồng nhất việc nghiên cứu lý luận xã hội học với chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc giải thích đời sống xã hội. Thực tế, quan niệm
này trong một thời gian đã làm ngưng trệ quá trình hình thành xã hội học như là một khoa học độc lập ở một số nước.
Quan niệm thứ hai: Cho rằng xã hội học biệt lập hay đối lập với triết học. Những người theo quan niệm này lập luận rằng, xã hội học ra đời với tư cách là một khoa học cụ thể, đối lập với triết học tư biện, kinh viện, giáo điều,
bất lực trước các vấn đề mới mẻ nảy sinh từ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội châu Au thế kỉ XIX. Nói cách khác, xã hội học không có mối liên hệ gì đáng kể so với triết học.
Quan niệm này cố tình làm ngơ hoặc không nhìn thấy một thực tế là xã hội học bao giờ cũng có tính triết học và tính tư tưởng. Tính triết học của xã hội học thể hiện ở chổ xã hội học tìm hiểu bản chất của các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên và xã hội và nhận thức qui luật chung của sự vận động và phát triển của con người và xã hội.
Trong xã hội học, tính triết học là xã hội học gắn liền với thế giới quan, hệ tư tưởng và tính giai cấp. Các nhà xã hội học mácxít xây dựng học thuyết xã hội học trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử, xã hội
và con người và luôn coi triết học Mác-Lênin là thế giới quan, phương pháp luận và vũ khí tư tưởng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội công bằng, văn minh.
Vì vậy, có thể nói giữa xã hội học và triết học có mối quan hệ biện chứng. Các nghiên cứu xã hội học cung cấp những thông tin và phát hiện các vấn đề, bằng chứng mới làm phong phú kho tàng tri thức và phương pháp luận
triết học. Trên cơ sở nắm vững tri thức xã hội học ta có thể vận dụng một các sáng tạo tri thức triết học vào thực tiễn.
Xã hội học và triết học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cùng bổ trợ cho nhau tồn tại và phát triển song song. Đều tìm hiểu về con người và xã hội, nhưng chúng có phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và mục tiêu
khác nhau. Xã hội học tập trung vào nghiên cứu hiện tượng xã hội cụ thể, trong khi triết học lại đặt ra các câu hỏi lớn về chất và ý nghĩa của cuộc sống và tri thức.
4.2. Quan hệ giữa xã hội học với tâm lý học
-Tâm lý học: nghiên cứu suy nghĩ và hành vi của từng cá nhân
(đọc: là ngành KH nghiên cứu việc xử lí thông tin và biểu hiện hành vi ở con người, làm rõ bản chất của con người bằng cách đi sâu vào mọi ngõ ngách của đời sống, từ kinh tế, chính trị, xã hội cho đến văn hóa, giáo dục, triết học...
Hiện nay, tâm lí học được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong tất cả các mối quan hệ của đời sống ở các lĩnh vực xã hội.)
-Xã hội học: nghiên cứu hành vi của các nhóm người và các tương tác xã hội trong tập thể (ví dụ như gia đnh, quốc gia, công ty)
(đọc: Là ngành khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử; là khoa học về các cơ chế tác động và các hnh thức biểu hiện của các quy
luật đó trong các hoạt động của cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.)
=> đều nghiên cứu về con người và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
Ở giai đọan đầu phát triển, xã hội học châu Âu không chấp nhận vai trò của tâm lý học trong việc giải quyết các vấn đề xã hội học. Trong khi đó ở xã hội học Mỹ, một số tác giả như G.Homans cho rằng cần sử dụng tâm lý học để giải
thích các hiện tượng xã hội học, bởi hành động con người, tương tác giữa các cá nhân là nền tảng của các quá trình xã hội, cơ cấu xã hội. Mà hành động cá nhân được coi là kết quả của tâm lý cá nhân. Do vậy, các qui luật tâm lý cá
nhân phải là những nguyên lý nghiên cứu cơ bản của xã hội học.
Cuộc giằng co lý luận giữa xã hội học và tâm lý học vẫn còn tiếp diễn, không phân thắng bại. Kết quả là tâm lý học xã hội trở thành một chuyên ngành của cả tâm lý và xã hội.
Tuy nhiên, giữa xã hội học và tâm lý học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, các nhà xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận của tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là họat động cảm tính, có đối tượng, có
mục đích. Như vậy, xã hội học không bị tâm lý học lấn át vì xã hội học không tập trung nghiên cứu về cá nhân, về hành vi xã hội, về họat động tâm lý của con người. Xã hội học cũng không phải là “khoa học nửa nọ nửa kia” vì không
nghiên cứu theo kiểu “ mỗi thứ một tí”, tức là vừa nghiên cứu con người vừa nghiên cứu xã hội một cách biệt lập với nhau.
-xã hội học mang nhiều nét tương đồng của môn Tâm lý học, tuy nhiên Tâm lý học nghiên cứu sâu về con người hơn
(đọc: trước thế kỷ XIX, xã hội học chưa tồn tại như một môn khoa học độc lập mà bị hòa tan vào trong các môn khoa học khác như nhân chủng học, dân tộc học, nhân học, tâm l$ học, tâm l$ học xã hội và đặc biệt là triết học - “môn
khoa học của mọi khoa học." Nên xã hội học mang nhiều nét tương đồng của môn Tâm l$ học, tuy nhiên Tâm l$ học nghiên cứu sâu về con người hơn (nhận thức, cảm xúc, tnh cảm...)
- các nhà xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận của tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, có mục đích.
- xã hội học không bị tâm lý học lấn át
(Đọc: xã hội học không bị tâm l$ học lấn át v xã hội học không tập trung nghiên cứu về cá nhân, về hành vi xã hội, về họat động tâm l$ của con người mà vừa nghiên cứu con người vừa nghiên cứu xã hội một cách biệt lập với
nhau.)
Như vậy, xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, mục đích.
4.3. Quan hệ giữa xã hội học với kinh tế học
6
Xã hội học và kinh tế có mối quan hệ gắn kết.
Kinh tế học nghiên cứu quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng của cải vật chất xã hội. Nó cũng nghiên cứu những vấn đề như việc làm, thất nghiệp, lạm phát, maketting…
xã hội học nghiên cứu về tương tác giữa con người với con người trong kinh tế (sản xuất, phân phối, lưu thông), nghiên cứu những mô hình tương tác trong quan hệ kinh tế. t trao đổi xã hội…
Ngược lại thì một số khái niệm, phương pháp và thành tựu nghiên cứu xã hội học được các nhà kinh tế học hết sức quan tâm.Sự giao thoa này cho ra đời ngành Kinh tế học xã hội.
4.4. Quan hệ giữa xã hội học với nhân chủng học
-Xã hội học nghiên cứu sự phát triển, tương tác, cấu trúc của các nhóm và thay đổi hành vi của một nhóm người có tổ chức để phân tích những thay đổi của họ.
-Nhân chủng học: nghiên cứu về con người chủ yếu thông qua quá khứ và sự tiến hóa của họ liên quan đến các đặc điểm văn hóa, môi trường và sinh học.
=> Xã hội học và nhân chủng học có nhiều mối tương đồng về đối tượng nghiên cứu
Như đã nói, Xã hội học và nhân chủng học có nhiều mối tương đồng về đối tượng nghiên cứu, nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau để phân chia chúng thành hai môn khoa học độc lập. Nhân chủng học thường có đối tượng nghiên
cứu các xã hội, dân tộc phát triển chậm.Còn xã hội học thường định hướng vào các xã hội hiện đại, các xã hội phát triển, các xã hội công nghiệp.
+Xã hội học: tập trung nhiều hơn vào các vấn đề xã hội, giới tính, chủng tộc, dân tộc và các kiểu hành vi của gia đình, cộng đồng đô thị, thể chế,..
+ Nhân chủng học: tập trung vào nghiên cứu sự tiến hóa của nhân loại liên quan đến văn hóa, các vấn đề, nghi lễ, truyền thống, lịch sử và thậm chí cả thần thoại của họ.
Nhiều khái niệm và phương pháp nghiên cứu của xã hội học bắt nguồn từ nhân chủng học.Chẳng hạn khái niệm “văn hóa” được sử dụng lần đầu tiên trong công trình nghiên cứu của nhà nhân chủng học Tylor người Anh.Xã hội học
cũng có tác động trờ lại với nhân chủng học về mặt phương pháp nghiên cứu. Ví dụ việc vận dụng lý thuyết của Durkhiem về vai trò của cơ cấu xã hội, chức năng của các thiết chế xã hội, nhà nhân chủng học người Anh Radcliffe
Brown đã lý giải sự sống và khác nhau giữa các xã hội cụ thể đặc thù.
Chương 3 A - Nội Dung Lý Thuyết
Quan hệ xã hội
1, Tìm hiểu khái quát về quan hệ xã hội
Xã hội là một hệ thống các quan hệ lẫn nhau giữa người với người. Các quan hệ đó rất phong phú như : quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hoá...quan hệ giữa các cá nhân với nhau, quan hệ giữa nhóm người này với nhóm người khác.
Các quan hệ này được gọi là quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội là các mối quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội, các nhóm, các cá nhân với nhau, với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội, khác biệt nhau bởi vị trí xã hội và chức năng trong đời sống xã hội. Quan hệ xã
hội là các quan hệ bền vững, ổn định, lặp lại, có mục đích, có hoạch định, có sự phối hợp hành động của các chủ thể hoạt động xã hội, được hình thành trên cơ sở những tương tác xã hội.
Vd: Hai cá nhân ngẫu nhiên gặp nhau ở sân bay, nhà hàng hoặc rạp hát,... dù có chào hỏi, trao đổi, trò chuyện l!n đó; nhưng l!n gặp sau lại không nhận ra nhau, hoặc không tiếp tục chào hỏi, trao đổi, trò chuyện th giữa họ chưa
thể coi là có mối quan hệ xã hội. Trái lại, nếu như ở những l!n gặp gỡ sau các cá nhân đó lại tiếp tục sự giao tiếp và phối hợp hành động, th giữa họ có thể coi là có mối quan hệ xã hội.
Các loại quan hệ xã hội
- Theo vị thế : Xuất phát từ địa vị xã hội của chủ thể quan hệ, các nhà xã hội học chia quan hệ xã hội ra thành:
+ Quan hệ xã hội theo chiều ngang: là những quan hệ giữa các chủ thể có vị thế xã hội ngang bằng. Ví dụ, quan hệ giữa hiệu trưởng trường đại học này với hiệu trưởng trường đại học khác.
+ Quan hệ xã hội theo chiều dọc: là quan hệ giữa các chủ thể có vị trí cao thấp khác nhau trong xã hội như quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa Trung ương và địa phương, giữa lãnh đạo với nhân viên.
- Theo chủ thể: quan hệ xã hội giữa các tập đoàn lớn, giữa các nhóm xã hội nhỏ, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữa các cá nhân.
- Theo nội dung:
+ Quan hệ tình cảm thuần túy (quan hệ sơ cấp) : dựa trên những đặc điểm sinh học hoặc tâm lý có sẵn ở các cá nhân như giới tính, vẻ bề ngoài, quan hệ huyết thống, sở thích...
+ Quan hệ xã hội (quan hệ thứ cấp) : dựa trên những đặc điểm xã hội đạt được của cá nhân như nghề nghiệp, học vấn, địa vị, quyền lực...
Chủ thể của quan hệ xã hội
- Chủ thể quan hệ xã hội là người hoặc nhóm người có ảnh hưởng và vai trò quan trọng trong xã hội, góp phần định hình và thay đổi các quan hệ xã hội. Chủ thể này có thể bao gồm cá nhân, tổ chức, chính phủ, tôn giáo, và các tầng
lớp xã hội khác. Chúng thường thể hiện quyền lực và ảnh hưởng đối với cách xã hội hoạt động và phát triển.
- Chủ thể quan hệ xã hội được xét ở hai cấp độ:
+ Cấp độ vĩ mô: Chủ thể quan hệ xã hội là các nhóm, các tập đoàn hay toàn thể xã hội thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
+ Cấp độ vi mô: Chủ thể quan hệ xã hội là các cá nhân. Các quan hệ xã hội có thể thể hiện tính hợp tác hoặc sự xung đột. Nó xuất phát từ sự hài lòng hay không hài lòng. Nếu hài lòng về lợi ích thì sẽ dẫn đến quan hệ hợp tác, nếu
không thì sẽ là quan hệ xung đột.
=> Quan hệ xã hội còn thể hiện sự khác biệt về địa vị xã hội của các cá nhân và các cộng đồng trong xã hội. Sự khác biệt này bao gồm yếu tố tự nhiên (nằm ngoài sự chủ quan của mình, không thể quyết định mình sinh ra giàu hay
nghèo) và yếu tố xã hội (do cá nhân phấn đấu, vươn lên, có thể quyết định được).
2, Vai trò của quan hệ xã hội
- Đối với cá nhân:
+ Mang lai sự thỏa mãn: tất cả mọi người đều có nhu cầu tương tác với người khác và xây dựng mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu cho thấy rằng mối quan hệ bền vững, chất lượng cho dù nhỏ hay lớn đều đóng góp quan trọng đến hạnh
phúc và sự thỏa mãn.
+ Mang lại sức mạnh tinh thần: sự tương tác trong các mối quan hệ xã hội làm tăng thêm thú vị và niềm vui cho cuộc sống.
+ Giúp bản thân phát triển : sự phát triển và thành công của một người ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng của những người trong vòng tròn xã hội của họ, họ có thể học hỏi rất nhiều từ những người suy nghĩ tích cực hơn, luôn nhắm tới
mục đích cao hơn. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển cá nhân của bạn, sự nghiệp của bạn đồng thời kéo theo sự phát triển của toàn xã hộị. Như vậy với cá nhân, quan hệ xã hội đã tạo dựng, củng cố và phát triển hình ảnh, uy tín, ảnh
hưởng, vai trò, quan hệ của họ với cộng đồng.
- Đối với xã hội: Quan hệ xã hội giúp tạo sự khăng khít trong xã hội, tạo nên sự giao lưu về văn hóa cũng như kinh tế của các quốc gia trong xã hội. tiếp thu những nền văn hóa tiến bộ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Tạo sự hội nhập
giữa các quốc gia trên thế giới.
7
- Đối với kinh tế: Nền kinh tế được giao lưu, công nghệ khoa học tiến bộ, các công cụ sản xuất tiên tiến được áp dụng trong các ngành công nghiệp => xã hội ngày thêm lớn mạnh, cuộc sống người dân ngày càng cải thiện. Sự giao lưu
về kinh tế nhằm giúp các nước đang phát triển, chậm phát triển ngày càng đi lên, sánh vai với các cường quốc lớn mạnh trên thế giới.
- Đối với chính trị: Quan hệ xã hội không phải là các quốc gia can thiệp vào chính trị của nhau mà là tạo sự hội nhập, tôn trọng lợi ích của nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thách thức để góp phần xây dựng một thế giới hòa bình,
hữu nghị, ổn định và phát triển thịnh vượng.
II - TƯƠNG TÁC XÃ HỘI
1, Tìm hiểu chung về tương tác xã hội
a, Khái niệm
- Tương tác xã hội là tác động qua lại giữa cá nhân, nhóm xã hội với tư cách là chủ thể xã hội.
- Các nhà xã hội học thường nghiên cứu tương tác xã hội ở hai cấp độ: cấp độ vĩ mô và cấp độ vi mô. Nghiên cứu cấp độ vi mô tức là nghiên cứu về những đơn vị tương tác nhỏ nhất, còn nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô là nghiên cứu về sự
tương tác của các cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội hay giữa các thiết chế như gia đình, nhà trường, chính trị, tôn giáo.. Tuy nhiên với tư cách là thành viên của nhóm xã hội, các cá nhân thực hiện tương tác của mình đồng thời trên hai
cấp độ vĩ mô và vi mô.
b, Đặc điểm của tương tác xã hội
- Giao tiếp: Tương tác xã hội thường bắt đầu thông qua giao tiếp, bằng cách sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ, biểu cảm, hoặc các phương tiện truyền thông khác để truyền đạt ý kiến và thông tin.
- Là hành động xã hội liên tục, ở đây là hành động xã hội cơ sở, tiền đề của tương tác xã hội là sự đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể khác trên hai cấp độ: vĩ mô và vi mô.
- Tính hai chiều: Vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong quá trình tương tác, và đều chịu ảnh hưởng của các giá trị, chuẩn mực xã hội, của những tiểu văn hóa, thậm chí là các phần văn hóa khác nhau. Trong tương tác, mỗi người đều
chịu những lực tương tác khác nhau, có ý nghĩa khác nhau và đều có sự tác động khác nhau. Như vậy, tương tác vừa tạo nên những khuôn dáng mỗi người, vừa tạo nên sự hợp tác và bất hợp tác mỗi người.
- Đa dạng: Tương tác xã hội xuất hiện ở nhiều hình thức khác nhau, bao gồm tương tác trực tiếp, qua mạng, qua điện thoại, và nhiều nền tảng khác.
- Có ảnh hưởng xã hội: Tương tác xã hội có thể có ảnh hưởng lớn đến quan điểm, hành vi và cuộc sống của con người, đồng thời cũng có thể có tác động đến xã hội rộng hơn.
c, Phân loại tương tác xã hội
- Nhóm tương tác: những biểu hiện mang tính tích cực, xây dựng
- Nhóm tương tác cạnh tranh: Chứa đựng những tương tác mang tính tiêu cực, phá hoại, đối kháng
- Hình thức thi đua: Là hình thức trung gian giữa hai dạng trên
- Ngoài ra có thể phân loại tương tác xã hội theo cách sau:
+ Tương tác nhóm - nhóm : Khi hai nhóm trong xã hội cạnh tranh trong hoạt động nhằm một mục đích nào đó.
+ Tương tác trực tiếp: Khi chủ thể hành động tương tác mặt đối mặt, không thông qua phương tiện trung gian nào.
+ Tương tác gián tiếp: Khi chủ thể thông qua các phương tiện trung gian như: điện thoại, vi tính, fax,.. để thiết lập và duy trì quá trình tương tác
2, Một số lí thuyết xã hội học và tương tác xã hội
- Lý thuyết tương tác biểu trưng (còn gọi là lý thuyết hành vi xã hội)
Luận điểm trung tâm của lý thuyết tương tác biểu trưng cho rằng vậy các cá nhân trong quá trình tương tác qua lại lẫn nhau không phản ứng đối với các hành động trực tiếp của người khác, mà đọc và lý giải chúng, ở đây mỗi hành
động được gắn với một ý nghĩa nào đó, được gọi là biểu tượng.Các biểu tượng có một đặc điểm chung là mang những ý nghĩa nhất định và tẩo sự phản ứng giống nhau ở các cá nhân. Hệ thống các biểu tượng tương tác được chia
thành hai loại: không có hàm ý và có hàm ý.
- Lý thuyết trao đổi về tương tác xã hội
Theo Homans, các cá nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần. Như vậy sẽ xuất hiện hai trạng thái hành động trong tương tác, hành động cho và hành động nhận. Cá nhân thực hiện hành động cho
nhiều lần với người khác, thì sẽ có xu hướng tâm lý muốn được nhận lại nhiều lần. Ngược lại, cá nhân được nhận nhiều từ người khác sẽ cảm thấy bị tác động bởi một áp lực vô hình của sự nhận và cho. Từ đó xuất hiện xu hướng cân
bằng giữa trao và nhận của các cá nhân trong quá trình tương tác. Homans gọi đó là sự cân bằng chi phí, tâm lý chung của các cá nhân là mong muốn nhận được những phần thưởng lớn nhất so với những chi phí đã bỏ ra. Trong thực
tế cuộc sống xã hội, quá trình tương tác theo mô hình trao đổi xã hội rất phổ biến, bởi toàn bộ các tương tác xã hội là một tập hợp phức tạp của các trao đổi.
Những nguyên tắc tương tác cá nhân là:
+ Nếu một dạng hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng lặp lại. Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu hướng lặp lại trong hoàn cảnh như vậy.
+ Nếu phàn thưởng và mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ bỏ ra nhiều chi phí vật chất và tinh thần để đạt được nó - Khi các nhu cầu của cá nhân hầu như hoàn toàn thoả mãn thì họ ít cố gắng hơn trong việc thoả mãn chúng.
- Lý thuyết kịch trong tương tác xã hội
Lý thuyết kịch hay còn gọi là lý thuyết kiềm chế biểu cảm (đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là Ervings Goffman), quan niệm rằng: toàn bộ đời sống xã hội là một tấn kịch khổng lồ với những diễn viên vừa đóng vai khán giả, vừa
đóng vai nhân vật.
Luận điểm then chốt của lý thuyết kịch là kiềm chế biểu cảm, nghĩa là trong những tình huống cụ thể, cá nhân cố gắng tạo ra và duy trì một trạng thái biểu cảm phù hợp nhất (đóng kịch). Phương pháp này nghiên cứu những quy tắc
hiển nhiên điều khiển sự tương tác của người này với người khác.Những quy tắc này được người ta dùng thường xuyên đối với những người biết rõ nhau như những người trong gia đình, bạn bè thân thiết, rộng hơn là những người
cùng một nền văn hoá.
Nói cách khác, con người ta thường xuyên dùng mặt nạ – trừ khi anh ta ở một mình, khi mang mặt nạ, cá nhân phải chú ý hành động sao cho phù hợp với mặt nạ đó. Vì vậy, Goffman cho rằng, quá trình tương tác xã hội là một chuỗi
vô tận gồm các bước (hay chu kỳ): Mang mặt nạ – Tháo bỏ mặt nạ – Sự chân thành giả tạo – Tháo bỏ mặt nạ. Và tất nhiên quá trình tương tác xã hội chỉ diễn ra theo chu kỳ này khi có sự giám sát của những người xung quanh.
Lý thuyết kịch là một quan điểm tiêu cực về tương tác giữa con người với con người. Các cá nhân khi xuất hiện trước mặt nhau luôn không thành thật với nhau, họ có thể vui cười, có thể khóc với nhau, nhưng tất cả những biểu cảm
đó đều được tạo ra có chủ ý làm hài lòng người khác. Nhưng cũng có những khi họ hành động trái ngược với sự mong đợi của người khác.
B - Vận Dụng Thực Tiễn
Vận dụng quan hệ xã hội trong thực tiễn
Quan hệ xã hội là một khái niệm quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nó ám chỉ các mối quan hệ giữa con người trong xã hội, bao gồm cả quan hệ cá nhân và quan hệ tập thể. Vận dụng quan hệ xã
hội trong thực tế có thể giúp chúng ta xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt, góp phần vào sự phát triển của cộng đồng và đạt được thành công trong cuộc sống. Dưới đây là một số ví dụ về việc vận dụng quan hệ
xã hội trong thực tế:
Xây dựng mối quan hệ cá nhân: Quan hệ xã hội có thể giúp chúng ta xây dựng và duy trì các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp. Chúng ta có thể áp dụng kỹ năng giao tiếp, lắng nghe và thấu hiểu người khác để tạo ra một môi gắn kết và
hỗ trợ lẫn nhau. Quan hệ cá nhân và cộng đồng sẽ góp phần tạo sự gắn kết những cá nhân có chung mục đích, quan điểm và lý tưởng với nhau một cách chặt chẽ hơn. Quan hệ bạn bè, gia đình: Nó như một nguồn sống không thể thiếu
trong mỗi con người chúng ta vậy. Nếu không có những mối quan hệ thì bạn không thể làm được gì, ngay cả những cái đơn giản nhất cũng vậy.
2. Hợp tác trong công việc: Quan hệ xã hội cũng có thể được áp dụng trong môi trường làm việc. Một nhân viên có thể áp dụng kỹ năng giao tiếp và hợp tác để làm việc với đồng nghiệp khác, chia sẻ kiến thức và kỹ năng của mình
để đạt được mục tiêu chung. Quan hệ xã hội tốt trong công việc có thể tạo ra một môi trường làm việc tích cực, khuyến khích sự sáng tạo và tăng cường hiệu suất làm việc. Quan hệ đồng nghiệp trong một công ty hoặc một ngành
nghề: đây là kiểu quan hệ xã hội dựa trên vị thế xã hội (cùng vị thế). Quan hệ đồng nghiệp sẽ giúp trao đổi và chia sẻ vấn đề công việc, phối hợp cùng làm việc tốt hơn.
Quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới: đây là kiểu quan hệ xã hội dựa trên vị thế xã hội (khác vị thế). Các tương tác chủ yếu trong quan hệ này là trao đổi công việc, giúp tăng hiệu quả và tạo ra môi trường làm việc thân thiện, rút ngắn
khoảng cách vị thế.
3. Đóng góp vào cộng đồng: Quan hệ xã hội cũng có thể được vận dụng để đóng góp vào cộng đồng. Chúng ta có thể tham gia vào các hoạt động xã hội, tình nguyện và các tổ chức phi lợi nhuận để giúp đỡ những người khác và cải
thiện điều kiện sống của cộng đồng.
8
4. Giải quyết xung đột: Quan hệ xã hội cũng có thể giúp chúng ta giải quyết xung đột và khắc phục sự bất đồng quan điểm. Khi xảy ra xung đột trong một nhóm hoặc tổ chức, các thành viên có thể áp dụng kỹ năng đàm phán, lắng
nghe và tôn trọng ý kiến của nhau để tìm ra giải pháp chung và đạt được sự thỏa thuận.
5. Xây dựng mạng lưới: Quan hệ xã hội cũng có thể giúp chúng ta xây dựng mạng lưới quan hệ và tạo ra cơ hội mới. Bằng cách kết nối với những người có cùng sở thích và mục tiêu, chúng ta có thể học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau trong
việc phát triển bản thân và đạt được thành công trong cuộc sống. Ví dụ như các cá nhân hoặc doanh nghiệp có thể áp dụng quan hệ xã hội để xây dựng mạng lưới quan hệ và tạo ra cơ hội mới. Việc kết nối với những người có cùng sở
thích và mục tiêu có thể mang lại lợi ích trong việc tìm kiếm việc làm, hợp tác kinh doanh hoặc tìm kiếm cơ hội phát triển cá nhân.
Tóm lại, quan hệ xã hội có vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Vận dụng quan hệ xã hội trong thực tế có thể giúp chúng ta xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt, hợp tác trong công việc, đóng góp vào cộng
đồng, giải quyết xung đột và xây dựng mạng lưới quan hệ.
II. Vận dụng tương tác xã hội trong thực tiễn
Dưới đây là một số ví dụ về việc vận dụng tương tác xã hội trong thực tế:
1.Trong giao tiếp hàng ngày: Mỗi ngày chúng ta đều tham gia vào các tương tác xã hội thông qua việc giao tiếp với người khác. Việc sử dụng ngôn ngữ, ngôn từ phù hợp, lắng nghe và hiểu ý kiến của người khác là những ví dụ về
việc vận dụng tương tác xã hội trong giao tiếp hàng ngày.
Trong việc xây dựng mối quan hệ: Khi chúng ta muốn xây dựng một mối quan hệ tốt với người khác, việc sử dụng các kỹ năng tương tác xã hội là rất quan trọng. Ví dụ về việc hiểu và tôn trọng ý kiến của người khác, chia sẻ thông
tin và cảm xúc của mình, tạo ra sự tin tưởng và sẵn lòng giúp đỡ người khác.
3.Trong việc làm việc nhóm: Khi tham gia vào một nhóm làm việc, việc sử dụng các kỹ năng tương tác xã hội là quan trọng để đạt được mục tiêu chung. Việc lắng nghe ý kiến của các thành viên khác, chia sẻ kiến thức và kỹ năng
của mình, đưa ra ý kiến xây dựng và tạo ra một môi trường làm việc hòa đồng và hiệu quả.
4.Trong việc giải quyết xung đột: Khi xảy ra xung đột trong một tình huống, việc sử dụng các kỹ năng tương tác xã hội là quan trọng để tìm ra giải pháp chung và đạt được sự thỏa thuận. Ví dụ như việc lắng nghe và hiểu quan điểm
của người khác, thể hiện sự thông cảm và tìm cách đạt được sự đồng thuận.
5.Trong việc tham gia vào cộng đồng: Khi tham gia vào các hoạt động cộng đồng, việc sử dụng tương tác xã hội là quan trọng để tạo ra một môi trường hòa hợp và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng. Ví dụ như việc hợp tác
với các tình nguyện viên khác, tôn trọng quy tắc và giá trị của cộng đồng, và tạo ra một môi trường tương tác tích cực và hỗ trợ. Hay qua những kế hoạch phát triển cộng đồng các tổ chức phi chính phủ và tình nguyện có thể sử dụng
tương tác xã hội để tạo ra một môi trường giao tiếp và tương tác với cộng đồng. Việc lắng nghe ý kiến và nhu cầu của cộng đồng, phát triển các hoạt động tương tác và hỗ trợ, tạo ra một môi trường hòa đồng và tăng cường lòng tin
của cộng đồng là những cách mà các tổ chức có thể vận dụng tương tác xã hội trong công việc của mình.
6.Trong một số các lĩnh vực tiêu biểu như
- Lĩnh vực kinh doanh: Khi một doanh nghiệp muốn tăng cường tương tác xã hội với khách hàng, họ có thể sử dụng các kênh truyền thông xã hội như Facebook, Instagram, Twitter để tạo ra một môi trường giao tiếp và tương tác với
khách hàng. Qua đó, họ có thể lắng nghe ý kiến, phản hồi và giải đáp các câu hỏi của khách hàng, tạo ra một mối quan hệ tốt hơn và tăng cường lòng tin của khách hàng đối với doanh nghiệp. Trong những doanh nghiệp kinh doanh
chúng ta còn thấy rõ được sự “tương tác cạnh tranh” vô cùng rõ rệt giữa các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân với nhau. Tương tác cạnh tranh: mang tính tích cực, không liên kết dẫn đến các chủ không thể tìm được tiếng nói chung
VD: hai doanh nghiệp bán cùng 1 loại sản phẩm cạnh tranh để loại bỏ nhau, fan và antifan của 1 nghệ sĩ tranh cãi lẫn nhau nhằm hạ bệ lẫn nhau.
- Lĩnh vực giáo dục: Giáo viên có thể sử dụng các kỹ năng tương tác xã hội để tạo ra một môi trường học tập tích cực và hỗ trợ cho học sinh. Việc lắng nghe và hiểu ý kiến của học sinh, tạo ra các hoạt động tương tác nhóm, khuyến
khích sự thảo luận và chia sẻ ý kiến là những cách giáo viên có thể vận dụng tương tác xã hội trong việc giảng dạy.
- Lĩnh vực chính trị: Các nhà lãnh đạo và chính trị gia có thể sử dụng tương tác xã hội để tạo ra một môi trường giao tiếp và tương tác với người dân. Việc sử dụng các kênh truyền thông xã hội, tổ chức cuộc họp công dân, lắng nghe
ý kiến và phản hồi của người dân là những cách mà các nhà lãnh đạo có thể vận dụng tương tác xã hội để hiểu và đáp ứng nhu cầu của người dân.
- Lĩnh vực y tế: Các nhân viên y tế có thể sử dụng tương tác xã hội để tạo ra một môi trường giao tiếp thoải mái và tạo niềm tin cho bệnh nhân. Việc lắng nghe và hiểu quan điểm của bệnh nhân, giải thích thông tin y tế một cách dễ
hiểu, đáp ứng các câu hỏi và lo lắng của bệnh nhân là những cách mà nhân viên y tế có thể vận dụng tương tác xã hội trong công việc của mình.
CHƯƠNG 4 : HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI
Khái niệm hành động xã hội
- Hành động xã hội: một bộ phận cấu thành trong hoạt động sống của các cá nhân hay các cá nhân hành động là để thực hiện hoạt động sống của mình.
- Ra đời nhằm phản ứng lại quan điểm của các nhà hành vi luận khi nói về hành động của con người: chúng ta không thể nghiên cứu được những yếu tố bên trong qui định hành vi của các cá nhân, mà chỉ có thể biết đến những phản
ứng bên ngoài.
Hành động xã hội
- Theo Triết học: “Hành động xã hội là hình thức, cách thức giải quyết các mâu thuẫn, các vấn đề xã hội”. Được tạo ra bởi các phong trào, tổ chức hay đảng phái chính trị. Như vậy, góc nhìn của triết học là ở tầm vĩ mô.
- Theo Xã hội học: M.Weber đã có định nghĩa “Hành động xã hội là hành vi mà chủ thể gắn cho nó ý nghĩa chủ quan nhất định”. Các cá nhân hành động chính là thể hiện hoạt động sống của mình. Hành động xã hội luôn gắn với tính
tích cực của các cá nhân, bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị của chủ thể hành động. Do vậy, để tìm hiểu khái niệm hành động xã hội, chúng ta bắt đầu bằng việc tìm hiểu khái niệm hành vi xã
hội.
1.1. Phân biệt hành vi và hành động xã hội
a. Hành vi Hành vi là sự biểu hiện của mối liên hệ giữa kích thích và phản ứng. Theo chủ nghĩa hành vi chính thống: các tác nhân quy định phản ứng của con người, do đó, qua các phản ứng cũng có thể hiểu được các tác nhân. Hành
vi có thể được mô tả là hành động hoặc phản ứng của một người để đối phó với các tình huống kích thích từ bên ngoài hoặc bên trong. Để hiểu hành vi của một người, chúng ta phải hiểu người đó sẽ làm gì nếu có một kích thích xảy
ra.
Phân Loại Hành Vi:
- Hành Vi Cụ Thể (Molecular) Và Hành Vi Tổng Thể (Molar):
+ Hành Vi Cụ Thể (Molecular Behavior) là một hành vi bất ngờ xảy ra mà không cần suy nghĩ.
+ Hành Vi Tổng Thể (Molar Behavior) là loại hành vi xảy ra sau khi suy nghĩ, Thay đổi cách thức tiếp cận sự việc khi họ nhìn thấy hoặc phát hiện ra một điều có hại.
- Hành Vi Thấy Rõ Và Hành Vi Không Thấy Rõ (Overt and Covert Behavior):
+ Hành Vi Thấy Rõ (Overt Behavior) là loại hành vi có thể nhìn thấy được và được thể hiện cũng như được diễn ra bên ngoài con người.
+ Hành Vi Không Thấy Rõ (Covert Behavior) là loại hành vi không hiển thị ra ngoài để người khác có thể nhận thấy được.
- Hành Vi Tự Nguyện Và Không Tự Nguyện (Voluntary and Involuntary Behavior):
+ Hành Vi Tự Nguyện (Voluntary Behavior) là loại hành vi phụ thuộc vào mong muốn của con người.
+ Hành Vi Không Tự Nguyện (Involuntary Behavior) xảy ra một cách tự nhiên và không cần suy nghĩ.
Mô hình hành vi (reaction). S- -----> R, trong đó, S là tác nhân (stimul) và R là phản ứng (reaction).
Theo sơ đồ này, hành vi của con người không có sự cân nhắc, tính toán kỹ càng mà chỉ là sự phản ứng đối với kích thích. Tức là, không có sự tham gia của ý thức hay một yếu tố nào khác. Các cá nhân bị hạ xuống thành những cái
máy phản ứng.Vì vậy, trong nhiều trường hợp, người ta còn thống nhất khái niệm hành vi với hành động vật lý - bản năng. Hành vi xã hội là một chính thể thống nhất gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Hành vi xã hội có thể được xem là tương tự như trao đổi hàng hóa, với mong muốn rằng khi bạn cho đi, bạn sẽ nhận về điều tương tự.[3] Hành vi này có thể được thực hiện bởi cả phẩm chất của cá nhân và các yếu tố môi
trường (tình huống). Do đó, hành vi xã hội phát sinh là kết quả của sự tương tác giữa hai cơ thể sinh vật và môi trường của nó. Điều này có nghĩa là, liên quan đến con người, hành vi xã hội có thể được xác định bởi cả đặc điểm cá
nhân của con người và tình huống tại chỗ. Theo lý thuyết hành vi mới, giữa các tác nhân và các phản ứng phải có các yếu tố trung gian: hệ thống nhu cầu, hệ thống giá trị và tình huống thực hiện hành vi. Như vậy, các cá nhân sẽ phải
suy nghĩ, đối chiếu, cân nhắc trước mỗi tác nhân, chứ không phải là phản ứng một cách máy móc.
b. Hành động xã hội
Theo triết học, hành động xã hội là một hình thức giải quyết mâu thuẫn và các vấn đề xã hội.
- Hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gán cho một ý nghĩa chủ quan nhất định. Như vậy, hành động bao giờ cũng có động cơ nhất định. Nhưng không phải hành động nào cũng là hành động xã hội (hành động vật lý bản năng,
hành động giống nhau của các cá nhân trong một đám đông, hành động bắt chước thuần tuý...). Tuy nhiên, rất khó phân biệt chính xác hành động xã hội và hành động không xã hội vì con người không phải lúc nào cũng hoạt động một
cách có ý thức, có ý chí.
9
- Hành động xã hội là một bộ phận cấu thành hoạt động sống của cá nhân.
c. Sự khác biệt giữa hành vi xã hội và hành động xã hội
- Hành vi xuất phát từ mô hình kích thích - phản ứng. Còn hành động diễn ra theo nguyên tắc
- Hành vi không có động cơ. Còn hành động luôn được xác định bởi những động cơ đằng sau nó, người ta thực hiện hành động khi muốn một cái gì đó, để đạt một cái gì đó.
- Khi hành động, các chủ thể có khả năng giám sát hành động của chính họ một cách có phản ứng còn hành vi thì không.
- Hành động luôn được quy chiếu theo những giá trị, chuẩn mực của xã hội như đúng – sai, tốt
- Hành vi thì không có tính chuẩn mực. phản ứng có suy nghĩ.
2. Cấu trúc của hành động xã hội
2.1. Các thành phần của hành động xã hội
Một hành động xã hội được tạo nên bởi hệ thống các thành phần sau:
Nhu cầu: Là khởi điểm của hành động xã hội bởi các cá nhân luôn hành động có mục đích và lợi ích cá nhân
Động cơ và mục đích của hành động: Mọi hành động đều được các động cơ thúc đẩy, dẫn dắt, tạo ra các định hướng nhất định để đạt mục đích – tức là kết quả đã được hình dung trước. Các động cơ cơ bản không chỉ liên quan đến
các nhu cầu vật chất mà bao gồm giá trị, lợi ích, lý tưởng đã được các chủ thể tiếp nhận.
Chủ thể hành động: Là các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Trong đó, nếu hành động của chủ thể là một cá nhân thì thường có tính duy ý chí cao, tức là tính chủ quan trong nhận định về hòan cảnh cao hơn khi nó được thể hiện với sự có
mặt của các cá nhân khác. Khi chủ thể hành động là nhóm, cộng đồng hay cả một xã hội hành động thì hành động xã hội là kết quả do một tập hợp cá nhân tiến hành như míttinh, biểu tình, hội họp, làm việc….
Hoàn cảnh hoặc môi trường hành động: Bao gồm những điều kiện về thời gian, không gian vật chất và tinh thần của hành động. Nó sẽ quyết định hành động sẽ diễn ra vào thời gian nào, địa điểm nào và trong bối cảnh xã hội ra sao?
Hoàn cảnh, mối trường hành động tác động rõ đến mức các nhà xã hội học gọi đó là “sự kiềm chế thực tế”.
Công cụ, phương tiện hành động: Tùy theo hoàn cảnh của hành động, các chủ thể hành động sẽ lựa chọn phương án sử dụng công cụ, phương tiện tối ưu nhất đối với họ.
Các thành phần của hành động xã hội không tồn tại một cách độc lập mà có mối liên quan hữu cơ với nhau và có ý nghĩa quan trọng quyết định kết quả của hành động xã hội.
2.2. Hành động xã hội và hậu quả không chủ định
Hành động xã hội luôn có những động cơ thúc đẩy và ý thức về kết quả có thể xảy ra (có chủ định) nhưng đôi khi, chúng vẫn đem lại những kết quả hành động không theo ý muốn. Có hậu quả không chủ định do chúng ta không phải
bao giờ cũng có sự nhận định đầy đủ và chính xác hoàn toàn về môi trường xung quanh. Nhưng không phải mọi kết quả không chủ định đều là những hậu quả xấu và không được mong muốn, nó có thể mang lại kết quả tốt hay những
bất ngờ thú vị cho chủ thể.
Hậu quả không chủ định liên quan đến sự hiểu biết của chủ thể về sự chủ định đó. Thông thường, cá nhân không phải bao giờ cũng có thể nhận diện đầy đủ và chính xác hoàn toàn về môi trường xung quanh, nơi diễn ra hành
động đó.
Để giảm bớt hậu quả không chủ định, chúng ta cần tăng cường sự hiểu biết về bản thân, đồng thời chú ý hơn đến hoàn cảnh, điều kiện, môi trường hành động.
3. Phân loại hành động xã hội của Max Weber
Max Weber cho rằng một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một hành động xã hội
Vd: Em bé khóc khi ở một mình, hành động này là chủ thể thực hiện khi ở một mình, không có sự chứng kiến, cũng không định hướng vào người khác, hành động này không được gọi là hành động xã hội
Hành động không phải là kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội.
Ông đã phân loại hành động xã hội ra làm bốn loại:
Hành động hợp lý về mục đích: Hành động này được xác định bởi mức rõ ràng, tính giá trị duy nhất của mục đích, tương ứng với nó là những phương diện đã được ý thức một cách hợp lý, nhằm đảm bảo cho việc chiếm lĩnh hành
động
Nó có ưu điểm lớn về mặt phương pháp luận và đóng vai trò mô hình, để từ đó,các loại hành vi được hình thành và xây dựng trên cơ sở những hoàn cảnh cụ thể.
VD: hành động kinh doanh, luôn phải tính toán, lựa chọn giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng để đạt được hiệu quả cao nhất có thể
Hành động hợp lý về mặt giá trị: là loại hành động tuân thủ quy tắc của cái nghĩa, của hành vi đúng mức hay gọi là hành vi chuẩn. Hành động hợp lý về giá trị sẽ kèm theo một đặc tính phụ, là tính có hoạch định. Nhưng giá trị cũng
được thể hiện qua các chuẩn mực khác nhau
VD: Cuộc sống chúng ta có ấm no hạnh phúc hay không là do bản thân chúng ta lên kế hoạch đề ra những nguyên tắc để đạt được thành công như mong đợi.
Hành động truyền thống: Là loại hành động được hình thành trên cơ sở của việc bắt chước những mô hình hành vi nào đó đã được củng cố, khẳng định trong truyền thống văn hóa và được chấp nhận.
Tức là con người hành động theo một thói quen nhất định xuất phát từ những gì được học ngay từ nhỏ. Con người có xu hướng tuân theo giá trị chuẩn mực của cộng đồng, lặp đi lặp lại thành thói quen hàng ngày.
VD: Từ thời xưa ông cha ta đã dạy: “ chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”, hiện nay dù đã có những đài thiên văn để dự báo thời tiết nhưng vẫn có thể dựa vào tự nhiên mà đoán được thời tiết hôm nay.
Hành động tình cảm: Là loại hoạt động mà đặc tính xác định của nó là trạng thái cảm xúc nhất định của chủ thể: Nó bao gồm đam mê tình cảm hay sự ghen tị, cơn thịnh nộ hay sự vui vẻ hào hứng, sự sợ hãi hay lòng quả cảm.
VD : Các cầu thủ Việt Nam sẽ vui mừng, ăn mừng khi thắng trận đấu, hoặc là chúng ta sẽ tức giận khi thấy việc bất bình trước mắt.
Weber cho rằng bốn loại hành động này trong cuộc sống không thể tách rời. Nó đan xen với nhau, khi hiểu con người thì phải hình dung ra 4 loại hành động đó trong trường hợp cụ thể
Có những hành động đối lập với hành động xã hội, đó là những hành động vật lý bản năng nghĩa là không suy nghĩ mà ta vẫn thực hiện được, vì hành động xảy ra nhanh quá không đủ thời gian để ta suy nghĩ
Như trường hợp đang đi bị cái nhánh cây rớt xuống người, hoặc bị điện giựt.
Hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ con người với xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người
Hành động xã hội mang một ý nghĩa bao trùm tổng thể các quan hệ xã hội.
Chương 5: VỊ THẾ XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ XÃ HỘI
1. Vị thế xã hội
1.1. Khái niệm vị thế xã hội
Trong xã hội học, khái niệm vị thế thể hiện ở nhiều nghĩa.
10
- Theo Linton, vị thế có nội dung là địa vị và được hiểu là vị trí tương đối của một cá nhân trong bối cảnh xã hội giới hạn nhất định, từ đó có những hy vọng nhất định về vai trò.
- Thuật ngữ “đẳng cấp” của Max Weber trong tiếng Đức khi dịch sang tiếng Anh cũng có nghĩa là “vị thế”, dùng để chỉ toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ mà một cá nhân thực hiện.
- Trong Xã hội học phân tầng, vị thế của một cá nhân có thể được xác định là một địa vị cao hay thấp trong một hệ thống được sắp xếp theo thứ bậc.
Ở nghĩa chung nhất, người ta quan niệm: Vị thế xã hội là một vị trí trong cấu trúc xã hội. Mỗi vị thế quyết định chỗ đứng của một cá nhân hay một nhóm xã hội và phương pháp ứng xử của cá nhân, nhóm xã hội đó đối với xã hội xung
quanh.
Như vậy, vị thế xã hội là địa vị, thứ bậc của chủ thể xã hội, được hình thành trong cơ cấu tổ chức xã hội, tuỳ thuộc vào sự thẩm định và đánh giá của xã hội đối với vị thế đó. Mỗi vị thế của cá nhân được xác lập qua các tiêu chuẩn
mang tính phổ biến trong xã hội như: dòng dõi xuất thân, của cải tài sản, chức vụ, nghề nghiệp, trình độ giáo dục, giới tính, khả năng, quyền lực và quyền uy....Những tiêu chuẩn này biểu lộ thái độ và mức độ tôn trọng hay khinh rẻ
của xã hội đối với vị thế của các cá nhân. Ví dụ: công nhân, nông dân, trưởng phòng, giám đốc, người giàu, người nghèo, giáo viên, bác sĩ, kỹ sư…là những vị thế xã hội.
Về cơ bản, vị thế xã hội là một hiện tượng nhận thức, trong đó, các cá nhân hoặc nhóm được so sánh với những người khác và nhóm khác về sự khác nhau dựa trên một số đặc điểm hoặc phẩm chất được cho là có ý nghĩa trong xã hội.
Từ đó có sự sắp xếp địa vị cho các cá nhân. Mặt khác, sự xếp đặt vị thế còn bắt nguồn từ những quan điểm của những người khác, những quan điểm này được dựa trên một hệ thống giá trị của cộng đồng.
Về mặt tâm lý xã hội, người ta thường tin tưởng, tín nhiệm người có vị thế xã hội cao vì họ có ảnh hưởng lớn. Do đó, xu thế chung là ai cũng muốn vươn lên cải thiện vị thế xã hội của mình. Vị thế xã hội phản ánh quyền lực, lợi ích
và trách nhiệm của cá nhân khi nắm giữ vị thế tương ứng. Đồng thời, cá nhân sẽ khẳng định vị thế của mình thông qua mối quan hệ với những người khác. Tức là vị thế của cá nhân này chỉ có ý nghĩa xã hội đầy đủ trong quan hệ với
các vị thế xã hội khác có liên quan. Ví dụ, vị thế của người giáo viên chỉ có ý nghĩa xã hội đầy đủ trong quan hệ với vị thế xã hội của học sinh – sinh viên.
Phân loại vị thế xã hội
Vị thế thường được phân thành hai nhóm:
- Vị thế tự nhiên (có sẵn, được gán cho): là những vị thế mà các cá nhân không cần phải cố gắng, nỗ lực để đạt được mà cá nhân đó được xã hội gán cho. Những vị thế này thường gắn với những thiên chức, những đặc điểm cơ bản
mà cá nhân không thể tự kiểm soát được.
Ví dụ: Vị thế giới tính, vị thế nguồn gốc xuất thân, vị thế đẳng cấp, vị thế lứa tuổi, vị thế chủng tộc, vị thế thứ bậc trong gia đình và dòng họ....
- Vị thế xã hội (đạt được): là những vị thế phụ thuộc vào những đặc điểm mà trong một chừng mực nhất định, cá nhân có thể tự kiểm soát được. Vị thế xã hội phụ thuộc vào nỗ lực phấn đấu và sự cố gắng vươn lên của bản thân.
Trong đời sống, mỗi cá nhân có nhiều vị thế khác nhau, tạo thành một tập hợp các vị thế. Mỗi vị thế có một sự phù hợp với bối cảnh xã hội. Tuy nhiên, trong các vị thế đó, bao giờ cũng có một vị thế chủ chốt, giữ vai trò chủ đạo,
chi phối các vị thế khác và trong quá trình tương tác, cá nhân thường hành động căn cứ theo vị thế chủ đạo của mình.Nghiên cứu thực nghiệm có hai cách để tìm ra vị thế. Thứ nhất, là tiền đề khách quan – khi xác lập vị thế, nó chú ý
bởi các chuẩn mực xã hội quyết định tới việc đánh giá như thu nhập, nghề nghiệp, trình độ học vấn…Thứ hai là tiền đề chủ quan – quan tâm tới quan niệm của cá nhân về đánh giá, nghĩa là tự đánh giá và đánh giá của người ngoài,
các thang đo uy tín…[Siegfried Lamnek]. Như vậy, xã hội học nghiên cứu vị thế nhằm xem xét, trong quá trình vận động của mỗi một cá nhân, họ có sự thăng tiến hay giảm sút vị thế và cá nhân chịu sự chi phối của các vị thế như thế
nào. Cá nhân thể hiện vị thế của mình thông qua vai trò xã hội. Tức là, chúng ta chiếm giữ các vị thế xã hội khác nhau, nhưng chúng ta sẽ phải thể hiện vị thế với những quyền hạn và trách nhiệm kèm theo thông qua vai trò xã hội.
Những yếu tố ảnh hưởng đến vị thế xã hội
-Sự tự đánh giá của cá nhân về bản thân mình, về vị trí xã hội của mình
-Những đặc trưng nhân cách, sinh lý và tâm lý của cá nhân
Những đặc điểm xã hội của cá nhân:
Giới tính,Lứa tuổi,Nguồn gốc xã hộiDân tộc ,Đảng phái,Học vấn,Thâm niên công tác,Điều kiện sống,Thủ đoạn,Cơ may…
2. Vai trò xã hội
2.1. Khái niệm vai trò xã hội
Thuật ngữ vai trò (role) được các nhà xã hội học vay mượn từ nghệ thuật sân khấu (kịch học) để miêu tả các vai trò xã hội có ảnh hưởng như thế nào trong đời sống xã hội. Giống như các nghệ sĩ trên sân khấu, tất cả chúng ta đều đóng
các vai trò trong cuộc sống hàng ngày. Gắn với mỗi vai trò là một kịch bản, nó giúp chúng ta ứng cử như thế nào với những người khác và họ sẽ tương tác trở lại với chúng ta ra sao?
Về mặt khái niệm xã hội học: Vai trò xã hội là một tập hợp những chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định.
Vai trò xã hội được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội tương ứng. Để thực hiện những quyền và nghĩa vụ của từng vị thế, cá nhân phải thực hiện những hành động nhất định. Những hành động đó chính là mô hình hành vi được xã
hội mong đợi đối với người chiếm giữ một vị thế. Tức là, vai trò xã hội được coi là một mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan, căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất định, để thực hiện những quyền và
nghĩa vụ tương ứng với các vị thế đó.
Những đòi hỏi, mong đợi của xã hội dành cho vai trò của cá nhân được xác định căn cứ vào chuẩn mực xã hội. Để cá nhân thực hiện tốt vai trò của mình, các đòi hỏi, chuẩn mực do xã hội đặt ra phải rõ ràng. Đồng thời, cá nhân luôn
phải học hỏi về các vai trò thông qua quá trình xã hội hoá, tức là học hỏi về những yêu cầu, đòi hỏi mà họ cần phải thực hiện khi họ tiếp nhận một vị thế xã hội nhất định..
2.2. Phân loại vai trò xã hội
Vai trò thường nhật. Là loại vai trò mà mỗi cá nhân chúng ta tham gia đóng thường xuyên và thay đổi liên tục tùy thuộc vào mối quan hệ tương tác. Nó chiếm đại đa số trong tổng số các vai mà cá nhân đóng hàng ngày. Ví dụ: Vai trò
là khách hàng, là vai anh đối với em trong gia đình, vai là một người bạn, người hàng xóm,…. Đây là vai trò mà mỗi cá nhân chỉ cần học hỏi, bắt chước một cách đơn giản là có thể đóng được.
Vai trò định chế. Là loại vai trò nếu cá nhân muốn đóng phải trải qua một qua trình đào tạo, huấn luyện theo một cách thức nhất định nào đó hoặc bởi những qui định do một tổ chức nào đó đã thiết kế sẵn. Đóng loại vai trò này được
xem như là nhiệm vụ phải đảm trách và kèm theo đó là những áp lực. Ở đây, gần như cá nhân không nghĩ đến tính sáng tạo, vì tất cả các vai trò đã trở thành khuôn mẫu, chuẩn, nghĩa là đã được định sẵn, nhập vào những vai này cá
nhân chỉ cứ thế mà đóng, không cần suy nghĩ. Lưu ý trong loại vai này luôn có tính chế tài đối với đối với những cá nhân tham gia đóng.
Vai trò kỳ vọng. Là loại vai trò mà khi cá nhân tham gia đóng sẽ nhận được sự kỳ vọng, sự mong đợi của rất nhiều người trong nhóm, tổ chức hoặc cả xã hội rộng lớn. Ví dụ: Lớp trưởng của một lớp, chủ tịch hội chất độc da cam Việt
Nam,…. Ai đóng vai trò kỳ vọng luôn phải ý thức và có trách nhiệm đáp lại sự mong đợi đó.
Vai trò gán. Là loại vai trò mà cá nhân có được xuất phát tư một yếu tố nào đó như tài năng, giới tính, yếu tố sinh học,… được nhóm hoặc xã hội gán cho bởi sự tôn vinh hay thành kiến thông qua một cuộc bình bầu chính thức hoặc
không chính thức.
Vai trò tự chọn. Đây là loại vai trò mà cá nhân đóng hay không đóng phụ thuộc vào ý chủ quan của cá nhân. Tuy nhiên, nó chỉ mang tính tương đối, vì trong một số trường hợp không phải cứ muốn là cá nhân đóng được ngay.
Chương 6: BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI
Bất bình đẳng xã hội Trong các xã hội, vấn đề bình đẳng xã hội và bất bình đẳng xã hội luôn được đặt ra không chỉ bởi các nhà khoa học mà cả đối với các chính phủ cũng như đông đảo quần chúng nhân dân. Dưới góc độ xã hội
học, vấn đề này được xem xét như sau:
11
Khái niệm bất bình đẳng xã hội
Tất cả các xã hội từ trước tới nay đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã hội. Đó là một quá trình mà trong đó, con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi các vị thế, vai trò và những đặc điểm khác của họ. Quá
trình của sự khác biệt đó chuẩn bị cho bất bình đẳng xã hội, là một điều kiện mà con người có cơ hội không ngang bằng nhau về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín.
Xã hội học quan niệm: Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với các cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội. Ở một số nước, có thể thấy, những phúc lợi xã hội về
chăm sóc sức khoẻ, an ninh, giáo dục, việc làm và ảnh hưởng chính trị được phân bố không đều một cách hệ thống.
Bất bình đẳng không phải là sự kiện xã hội ngẫu nhiên, tạm thời giữa các cá nhân trong xã hội mà nó có tính ổn định, vững bền qua nhiều thời đại xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các
nhóm xã hội khác. Qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đẳng khác nhau. Những thành viên của mỗi nhóm xã hội sẽ có những đặc điểm chung và luôn coi vị trí bất bình đẳng của họ sẽ được truyền lại cho
con cái họ.
Cơ sở tạo nên bất bình đẳng
Bất bình đẳng được hình thành trong đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Nó gắn liền với sự phân công lao động xã hội. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, sự phân công lao động càng đa dạng phức tạo, bất bình
đẳng xã hội càng trở nên gay gắt.
Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội là sự đa dạng và khác nhau giữa các xã hội và nền văn hoá, gắn liền với những đặc điểm của giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ…Tuy nhiên, theo các nhà Xã hội học, dù
cho những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội có đa dạng và khác nhau thì người ta vẫn có thể quy chúng về 3 nhóm cơ sở chủ yếu:
- Những cơ hội trong cuộc sống: là những thuận lợi vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống như của cải, tài sản, thu nhập, công việc, lợi ích chăm sóc sức khoẻ hay đảm bảo an ninh xã hội. Trong xã hội, một nhóm người có thể
có những cơ hội, trong khi các nhóm khác lại không, mặc dù các thành viên trong nhóm có nhận thức được điều đó hay không. Đây là cơ sở khách quan của bất bình đẳng.
- Do sự khác nhau về địa vị xã hội: bất bình đẳng về địa vị xã hội do thành viên của các nhóm xã hội tạo nên và thừa nhận chúng. Nó có thể là bất cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được các nhóm xã hội khác thừa nhận.
Tuy nhiên, địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi những nhóm nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội khác tự giác thừa nhận sự ưu việt đó.
- Do sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị: Bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị là khả năng của một nhóm xã hội thống trị những nhóm khác hay có ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc ra quyết định và thu được lợi từ các quyết định đó.
Bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị có thể được nhìn nhận như là có được từ những ưu thế về vật chất hoặc địa vị xã hội cao. Trên thực tế, bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những cơ hội trong
cuộc sống, đặc biệt đối với các cá nhân có chức vụ chính trị cao.
Tóm lại, cấu trúc bất bình đẳng có thể dựa trên một trong ba loại ưu thế đó. Gốc rễ của bất bình đẳng có thể nằm trong mối quan hệ kinh tế, địa vị xã hội, hay trong các mối quan hệ thống trị về chính trị của các giai cấp trong xã hội.
Một vài quan điểm về bất bình đẳng xã hội
Bất bình đẳng xã hội là một hiện tượng xã hội phổ biến, nhưng phải chăng nó là hiện tượng xã hội bất biến? Tuy nhiên, đây là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau. Chúng ta sẽ xem xét một số quan điểm tiêu biểu về bất bình đẳng xã
hội.
Aristotle (384 – 322 TCN) từng cho rằng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị trị, và đó là một luật lệ.” Ngay cả đến hiện nay, quan điểm này vẫn còn tồn tại. Steven Goldberg nêu quan điểm: “Sự thống trị và sự thành đạt cao
của nam giới là khả năng không thể đảo ngược, bởi có những khác biệt về sinh học giữa nam và nữ.”
Thực ra những quan điểm hoàn toàn tương tự có thể được tìm thấy trong các xã hội khác. Trong không ít các gia đình Việt Nam hiện đại, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại. Người con trai luôn được dành cho những ưu tiên và
cơ hội nhiều hơn người con gái và tất yếu điều này làm cho sự bất bình đẳng ngày một kéo dài và trầm trọng hơn.
Trong luận văn năm 1753, Jean-Jacques Rousseau đã vạch rõ nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội là ở chế độ tư hữu tài sản. Theo ông, bất bình đẳng không phải là một quy luật tự nhiên,Về nguồn gốc của sự bất bnh đẳng
mà là sản phẩm của xã hội loài người; nó tồn tại và phát triển từ khi xuất hiện chế độ tư hữu tài sản; rằng con người đã tạo ra sự bất bình đẳng thì con người cũng có thể xóa bỏ nó. Những đặc điểm về kinh tế – chính trị và thị trường
lao động tạo ra những khác biệt trong thu nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các cá nhân trong cơ cấu xã hội gây ra bất bình đẳng kinh tế. Ông cũng đã phân biệt rõ hai loại bất bình đẳng giữa người với người. Đó là
bất bình đẳng tự nhiên và bất bình đẳng xã hội – bất bình đẳng do cơ chế xã hội tạo nên.
Một số nhà xã hội học khác cho rằng bất bình đẳng là không thể tránh khỏi do xã hội có những nhiệm vụ này cần thiết hơn những nhiệm vụ khác và khả năng thực hiện những nhiệm vụ này khác nhau. Họ lập luận rằng bất bình đẳng
xã hội về lợi ích giữa các cá nhân là cần thiết để thúc đẩy người tài nhất thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất. Chính sự bất bình đẳng thúc đẩy các cá nhân lao đô ng, học tâ p để mang lại cơ hô i cho chính bản thân mình. Do vậy
không thể thủ tiêu bất bình đẳng, vì bình đẳng có thể nguy hiểm cho xã hội như nhà kinh tế học A. Lechevalier phân tích:“Bình đẳng chung chung thậm chí còn đi ngược lại ý niệm về sự công bằng, không chỉ là công bằng về nỗ lực
cá nhân, về nhu cầu, ham muốn mà cả những thiệt thòi.”
Những quan điểm trên quá nghiêng về mặt sinh học của con người hoặc nghiêng về yếu tố kinh tế. Khác với các quan điểm trên, Marx và Weber
Marx chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các học thuyết kinh tế mà ông coi là nền tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp là chìa khoá của mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Marx khẳng định: “Những tư tưởng thống trị của một
thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị” và phục vụ cho giai cấp thống trị.
Max Weber nghiên cứu cấu trúc xã hội sau Marx hơn nửa thế kỷ. Do vậy, ông đã ghi nhận những thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội để phát triển lý thuyết xã hội học về sự phân tầng xã hội. Theo đó, lĩnh vực kinh tế không còn vai
trò quan trọng đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội tư bản hiện đại. Cấu trúc xã hội nói chung và sự phân tầng xã hội nói riêng chịu tác động của hai nhóm yếu tố cơ bản là các yếu tố kinh tế và các yếu tố phi
kinh tế trong quá trình hình thành, biến đổi cấu trúc xã hội và sự phân tầng xã hội.
2. Phân tầng xã hội
2.1. Khái niệm phân tầng xã hội
Trong đời sống xã hội, hầu hết các khía cạnh của con người đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến vị trí của họ. Do bản chất của nó, phân tầng xã hộit ra những vấn đề hết sức nghiêm túc về sự phân hoá giàu nghèo, giữa những
người có địa vị cao, có nhiều lợi thế với những người có địa vị thấp và nhiều bất lợi trong sự thăng tiến. Nó cũng làm nảy sinh những cuộc đấu tranh giành quyền lực và lợi ích trong lịch sử. Vì vậy, cần phải nghiên cứu về phân tầng
xã hội.
Trước khi tìm hiểu khái niệm phân tầng xã hội, ta cần làm rõ khái niệm tầng xã hội:
- Tầng xã hội là là tập hợp các cá nhân có cùng hoàn cảnh xã hội, được xắp xếp theo trật tự thang bậc nhất định trong hệ thống xã hội. Tức là, tầng xã hội bao gồm một tập hợp người giống nhau về địa vị (vị thế), bao gồm địa vị kinh
tế (của cải, tài sản, thu nhập), địa vị xã hội (uy tín), địa vị chính trị (quyền lực). Từ đó mà họ có được những cơ hội thăng tiến, sự phong thưởng và những thứ bậc nhất định trong xã hội.
- Phân tầng xã hội là trạng thái phân chia xã hội ra thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, uy tín xã hội, cũng như một số khác biệt về trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách
ứng xử trong giao tiếp và thị hiếu….
Cũng có thể hiểu phân tầng xã hội là sự xếp hạng một cách ổn định các vị trí trong xã hội, xét từ góc độ quyền lực, uy tín hoặc các đặc quyền đặc lợi không ngang nhau. Tuy nhiên, cũng cần phải biết rằng, khi xã hội học sử dụng thuật
ngữ phân tầng xã hội để nói tới trạng thái phân chia xã hội thành các tầng lớp là nhấn mạnh tới yếu tố “tĩnh”, nhưng xã hội luôn biến đổi và trong xã hội, giữa các tầng lớp xã hội không có sự phân biệt rạch ròi mà luôn chuyển hoá cho
nhau từ tầng xã hội này sang tầng xã hội khác hoặc trong nội bộ một tầng, tạo nên yếu tố “động” của phân tầng xã hội do tính cơ động xã hội. Vì vậy, phân tầng xã hội vừa có yếu tố “tĩnh” vừa có yếu tố “động”.
Sự phân tầng thường được mô tả dưới dạng các tháp phân tầng với những hình dáng khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc trưng của mỗi loại xã hội. Có 5 kiểu thường gặp:
12
Tháp hình nón: phản ánh mức độ bất bình đẳng cao của các xã hội. Ở đó, nhóm người giàu, có quyền lực (đỉnh tháp) chiếm tỷ lệ rất thấp, trong khi đa số nghèo khổ (Đáy tháp) lại chiếm tỷ lệ cao.
Tháp hình nón cụt: tầng lớp giàu có tăng lên nhưng tầng lớp nghèo vẫn chiếm đa số.
Tháp hình thoi (quả trám): cả hai nhóm giàu và nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ, nhóm trung lưu chiếm đa số nằm ở phần thân tháp. Tuy nhiên, khoảng cách giữa hai nhóm đỉnh và đáy tháp còn khá xa. Việt Nam thuộc loại tháp này.
Tháp hình trụ: tỷ lệ các nhóm giàu có, trung lưu và nghèo tương đối đồng đều. Tuỳ vào chiều cao của tháp để nói về mức độ bình đẳng xã hội.
Tháp hình đĩa bay, thấp dẹt: có thể có hai trạng thái: bình quân nghèo khổ hoặc xã hội lý tưởng, thịnh vượng toàn dân với tuyệt đại bộ phận các thành viên trong xã hội có mức sống trung lưu và khá giả.
Phân tầng xã hội là một hiện tượng khách quan, phổ biến và khó có thể tránh khỏi. Nó là kết quả của phân công lao động xã hội và sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của hầu hết mọi chế độ xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi chế độ xã hội
khác nhau, trong những nền văn hoá khác nhau, trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, phân tầng lại có nét đặc thù riêng.
Hiện nay, khi nghiên cứu về hiện tượng phân tầng, người ta thường nhắc đến tính hai mặt của hiện tượng này. Đó là phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội không hợp thức. Phân tầng xã hội hợp thức là sự phân tầng dựa trên
sự khác biệt một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), về điều kiện, cơ may cũng như sự phân công lao động căn cứ vào năng lực của các cá nhân và các nhóm xã hội. Sự phân tầng này thực chất là sự vận hành xã hội theo
nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Chính vì vậy đây là sự phân tầng tích cực, cần thiết đối với toàn thể xã hội. Nó tạo động lực thúc đẩy xã hội đi lên, tạo nên chuẩn mực cho sự đánh giá xã hội và sự tự đánh giá
của các cá nhân theo đúng vị thế, vai trò của mình.Vì vậy, đây là một xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
Phân tầng xã hội không hợp thức là sự phân tầng không dựa trên sự khác biệt tự nhiên của các cá nhân, cũng không dựa trên sự khác nhau về tài đức và sự cống hiến của mỗi người cho xã hội mà dựa trên những hành vi bất chính để
có quyền lực….Vì vậy, phân tầng xã hội không hợp thức tạo nên sự bất công xã hội, kìm hãm sự phát triển xã hội. Nó là nguyên nhân tích tụ mầm mống của sự bất bình và xung đột xã hội, tạo nên những mâu thuẫn xã hội, thậm chí,
có thể tạo nên những đối kháng xã hội làm rối loạn và phá vỡ trật tự xã hội. Do đó, cần kiểm soát, ngăn chặn, đẩy lùi sự ảnh hưởng của phân tầng xã hội không hợp thức.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến sự phân tầng
Nguyên nhân dẫn đến sự phân tầng xã hội, có thể tổng hợp thành 2 nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, do sự tồn tại của hiện tượng bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các xã hội loài người, trừ giai đoạn đầu của công xã nguyên thủy.
Thứ hai, do sự phân công lao động xã hội đã dẫn đến sự phân tầng một cách tự nhiên.
2.3Cácdạng phân tầng
Phân tầng xã hội đóng: phân tầng xã hội trong xã hội đẳng cấp phong kiến do người đứng đầu(nhà vua) quyết định dân cư ở các giai tầng. Đặc trưng là sự ranh giới giữa các giai tầng hết sức rõ rệt, duy trì nghiêm ngặt, địa vị mỗi
người được quyết định khi vừa mới sinh ra bởi nguồn gốc dòng dõi cha mẹ mình. Người khác đẳng cấp không được kết hôn với nhau do đó làm giảm tính năng động xã hội.
Phân tầng xã hội mở: phân tầng xã hội trong xã hội công nghiệp. Xã hội tạo ra các điều kiện để các cá nhân tự khẳng định tài năng của mình. Địa vị của con người trong xã hội phụ thuộc chủ yếu vào địa vi của họ trong kinh tế. Ranh
giới giữa các tầng linh hoạt và mềm dẻo hơn. Địa vị của cá nhân phụ thuộc vào nghề nghiệp và thu nhập của họ. Phân tầng xã hội này giải phóng sức lao động xã hội, do vậy tăng tính năng động xã hội, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ.
Các dạng phân tầng khác:
Phân tầng xã hội theo địa vị chính trị: quyền lực và vị trí của cá nhân trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Phân tầng xã hội theo địa vị kinh tế: là dựa trên số của cải và tài sản mà chia ra các hạng người
Phân tầng xã hội theo địa vị xã hội: là uy tín, uy thế và địa vị xã hội của cá nhân trong nhóm xã hội
Phân tầng xã hội theo trình độ học vấn
2.4. Lý thuyết phân tầng xã hội
a. L$ thuyết chức năng
Phân tầng xã hội là sự sắp xếp các cá nhân vào một hệ thống xã hội trên cơ sở sự phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn chung về giá trị địa vị; là kết quả trực tiếp của phân công lao động xã hội và sự phân hoá của các
nhóm xã hội khác nhau. Nó gắn liền với những biện pháp mà nhờ đó, sự bất bình đẳng được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đó hình thành nên những tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Thuyết này khẳng định, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội là những nét thường trực tất yếu và không thể tránh khỏi trong xã hội loài người. Hiện tượng này tồn tại trong quá khứ và sẽ tiếp tục tồn tại như một nét nổi bật trong xã
hội hiện tại và tương lai.
Những nhà xã hội học theo thuyết chức năng cho rằng, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội tồn tại vì nó thực hiện một chức năng cần thiết và tích cực trong xã hội. Sự bất bình đẳng là một di sản mà nhờ vào đó, xã hội đảm bảo
những địa vị quan trọng nhất phải do những người có tài năng nhất đảm nhiệm một cách có ý thức. Trên cơ sở đó, dẫn tới sự khác nhau về mặt uy tín, thu nhập, khả năng thăng tiến của các cá nhân trong xã hội và xã hội phải thiết chế
hoá một số yếu tố của bất bình đẳng.
Tức là, trong một xã hội, có những địa vị khác nhau thực hiện những chức năng nhất định. Mức độ quan trọng của các địa vị là khác nhau tuỳ thuộc vào chức năng của nó. Có những địa vị đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có những kỹ
năng đặc biệt mà chỉ có một số ít người thực hiện được. Do vậy, những người thực hiện được địa vị cao là không nhiều, họ phải trải qua một thời kỳ huấn luyện nhất định để có những kỹ năng chuyên môn cần thiết. Từ đó, phải có hệ
thống phần thưởng bất bình đẳng gắn với một tổ chức ngạch bậc những địa vị xã hội, tuỳ theo mức độ quan trọng của nó và tương xứng với tài năng, công sức, và chi phí học tập để có kỹ năng cần thiết.
Với cách giải thích như vậy, lý thuyết này được coi là lý thuyết hợp thức hoá và bảo vệ sự phân tầng và bất bình đẳng trong xã hội. Đồng thời, thuyết này cũng có những hạn chế nhất định khi chỉ dựa vào tiêu chí giá trị địa vị xã hội,
gạt bỏ những yếu tố khác như kinh tế, chính trị trong quá trình phân tầng xã hội.
b. L$ thuyết xung đột
Với những nhà xã hội học theo thuyết xung đột thì phân tầng xã hội liên quan trực tiếp tới bất bình đẳng giai cấp. Do sự mâu thuẫn, xung đột, tranh giành quyền thống trị giữa các giai cấp mà sinh ra bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
Tức là, bất bình đẳng và phân tầng xã hội tồn tại do phần lớn đời sống của chúng ta nằm trong những mối quan hệ quyền lực đã được thiết chế hoá và chúng ta bị phụ thuộc trong đó. Những nhóm xã hội được ưu đãi có khả năng giữ
một hệ thống các giá trị thống trị để duy trì cơ cấu xã hội có lợi cho họ và là bất bình đẳng với các giai cấp khác.
Những người theo thuyết này chủ yếu dựa vào yếu tố chính trị để phân tích về phân tầng xã hội.
c. L$ thuyết của Marx về phân t!ng xã hội
Marx phân tích phân tầng xã hội dưới khía cạnh giai cấp xã hội. Ông cho rằng, phân tầng xã hội là do quyết định của nhân tố kinh tế (quyền sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về ai). Do vậy, có thể phân chia các tầng lớp trong xã hội tư
bản thành giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trên cơ sở mối quan hệ của họ với tư liệu sản xuất.
Theo Marx, mối lợi kinh tế, quyền lực chính trị, uy tín xã hội đều bắt nguồn từ cấu trúc giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển trong xã hội . Đồng thời, đấu tranh giai cấp sẽ tạo ra những điều kiện xoá bỏ giai
cấp cũng như các nguyên nhân tạo nên bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
13
d. L$ thuyết dung hoà
Theo Lenski: Trong xã hội, luôn có những động cơ thôi thúc người ta chiếm giữ các vị trí xã hội, đồng thời, cũng diễn ra các quá trình mâu thuẫn, xung đột và tranh giành quyền thống trị, từ đó sinh ra bất bình đẳng xã hội và phân
tầng xã hội.
Theo Max Weber, phân tầng xã hội không chỉ dựa vào giá trị địa vị xã hội, cũng như quan hệ kinh tế không phải là yếu tố đầu tiên và chủ yếu để giải thích ( như Marx), đó chỉ là cách giải thích một chiều, trong khi sự vận động, biến
đổi xã hội là rất rộng lớn và phức tạp. Từ đó, ông đưa ra nguyên tắc ba chiều về phân tầng xã hội. Bên cạnh việc thừa nhận yếu tố kinh tế, ông cho rằng phân tầng và bất bình đẳng xã hội có thể dựa trên yếu tố quyền lực và uy tín xã
hội của các cá nhân.
Như vậy, phân tầng xã hội tồn tại bắt nguồn từ 3 yếu tố: địa vị kinh tế (của cải, tài sản), địa vị chính trị (quyền lực) và địa vị xã hội (uy tín). Nhưng trong 3 yếu tố này, mặc dù về lý thuyết, Weber không tuyệt đối hoá yếu tố nào,
nhưng qua các lập luận và giải thích thì ông đề cao yếu tố địa vị xã hội và quyền lực chính trị. Ông nhấn mạnh rằng, bất bình đẳng có thể không dựa trên quan hệ kinh tế, nhưng dựa trên uy tín và quyền lực chính trị được huy động qua
một đảng.
Đồng thời, địa vị và quyền lực chính trị có thể được hình thành từ quyền lực kinh tế nhưng không phải là tất yếu, ngược lại, quyền lực kinh tế có thể có từ quyền lực chính trị và địa vị xã hội.
Xét riêng về quyền lực kinh tế, nếu Marx đề cao quyền sở hữu tư liệu sản xuất – là yếu tố chủ yếu hình thành giai cấp và bất bình đẳng trong xã hội tư bản thì Max Weber lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thị trường (khả năng
chiếm lĩnh thị trường của người lao động) và coi đây là nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản. Thị trường kỹ năng gắn liền với cơ may đời sống của người lao động tạo ra hoàn cảnh giai cấp của các nhóm xã
hội. Những người có khả năng thị trường tương tự và do đó, có cơ may đời sống tương tự hợp thành giai cấp nhất định.
Tóm lại, theo Weber, phân tầng xã hội là một hệ thống xếp hạng cấp bậc các nhóm người vào những vị trí xác định, liên quan đến của cải (tài sản), quyền lực chính trị, uy tín xã hội. Hệ thống này là một cơ cấu bất bình đẳng ổn định
bền vững qua các thế hệ.
2.5.Đặc điểm của phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội có phạm vi phổ quát
Phân tầng xã hội tồn tại dai dẳng theo thời gian, năm, tháng
Phân tầng xã hội tồn tại trong tất cả các nhóm dân cư, các giai cấp, các tầng lớp xã hội
Phân tầng xã hội được duy trì một cách bền vững do điều kiện vật chất, do thể chế chính trị và do cả yếu tố
Chương 7: NHÓM XÃ HỘI – THIẾT CHẾ XÃ HỘI
1. Nhóm xã hội
1.1. Khái niệm nhóm xã hội
Nhóm xã hội là một phạm trù nghiên cứu quan trọng của xã hội học, bởi vì, các mối quan hệ giữa các cá nhân trong thực tế chính là quan hệ giữa các nhóm xã hội. Hơn nữa, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn được gắn vào
nhóm theo nhiều cách thức đa dạng và trong thực tiễn xã hội, chúng ta tin tưởng vào các quyết định của nhóm hơn là những quyết định cá nhân. [Erich H. Witte/Elisabeth Ardelt:303]
Nhóm được định nghĩa như sau::
Nhóm xã hội là một tập hợp người liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, những nhu cầu, lợi ích và những định hướng giá trị nhất định.
Khi tham gia vào nhóm, cá nhân thiết lập những liên hệ xã hội của mình với các cá nhân khác và với tập thể. Các thành viên trong nhóm tương tác với nhau theo cách, mỗi người đều gây ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi người khác
về quan điểm, giá trị, chuẩn mực....
Mỗi cá nhân gắn bó với nhóm thể hiện qua việc tiếp nhận những đặc trưng cơ bản như lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực, giá trị....Những đặc trưng của nhóm sẽ giúp cá nhân ý thức được những đặc điểm chung nhất định với những thành
viên khác của nhóm, tức là có được cảm giác “chúng ta”.
Đây là điểm để phân biệt nhóm này với nhóm khác và là một chỉ báo đặc trưng về sự gắn bó chặt chẽ với một nhóm xã hội nào đó của cá nhân. Do đó, nhóm xã hội luôn có mối liên hệ hữu cơ bên trong, những liên hệ trên cơ sở những
lợi ích, đòi hỏi phải cùng cộng tác và chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau.
Khi tìm hiểu về nhóm, chúng ta cần phân biệt nhóm xã hội với đám đông. Điểm giống nhau giữa nhóm xã hội và đám đông là, cùng là một tập hợp người nhất định, liên hệ với nhau theo một cách nào đó nhưng đám đông chỉ là một
tập hợp người ngẫu nhiên, đơn thuần, không có mối liên hệ nào bên trong.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của nhóm xã hội
Đặc trưng cơ bản của nhóm là sự thống nhất về tinh thần, tình cảm, mục đích và phương thức hoạt động của nhóm. Bên cạnh đó, còn có thể kể đến những đặc trưng sau:
- Tư cách thành viên: tuỳ các nhóm khác nhau mà có quy định khác nhau hoặc các nhóm khác nhau có thể có những quy định giống nhau (như về giới, nghề nghiệp, tuổi tác)...
- Địa vị: là vị trí của các thành viên trong nhóm. Trong cơ cấu của đa số các nhóm, thường có thủ lĩnh và các thành viên.
- Vai trò: những ứng xử gắn liền với địa vị của mỗi thành viên trong nhóm.
- Giá trị, mục tiêu mà nhóm theo đuổi: Liên quan đến lợi ích và sự hoàn thành công việc của nhóm.
- Chuẩn mực: những quy tắc ứng xử trong nhóm, bắt buộc mọi thành viên phải tuân theo.
- Chế tài: bao gồm khen thưởng (nếu tuân thủ tốt) và sự trừng phạt mang tính cưỡng chế.
1.3. Phân loại nhóm xã hội
Có rất nhiều tiêu chí được sử dụng để phân loại nhóm, thông thường, người ta hay đề cập đến các tiêu chí sau:
a. Căn cứ vào số lượng thành viên tham gia
Nhóm nhỏ: là một tập hợp ít người. Ví dụ: nhóm gia đình, nhóm bạn bè, lớp học, đội thể thao, đội sản xuất, phòng ban nơi làm việc….
Nhóm lớn: là tập hợp đông người. Ví dụ: nhóm dân tộc, giai cấp, đảng phái chính trị, tổ chức tôn giáo, các tổ chức xã hội….
b. Căn cứ vào tính chất liên kết trong nhóm
Nhóm sơ cấp: các thành viên có quan hệ trực diện, gần gũi với nhau theo huyết thống, tình cảm, sở thích. Ví dụ: gia đình, họ hàng, các nhóm theo sở thích như bạn bè, câu lạc bộ….
14
Nhóm thứ cấp: có số lượng thành viên lớn, quan hệ với nhau một cách gián tiếp bởi các quy định, điều lệ chung do nhóm đặt ra. Ví dụ: các đoàn thể xã hội như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội
phụ nữ, các tập đoàn kinh tế lớn...
c. Căn cứ vào hình thức biểu hiện mối liên hệ giữa các thành viên trong nhóm
Nhóm chính thức: là nhóm có cơ chế vận hành thông qua luật pháp và các sơ đồ, kế hoạch. Hoạt động của các thành viên và vai trò cá nhân được xác định thông qua những điều lệ và quy tắc nhất định.
Nhóm không chính thức: được hình thành từ các quan hệ tự phát, các thành viên của nhóm có thủ lĩnh riêng và quan hệ theo những luật lệ không thành văn nhưng được họ tán đồng, tự nguyện và trung thành..
d. Căn cứ vào cách thức gia nhập nhóm:
Nhóm tự nguyện và nhóm áp đặt.
Nhóm tự phát và nhóm có tổ chức.
Mỗi loại nhóm đều có cơ cấu riêng với những nội dung của nó. Trong đó có sự phân công về chức năng, thứ bậc, mức độ tương tác... Đặc điểm chung của cơ cấu tất cả các nhóm là bao giờ cũng phải có thủ lĩnh, được xác định bởi uy
tín của cá nhân đối với nhóm.
1.4.Thủ lĩnh nhóm xã hội
Có hai loại thủ lĩnh là:
Thủ lĩnh công vụ: là thủ lĩnh được bầu một cách công khai dựa trên sự lựa chọn của các thành viên của nhóm.
Thủ lĩnh tinh thần: là người được các thành viên trong nhóm tôn trọng và ngầm thừa nhận
2. Thiết chế xã hội
2.1. Khái niệm thiết chế xã hội
Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải dựa vào thiết chế xã hội để tổ chức, điều chỉnh và kiểm soát các hoạt động xã hội của các cá nhân, các nhóm xã hội và toàn thể xã hội nói chung. Vậy thiết chế xã hội là gì?
Thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững của các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm, vận động xung quanh những nhu cầu cơ bản của xã hội.
Thiết chế xã hội bao gồm một hệ thống các cách thức, các quy tắc chính thức và phi chính thức, được con người tạo ra để điều chỉnh hành vi, hoạt động của các cá nhân, các nhóm, các tổ chức nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định
của xã hội. Xã hội sử dụng thiết chế nhằm quyết định “cái gì phải làm” về lâu dài. Vì vậy, thiết chế xã hội hạn chế sự chuyên quyền, tuỳ tiện của hành động xã hội, chúng tạo cho tồn tại đặc tính hình thể, xếp đặt nó và tạo ra tác động
chuẩn mực.
Với ý nghĩa đó, thiết chế xã hội được coi là một đoạn của văn hoá đã được khuôn mẫu hoá (J.Fichter).
Theo các nhà xã hội học, thiết chế xã hội nảy sinh, tồn tại và phát triển là do nó đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhu cầu xã hội là lý do hình thành và là mục đích tồn tại của thiết chế xã hội. Lenski và Lenski (1970) cho rằng, trong mọi
hội bao giờ cũng có những nhu cầu cơ bản mà việc thoả mãn chúng có ý nghĩa sống còn đối với bản thân xã hội, cụ thể như: nhu cầu giao tiếp giữa các thành viên, nhu cầu sản xuất và sản phẩm dịch vụ, nhu cầu phân phối các sản
phẩm và dịch vụ hàng, nhu cầu bảo vệ các thành viên khỏi tác động của thiên nhiên (như thiên tai), bệnh tật và các nguy hiểm khác; nhu cầu thay thế các thành viên (cả tái sinh sản sinh học và thay thế văn hoá thông qua quá trình xã
hội hoá); nhu cầu kiểm soát hành vi của các thành viên. Việc thoả mãn các nhu cầu trên tạo thành các thiết chế xã hội cơ bản.
Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn xảy ra sự nhầm lẫn khi cho rằng thiết chế xã hội là một tổ chức xã hội, bởi vì, mặc dù khái niệm thiết chế xã hội rất trừu tượng, nhưng bản thân thiết chế lại hữu hình tương tự như một tổ chức xã hội hay
một nhóm xã hội. Do đó, cần phải phân biệt thiết chế xã hội với tổ chức xã hội.
- Tổ chức là một tập hợp người thực hiện những hoạt động nhất định nhằm đạt được mục tiêu xác định. Vì vậy, tổ chức xã hội không phải là thiết chế xã hội mà là chủ thể của những hành động bị thiết chế xã hội điều chỉnh. Tổ chức
xã hội không thể hoạt động được nếu thiếu thiết chế xã hội.
- Tổ chức xã hội gắn liền với thiết chế xã hội giống như những người tham gia cuộc chơi phải tuân thủ luật chơi. Luật chơi ở đây là các quy phạm, giá trị, chuẩn mực chính thức và phi chính thức (tức là thiết chế).
2.2. Một số đặc điểm của thiết chế xã hội
- Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường biến đổi chậm. Bởi vì thiết chế hình thành trên cơ sở của một hệ thống các giá trị, chuẩn mực lâu đời và khá bền vững. Bởi vậy, khi đã tạo thành khuôn mẫu hành vi trong thiết chế thì
nó khó thay đổi (trở thành truyền thống văn hoá).
- Mỗi một thiết chế có đối tượng riêng để hướng tới phục vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội chuyên biệt liên quan tới đối tượng đó. Vì vậy, thiết chế có tính độc lập tương đối, tự nó được cấu trúc ở mức cao và được tổ chức xung
quanh một hệ thống giá trị, quy tắc, khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận. Ví dụ, thiết chế thể thao bao gồm hệ thống sân vận động, nhà thi đấu, vận động viên, huấn luyện viên, cổ động viên, bộ máy hành chính….gắn liền với các giá
trị và chuẩn mực đối với vai trò của vận động viên (thi đấu trung thực, không sử dụng đophing….), cổ động viên (không có những hành động quá khích, phi thể thao)….
- Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Khi có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức hay khuôn mẫu hành vi của một thiết chế xã hội nào đó thì nó thường kéo theo sự thay đổi của các thiết chế khác. Ví dụ, khi thiết chế chính trị có
sự thay đổi về giai cấp cầm quyền thì nó sẽ ảnh hưởng đến các thiết chế khác phụ thuộc vào nó như thiết chế kinh tế, thiết chế pháp luật, thiết chế giáo dục…..
- Các thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội chủ yếu. Bất cứ một sự đổ vỡ nào đó của một thiết chế xã hội cũng đều trở thành những vấn đề xã hội nghiêm trọng. Ví dụ: Nạn thất nghiệp (thiết chế kinh tế),
tình hình tội phạm gia tăng (thiết chế pháp luật), tỷ lệ ly hôn cao (thiết chế gia đình)...
2.3. Chức năng của thiết chế xã hội
Sự tồn tại của mọi xã hội, tính ổn định và phát triển của nó sẽ không thể có được nếu không có sự quản lý và kiểm soát xã hội. Thiết chế xã hội thực hiện sự kiểm soát và quản lý để đảm bảo cho cái đáng có và ngăn chặn cái lệch lạc.
Vì vậy, bất cứ thiết chế xã hội nào cũng có 2 chức năng cơ bản:
- Chức năng quản lý: nhằm khuyến khích, điều chỉnh, điều hoà hành vi của con người cho phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của thiết chế. Ví dụ: trong thiết chế gia đình, con cái phải ngoan ngoãn, hiếu thảo, vâng lời bố mẹ…;
trong thiết chế giáo dục, học sinh phải đi học đúng giờ, khi thi cử không được sử dụng tài liệu trong khi thi…..
- Chức năng kiểm soát: nhằm ngăn chặn, giám sát, thậm chí trừng phạt những hành vi sai lệch so với các chuẩn mực, đòi hỏi của thiết chế hoặc không chịu tuân thủ thiết chế. Ví dụ: vi phạm chế độ một vợ một chồng trong thiết chế
gia đình, sử dụng đophing trong khi thi đấu của thiết chế thể thao; gian lận trong thi cử cảu thiết chế giáo dục…
Như vậy, thiết chế là công cụ để định hướng, điều chỉnh, điều hoà, quản lý và kiểm soát hành vi xã hội của con người. Nhờ có thiết chế, con người có thể có những hành động phù hợp căn cứ vào chuẩn mực, quy phạm. Đồng thời, nó
cũng là công cụ trừng phạt đối với những sai lệch, vi phạm chuẩn mực. Nếu không tuân thủ thiết chế sẽ bị xử phạt theo 2 hình thức:
15
Hình phạt chính thức: các hình phạt của thiết chế pháp luật như cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, từ chung thân và nếu hành vi vi phạm thật sự gây nguy hiểm cho xã hội thì sẽ bị tử hình (loại bỏ cá nhân đó khỏi xã hội)..
Hình phạt phi chính thức: các hình phạt của thiết chế đạo đức và dư luận xã hội.
Có thể nói, các thiết chế đảm bảo cho cá nhân có những ứng xử xã hội được chấp nhận trong nhiều trạng thái xã hội khác nhau. Sự thừa nhận hay không thừa nhận của xã hội đối với khuôn mẫu ứng xử được phản ánh đến từng cá
nhân thông qua hoạt động của thiết chế. Vì vậy, thiết chế mang lại cảm giác yên tâm và an toàn cho các cá nhân tuân thủ nó, vì nó chính là cái mà xã hội cho là đúng, là chuẩn. Thực hiện theo nó, tức là thực hiện theo số đông. Chỉ
những người không thực hiện theo thiết chế xã hội mới cảm thấy bất an vì bị xã hội lên án.
2.4. Các loại thiết chế xã hội
- Thiết chế gia đình: điều hoà hành vi, tình cảm, tình dục và nuôi dạy con cái.
- Thiết chế giáo dục: truyền thụ những tri thức khoa học nói chung.
- Thiết chế kinh tế: đảm bảo quá trình sản xuất, phân phối lợi ích và các dịch vụ
- Thiết chế chính trị: bảo đảm việc thiết lập và giữ vững quyền lực chính trị.
- Thiết chế pháp luật: đảm bảo trật tự, công bằng xã hội và kiểm soát xã hội.
- Thiết chế tôn giáo: thoả mãn nhu cầu tâm li
Chương 8: XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂ
Khái niệm xã hội hóa
Khái niệm xã hội hoá hiện nay được dùng với hai nội dung. Thứ nhất, xã hội hoá chỉ sự tăng cường chú ý quan tâm của xã hội đến những vấn đề, sự kiện cụ thể nào đó của xã hội mà trước đây chỉ có một nhóm, một bộ phận của xã
hội quan tâm như xã hội hoá giáo dục, xã hội hoá y tế....(quá trình xã hội hoá các vấn đề, sự kiện xã hội). Thứ hai, xã hội hoá dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ chỉnh thể sinh vật với đầy đủ các tiền đề tự nhiên đến một chỉnh thể
đại diện của xã hội loài người. Xã hội học quan tâm đến nội dung thứ hai, hay còn gọi là quá trình xã hội hoá cá nhân.
Một đứa trẻ sinh ra không mang sẵn bản chất xã hội, chỉ có các phản xạ bẩm sinh. Những hành động của bé lúc sơ sinh chưa có ý thức, trong quá trình phát triển về thể chất, dần dần đứa bé học được cách xử sự từ bố mẹ và những
người lớn tuổi. Quá trình hình thành ý thức trong cách ứng xử, đó là quá trình xã hội hoá.
Vậy xã hội hoá là gì? Có nhiều cách hiểu khác nhau về xã hội hoá. Căn cứ vào tính chủ động của cá nhân trong quá trình xã hội hoá, ta chia thành hai loại:
Loại 1: Cá nhân thu nhận kinh ngiệm từ xã hội và học các chuẩn mực, khuôn mẫu một cách tự nhiên mà không thể chống đối lại được. (cá nhân ít tính chủ động trong quá trình xã hội hoá).
Ví dụ: Một đứa trẻ được cha mẹ dạy cho cách ăn uống, tư thế ngồi ăn, cách giao tiếp như khi ai cho cái gì phải xin phép....Nếu không làm đúng lời dạy bảo thì sẽ bị khiển trách.
Như vậy, mỗi cá nhân được xã hội mặc cho một chiếc áo văn hoá phù hợp theo cách nhìn của xã hội ở từng nơi, từng thời điểm, từng giai đoạn của cuộc sống và cá nhân không có quyền tự lựa chọn chiếc áo văn hóa đó. Tức là, con
người bị giám sát chặt bằng các quy định của xã hội.
Loại 2: Cá nhân không chỉ tiếp thu những kinh nghiệm xã hội mà còn tham gia vào quá trình tạo ra các kinh nghiệm xã hội (khẳng định tính tích cực, sáng tạo của cá nhân trong quá trình xã hội hoá). “Bản thân xã hội sản xuất ra con
người với tư cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế” – Karl Marx
Qua hai cách giải thích trên, ta thấy, con người có cả hai mặt: vừa thụ động vừa chủ động, sáng tạo và tích cực. Vì vậy, xã hội, một mặt truyền lại cho họ những khuôn mẫu, chuẩn mực trong hành vi, song mặt khác, cũng tạo điều kiện
cho họ phát huy được tính chủ động, tích cực trong công cuộc xây dựng xã hội văn minh, lành mạnh. [Nguyễn Thế Phán, Giáo trình Xã hội học 2002:125]
Từ hai cách hiểu này mà có nhiều khái niệm xã hội hoá khác nhau.
- Neil Smelser (Mỹ): Xã hội hoá là quá trình, trong đó các cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình để phục vụ tốt cho việc thực hiện các mô hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng
trong cuộc đời mình.
Ở đây, vai trò cá nhân chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh nghiệm, giá trị, chuẩn mực mà chưa đề cập đến khả năng sáng tạo của cá nhân để xã hội học theo. Trong lịch sử, có những nhân cách lớn tạo ra hàng loạt những chuẩn
mực, giá trị.... được thừa nhận trong một quốc gia, thậm chí cả thế giới.
- Fichter (Mỹ): Xã hội hoá là một quá trình tương tác giữa người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và sự thích nghi với những khuôn mẫu.
- Andreeva (Nga): Xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào xã hội, vào hệ thống xã hội; mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách có chủ động các mối quan hệ thông
qua việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các quan hệ xã hội.
- Xã hội hoá là quá trình thích ứng và cọ sát với các giá trị, chuẩn mực và hình mẫu hành vi xã hội mà trong quá trình đó, một thành viên xã hội tiếp nhận và duy trì khả năng hoạt động xã hội [Từ điển Xã hội học, NXB Thế giới
2002:571].
Như vậy, cá nhân trong quá trình xã hội hoá không đơn thuần thu nhận kinh nghiệm xã hội, mà còn chuyển hoá nó thành các giá trị, tâm thế, xu hướng của cá nhân để tham gia tái tạo, tái sản xuất chúng trong xã hội. Mặt thứ nhất của
quá trình xã hội hoá là sự thu nhận kinh nghiệm xã hội, thể hiện sự tác động của môi trường tới con người. Mặt thứ hai của quá trình này thể hiện sự tác động của con người trở lại môi trường thông qua hoạt động của mình.
Mặc dù có nhiều quan điểm, nhưng các nhà khoa học đều thống nhất ở một điểm. Đó là, xã hội hoá là một quá trình: có bắt đầu, có diễn biến và có kết thúc. Là quá trình mà qua đó, cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hoá của xã hội
như các khuôn mẫu; là quá trình mà nhờ nó, cá nhân đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò xã hội của mình, hoà nhập vào xã hội.
Các giai đoạn của quá trình xã hội hoá
Khi bàn về các giai đoạn của quá trình xã hội hoá, có nhiều quan điểm, nhiều trường phái và họ đều có sự đánh giá khác nhau về tầm quan trọng của từng giai đoạn. Sau đây là phân đoạn của một số tác giả:
2.1 Phân đoạn quá trình xã hội hóa của G.Mead ( Nhà xã hội học người Mỹ)
Theo Mead, quá trình xã hội hóa trải qua ba giai đoạn chính:
Bắt chước: Đây là giai đoạn mà con người sao chép hành vi của người khác một cách bị động hoặc chủ động
Đóng vai: Đây là giai đoạn mà con người đã nhận thức được những hành vi tưởng ứng với vai trò xã hội nhất định, đặc biệt là các vai trò trong phạm vi quan sát được...Giai đoạn này giúp cho con người hiểu được những suy nghĩ và
hành động của người khác khi họ thực hiện vai trò của mình, phân tích và phán xử hành vi của họ để tạo thành kinh nghiệm xã hội cho các nhân mình.
Trò chơi: Giai đoạn này con người cần phải biết được sự đòi hỏi không phải chỉ một cá nhân nào đó mà là của xã hội nói chung. Giai đoạn này đã giúp cho con người thấy rõ được cái tôi chủ động,cái tôi bị động và cái chúng ta, phân
biệt rõ mình, người khác và cộng đồng. Đây là cơ sở để con người hòa chung vào cuộc sống cộng đồng.
16
Phân đoạn quá trình xã hội hóa của G. Andreeva ( nhà xã hội học người Nga)
Andreeva đã phân chia quá trình xã hội hóa thành ba giai đoạn là giai đoạn trước lao động, giai đoạn trong lao động và giai đoạn sau lao động
- Giai đoạn trước lao động: Bao gồm toàn bộ thời kỳ từ lúc con người được sinh ra cho đến khi họ bắt tay vào lao động. Giai đoạn này gồm hai giai đoạn nhỏ là:
Giai đoạn trẻ thơ là giai đoạn mà đứa trẻ tiếp thu một cách thụ động và máy móc các hành vi và là giai đoạn vui chơi ở nhà hoặc vườn trẻ, nhà mẫu giáo. Giai đoạn này từ lúc trẻ sinh ra đến lúc đi học.
Giai đoạn học hành là giai đoạn đứa trẻ tiếp nhận trí thức và kỹ năng lao động. Vì vậy giai đoạn này đứa trẻ đã có sự tiếp nhận các hành vi một cách có mục đích, có ý thức. Đứa trẻ càng lớn lên thì càng bộc lộ hành vi tiếp nhận có
chọn lọc để tự hình thành cho mình năng lực hành vi riêng.
- Giai đoạn lao động: Bắt đầu từ khi cá nhân tham gia lao động và kết thúc khi không tham gia lao động (về hưu). Giai đoạn này, cá nhân vừa tiếp thu kinh nghiệm xã hội, vừa tích lũy kinh nghiệm cá nhân, vừa bộc lộ năng lực hành
vi trong các hoạt động hàng ngày. Giai đoạn này được đánh giá là vô cùng quan trọng trong quá trình xã hội hóa vì một số lý do sau:
Con người tiếp thu, củng cố, phát triển các tri thức, kinh nghiệm xã hội để nâng cao năng lực hành vi cá nhân.
Lao động đã giúp cho con người hiểu rõ được cái tôi và cái chúng ta để sống hòa
đồng vào cộng đồng xã hội.
Lao động là quá trình thể hiện năng lực hành vi cá nhân có ích cho xã hội và tham gia đóng góp, xây dựng xã hội phát triển.
Lao động thể hiện rõ vai trò của cá nhân trong xã hội, là cơ sở để đánh giá và củng cố năng lực hành vi cá nhân.
Giai đoạn sau lao động: Đó là khi cá nhân kết thúc quá trình lao động của mình, về nghỉ hưu. Hiện nay có hai quan niệm trái ngược nhau ở giai đoạn này. Có quan niệm cho rằng khái niệm xã hội hóa hoàn toàn không có ở giai đoạn
này vì các chức năng xã hội của nó bị thu hẹp lại. Tức là không có chuyện người già tiếp thu kinh nghiệm xã hội, hay thậm chí sản xuất ra nó. Quan niệm thứ hai cho rằng cần phải nhìn nhận một cách tích cực đối với quá trình xã hội
hóa ở giai đoạn này, bởi vì xã hội hiện đại ngày nay đã kéo dài tuổi tho của con người và đồng thời cũng tạo ra các điều kiện phát huy tính tích cực xã hội của người già. Nhiều người già đóng vai trò quan trọng trong việc tái tạo các
kinh nghiệm xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng, thông tin được phổ biến rộng rãi có tính chất quốc tế, đòi hỏi xã hội phải tái tạo các kinh nghiệm xã hội và truyền đạt những kinh
nghiệm, những giá trị cho thế hệ trẻ.
Tuy còn tồn tại nhiều cách phân đoạn khác nhau dựa trên nhiều căn cứ khác nhau nhưng các nhà xã hội học gần như thống nhất với nhau về ba giai đoạn của quá trình xã hội hoá.
- Giai đoạn xã hội hoá ban đầu của trẻ trong gia đình.
- Giai đoạn xã hội hoá diễn ra trong nhà trường.
Giai đoạn con người thực sự bước vào đời để đảm nhận vai trò mà hai giai đoạn trước đã được chuẩn bị đầy đủ. Lúc này, cá nhân thực hiện một lúc nhiều vai trò khác nhau trong các nhóm xã hội và trong toàn xã hội: làm chồng, làm
vợ hay trở thành cán bộ công chức nhà nước....Chính giai đoạn này, con người có thể tự lập hoàn toàn trong suy nghĩ và hành động, cá nhân phát huy khả năng sáng tạo của mình nhiều nhất, do đó khả năng cống hiến cho xã hội
cao nhất
Ranh giới giữa các giai đoạn này không phải lúc nào cũng rõ ràng, mà chỉ mang tính ước lệ. Vì trong thực tế, cá nhân có thể đã đi làm, đã có gia đình nhưng vẫn tiếp tục học tập và có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ quan hay
trong quan hệ vợ chồng, họ vẫn tìm đến cha mẹ để tìm một lời khuyên. Như vậy, quá trình xã hội hoá chỉ chấm dứt khi cuộc sống của chúng ta chấm dứt mà thôi.
2.2 Môi trường Xã hội hoá
Là nơi cá nhân có thể thực hiện thuận lợi các tương tác xã hội của mình, nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội. Dù có bản chất xã hội và tiền đề tự nhiên phù hợp, con người có thể không trở thành một nhân
cách hoàn thiện, nếu không được đặt trong môi trường thích hợp. Vì vậy, xã hội hoá nghiên cứu xem với tư cách là điều kiện và các yếu tố cấu thành, cơ cấu và quá trình xã hội, văn hoá, kinh tế và sinh thái có tác dụng bằng cách nào
và ở mức độ nào tới sự phát triển nhân cách con người.
Môi trường xã hội hoá thể hiện trong nhiều nhóm xã hội. Trong đó, có những nhóm cơ bản sau:
Môi trường gia đình
Gia đình không chỉ tái sản xuất ra con người về mặt thể chất mà còn tái sản xuất ra đời sống tình cảm, tâm hồn, văn hóa, tức là xã hội hóa-quá trình biến đứa trẻ từ một sinh vật người thành con người xã hội.
Gia đình là môi trường vi mô có vai trò quan trọng nhất trong giai đoạn xã hội hóa ban đầu. Thực tế, hầu hết những đứa trẻ sống không có gia đình, do thiếu sự giáo dục răn dạy cho nên những đứa trẻ dễ bị hư hỏng, vì chúng hấp thu
những thói hư tật xấu trong xã hội. Tuy nhiên, không phải những đứa trẻ có gia đình đầy đủ , bố mẹ đều là những đứa trẻ ngoan.
Trong mỗi gia đình đều có một tiểu văn hoá, được xây dựng trên nền tảng văn hoá chung, nhưng với những đặc thù riêng của từng gia đình, được quy định bởi nền giáo dục gia đình, truyền thống, lối sống của gia đình mà cá nhân sẽ
tiếp nhận những văn hoá không giống nhau. Những quy tắc ứng xử, các giá trị, kinh nghiệm sống... đầu tiên con người tiếp nhận từ chính các thành viên trong gia đình, từ đó, tạo thành những đặc điểm nhân cách khá riêng biệt.
Xã hội hóa của gia đình diễn ra suốt cả cuộc đời con người với tư cách là một quá trình liên tục. Gia đình tham gia vào tất cả các giai đoạn xã hội hoá trong chu trình sống của con người. ở giai đoạn nào vai trò của gia đình cũng thể
hiện rất rõ
Giai đoạn tuổi ấu thơ ,Giai đoạn tuổi mẫu giáo nhi đồng ,Lứa tuổi thiếu niên ,Lứa tuổi trưởng thành ,Giai đoạn chuẩn bị kết hôn và làm cha làm mẹ ,Giai đoạn bước sang tuổi già
,Giai đoạn cuối cùng của chu trình sống là chuẩn bị đón cái chết
Giai đoạn tuổi ấu thơ
- Gia đinh là môi trường xã hội hóa đầu tiên của đứa trẻ.
- Chỉ sau khi sinh ra không lâu, trẻ sơ sinh đã hướng về thế giới xung quanh và bắt đầu quá trình học hỏi.
- Các giác quan của trẻ hoạt động thể hiện ở các cảm giác nghe, nhìn, ăn uống, cảm giác nóng lạnh.
- Sự tham gia của các thành viên trong gia đình (mẹ, bố) như cho ăn, tắm rửa, thay tã lót, bế, ru trẻ v.v…và cách thức chăm sóc của họ như giờ giấc ăn, ngủ, tập ăn những thức ăn ngoài sữa mẹ…đã giúp trẻ đào luyện các thói quen.
- Ở giai đoạn này gia đình hầu như là môi trường xã hội hóa và tác nhân xã hội hóa duy nhất
Giai đoạn tuổi mẫu giáo, nhi đồng
- Cùng với việc đào luyện các thói quen, trẻ bắt đầu tập đóng các vai trò của người lớn, chúng mô phỏng hoạt động và quan hệ xã hội của người lớn thông qua các trò chơi. Ở giai đoạn này trẻ bắt đầu có những mối quan hệ với xã hội
bên ngoài như bạn chơi, bạn học, thầy cô giáo.
17
- Trẻ bắt đầu chịu ảnh hưởng của ti vi, phim ảnh, các phương tiện truyền thông đại chúng...Gia đình có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và hướng dẫn các hoạt động của trẻ: chơi với ai, cách chào hỏi, mời ăn, xem sách gì, học
trường nào, bao giờ được xem TV và chương trình nào,..
- Gia đình giúp trẻ nhận thức được cái đúng, cái sai, cái được phép và cái không được phép bằng cách khuyến khích, động viên, khen ngợi khi trẻ làm đúng, hoặc ngăn cấm, không bằng lòng khi trẻ làm không đúng, làm cho trẻ có
cảm giác tội lỗi và xấu hổ khi vi phạm quy tắc; giúp trẻ hình thành ý thức trách nhiệm thông qua các việc làm cụ thể.
Giai đoạn tuổi thiếu niên
Trẻ em tiếp xúc đa dạng với thế giới xung quanh, bước đầu hình thành những giá trị, chuẩn mực, thiết lập quan hệ với những người xung quanh trước hết là với những người trong gia đình, thử sức trong các quan hệ xã hội, tiến tới
hình thành nhân cách độc lập
Ở giai đoạn này gia đình giúp đỡ và cung cấp cho các em những kinh nghiệm xã hội trong quan hệ và ứng xử với những người xung quanh, động viên, thông cảm, nâng đỡ các em khi thất bại và nản trí, giúp các em những kiến thức,
hiểu biết cần thiét để tự chủ ở giai đoạn dậy thì khi cơ thể có những thay đổi lớn
Giai đoạn tuổi trưởng thành
Cá nhân phát triển bản sắc cái tôi, hình thành những kinh nghiệm xã hội ổn định, chuẩn bị bước vào những nhóm làm việc, những tổ chức xã hội hay cộng đồng mới. Ở giai đoạn này, xã hội hóa sơ cấp hầu như đã hoàn thành, nhân
cách về cơ bản đã hình thành.
Gia đình giúp cá nhân đã trưởng thành trả lời được 3 câu hỏi:
làm nghề gì để kiếm sống (định hướng nghề nghiệp);
theo lối sống nào (định hướng giá trị);
yêu ai (định hướng hôn nhân)
Giai đoạn chuẩn bị kết hôn và làm cha mẹ
Vai trò của người vợ, người chồng, người mẹ, người cha đã được nhận thức từ trong gia đình qua cách ứng xử của cha mẹ đối với nhau.
Gia đinh tạo cho cá nhân động cơ và mong muốn đi tới kết hôn và giúp cho các cá nhân biết cách ứng xử khi họ kết hôn.
Một người trước khi bước vào hôn nhân thường đã quan sát hôn nhân của cha mẹ trong một thời gian dài.
Các vai trò hôn nhân được học hỏi chủ yếu từ các vai trò thể hiện trong hôn nhân của cha mẹ.
Mô hình hôn nhân của cha mẹ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc xã hội hóa vai trò hôn nhân và làm cha mẹ cho con cái.
Giai đoạn bước sang tuổi già
Người trẻ tuổi có thể hình dung được cuộc sống của mình khi bước sang tuổi già sẽ diễn ra như thế nào chính là nhờ quan sát cuộc sống của những người già trong gia đình. Gia đình giúp mỗi người đương đầu được với tuổi già
và cái chết. Do biết cuộc sống của người già trong gia đình mà người ta đã biết già đi một cách đẹp đẽ.
Giai đoạn cuối cùng của chu trnh sống: chuẩn bị đón cái chết
Gia đình cũng đã giúp cho các thành viên của mình đi đến tiếp nhận cái chết một cách thanh thản hơn vì họ đã có dịp chứng kiến cái chết của nhiều người thân khác. Những nghi lễ của các đám tang có ý nghĩa đối với người sống
nhiều hơn là đối với người chết.
Gia đình giúp cá nhân khắc phục được tâm trạng buồn rầu, cô đơn vì người ta nói đến người đã mất một cách tự nhiên trong mối quan hệ với những người đang sống làm cho cái tang trở nên bình thường.
Sự thương tiếc và thờ cúng của gia đình đối với những người đã chết khiến cho các cá nhân dễ dàng chấp nhận cái chểt của mình hơn khi họ biết rằng dù có chết đi họ cũng vẫn được sống trong lòng người thân.
Tính chất hai chiều của xã hội hóa
Xã hội hóa không chỉ cần thiết đối với con cái, đối với trẻ em mà còn cần thiết đối với bố mẹ và người lớn tuổi.
Xã hội hóa không chỉ gồm những điều cha mẹ truyền cho con cái mà còn cả những điều con cái mang lại cho cha mẹ mình.
Quá trình tương tác giữa cha mẹ và con cái có thể làm thay đổi những chuẩn mực ứng xử, cách thức, phương thức quan hệ do lớp trẻ tiếp cận nhanh chóng hơn với sự đổi mới về văn hóa và hệ thống giá trị, không dừng lại ở tiếp
thu những chuẩn mực và giá trị của những thế hệ trước đây.
Quá trình xã hội hóa trở lại rất dễ dàng nhận thấy ở những xã hội đang diễn ra những sự biến đổi mạnh mẽ.
2.3.2 Môi trường trường học
Vườn trẻ, nhà mẫu giáo là nơi những đứa trẻ vui chơi và học tập. Đây là những hoạt động bước đầu của con người với xã hội. Thông qua hoạt động này, trẻ em đã thu nhận những kiến thức ban đầu về ý thức trách nhiệm và
hội. Cũng tại đó, qua giao tiếp, chúng dần dần hình thành các mối quan hệ xã hội, hoà nhập vào đời sống xã hội.
Trong các trường học, hoạt động chủ đạo của cá nhân là học tập, các cá nhân thu nhận những kiến thức khoa học cơ bản về tự nhiên và xã hội, các kiến thức văn hoá chủ yếu làm nền tảng cho cuộc sống sau này. Những kiến thức
này, sẽ phục vụ đắc lực cho việc thực hiện vai trò mà cá nhân cần phải đóng trong tương lai.
Nhưng dưới sự nhìn nhận của các nhà xã hội học, khi trẻ đến trường, nó không chỉ học các kiến thức mà còn học cả những quy tắc và những cách thức xác định hành vi. Như học cách làm sao có quan hệ tốt hơn với bạn bè, thầy
cô giáo, sao cho mọi người đều yêu mến và chấp nhận mình. Vì vậy, trong giai đoạn này, cá nhân thực hiện rất nhiều tương tác và nhiều quan hệ xã hội của họ cũng được thiết lập.
2.3.3 Các nhóm thành viên
Đó là các nhóm mà cá nhân là thành viên. Các nhóm này có ý nghĩa quan trọng trong việc cá nhân thu nhận các kinh nghiệm xã hội theo con đường chính thức và không chính thức, đặc biệt là nhóm bạn bè có chức năng là thỏa
mãn nhu cầu giao tiếp, nhu cầu giải trí giữa các cá nhân. Tuy nhiên, trong thực tế, quan hệ giữa các nhóm xã hội cũng là tác nhân quan trọng ảnh hưởng nhiều đến quá trình xã hội hóa
Quan hệ bạn bè là quan hệ bình đẳng, cùng vị thế xã hội nên các cá nhân thường dễ dàng chia sẽ thái độ, tâm tư và cảm xúc với nhau. Tác động của nhóm nhiều khi mạnh mẽ tới mức lấn át cả ảnh hưởng của gia đình và nhà
trường. Ta nhận thấy điều này trong nhóm bạn thiếu niên – thanh niên (tức giai đoạn dậy thì) vì ở tuổi này, thanh thiếu niên thường dành phần lớn thời gian và tâm trí cho quan hệ bạn bè. Họ cùng nhau tạo nên môi trường văn hóa
riêng với những giá trị chuẩn mực và hệ ngôn ngữ riêng, khác với giá trị chuẩn mực của người lớn. Những thành viên trong nhóm, đều mong đợi cá nhân tuân thủ những chuẩn mực, khuôn mẫu của nhóm nếu chừng nào còn muốn là
thành viên của nhóm đó. Những chuẩn mực này có thể vượt ra ngoài khuôn mẫu chung của xã hội.
2.3.4 Thông tin đại chúng
18
Bao gồm sách báo, tạp chí, đài, vô tuyến truyền hình và các phương tiện thông tin khác....Các nhân tố này ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình xã hội hoá vì hiện nay, đây là phương tiện cung cấp thông tin chủ yếu của
các cá nhân. Qua đó, chúng phổ biến tư tưởng, giá trị và niềm tin mà xã hội mong muốn.
Truyền thông tác động tới trẻ ngay trước khi đi học. Ngày nay nhiều trẻ em được tiếp xúc với truyền hình trước khi được đi học và hằng ngày phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp cho một số lượng đông đảo các thành
viên xã hội những thông tin đa dạng và có tác động lớn đến suy nghĩ cũng như hành vi của họ. Truyền thông mang lại cho con người những kinh nghiệm xã hội,những mẫu văn hóa mang tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn phổ biến. Các
thành viên của xãhội đều chịu ở mức độ khác nhau do những gì mà các phương tiện truyền thông coi trọng hoặc xem nhẹ, đánh giá tích cực hay tiêu cực. Nó cũng là một kênh quan trọng để phổ biến văn hóa, giúp con người có thể
hiểu được những mẫu văn hóa, những nền văn hóa khác. Truyền thông cũng làm cho các thành viên trong một xã hội gắn kết với nhau hơn thông qua những mối quan tâm chung, những giá trị chung đặc biệt là khi có một sự kiện nổi
bật như có một thảm họa, một vinh quang mà đội tuyển quốc gia giành được hay một cuộc chiến tranh bùng nổ…
Tuy vậy, các phương tiện truyền thông cũng có những vấn đề của nó, các phương tiện này có thể làm méo mó, lệch lạc việc tiếp nhận các giá trị qua các chương trình không lành mạnh do tính thương mại hoá hoặc thiếu thận
trọng của nhà lập chương trình truyền tin, dẫn đến việc trẻ em lầm tưởng những gì được in ấn, truyền tải…đều là những thứ được xã hội thừa nhận. Vì thế, một đòi hỏi đặt ra là phải có sự kiểm duyệt có định hướng thông tin đại chúng
để loại bỏ những lệch lạc trong nhận thức xã hội của mọi người. Ngoài ra, truyền thông rất ít hoặc không mang tính tương tác,các khán thính giả không thể thảo luận hay bày tỏ thái độ trực tiếp với những người làm ra chương trình
truyền thông. Chính vì thế vượt xa rất nhiều những gì mà truyền thông đưa đến như một nguồn giải trí. Vì lý do đó, các vấn đề như quảng cáo, bạo lực, lối sống…trên các phương tiện truyền thông đại chúng thường là chủ đề gây tranh
cãi. Mặt khác, nhiều nhà xã hội học cho rằng truyền thông thể hiện ý thức hệ chủ đạo, nó có khuynh hướng thể hiện quyền lợi của phần tử ưu tú. Thông qua thời lượng cũng như cách thức những gì được chuyển tải qua các phương
tiện truyền thông, xã hội bị ảnh hưởng bởi những khuôn mẫu giá trị, cũng như quyền lợi của những nhóm thứ yếu bị xem nhẹ vì họ không nắm giữ các phương tiện truyền thông.
Như vậy, môi trường xã hội hoá có thể chia thành môi trường chính thức và phi chính thức: cá nhân thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội nhằm thực hiện tốt vai trò của mình thông qua con đường giáo dục (chính thức) và toàn bộ sự
dạy dỗ của xã hội đến cá nhân (phi chính thức).
Có thể nói, xã hội hoá là một khái niệm có tính quyết định trong xã hội học, vì nó quan tâm tới quá trình cá nhân hoà nhập vào xã hội và có được những phẩm chất xã hội mong muốn. Thực chất, đây là quá trình cá nhân dần dần nhập
tâm những giá trị và chuẩn mực xã hội đề ra để biến chúng thành giá trị, chuẩn mực của mình. Quá trình xã hội hoá được thực hiện thông qua “cá nhân hoá” các giá trị, chân lý, các quy tắc ứng xử. Vì vậy, xã hội hoá là cần thiết cho
sự hình thành cá nhân của con người, để cho con người phát triển chủ thể của xã hội.
19
20
| 1/20

Preview text:

Chương 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC
2.1Những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
Khoa học xã hội học ra đời trong bối cảnh kinh tế – xã hội châu Âu thế kỷ XIX. Tính tất yếu đó bộc lộ ở nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện vật chất và tinh thần, các tiền đề cần thiết cho sự nhận thức xã hội. Lúc bấy giờ
các cuộc cách mạng công nghiệp và thương mại đã làm lung lay tận gốc hệ thống thiết chế kinh tế – xã hội cũ từng tồn tại hàng ngàn năm trước đó ở Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, Ý và các nước khác. Hình thái kinh tế – xã hội kiểu phong
kiến bị sụp đổ từng mảng lớn trước sức mạnh bành trướng của lực lượng sản xuất và thị trường hàng hóa công nghiệp của nền đại công nghiệp
Dưới tác động của tự do hóa thương mại, tự do hóa sản xuất và đặc biệt là tự do hóa lao động, hệ thống tổ chức quản lý kinh tế – xã hội theo kiểu truyền thống đã bị thay thế bằng các phương thức tổ chức kinh tế – xã hội hiện đại.
Kiểu sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện và phát huy tác dụng. Hình thành và phát triển hệ thống nhà máy, xí nghiệp, tập đòan kinh tế có khả năng tạo ra khối lượng lớn hàng hóa, thu hút nhiều lao động nông thôn ra thành thị, mở
rộng hệ thống thị trường nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp.
Họat động buôn bán và sản xuất được tổ chức lại theo qui mô đại công nghiệp cơ khí lúc đầu đã xuất hiện ở Anh, sau đó ở Pháp, Hà Lan, Đức và các nước khác. Điều đó tạo thành những bước chuyển đổi đột phá trong quá trình biến
đổi kinh tế – xã hội ở các nước này. Riêng về mặt kinh tế, chỉ sau khoảng một trăm năm phát triển, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã sản xuất được một khối lượng sản phẩm ước tính bằng tổng khối lượng của cải vật chất do lòai người
tạo ra trong suốt lịch sử phát triển từ trước cho đến khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Đại công nghiệp đã sản xuất ra được khối lượng hàng hóa với giá rẻ, được Marx và Engels ví như những viên “trọng pháo bắn thủng tất cả những bức
vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngọai một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục”. Kết quả là nền tảng kinh tế – xã hội theo hướng phong kiến, cùng với nó là chế độ phong kiến, quan hệ xã hội phong kiến
châu Au bị trốc tận gốc và sụp đổ tan tành.
Biến đổi kinh tế làm thay đổi sâu sắc đời sống chính trị, văn hóa xã hội. Của cải, đất đai, tư bản không còn tập trung trong tay tầng lớp phong kiến, quí tộc, tăng lữ mà rơi vào tay giai cấp tư sản. Sự phân chia giai cấp, sự phân tầng xã
hội và phân hóa giàu nghèo diễn ra trên qui mô rộng lớn với tính chất quyết liệt, sâu sắc. Nền công nghiệp với qui mô lớn đã đẩy nhanh quá trình đô thị hóa cùng sự tích tụ dân cư, phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng.
Kỹ thuật, công nghệ và khoa học phát triển nhanh chóng góp phần hình thành và phát triển tầng lớp xã hội mới là những người trí thức, đội ngũ hành chính, quản lý và công nhân kỹ thuật. Sản xuất công nghiệp với qui mô lớn đòi hỏi
phải mở mang buôn bán, giao lưu và thị trường nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa công nghiệp. Từ đó hình thành nên từng lớp doanh nhân, thương nhân.
Sự phân hóa trong lối sống của thành thị và nông thôn diễn ra với tốc độ nhanh chóng, tỉ lệ thuận với quá trình đô thị hóa. Quan hệ giưã thành thị và nông thôn trở thành quan hệ phụ thuộc. Nông dân bị tách khỏi ruộng đật trở thành
người làm thuê cho giới chủ tư bản công nghiệp ở thành phố. Việc nông dân rời bỏ cộng đồng làng quê, nông dân ra thành phố sinh sống đã kéo theo những biến đổi lớn trong thiết chế gia đình. Đời sống cá nhân và gia đình bị xô đẩy,
xé vụn và bị cuốn hút vào họat động kinh tế kiểu thị trường và lối sống cạnh tranh, vụ lợi. Xuất hiện “chủ nghĩa thành thị” dựa vào kinh tế công nghiệp
Các hình thức tổ chức xã hội theo kiểu phong kiến trước đây bị lung lay, xáo trộn và biến đổi mạnh mẽ. Tổ chức và thiết chế tôn giáo, cụ thể là giáo hội trước kia rất có thế lực nay bị mất dần vai trò và quyền lực chính trị trong đời
sống xã hội trước sức ép của họat động kinh tế diễn ra sôi động. Việc nhà thờ bị tách ra khỏi nhà nước và nhà trường là một biểu hiện rõ rệt nhất của sự biến đổi xã hội trong lĩnh vực tổ chức đời sống vật chất và tinh thần ở xã hội
châu Âu thế kỷ XVIII – XIX.
Do đó, luật pháp ngày càng tập trung vào việc điều tiết các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích và quan hệ xã hội mới xuất hiện, chưa từng có ở xã hội phong kiến. Các thiết chế hành chính , tổ chức hành chính cũng ra đời và biến đổi để
phục vụ cho giai cấp tư sản.
Tóm lại, sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ trật tự xã hội phong kiến gây những xáo trộn và biến đổi sâu rộng trong đời sống xã hội. Quan hệ, tương tác và cấu trúc xã hội trở nên phức tạp, mất ổn
định, gây ra những hậu quả khó lường. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực tiễn:
-phải lập lại trật tự, ổn định xã hội;
-nảy sinh nhu cầu tìm hiểu, giải thích các hiện tượng, các quá trình kinh tế xã hội và giải quyết các vấn đề của thời kỳ khủng hỏang xã hội lúc bấy giờ.
Nói cách khác, xã hội học đã ra đời một cách tất yếu trong bối cảnh kinh tế-xã hội châu Au thế kỷ XIX nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức và nhu cầu thiết lập ổn định, trật tự xã hội
2.1 Điều kiện phát triển chính trị – xã hội
Các sự kiện chính trị – xã hội quan trọng nhất góp phần làm thay đổi căn bản thể chế chính trị, trật tự xã hội và các thiết chế xã hội châu Au thế kỷ XVIII – XIX là các cuộc cách mạng, nhất là cách mạng Pháp năm 1789. cuộc cách
mạng này đã mở đầu cho thời kì tan rã chế độ phong kiến, nhà nước quân chủ và thay thế trật tự xã hội cũ bằng trật tự chính trị xã hội mới với sự thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản.
Về mặt văn hóa – tư tưởng, đại cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII với khẩu hiệu “tự do, bình đẵng, bác ái” đã khơi dậy những biến đổi mang tính cách mạng trong văn hóa, tư tưởng, nhận thức và hành động chính trị của giai cấp
công nhân và quần chúng lao động về quyền con người và quyền bình đẵng giai cấp. Cùng với sự biến đổi chính trị có tính chất cách mạng ở Pháp là các biến động chính trị theo con đường “tiến hóa” ở Anh, Đức, Ý và các nước khác.
Đặc điểm chung của những thay đổi to lớn trong đời sống chính trị châu Au lúc bấy giờ là quyền lực chính trị chuyển sang giai cấp tư sản và một thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất. Biến đổi chính trị xã hội đã góp phần củng cố
và phát triển chủ nghĩa tư bản. Điều này thể hiện ở việc hình thành những điều kiện có lợi cho tự do buôn bán, tự do sản xuất, tự do cạnh tranh, tự do ngôn luận tư sản và đặc biệt là tự do bóc lột sức lao động công nhân, làm căng
thẳng thêm mối quan hệ giữa giai cấp thống trị-tư sản và giai cấp bị trị-vô sản.
Mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích giữa các tầng lớp xã hội và nhất là giữa giai cấp công nhân vô sản và giai cấp tư sản đã lên đến đỉnh điểm làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới vào nữa cuối thế kỷ XIX – công xã Pari
1871, và sau này cuộc cách mạng tháng mười Nga vĩ đại năm 1917. Các cuộc cách mạng này đã thổi bùng lên ngọn lửa nhiệt tình cách mạng và lí tưởng xã hội chủ nghĩa trong các tầng lớp tiến bộ xã hội, nhất là giai cấp công nhân vô
sản và các dân tộc bị áp bức trên phạm vi tòan thế giới.Những biến động chính trị xã hội và đặc biệt là cuộc cách mạng Pháp đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử xã hội học như sau:
Thứ nhất: đó là sự kiện xã hội học đầu tiên ra đời trên thế giới với tư cách là một khoa học ở nước Pháp – cái nôi của Đại cách mạng Pháp rồi sau đó mới xuất hiện ở nước Anh, Đức, Ý, Mỹ.
Thứ hai: các công trình của các nhà xã hội học người Pháp như Auguste Comte, Emile Durkhem, nhà xã hội học người Anh Herbert Spencer, nhà xã hội học người Đức Georg Simmel, và đặc biệt là những người sáng lập ra chủ nghĩa
cộng sản khoa học, lãnh tụ thiên tài và người thầy của giai cấp vô sản Karl Marx và Engels đều chịu ảnh hưởng của học thuyết xã hội chủ nghĩa Pháp.
Thứ ba: những biến động kinh tế, chính trị và văn hóa ở xã hội Pháp đã khiến các nhà xã hội học tiền bối đặt ra những câu hỏi lí luận cơ bản không chỉ với xã hội học của Pháp mà của tòan bộ lí luận xã hội học thế kỷ XIX. Đó là vấn
đê trật tự xã hội, bất bình đẳng xã hội và làm thế nào phát hiện và sử dụng các qui luật tổ chức xã hội để góp phần tạo dựng, củng cố trật tự xã hội và tiến bộ xã hội.
Trong bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội như vậy, các nhà tư tưởng xã hội, các nhà xã hội học châu Au thế kỷ XIX đã ra sức tìm hiểu, mô tả, phân tích các quá trình, hiện tượng xã hội để phản ánh và giải thích đầy đủ những
biến động chính trị, xã hội đang diễn ra xung quanh họ. Các nhà xã hội học thế kỷ XIX tập trung vào nghiên cứu những vấn đề nảy sinh từ những khủng hỏang, mất ổn định, mất trật tự chính trị xã hội lúc bấy giờ. Một số nhà xã hội
học tiến bộ đã chỉ ra con đường và biện pháp lập lại trật tự và duy trì sự tiến bộ xã hội.
3. Một số đóng góp của các nhà sáng lập xã hội họ
3.1. Auguste Comte (1798-1857)
Auguste Comte là nhà lý thuyết xã hội, nhà triết học thực chứng người Pháp là người khai sinh xã hội học. Sinh ra trong một gia đình Gia tô giáo theo xu hướng quân chủ nhưng ông sớm trở thành một người có tư tưởng tự do
và cách mạng. Năm 16 tuổi ông vào học ở trường Đại học bách khoa và ba năm sau, tức lúc 19 tuổi ông được làm thư ký cho Saint – Simon, sau khi tách khỏi Saint - Simon năm ông bắt đầu giảng giáo trình triết học thực chứng.
Ông từng là người sáng lập ra hiệp hội thực chứng luận. Ông là người đã chứng kiến những cuộc chiến tranh, những biến động to lớn về chính trị ở Pháp thế kỷ XIX. Ông có các công trình cơ bản như “Triết học thực chứng”,
“Hệ thống chính trị học thực chứng”.
Tư tưởng của Comte chịu ảnh hưởng của khoa học tự nhiên như Vật lý học, sinh vật học. Theo ông, xã hội học là khoa học về xã hội và các bộ phận cấu thành và các quá trình của nó. Ông còn gọi nó là vật lý học xã hội. 1
Ông đưa ra 3 nguyên tắc để xây dựng ngành xã hội học: dựa trên chủ nghĩa kinh nghiệm, thực chứng luận và thuyết vật lí.
Vật lý Xã hội học của Comte bao gồm 2 bộ phận phận chính: Tĩnh học xã hội và Động học xã hội (cơ thể xã hội)
Thứ nhất, Tĩnh học xã hội và các yếu tố cấu thành xã hội:
- Tĩnh học xã hội là một bộ phận của xã hội học, nghiên cứu trật tự xã hội, cấu trúc xã hội và các mối liên hệ giữa chúng, tức là các yếu tố có thể coi là tĩnh của xã hội. Comte nghiên cứu các mặt tĩnh của xã hội như:
+ Cá nhân: với tư cách là những thành phần, những đơn vị cấu thành cấu trúc xã hội. Khi nghiên cứu về cá nhân ông xem xét về năng lực, nhu cầu bên trong của cá nhân và khả năng tiếp nhận của cá nhân khi tham gia các mối quan hệ trong xã hội
Sau đó, quan niệm của ông về cá nhân thay đổi. Ông coi cá nhân không phải là một đơn vị xã hội đích thực của cấu trúc xã hội. Ông cho rằng việc nghiên cứu cá nhân thuộc về lĩnh vực sinh vật học. Nghiên cứu xã hội học chủ
yếu nghiên cứu các thiết chế xã hội, các tổ chức xã hội
+ Gia đình: là đơn vị xã hội, thiết chế xã hội cơ bản nhất, sơ đẳng nhất. Ông nghiên cứu thành phần gia đình, cấu trúc gia đình, các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Các nghiên cứu này chỉ mang tính sơ lược,
thiếu đầy đủ so với Marx và Enghels…
- Cấu trúc xã hội: (cơ cấu xã hội): là vấn đề thực sự có ý nghĩa về lý luận xã hội học của ông. Cấu trúc xã hội là một hệ thống được tạo ra từ những cấu trúc khác nhỏ hơn, đơn giản hơn gọi là tiểu cấu trúc. Do đó, hiểu được cấu
trúc xã hội có nghĩa là nắm được đặc điểm, các thuộc tính và các mối liên hệ của các tiểu cấu trúc xã hội. Tĩnh học tập trung nghiên cứu cấu trúc xã hội của các thiết chế như gia đình, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật… Qua phân tích cấu
trúc xã hội và cho rằng nó phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp thể hiện qua sự phân hóa, đa dạng hóa, chuyên môn hóa cũng như mức độ liên kết của các tiểu cấu trúc xã hội. Comte còn cho rằng sự duy trì trật tự xã
hội, duy trì các tiểu cấu trúc cần phải có sự can thiệp của quyền lực nhà nứơc, sự đòan kết, liên kết của các bộ phận, sự chuyên môn hóa và các yếu tố như ngôn ngữ, tôn giáo… có khả năng duy trì trật tự và ổn định xã hội. Thứ hai,
Động học xã hội là lĩnh vực nghiên cứu các qui luật biến đổi xã hội trong các hệ thống xã hội theo thời gian.
Qua việc tìm hiểu sự vận động của xã hội, ông đưa ra quy luật ba giai đọan để giải thích về sự phát triển của xã hội.
- Giai đọan 1: Giai đọan thần học (thần linh)
Giai đoạn này bắt đầu từ thời đại chiếm hữu nô lệ và mọi quan niệm đều bị chi phối bởi sự tưởng tượng về thế lực siêu nhiên, siêu nhân. Các sự kiện xã hội đựơc giải thích một cách thần bí. Ngoài ra các quan hệ xã hội bi chi
phối bởi quan hệ quân sự giữa các quốc gia vì tranh giành lãnh thổ nên còn gọi là giai đọan thần học – quân sự. Vì thế nên lãnh đạo xã hội thời kì này là các giáo sỹ, mục sư, tăng lữ.
- Giai đọan 2: Giai đoạn siêu hình
Gia đoạn này tuy đã có sự tiến bộ, song những gì biết đựơc vẫn còn bị chi phối bởi trí tưởng tựơng nhưng vai trò của bằng chứng trở nên rõ rệt, buộc đầu óc con người phải phù hợp với thực tế. Các quan hệ xã hội, kinh tế, chính
trị trở nên mềm dẻo, linh họat nhằm phát triển kinh tế. Lãnh đạo xã hội là các nhà thông thái, triết học.
- Giai đọan 3: Giai đoạn thực chứng khoa học
Giai đoạn này tri thức khoa học thực sự thống trị, yếu tố quan sát và bằng chứng chiếm vị trí chủ đạo. Quan hệ xã hội vận hành trên cơ sở quan hệ SX công nghiệp. Lãnh đạo, thủ lĩnh là các nhà khoa học, nhà thực chứng luận.
Xã hội sẽ lần lượt trải qua 3 giai đọan nhưng mỗi nơi thì trải qua ở những thời điểm khác nhau do dân số, chính trị… Comte còn cho rằng xã hội học ra đời vào giai đọan cuối là một tất yếu lịch sử. Ông đưa ra bảng phân lọai các
ngành khoa học tự nhiên: tóan học, cơ học, vật lý học, hóa học, sinh học và Xã hội học. Vô cơ đơn giản hơn hữu cơ nên hiểu biết về vô cơ tự nhiên sớm đạt đến thực chứng.
Phương pháp luận thực chứng kiểu Comte: ông cho rằng xã hội học có nhiệm vụ sắp xếp, lập lại trật tự xã hội. Xã hội học có thể phát hiện, chứng minh làm sáng tỏ các qui luật tổ chức và biến đổi của xã hội bằng phương pháp
luận của chủ nghĩa thực chứng như Vật lý học hay Sinh vật học. Comte gọi xã hội học là Vật lý học xã hội… Phương pháp nghiên cứu Xã hội học này được chia thành 4 phương pháp căn bản: 1. Phương pháp quan sát, 2. Phương
pháp thực nghiệm, 3. Phương pháp so sánh, 4. Phương pháp lịch sử.
3.2. Karl Marx (1818-1883)
Marx là một nhà triết học, nhà lý luận lớn, là nhà sang lập chủ nghĩa cộng sản khoa học. Marx không để lại một lý thuyết hoàn chỉnh về Xã hội học nhưng toàn bộ di sản của ông ảnh hưởng rất lớn đến Xã hội học – Học thuyết về hình
thái kinh tế xã hội là một tiêu biểu điển hình.
Theo Marx sự phân hóa xã hội thành các gia cấp là các mối quan hệ xã hội, trong đó ẩn chứa những xung đột giai cấp và đấu tranh giai cấp. Cuộc đời và sự nghiệp của Marx gắn liền với quá trình kết hợp giữa nghiên cứu khoa học và
hoàn cảnh thực tiễn. Học thuyết lý luận về giá trị thặng dư và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Marx đã chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, đề cao vai trò của người cộng sản.Marx cho rằng, nguyễn nhân dẫn đến sự bất
bình đẳng và phần tầng xã hội là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân và thay vào đó chế độ sở hữu của toàn xã hội để xây dựng xã hội công bằng và văn minh.
Về quy luật phát triển của lịch sử, Marx đã chỉ ra lịch sử xã hội loài người đã trải qua năm hình thái kinh tế - xã hội:
-Hình thái kinh tế xã hội công xã nguyên thủy;
-Hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ;
-Hình thái kinh tế xã hội phong kiến;
-Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa;
-Hình thái kinh tế xã hội công sản chủ nghĩa;
3.3. Herbert Spencer (1820-1903)
Herbert Spencer là mô „t nhà triết học, nhà Xã hội học người Anh. Ông sinh năm 1820 tại Derby, Anh, gia đình ông theo đạo Tin Lành. Năm 1851, ông viết cuốn “Tĩnh học xã hội”, thuật ngữ này ông chịu ảnh hưởng của Auguste Comte.
Do ảnh hưởng thuyết tiến hóa của Darwin (1809 – 1882), ông đưa ra quan điểm tiến hóa xã hô „i. Theo Spencer, cuộc sống của con người không chỉ là một sự liên tục mà còn là đỉnh cao của quá trình tiến hóa lâu dài,
nhưng ông lại cho rằng có một sự phát trển song song của tinh thần và thể xác chứ không giản lược tinh thần vào thể xác. Quan niệm này của ông là mô „t quan niệm máy móc, nhưng mă „t khác, những khái niệm, các nguyên lý xã hội
học của Spencer có ý nghĩa rất quan trọng đối với khoa học xã hội học hiện đại. Những phân tích về tác nhân của xã hội và các nguyên lý tiến hóa xã hội, nguyên lý về chức năng và cấu trúc xã hội đóng vai trò là nền tảng hình thành
nên xu hướng chức năng luận trong Xã hội học.
Ông chủ yếu học ở cha và người thân trong gia đình, ông có kiến thức vững chắc về toán học, khoa học tự nhiên và quan tâm nghiên cứu khoa học xã hội. Ông tin tưởng vào “bàn tay vô hình” tức là cơ chế thị trường
và tự do cạnh tranh trong việc duy trì trật tự xã hội, là người đưa ra quan niệm về sự tiến hoá (chỉ có cá nhân nào, hệ thống xã hội nào thích nghi với môi trường xung quanh thì mới có thể tồn tại được).
Các nguyên lý cơ bản của xã hội học:
Siêu sinh thể xã hội: xã hội như một siêu sinh thể. Ông cho rằng xã hội như hiện tượng tự nhiên, hữu cơ, vô cơ… vận động và phát triển theo qui luật. Xã hôi học không nên sa đà vào phân tích các đặc thù lịch sử
của xã hội mà nên tìm kiếm các thuộc tính, đặc điểm chung, phổ biến, tổng quát và những mối liên hệ nhân quả giữa các sự vật, hiện tượng xã hội. 2
-Nguyên lý tiến hoá xã hội: Xã hội tiến hoá theo cấu trúc nhỏ, đơn giản, không ổn định đến xã hội có cấu trúc lớn, liên kết bền vững…Qui mô cơ thể tỉ lệ thuận với nhu cầu của sự phân hoá xã hội.
Ông phân chia tác nhân của hiện tượng xã hội ra thành:
-Tác nhân chủ quan: trí tuệ, thể lực, các trạng thái xúc cảm.
-Tác nhân bên ngoài: môi trường, đất, nước, không khí…
-Tác nhân tự sinh: bắt nguồn từ điều kiện bên trong và bên ngoài như dân số, mối liên hệ, tương tác giữa các xã hội.
-Cũng như cơ thể sinh học thì cơ thể xã hội cũng có các cơ quan chuyên môn hoá đảm bào cho nhu cầu sống của xã hội. Các cơ quan chuyên môn hoá đều có khả năng sinh tồn và phát triển. Nhưng cái khác ở cơ thể xã hội là các cơ
quan chuyên môn hoá tác động tích cực một cách gián tiếp lẫn nhau thông qua ngôn ngữ, kí hiệu mà cơ thể sinh vật không có.
Cơ thể xã hội: các bộ phận tác động lẫn nhau dẫn đến phát triển, suy tàn, phát triển…
Những phân tích về các tác nhân xã hội và các nguyên lí tiến hoá xã hội, nguyên lí về chức năng và cấu trúc xã hội đóng vai trò là nền tảng hình thành nên xu hướng chức năng luận trong xã hội.
Một số tác giả phê phán ông quá đề cao phương pháp luận qui đồng xã hội với cơ thể sinh học. Vấn đề khách quan và chủ quan của phương pháp luận: *Khó khăn khách quan:
+ nguyên nhân từ đối tượng nghiên cứu: các hiện tượng, quá trình xã hội luôn gắn với động cơ, nhu cầu, tình cảm…xhh không phải là khoa học chính xác. Mặc dù đối tượng nghiên cứu là sự tiến hoá của cơ thể xh và lịch sử tự nhiên.
+ Không đo lường được trạng thái chủ quan của cá nhân, nhóm xh.
+ Không nghiên cứu hết mà nghiên cứu những chủ đề được lựa chọn, thu thập các số liệu đã chọn.
+ Khắc phục: thu thập hết.
*Khó khăn chủ quan: thộc về trình độ, quan niệm, ý thức người nghiên cứu. +Phân loại xã hội học
+ Xã hội quân sự: Kiểu xh thời chiến, kiểm soát, độc đoán. Chế độ phân phối diễn ra theo chiều dọc mang tính tập trung cao độ từ dưới lên trên do nhà nước quản lý, kiểm soát.
+ Xã hội công nghiệp: là xã hội thời bình, ít tập trung và ít độc đoán, mục tiêu là sản xuất. chế độ kiểm soát mềm dẻo.
3.4. Emile Durkheim (1858-1917)
Emile Durkheim, là nhà Xã hội học người Pháp, người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng và chủ nghĩa cấu trúc trong Xã hội học hiện đại. Ông sinh ra trong một gia đình Do Thái .Do học giỏi nên năm
1879, ông được nhận vào học ở trường Escole Normail và cũng tại nơi đây ông đã hoàn thành luận án tiến sĩ.Ông bắt đầu giảng dạy tại trường Đại học Tổng hợp Bordeaux lúc 29 tuổi. Trong thời gian làm việc ở Bordeaux, ông đã
hoàn thành một công trình Xã hội học đồ sộ. Ông cho ra đời các tác phẩm:
Các quy tắc của phương pháp xã hội học (1895), Tự tử (1897),
Các hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo (1912).
Năm 1913, học hàm giáo sư khoa học giáo dục của Durkheim được chính thức đổi thành giáo sư khoa học giáo dục và xã hội học, và ông trở thành nhà Xã hội học chính thức đầu tiên ở nước Pháp => Sự kiện này
cùng với việc ông đưa vào giảng dạy môn Xã hội học trong nhà trường đại học đã mở đầu cho bước tiến quan trọng của Xã hội học với tư cách là khoa học độc lập ở Pháp.
Ông sống trong một xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và kĩ thuật. Vì vậy, ông luôn cho rằng Xã hội học có nhiệm vụ hàng đầu là tìm ra các quy luật xã hội để từ đó tạo ra trật
tự xã hội trong xã hội hiện đại.
Xã hội học của ông chịu ảnh hưởng của các nhà tư tưởng xã hội, các nhà khoa học Châu Âu như: Auguste Comte, Herbert Spencer, Saint – Simon,…
Theo ông, xã hội tồn tại bên ngoài cá nhân và có trước cá nhân với nghĩa là các nhân được sinh ra trong xã hội và phải tuân thủ các chuẩn mực, phép tắc xã hội đã có sẵn trước khi cá nhân sinh ra. Vì vậy, Xã hội học
cần phải xem xét hệ thống xã hội, cấu trúc xã hội và các hiện tượng xã hội với tư cách là các sự vật, các bằng chứng, các sự kiện đang tác động tới đời sống cá nhân.
Mặc khác, Durkheim cho rằng xã hội biến đối từ xã hội đơn giản đến xã hội phức tạp, sự tiến hóa xã hội diễn ra chủ yếu dưới tác động của các yếu tố xã hội trong đó có sự biến đổi trong cách phân công lao động của xã hội.
Quan niệm của ông về xã hội học: Có thể định nghĩa xã hội học là khoa học nghiên cứu các sự kiện xã hội. Do sự kiện xã hội có thể tồn tại dưới hình thức các thiết chế xã hội, các chuẩn mực đạo đức nên ta còn bắt
gặp nhiều định nghĩa khác của ông về xã hội học. Ví dụ: Ông định nghĩa xã hội học là khoa học về các sự kiện đạo đức.
Một số khái niệm của Durkheim: Sự kiện xã hội:
Có tính vật chất: nhóm người, dân cư.
Phi vật chất: hệ thống giá trị, chuẩn mực, phong tục.
Sự kiện vật chất là sự kiện bên ngòai, áp đặt vào cá nhân.
Sự kiện xã hội mang đặc điểm: tính khách quan, tính phổ biến, tính cưỡng chế.
Mặc dù sự kiện xã hội tồn tại bên ngòai cá nhân nhưng nó kiểm sóat cá nhân vì cơ chế “xã hội hóa” cá nhân.
Đoàn kết xã hội: là mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, giữa các cá nhân với nhau, cá nhân với nhóm xã hội. Nếu không có đòan kết xã hội thì các cá nhân riêng lẽ sẽ không tạo thành xã hội.
Có 2 lọai đòan kết xã hội:
Đoàn kết cơ học: là kiểu đòan kết dựa trên sự giống nhau giữa các giá trị, phong tục, tín ngưỡng… tồn tại trong xã hội truyền thống, xã hội nông nghiệp, nhỏ, ý thức cộng đồng cao, luật tục là phổ biến. Đoàn kết xã
hội hữu cơ: kiểu đòan kết phong phú, đa dạng trong xã hội công nghiệp, dựa trên sự phân công và chuyên môn hóa cao trong sản xuất..Ông đấu tranh với cả triết học xã hội của Comte và Spencer. Ông phê phán hai nhà xã hội học này
chỉ tuyên bố rằng các sự kiện xã hội là những sự kiện tự nhiên nhưng không đối xử với chúng như là các sự vật mà lại chủ yếu áp dụng phương pháp thuần túy tư tưởng.Ông phê phán triết học và cả lịch sử học vì cả hai khoa học này
chỉ lo phát hiện ra cái ý nghĩa chung mà nhân loại hướng vào chứ không phải là tìm kiếm mối quan hệ nhân quả của các sự kiện.Theo ông, xã hội học coi các hiện tượng xã hội như là sự vật và phải xử lý như các sự vật, tức là xử lý
chúng với tư cách là các dữ chứng tạo thành một xuất phát điểm của nghiên cứu khoa học.
3.5. Max Weber (1864-1920) 3
Weber chào đời tại Erfurt trong vùng Thuringer nước Đức. Năm 1882, Weber vào học luật tại Đại học Heidelberg. Sau đó, ông phục vụ trong quân đội Đức tại Strasbourg.
Tác phẩm chính: xhh tôn giáo, tôn giáo Trung quốc, tôn giáo An độ.
Phương pháp luận XHH:-Quan niệm của Max Weber về phương pháp khoa học: Khoa học tự nhiên Khoa học xã hội Thứ nhất Đối tượng nghiên cứu Là sự kiện vật lý
Họat động xã hội của con người Thứ 2 Tri thức xã hội
Trong thiên nhiên, bên ngòai cá nhân
Hiểu biết về xã hội, do con người tạo ra. Thứ 3 Phương pháp nghiên cứu
Quan sát tự nhiên, tường thuật
Lý giải động cơ, quan niệm, thái độ…
Khoa học xã hội thực sự là khoa học, trung lập, khách quan và tự do, không bị ràng buộc bởi hệ thống giá trị trong quá trình nghiên cứu. Ong cũng thừa nhận khoa học xã hội có khi cũng rất phi khoa học (thứ nhất).
Quan niệm của Weber giống Durkheim: trong nghiên cứu phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, khoa học… khoa học xã hội có tính độc lập.
Quan niệm về xã hội học: Xã hội học là khoa học giải nghĩa họat động xã hội và tiến tới cách giải thích nhân quả về đường lối và hệ quả của hành động xã hội.
Theo ông nghiên cứu hành động xã hội mà chỉ xem xét, phân tích những đặc điểm quan sát được từ bên ngòai thì không đủ, thậm chí còn không có ý nghĩa xhh mà còn phải nắm bắt, lý giải được hiện tượng bên trong nó.
Có 2 lọai lý giải: trực tiếp: nắm bắt ý nghĩa hành động thông qua quan sát trực tiếp. Gián tiếp: thông qua cảm nhận để nhận xét.
Khó áp dụng khái niệm chính xác của khoa học tự nhiên để chỉ hành động xã hội.
Xã hội học của Weber là để chỉ động cơ và ý nghĩa của hành động xã hội, tức là giải thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành động xã hội, vừa có đặc điểm của khoa học xã hội, tức là giải thích mục đích, nhu cầu, ý nghĩa của hành động xã hội.
Khái niệm hành động xã hội: là việc chủ thể gắn cho hành vi của mình một ý nghĩa chủ quan nào đó. Hành động kể cả hành động thụ động và không thụ động. Được gọi là hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó tính đến hành
vi của người khác trong quá khứ, hiện tại, tương lai. Nó định hướng hành động.
Ông giải thích sự định hướng của hành động xã hội thông qua việc phân chia hành động xã hội làm 4 loại:
Hành động hợp lý theo mục đích; Hành động hợp lý theo giá trị; Hành động theo truyền thống; Hành động mang tính cảm xúc
Ông nghiên cứu mối quan hệ giữa tôn giáo với kinh tế và thông qua đó để nhìn nhận về vai trò của tôn giáo và văn hoá đối với sự phát triển của xã hội. Ông cho rằng sự phát triển của xã hội không chỉ do động lực kinh tế mà ngoài ra
còn do yếu tố tôn giáo, văn hoá…
Về quan điểm quyền lực xã hội và bất bình đẳng xã hội, ông cho rằng yếu tố kinh tế không phải là yếu tố quyết định (khác với K. Marx) mà các yếu tố như uy tín, dòng dõi, dân tộc, chủng tộc, sắc đẹp… cũng là những nguyên nhân
làm nên sự bất đẳng và quyền lực trong xã hội. Ngoài ra trong xã hội hiện đại, các yếu tố như cơ may cuộc sống và khả năng tiếp cận thị trường của các cá nhân có ý nghĩa lớn trong việc xác định địa vị xã hội và tạo ra những bất bình đẳng trong xã hội.
Đóng góp về phương pháp: Ông đã để lại nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng phương pháp quan sát, giải thích, giải nghĩa và phương pháp thực nghiệm.
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG – CHỨC NĂNG – NHIỆM VỤ CỦA XÃ HỘI HỌC
1.1. Xã hội học là gì?
Khái niệm: Xã hội học là một môn khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hôi, nghiên cứu các tương tác xã hội, đặc biệt đi sâu nghiên cứu có hệ thống sự phát triển cấu trúc, mối tương quan xã hội, hành vi xã hội được thể hiện trong
quá trình họat động của con người trong các nhóm, tổ chức xã hội.
Vd: Một nghiên cứu nào đó của ai? Về nội dung gì? Kết quả? ( Xã hội học), ngắn.
1.2. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
Trong quá trnh nghiên cứu xã hô i học c!n lưu $:
Đòi hỏi phải xác định được rõ những của pham vi cu thể
hành vi mang tính xãhôi mà Xã hội học quan tâm.
Các hiện tượng xã hội là đối tượng của tất cả các ngành thuộc về khoa học xã hội chứ không chỉ riêng ngành Xã hộii học.
Giống những khoa học khác, xã hội học cũng có nhiều trường phái khác nhau, nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau. V vậy, đối tượng nghiên cứu của xã hội học cũng được nhn nhận khác nhau. Có thể nói trong một thời gian
dài, xã hội học bị xem là khủng hoảng về mặt lí luận, bởi những bất đồng về đối tượng nghiên cứu của các trường phái xã hội học. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điều đó với các cách tiếp cận sau:

Thứ nhất, tiếp cận vĩ mô : đây là hướng tiếp cận của xã hội học Châu Âu, xác định xã hội học là khoa học về các hệ thống xã hội. Theo trường phái này, hành động xã hội của cá nhân chịu sự chi phối của các cơ chế xã hội mà biểu
hiện là các thiết chế xã hội, các giá trị, chuẩn mực xã hội. Các cơ chế này tạo thành những khuôn mẫu, qui tắc xã hội bắt buộc mọi cá nhân trong xã hội phải chấp nhận và tuân theo. Như vậy, đối tượng nghiên cứu xã hội học theo
trường phái này là các cơ cấu, các hệ thống xã hội mà biểu hiện của nó là các thiết chế xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, gi áo dục, gia đ nh,...
Cách tiếp cận vĩ mô cho rằng xã hội là một hệ thống thống nhất hành động của cá
nhân, cho nên muốn đạt đến sự thống nhất trong xã hội th chỉ c!n hoàn thiện cơ cấu xã hội. Như vậy, cách tiếp cận này đã tin tưởng tuyệt đối vào sự chi phối của xã hội đối với hành động xã hội của cá nhân
Thứ hai, tiếp cận vi mô: đây là hướng tiếp cận của xã hội học Mỹ, theo cách tiếp cận này, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là hành vi xã hội hay hành động xã hội của con người. Các cơ chế hnh thành các hành động đó bao
gồm các tương tác xã hội giữa các cá nhân, sự hnh thành động cơ và các tác nhân hành động của nhóm. Như vậy, chúng ta chỉ c!n chuẩn hóa hành động xã hội th xã hội sẽ đạt được sự thống nhất xã hội. Tiếp cận vi mô đã chỉ ra
hành động xã hội của cá nhân trong các tnh huống xã hội cụ thể để hướng tới chuẩn hóa nhung không nói rõ được cơ chế chi phối xã hội đối với hành động xã hội. 4
Thứ ba, cách tiếp cận tích hợp: cách tiếp cận này cho rằng, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là cả xã hội loài người và hành vi xã hội của con người , có thể thấy, đây là sự tổng hợp của trường phái xã hội học Châu Âu (vĩ mô)
và trường phái xã hội học Mỹ (vi mô). Qua ba cách tiếp cận trên, chúng ta có thế thấy được vấn đề gây tranh cãi: với hướng tiếp cận thứ nhất, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội th xã hội học đã bị

triết học lấn át. Tiếp cận vi mô, là nghiên cứu hành vi, hành động xã hội của cá nhân, hướng này tâm l$ học sẽ lân át và với cách tiếp cận thứ ba, xã hội bị cho là có đối tượng nghiên cứu không rõ ràng, do con người và xã hội còn là
đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác, không riêng g xã hội học.

2. Chức năng của xã hội học
2.1. Chức năng nhận thức
Trang bị cho người học
thống tri thức khoa học về sự phát triển và cácc quá trình xã hội, phản ánh tính quy luật khách quan trong quá trình vận động, biến đổi của các hiện tượng xã hội, đồng thời chỉ ra cơ chế của quá trình chuyển biến đó.
Tức là, xã hội học giúp ta biết thêm về các tri thức khoa học cơ bản về sự phát triển và các hiện tượng của xã hội theo quy luật vốn có của nó, chỉ ra nguồn gốc, phương thức diễn biến và cơ chế của các quá trình phát triển xã hội, hay
các mối quan hệ giữa người và xã hội. Lấy ví dụ về tục thờ cá Ông ở khu vực các tỉnh ven biển từ miền Trung vào miên Nam. Vì sao người dân nơi đây lại có tính ngưỡng thờ cúng đặc biệt đó ? Nếu áp dụng phương thức
nghiên cứu xã hội học, ta sẽ biết rằng, tục thờ cá Ông được bắt nguồn từ tục thờ thần Poriak hay Po
Riyak là thần Biển hay thần Sóng biển của người Chăm. sau khi trải qua sự bản địa hóa, tục thờ cá Ông trở thành tín
ngưỡng của người Việt. Việc cư dân ở các vùng biển thờ cúng cá Ông là do cuộc sống mưu sinh, sinh hoạ của họ gắng liền với biển nên bão tố, sóng to gió lớn luôn là hiểm nguy đối với họ. Khi đó, cá Ông trở thành chỗ dựa
tinh thần trong niềm tin bất diệt của ngư dân.Họ cho rằng thần Nam Hải hiện thân cá Voi để cứu nhân độ thế, cứu giúp ngư dân trên biển khi có sóng to gió lớn, vượt qua tai nạn. Niềm tin này, ban đầu là một nhu cầu giúp
người ta chịu đựng gian khổ hiểm nguy trong cuộc mưu sinh, dần dần dấu vết của niềm tin hằn sâu vào tiềm thức, trở thành tín ngưỡng dân gian. Từ đó, giúp thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân, trở thành chổ dựa

tin thần cho các cư dân ven biển.
2.2. Chức năng thực tiễn
Liên quan trực tiếp với chức năng nhâ „n thức.
+ Cung cấp cho chủ thể hành động cơ sở khoa học lý luận và thựctế để lựa chọn mô hình hành động cần thiết, thích hợp.
+ Cung cấp cho chủ thể quản lý xã hội ở tầm “vĩ mô” và “vi mô” cơ sở khoa học lý luận và thực tế về đối tượng quản lý để lựa chọnhình thức, nội dung, phương pháp quản lý thích hợp.
Chức năng thực tiễn của xã hô „i học luôn luôn bắt nguồn từ bản chất khoa học của các quá trình nhâ „n thức.
Khi nghiên cứu thực trạng của các quan hệ xã hội, những tri thức xã hội học tạo điều kiện đề con người có thể kiểm soát được quan hệ xã hội của mình và điều hoà các quan hệ đó phù hợp với yêu cầu khách quan của sự vận động,
biến chuyển và tiến bộ xã hội.
Năng lực dự báo: trên cơ sở nắm bắt chính xác các quy luật và xu hướng phát triển của xã hội thông qua các mối quan hệ xã hội. Tri thức xã hội học tạo tiền đề và là điều kiện đề thiết kế và điều chỉnh mối liên kết xã hội, phục vụ tốt
công tác quản lý xã hội một cách khoa học.
Củng cố mối liên hệ giữa khoa học với đời sống thực tế, phát huy tác dụng của xã hội học đối với công tác tổ chức, quản lý và điều tiết xã hội nói chung. Phát huy năng lực dự báo, quản lý và chỉ đạo.
Nhâ „n thức khoa học luôn luôn bao hàm yếu tố dự đóan khoa học.
Trên cơ sở phân tích thực trạng xã hô „i dựa trên nhữngg mối quan hê „ tương tác trong quá trình vận đô „ng phát triển xã hô „i sẽ làm sáng tỏ triển vọng của sự vâ „n đô „ng và phát triển của xãhô „i trong tương lai gần cũng như tương lai xa.
VD: Các công trình khoa học sử dụng các phương pháp thuật ngữ khái niệm XHH để nghiên cứu các vấn đề XH trong thời kì đổi mới ở nước ta. Các xúc này đã cung cấp thông tin bằng chứng làm luận chứng khoa học cho việc tiếp
tục các đổi mới và hoàn thiện các chính sách Kinh tế. Xã hội
Chức năng tư tưởng
-Chức năng này thể hiện ở việc phục vụ cho việc giáo dục quan chúng theo định hưởng xã hội chủ nghĩa phát huy ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường đang tác. động đến mọi mặt của đời sống
-Trong việc giáo dục tư tưởng quân chủng theo chủ nghĩa Mác- Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh, XHH vũ trang cho mọi người tri thức về quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa XHH Mác Lê
còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tư duy khoa học thói quen nếp suy xét trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, năm bắt và hành động hợp với quy luật khách
quan và phát huy được bản chất tốt đẹp của xã hội chủ nghĩa
Từ đó, xã hội học giúp chúng ta nhận thức đẩy du sức mạnh và vị trí của con người trong hệ thống xã hội, góp phần nâng cao tính tích cực xã hội của cá nhân và hình thành nên tư duy khoa học trong khi xem xét, phân tích, nhận định,
dự báo về các sự kiện hiện tưởng và quá trình xã hội.
-Lâ „p trường của nhà xã hô „i học chân chính phải luôn luôn đảm bảo tính khách quan, khoa học trong quá trình nghiên cứu.
Tóm lại chức năng tư tưởng có quan hệ với chức năng nhận thức và thực tiễn. Chức năng tư tưởng của XhCN cũng đóng vai trò kim chỉ nam định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn cho nghiên cứu XHH
3. Nhiệm vụ của xã hội học ( Đưa ví dụ, diễn giải nội dung, ý nghĩa)
3.3.1 Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận
- Nhiệm vụ hàng đầu của XHH là xây dựng và phát triển hệ thống các khái niệm, phạm trù, lý thuyết khoa học riêng mang tính đặc thù của nó.
- XHH có nhiệm vụ hình thành và phát triển công tác nghiên cứu luận để củng cố định máy khái niệm vừa tìm cứu và tích lũy tri thức tiến đến phát triển nhảy vọt về chất trong lý thuyết và PPNC trong hệ thống khái niệm và khoa học tri thức.
=> Nhiệm vụ nghiên cứu của XHH hướng dẫn đến hình thành và phát triển hệ thống lý luận, PPNC và tổ chức nghiên cứu một cơ sở, hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn nhắm đáp ứng y/c phát triển KT – XH của đất nước ta.
Ví dụ là "nghiên cứu về tác động của công nghệ thông tin đối với cuộc sống hàng ngày của con người".
*Nhiệm vụ này yêu cầu người nghiên cứu tìm hiểu về cách mà công nghệ thông tin đã thay đổi cách chúng ta sống và làm việc. Nghiên cứu này có thể tập trung vào các khía cạnh như:
- Tác động của công nghệ thông tin đối với cách chúng ta giao tiếp: Kỹ thuật công nghệ thông tin có tạo ra sự cô lập trong cuộc sống hàng ngày hay nó là một công cụ kết nối người với nhau?
- Tác động của công nghệ thông tin đối với công việc: Công nghệ đã thay đổi những công việc nào? Nó ảnh hưởng đến thị trường lao động như thế nào? Và nó có tạo ra cơ hội mới hay gây ra bất kỳ điều gì không?
- Tác động của công nghệ thông tin đối với gia đình và cộng đồng: Công nghệ đã thay đổi cách chúng tương tác với gia đình và cộng đồng xung quanh. Nghiên cứu có thể nghiên cứu về sự thay đổi nghiên cứu trong cách chúng ta liên
lạc, chia sẻ thông tin và tổ chức các hoạt động xã hội.
3.3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm
- Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm trong xã hội học là tìm hiểu và phân tích các hiện tượng, quy luật và quan hệ xã hội thông qua việc tiến hành các thí nghiệm hoặc nghiên cứu trường hợp. Mục tiêu chính của nghiên cứu thực
nghiệm xã hội học là thu thập dữ liệu sống từ thực tế và áp dụng phương pháp khoa học để hiểu rõ hơn về xã hội và hoạt động của nó đối với con người.Ví dụ về nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm trong xã hội học có thể là:
- Nghiên cứu về tác động của các chính sách công cộng: Một nghiên cứu thực nghiệm có thể tiến hành đánh giá kết quả hiệu quả của các chính sách công cộng như chính sách giáo dục, chính sách chi tiêu công cộng, hoặc chính sách
phân phối đầu vào. Điều này nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu ngẫu nhiên kiểm soát và tiến hành các cách cải cách trong một số khu vực để so sánh sự khác biệt với nhóm đối chứng.
- Nghiên cứu về hoạt động xã hội của công nghệ mới: Một nghiên cứu thực tế có thể được thực hiện để hiểu rõ hơn về hoạt động của công nghệ mới đến xã hội. Ví dụ, một nghiên cứu có thể xem xét tác động của mạng xã hội và
truyền thông kỹ thuật số đến sự tương tác xã hội, quan hệ giữa các cá nhân và hình thành cộng đồng trực tuyến
- Nghiên cứu về tác động xã hội của các chương trình giáo dục và đào tạo: Một nghiên cứu thực nghiệm có thể được tiến hành để đánh giá tác động của các chương trình giáo dục và đào tạo để cải thiện khả năng làm việc , thu nhập và
chất lượng cuộc sống của cá nhân và cộng đồng.
- Bằng cách tiến hành các thực nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội học, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tác động xã hội của các nhà quản lý và chính sách, tạo ra cơ sở tăng cường và phát triển xã hội.
Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng 5
- Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng xã hội học là khám phá và hiểu các tương tác xã hội, cấu trúc và luật pháp trong xã hội và áp dụng các công thức đó vào thực tế để giải quyết các vấn đề xã hội và cải tiến chất lượng cuộc sống tốt
hơn. Dưới đây là một số công cụ nghiên cứu ứng dụng của xã hội học
+ Nghiên cứu hành vi con người và tương tác xã hội: Xã hội học có thể nghiên cứu các mô hình tương tác trong các nhóm xã hội, hành vi tập thể, ảnh hưởng của văn hóa và tính năng vào quan hệ xã hội . Điều này có thể giúp các tổ
chức văn hóa và chính phủ hiểu được khách hàng, cải thiện khả năng quản lý nhân sự và xây dựng các chính sách xã hội công bằng.
+ Nghiên cứu xã hội hóa và đấu tranh xã hội: Xã hội học có thể nghiên cứu các tiến trình xã hội hóa và đấu tranh xã hội, như sự hình thành và tiến trình phát triển của nhóm phụ nữ, nhóm dân tộc, tầng lớp xã hội. Kết quả này có thể
hỗ trợ việc xây dựng các chính sách xã hội, đấu tranh cho công bằng xã hội và giảm đói nghèo.
+ Nghiên cứu xã hội và sức khỏe: Xã hội học cũng có thể giúp nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sức khỏe trong cộng đồng như bệnh tật, tình trạng tâm thần, quan hệ gia đình và hoạt động của môi trường xã hội hội đến sức khỏe.
Những nghiên cứu này có thể cung cấp dữ liệu quan trọng cho các chương trình chăm sóc sức khỏe, xây dựng chính sách y tế và tăng cường thông tin về sức khỏe trong cộng đồng.
+ Nghiên cứu xã hội và phân tích dữ liệu: Xã hội học cũng có thể giúp phân tích dữ liệu xã hội, chẳng hạn như dữ liệu từ mạng xã hội, địa lý dữ liệu và môi trường dữ liệu. Việc phân tích dữ liệu xã hội có thể giúp các tổ chức và cơ
quan chính phủ đưa ra quyết định dựa trên viễn thông và sự kết hợp giữa các yếu tố xã hội, kinh tế và môi trường.
Như vậy, nghiên cứu ứng dụng xã hội học có thể tạo ra những hiểu biết sâu sắc về quan hệ xã hội, tương tác và cấu trúc xã hội và áp dụng những kết quả đó vào thực tế để tạo ra những giải pháp đồng thời điểm rất cần thiết cho xã hội.
Ví dụ về nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng có thể là "nghiên cứu về ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong mạng bảo mật".
* Trong nhiệm vụ này, người nghiên cứu sẽ tiến hành một nghiên cứu để khám phá và áp dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo để nâng cao tính an toàn và bảo mật trong mạng hệ thống. Quá trình nghiên cứu có thể diễn ra như sau:
+ Xác định mục tiêu: Người nghiên cứu xác định mục tiêu nghiên cứu, cải thiện khả năng phát hiện các cuộc tấn công mạng, giảm thiểu rủi ro bảo mật, hay tăng cường khả năng phòng các mối đe dọa mạng.
+ Thu thập dữ liệu: Người nghiên cứu thu thập dữ liệu về các cuộc tấn công mạng, các biểu hiện cụ thể và mẫu hành động của các cuộc tấn công, cũng như dữ liệu về các giải pháp bảo mật hiện có.
+ Phát triển và huấn luyện mô hình: Sử dụng dữ liệu đã thu thập, người nghiên cứu xây dựng và huấn luyện một mô hình trí tuệ nhân tạo, như mạng nơ-ron, máy học hoặc học sâu để phân loại các cuộc tấn công mạng và nhận diện
các cuộc tấn công tấn công trong thời gian thực hiện.+ Kiểm tra định nghĩa và đánh giá: Sau khi mô hình hóa huấn luyện viên, người nghiên cứu tiến trình kiểm tra và đánh giá hiệu suất của mô hình bằng cách sử dụng thử nghiệm
kiểm tra dữ liệu. Các giá trị được đánh giá chỉ như độ chính xác, độ nhạy và độ cụ thể sẽ được tính toán để đánh giá kết quả hiệu quả của mô hình.+ Áp dụng và phát triển khai báo: Nếu mô hình đạt được kết quả hiệu quả, người
nghiên cứu có thể ứng dụng mô hình vào hệ thống thực tế trong mạng bảo mật lớn. Từ đó, các công ty và tổ chức có thể tự động phát hiện và ngăn chặn các cuộc tấn công mạng bằng một cách hiệu quả hơn.
4. Quan hệ giữa xã hội học với các khoa học khác
4.1. Quan hệ giữa xã hội học với triết học
Triết học nghiên cứu về các qui luật chung về sự hình thành và phát triển xã hội. Quan hệ giữa triết học và xã hội học là quan hệ giữa Khoa học cụ thể với thế giới quan khoa học. Các nhà xã hội học mácxít vận dụng chủ nghĩa duy vật
lịch sử và phép biện chứng duy vật làm công cụ lý luận sắc bén để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Trong quan hệ với triết học, các nhà Xã hội học tránh hai quan niệm cản trở sự phát triển của Xã hội học.
Quan niệm thứ nhất: Cho rằng xã hội học là một bộ phận của triết học, quan niệm này đã đồng nhất việc nghiên cứu lý luận xã hội học với chủ nghĩa duy vật lịch sử trong việc giải thích đời sống xã hội. Thực tế, quan niệm
này trong một thời gian đã làm ngưng trệ quá trình hình thành xã hội học như là một khoa học độc lập ở một số nước.
Quan niệm thứ hai: Cho rằng xã hội học biệt lập hay đối lập với triết học. Những người theo quan niệm này lập luận rằng, xã hội học ra đời với tư cách là một khoa học cụ thể, đối lập với triết học tư biện, kinh viện, giáo điều,
bất lực trước các vấn đề mới mẻ nảy sinh từ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội châu Au thế kỉ XIX. Nói cách khác, xã hội học không có mối liên hệ gì đáng kể so với triết học.
Quan niệm này cố tình làm ngơ hoặc không nhìn thấy một thực tế là xã hội học bao giờ cũng có tính triết học và tính tư tưởng. Tính triết học của xã hội học thể hiện ở chổ xã hội học tìm hiểu bản chất của các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên và xã hội và nhận thức qui luật chung của sự vận động và phát triển của con người và xã hội.
Trong xã hội học, tính triết học là xã hội học gắn liền với thế giới quan, hệ tư tưởng và tính giai cấp. Các nhà xã hội học mácxít xây dựng học thuyết xã hội học trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử, xã hội
và con người và luôn coi triết học Mác-Lênin là thế giới quan, phương pháp luận và vũ khí tư tưởng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội công bằng, văn minh.
Vì vậy, có thể nói giữa xã hội học và triết học có mối quan hệ biện chứng. Các nghiên cứu xã hội học cung cấp những thông tin và phát hiện các vấn đề, bằng chứng mới làm phong phú kho tàng tri thức và phương pháp luận
triết học. Trên cơ sở nắm vững tri thức xã hội học ta có thể vận dụng một các sáng tạo tri thức triết học vào thực tiễn.
Xã hội học và triết học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cùng bổ trợ cho nhau tồn tại và phát triển song song. Đều tìm hiểu về con người và xã hội, nhưng chúng có phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và mục tiêu
khác nhau. Xã hội học tập trung vào nghiên cứu hiện tượng xã hội cụ thể, trong khi triết học lại đặt ra các câu hỏi lớn về chất và ý nghĩa của cuộc sống và tri thức.
4.2. Quan hệ giữa xã hội học với tâm lý học
-Tâm lý học: nghiên cứu suy nghĩ và hành vi của từng cá nhân
(đọc: là ngành KH nghiên cứu việc xử lí thông tin và biểu hiện hành vi ở con người, làm rõ bản chất của con người bằng cách đi sâu vào mọi ngõ ngách của đời sống, từ kinh tế, chính trị, xã hội cho đến văn hóa, giáo dục, triết học...
Hiện nay, tâm lí học được phát triển và ứng dụng rộng rãi trong tất cả các mối quan hệ của đời sống ở các lĩnh vực xã hội.)
-Xã hội học: nghiên cứu hành vi của các nhóm người và các tương tác xã hội trong tập thể (ví dụ như gia đnh, quốc gia, công ty)
(đọc: Là ngành khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung, và đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử; là khoa học về các cơ chế tác động và các hnh thức biểu hiện của các quy
luật đó trong các hoạt động của cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.)

=> đều nghiên cứu về con người và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
Ở giai đọan đầu phát triển, xã hội học châu Âu không chấp nhận vai trò của tâm lý học trong việc giải quyết các vấn đề xã hội học. Trong khi đó ở xã hội học Mỹ, một số tác giả như G.Homans cho rằng cần sử dụng tâm lý học để giải
thích các hiện tượng xã hội học, bởi hành động con người, tương tác giữa các cá nhân là nền tảng của các quá trình xã hội, cơ cấu xã hội. Mà hành động cá nhân được coi là kết quả của tâm lý cá nhân. Do vậy, các qui luật tâm lý cá
nhân phải là những nguyên lý nghiên cứu cơ bản của xã hội học.
Cuộc giằng co lý luận giữa xã hội học và tâm lý học vẫn còn tiếp diễn, không phân thắng bại. Kết quả là tâm lý học xã hội trở thành một chuyên ngành của cả tâm lý và xã hội.
Tuy nhiên, giữa xã hội học và tâm lý học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, các nhà xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận của tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là họat động cảm tính, có đối tượng, có
mục đích. Như vậy, xã hội học không bị tâm lý học lấn át vì xã hội học không tập trung nghiên cứu về cá nhân, về hành vi xã hội, về họat động tâm lý của con người. Xã hội học cũng không phải là “khoa học nửa nọ nửa kia” vì không
nghiên cứu theo kiểu “ mỗi thứ một tí”, tức là vừa nghiên cứu con người vừa nghiên cứu xã hội một cách biệt lập với nhau.
-xã hội học mang nhiều nét tương đồng của môn Tâm lý học, tuy nhiên Tâm lý học nghiên cứu sâu về con người hơn
(đọc: trước thế kỷ XIX, xã hội học chưa tồn tại như một môn khoa học độc lập mà bị hòa tan vào trong các môn khoa học khác như nhân chủng học, dân tộc học, nhân học, tâm l$ học, tâm l$ học xã hội và đặc biệt là triết học - “môn
khoa học của mọi khoa học." Nên xã hội học mang nhiều nét tương đồng của môn Tâm l$ học, tuy nhiên Tâm l$ học nghiên cứu sâu về con người hơn (nhận thức, cảm xúc, tnh cảm...)

- các nhà xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận của tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, có mục đích.
- xã hội học không bị tâm lý học lấn át
(Đọc: xã hội học không bị tâm l$ học lấn át v xã hội học không tập trung nghiên cứu về cá nhân, về hành vi xã hội, về họat động tâm l$ của con người mà vừa nghiên cứu con người vừa nghiên cứu xã hội một cách biệt lập với nhau.)
Như vậy, xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, mục đích.
4.3. Quan hệ giữa xã hội học với kinh tế học 6
Xã hội học và kinh tế có mối quan hệ gắn kết.
Kinh tế học nghiên cứu quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng của cải vật chất xã hội. Nó cũng nghiên cứu những vấn đề như việc làm, thất nghiệp, lạm phát, maketting…
xã hội học nghiên cứu về tương tác giữa con người với con người trong kinh tế (sản xuất, phân phối, lưu thông), nghiên cứu những mô hình tương tác trong quan hệ kinh tế. t trao đổi xã hội…
Ngược lại thì một số khái niệm, phương pháp và thành tựu nghiên cứu xã hội học được các nhà kinh tế học hết sức quan tâm.Sự giao thoa này cho ra đời ngành Kinh tế học xã hội.
4.4. Quan hệ giữa xã hội học với nhân chủng học
-Xã hội học nghiên cứu sự phát triển, tương tác, cấu trúc của các nhóm và thay đổi hành vi của một nhóm người có tổ chức để phân tích những thay đổi của họ.
-Nhân chủng học: nghiên cứu về con người chủ yếu thông qua quá khứ và sự tiến hóa của họ liên quan đến các đặc điểm văn hóa, môi trường và sinh học.
=> Xã hội học và nhân chủng học có nhiều mối tương đồng về đối tượng nghiên cứu
Như đã nói, Xã hội học và nhân chủng học có nhiều mối tương đồng về đối tượng nghiên cứu, nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau để phân chia chúng thành hai môn khoa học độc lập. Nhân chủng học thường có đối tượng nghiên
cứu các xã hội, dân tộc phát triển chậm.Còn xã hội học thường định hướng vào các xã hội hiện đại, các xã hội phát triển, các xã hội công nghiệp.
+Xã hội học: tập trung nhiều hơn vào các vấn đề xã hội, giới tính, chủng tộc, dân tộc và các kiểu hành vi của gia đình, cộng đồng đô thị, thể chế,..
+ Nhân chủng học: tập trung vào nghiên cứu sự tiến hóa của nhân loại liên quan đến văn hóa, các vấn đề, nghi lễ, truyền thống, lịch sử và thậm chí cả thần thoại của họ.
Nhiều khái niệm và phương pháp nghiên cứu của xã hội học bắt nguồn từ nhân chủng học.Chẳng hạn khái niệm “văn hóa” được sử dụng lần đầu tiên trong công trình nghiên cứu của nhà nhân chủng học Tylor người Anh.Xã hội học
cũng có tác động trờ lại với nhân chủng học về mặt phương pháp nghiên cứu. Ví dụ việc vận dụng lý thuyết của Durkhiem về vai trò của cơ cấu xã hội, chức năng của các thiết chế xã hội, nhà nhân chủng học người Anh Radcliffe
Brown đã lý giải sự sống và khác nhau giữa các xã hội cụ thể đặc thù.
Chương 3 A - Nội Dung Lý Thuyết Quan hệ xã hội
1, Tìm hiểu khái quát về quan hệ xã hội
Xã hội là một hệ thống các quan hệ lẫn nhau giữa người với người. Các quan hệ đó rất phong phú như : quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hoá...quan hệ giữa các cá nhân với nhau, quan hệ giữa nhóm người này với nhóm người khác.
Các quan hệ này được gọi là quan hệ xã hội.
Quan hệ xã hội là các mối quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội, các nhóm, các cá nhân với nhau, với tư cách là chủ thể của hoạt động xã hội, khác biệt nhau bởi vị trí xã hội và chức năng trong đời sống xã hội. Quan hệ xã
hội là các quan hệ bền vững, ổn định, lặp lại, có mục đích, có hoạch định, có sự phối hợp hành động của các chủ thể hoạt động xã hội, được hình thành trên cơ sở những tương tác xã hội.
Vd: Hai cá nhân ngẫu nhiên gặp nhau ở sân bay, nhà hàng hoặc rạp hát,... dù có chào hỏi, trao đổi, trò chuyện l!n đó; nhưng l!n gặp sau lại không nhận ra nhau, hoặc không tiếp tục chào hỏi, trao đổi, trò chuyện th giữa họ chưa
thể coi là có mối quan hệ xã hội. Trái lại, nếu như ở những l!n gặp gỡ sau các cá nhân đó lại tiếp tục sự giao tiếp và phối hợp hành động, th giữa họ có thể coi là có mối quan hệ xã hội.
Các loại quan hệ xã hội
- Theo vị thế : Xuất phát từ địa vị xã hội của chủ thể quan hệ, các nhà xã hội học chia quan hệ xã hội ra thành:
+ Quan hệ xã hội theo chiều ngang: là những quan hệ giữa các chủ thể có vị thế xã hội ngang bằng. Ví dụ, quan hệ giữa hiệu trưởng trường đại học này với hiệu trưởng trường đại học khác.
+ Quan hệ xã hội theo chiều dọc: là quan hệ giữa các chủ thể có vị trí cao thấp khác nhau trong xã hội như quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa Trung ương và địa phương, giữa lãnh đạo với nhân viên.
- Theo chủ thể: quan hệ xã hội giữa các tập đoàn lớn, giữa các nhóm xã hội nhỏ, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữa các cá nhân. - Theo nội dung:
+ Quan hệ tình cảm thuần túy (quan hệ sơ cấp) : dựa trên những đặc điểm sinh học hoặc tâm lý có sẵn ở các cá nhân như giới tính, vẻ bề ngoài, quan hệ huyết thống, sở thích...
+ Quan hệ xã hội (quan hệ thứ cấp) : dựa trên những đặc điểm xã hội đạt được của cá nhân như nghề nghiệp, học vấn, địa vị, quyền lực...
Chủ thể của quan hệ xã hội
- Chủ thể quan hệ xã hội là người hoặc nhóm người có ảnh hưởng và vai trò quan trọng trong xã hội, góp phần định hình và thay đổi các quan hệ xã hội. Chủ thể này có thể bao gồm cá nhân, tổ chức, chính phủ, tôn giáo, và các tầng
lớp xã hội khác. Chúng thường thể hiện quyền lực và ảnh hưởng đối với cách xã hội hoạt động và phát triển.
- Chủ thể quan hệ xã hội được xét ở hai cấp độ:
+ Cấp độ vĩ mô: Chủ thể quan hệ xã hội là các nhóm, các tập đoàn hay toàn thể xã hội thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
+ Cấp độ vi mô: Chủ thể quan hệ xã hội là các cá nhân. Các quan hệ xã hội có thể thể hiện tính hợp tác hoặc sự xung đột. Nó xuất phát từ sự hài lòng hay không hài lòng. Nếu hài lòng về lợi ích thì sẽ dẫn đến quan hệ hợp tác, nếu
không thì sẽ là quan hệ xung đột.
=> Quan hệ xã hội còn thể hiện sự khác biệt về địa vị xã hội của các cá nhân và các cộng đồng trong xã hội. Sự khác biệt này bao gồm yếu tố tự nhiên (nằm ngoài sự chủ quan của mình, không thể quyết định mình sinh ra giàu hay
nghèo) và yếu tố xã hội (do cá nhân phấn đấu, vươn lên, có thể quyết định được). 2,
Vai trò của quan hệ xã hội - Đối với cá nhân:
+ Mang lai sự thỏa mãn: tất cả mọi người đều có nhu cầu tương tác với người khác và xây dựng mối quan hệ xã hội. Nghiên cứu cho thấy rằng mối quan hệ bền vững, chất lượng cho dù nhỏ hay lớn đều đóng góp quan trọng đến hạnh phúc và sự thỏa mãn.
+ Mang lại sức mạnh tinh thần: sự tương tác trong các mối quan hệ xã hội làm tăng thêm thú vị và niềm vui cho cuộc sống.
+ Giúp bản thân phát triển : sự phát triển và thành công của một người ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng của những người trong vòng tròn xã hội của họ, họ có thể học hỏi rất nhiều từ những người suy nghĩ tích cực hơn, luôn nhắm tới
mục đích cao hơn. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển cá nhân của bạn, sự nghiệp của bạn đồng thời kéo theo sự phát triển của toàn xã hộị. Như vậy với cá nhân, quan hệ xã hội đã tạo dựng, củng cố và phát triển hình ảnh, uy tín, ảnh
hưởng, vai trò, quan hệ của họ với cộng đồng.
- Đối với xã hội: Quan hệ xã hội giúp tạo sự khăng khít trong xã hội, tạo nên sự giao lưu về văn hóa cũng như kinh tế của các quốc gia trong xã hội. tiếp thu những nền văn hóa tiến bộ, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Tạo sự hội nhập
giữa các quốc gia trên thế giới. 7
- Đối với kinh tế: Nền kinh tế được giao lưu, công nghệ khoa học tiến bộ, các công cụ sản xuất tiên tiến được áp dụng trong các ngành công nghiệp => xã hội ngày thêm lớn mạnh, cuộc sống người dân ngày càng cải thiện. Sự giao lưu
về kinh tế nhằm giúp các nước đang phát triển, chậm phát triển ngày càng đi lên, sánh vai với các cường quốc lớn mạnh trên thế giới.
- Đối với chính trị: Quan hệ xã hội không phải là các quốc gia can thiệp vào chính trị của nhau mà là tạo sự hội nhập, tôn trọng lợi ích của nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn, thách thức để góp phần xây dựng một thế giới hòa bình,
hữu nghị, ổn định và phát triển thịnh vượng.
II - TƯƠNG TÁC XÃ HỘI
1, Tìm hiểu chung về tương tác xã hội a, Khái niệm
- Tương tác xã hội là tác động qua lại giữa cá nhân, nhóm xã hội với tư cách là chủ thể xã hội.
- Các nhà xã hội học thường nghiên cứu tương tác xã hội ở hai cấp độ: cấp độ vĩ mô và cấp độ vi mô. Nghiên cứu cấp độ vi mô tức là nghiên cứu về những đơn vị tương tác nhỏ nhất, còn nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô là nghiên cứu về sự
tương tác của các cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội hay giữa các thiết chế như gia đình, nhà trường, chính trị, tôn giáo.. Tuy nhiên với tư cách là thành viên của nhóm xã hội, các cá nhân thực hiện tương tác của mình đồng thời trên hai
cấp độ vĩ mô và vi mô.
b, Đặc điểm của tương tác xã hội
- Giao tiếp: Tương tác xã hội thường bắt đầu thông qua giao tiếp, bằng cách sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ, biểu cảm, hoặc các phương tiện truyền thông khác để truyền đạt ý kiến và thông tin.
- Là hành động xã hội liên tục, ở đây là hành động xã hội cơ sở, tiền đề của tương tác xã hội là sự đáp lại của một chủ thể này với một chủ thể khác trên hai cấp độ: vĩ mô và vi mô.
- Tính hai chiều: Vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong quá trình tương tác, và đều chịu ảnh hưởng của các giá trị, chuẩn mực xã hội, của những tiểu văn hóa, thậm chí là các phần văn hóa khác nhau. Trong tương tác, mỗi người đều
chịu những lực tương tác khác nhau, có ý nghĩa khác nhau và đều có sự tác động khác nhau. Như vậy, tương tác vừa tạo nên những khuôn dáng mỗi người, vừa tạo nên sự hợp tác và bất hợp tác mỗi người.
- Đa dạng: Tương tác xã hội xuất hiện ở nhiều hình thức khác nhau, bao gồm tương tác trực tiếp, qua mạng, qua điện thoại, và nhiều nền tảng khác.
- Có ảnh hưởng xã hội: Tương tác xã hội có thể có ảnh hưởng lớn đến quan điểm, hành vi và cuộc sống của con người, đồng thời cũng có thể có tác động đến xã hội rộng hơn.
c, Phân loại tương tác xã hội
- Nhóm tương tác: những biểu hiện mang tính tích cực, xây dựng
- Nhóm tương tác cạnh tranh: Chứa đựng những tương tác mang tính tiêu cực, phá hoại, đối kháng
- Hình thức thi đua: Là hình thức trung gian giữa hai dạng trên
- Ngoài ra có thể phân loại tương tác xã hội theo cách sau:
+ Tương tác nhóm - nhóm : Khi hai nhóm trong xã hội cạnh tranh trong hoạt động nhằm một mục đích nào đó.
+ Tương tác trực tiếp: Khi chủ thể hành động tương tác mặt đối mặt, không thông qua phương tiện trung gian nào.
+ Tương tác gián tiếp: Khi chủ thể thông qua các phương tiện trung gian như: điện thoại, vi tính, fax,.. để thiết lập và duy trì quá trình tương tác
2, Một số lí thuyết xã hội học và tương tác xã hội
- Lý thuyết tương tác biểu trưng (còn gọi là lý thuyết hành vi xã hội)
Luận điểm trung tâm của lý thuyết tương tác biểu trưng cho rằng vậy các cá nhân trong quá trình tương tác qua lại lẫn nhau không phản ứng đối với các hành động trực tiếp của người khác, mà đọc và lý giải chúng, ở đây mỗi hành
động được gắn với một ý nghĩa nào đó, được gọi là biểu tượng.Các biểu tượng có một đặc điểm chung là mang những ý nghĩa nhất định và tẩo sự phản ứng giống nhau ở các cá nhân. Hệ thống các biểu tượng tương tác được chia
thành hai loại: không có hàm ý và có hàm ý.
- Lý thuyết trao đổi về tương tác xã hội
Theo Homans, các cá nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần. Như vậy sẽ xuất hiện hai trạng thái hành động trong tương tác, hành động cho và hành động nhận. Cá nhân thực hiện hành động cho
nhiều lần với người khác, thì sẽ có xu hướng tâm lý muốn được nhận lại nhiều lần. Ngược lại, cá nhân được nhận nhiều từ người khác sẽ cảm thấy bị tác động bởi một áp lực vô hình của sự nhận và cho. Từ đó xuất hiện xu hướng cân
bằng giữa trao và nhận của các cá nhân trong quá trình tương tác. Homans gọi đó là sự cân bằng chi phí, tâm lý chung của các cá nhân là mong muốn nhận được những phần thưởng lớn nhất so với những chi phí đã bỏ ra. Trong thực
tế cuộc sống xã hội, quá trình tương tác theo mô hình trao đổi xã hội rất phổ biến, bởi toàn bộ các tương tác xã hội là một tập hợp phức tạp của các trao đổi.
Những nguyên tắc tương tác cá nhân là:
+ Nếu một dạng hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng lặp lại. Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu hướng lặp lại trong hoàn cảnh như vậy.
+ Nếu phàn thưởng và mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ bỏ ra nhiều chi phí vật chất và tinh thần để đạt được nó - Khi các nhu cầu của cá nhân hầu như hoàn toàn thoả mãn thì họ ít cố gắng hơn trong việc thoả mãn chúng.
- Lý thuyết kịch trong tương tác xã hội
Lý thuyết kịch hay còn gọi là lý thuyết kiềm chế biểu cảm (đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là Ervings Goffman), quan niệm rằng: toàn bộ đời sống xã hội là một tấn kịch khổng lồ với những diễn viên vừa đóng vai khán giả, vừa đóng vai nhân vật.
Luận điểm then chốt của lý thuyết kịch là kiềm chế biểu cảm, nghĩa là trong những tình huống cụ thể, cá nhân cố gắng tạo ra và duy trì một trạng thái biểu cảm phù hợp nhất (đóng kịch). Phương pháp này nghiên cứu những quy tắc
hiển nhiên điều khiển sự tương tác của người này với người khác.Những quy tắc này được người ta dùng thường xuyên đối với những người biết rõ nhau như những người trong gia đình, bạn bè thân thiết, rộng hơn là những người cùng một nền văn hoá.
Nói cách khác, con người ta thường xuyên dùng mặt nạ – trừ khi anh ta ở một mình, khi mang mặt nạ, cá nhân phải chú ý hành động sao cho phù hợp với mặt nạ đó. Vì vậy, Goffman cho rằng, quá trình tương tác xã hội là một chuỗi
vô tận gồm các bước (hay chu kỳ): Mang mặt nạ – Tháo bỏ mặt nạ – Sự chân thành giả tạo – Tháo bỏ mặt nạ. Và tất nhiên quá trình tương tác xã hội chỉ diễn ra theo chu kỳ này khi có sự giám sát của những người xung quanh.
Lý thuyết kịch là một quan điểm tiêu cực về tương tác giữa con người với con người. Các cá nhân khi xuất hiện trước mặt nhau luôn không thành thật với nhau, họ có thể vui cười, có thể khóc với nhau, nhưng tất cả những biểu cảm
đó đều được tạo ra có chủ ý làm hài lòng người khác. Nhưng cũng có những khi họ hành động trái ngược với sự mong đợi của người khác.
B - Vận Dụng Thực Tiễn
Vận dụng quan hệ xã hội trong thực tiễn
Quan hệ xã hội là một khái niệm quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nó ám chỉ các mối quan hệ giữa con người trong xã hội, bao gồm cả quan hệ cá nhân và quan hệ tập thể. Vận dụng quan hệ xã
hội trong thực tế có thể giúp chúng ta xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt, góp phần vào sự phát triển của cộng đồng và đạt được thành công trong cuộc sống. Dưới đây là một số ví dụ về việc vận dụng quan hệ xã hội trong thực tế:
Xây dựng mối quan hệ cá nhân: Quan hệ xã hội có thể giúp chúng ta xây dựng và duy trì các mối quan hệ cá nhân tốt đẹp. Chúng ta có thể áp dụng kỹ năng giao tiếp, lắng nghe và thấu hiểu người khác để tạo ra một môi gắn kết và
hỗ trợ lẫn nhau. Quan hệ cá nhân và cộng đồng sẽ góp phần tạo sự gắn kết những cá nhân có chung mục đích, quan điểm và lý tưởng với nhau một cách chặt chẽ hơn. Quan hệ bạn bè, gia đình: Nó như một nguồn sống không thể thiếu
trong mỗi con người chúng ta vậy. Nếu không có những mối quan hệ thì bạn không thể làm được gì, ngay cả những cái đơn giản nhất cũng vậy.
2. Hợp tác trong công việc: Quan hệ xã hội cũng có thể được áp dụng trong môi trường làm việc. Một nhân viên có thể áp dụng kỹ năng giao tiếp và hợp tác để làm việc với đồng nghiệp khác, chia sẻ kiến thức và kỹ năng của mình
để đạt được mục tiêu chung. Quan hệ xã hội tốt trong công việc có thể tạo ra một môi trường làm việc tích cực, khuyến khích sự sáng tạo và tăng cường hiệu suất làm việc. Quan hệ đồng nghiệp trong một công ty hoặc một ngành
nghề: đây là kiểu quan hệ xã hội dựa trên vị thế xã hội (cùng vị thế). Quan hệ đồng nghiệp sẽ giúp trao đổi và chia sẻ vấn đề công việc, phối hợp cùng làm việc tốt hơn.
Quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới: đây là kiểu quan hệ xã hội dựa trên vị thế xã hội (khác vị thế). Các tương tác chủ yếu trong quan hệ này là trao đổi công việc, giúp tăng hiệu quả và tạo ra môi trường làm việc thân thiện, rút ngắn khoảng cách vị thế.
3. Đóng góp vào cộng đồng: Quan hệ xã hội cũng có thể được vận dụng để đóng góp vào cộng đồng. Chúng ta có thể tham gia vào các hoạt động xã hội, tình nguyện và các tổ chức phi lợi nhuận để giúp đỡ những người khác và cải
thiện điều kiện sống của cộng đồng. 8
4. Giải quyết xung đột: Quan hệ xã hội cũng có thể giúp chúng ta giải quyết xung đột và khắc phục sự bất đồng quan điểm. Khi xảy ra xung đột trong một nhóm hoặc tổ chức, các thành viên có thể áp dụng kỹ năng đàm phán, lắng
nghe và tôn trọng ý kiến của nhau để tìm ra giải pháp chung và đạt được sự thỏa thuận.
5. Xây dựng mạng lưới: Quan hệ xã hội cũng có thể giúp chúng ta xây dựng mạng lưới quan hệ và tạo ra cơ hội mới. Bằng cách kết nối với những người có cùng sở thích và mục tiêu, chúng ta có thể học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau trong
việc phát triển bản thân và đạt được thành công trong cuộc sống. Ví dụ như các cá nhân hoặc doanh nghiệp có thể áp dụng quan hệ xã hội để xây dựng mạng lưới quan hệ và tạo ra cơ hội mới. Việc kết nối với những người có cùng sở
thích và mục tiêu có thể mang lại lợi ích trong việc tìm kiếm việc làm, hợp tác kinh doanh hoặc tìm kiếm cơ hội phát triển cá nhân.
Tóm lại, quan hệ xã hội có vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Vận dụng quan hệ xã hội trong thực tế có thể giúp chúng ta xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt, hợp tác trong công việc, đóng góp vào cộng
đồng, giải quyết xung đột và xây dựng mạng lưới quan hệ.
II. Vận dụng tương tác xã hội trong thực tiễn
Dưới đây là một số ví dụ về việc vận dụng tương tác xã hội trong thực tế:
1.Trong giao tiếp hàng ngày: Mỗi ngày chúng ta đều tham gia vào các tương tác xã hội thông qua việc giao tiếp với người khác. Việc sử dụng ngôn ngữ, ngôn từ phù hợp, lắng nghe và hiểu ý kiến của người khác là những ví dụ về
việc vận dụng tương tác xã hội trong giao tiếp hàng ngày.
Trong việc xây dựng mối quan hệ: Khi chúng ta muốn xây dựng một mối quan hệ tốt với người khác, việc sử dụng các kỹ năng tương tác xã hội là rất quan trọng. Ví dụ về việc hiểu và tôn trọng ý kiến của người khác, chia sẻ thông
tin và cảm xúc của mình, tạo ra sự tin tưởng và sẵn lòng giúp đỡ người khác.
3.Trong việc làm việc nhóm: Khi tham gia vào một nhóm làm việc, việc sử dụng các kỹ năng tương tác xã hội là quan trọng để đạt được mục tiêu chung. Việc lắng nghe ý kiến của các thành viên khác, chia sẻ kiến thức và kỹ năng
của mình, đưa ra ý kiến xây dựng và tạo ra một môi trường làm việc hòa đồng và hiệu quả.
4.Trong việc giải quyết xung đột: Khi xảy ra xung đột trong một tình huống, việc sử dụng các kỹ năng tương tác xã hội là quan trọng để tìm ra giải pháp chung và đạt được sự thỏa thuận. Ví dụ như việc lắng nghe và hiểu quan điểm
của người khác, thể hiện sự thông cảm và tìm cách đạt được sự đồng thuận.
5.Trong việc tham gia vào cộng đồng: Khi tham gia vào các hoạt động cộng đồng, việc sử dụng tương tác xã hội là quan trọng để tạo ra một môi trường hòa hợp và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng. Ví dụ như việc hợp tác
với các tình nguyện viên khác, tôn trọng quy tắc và giá trị của cộng đồng, và tạo ra một môi trường tương tác tích cực và hỗ trợ. Hay qua những kế hoạch phát triển cộng đồng các tổ chức phi chính phủ và tình nguyện có thể sử dụng
tương tác xã hội để tạo ra một môi trường giao tiếp và tương tác với cộng đồng. Việc lắng nghe ý kiến và nhu cầu của cộng đồng, phát triển các hoạt động tương tác và hỗ trợ, tạo ra một môi trường hòa đồng và tăng cường lòng tin
của cộng đồng là những cách mà các tổ chức có thể vận dụng tương tác xã hội trong công việc của mình.
6.Trong một số các lĩnh vực tiêu biểu như
- Lĩnh vực kinh doanh: Khi một doanh nghiệp muốn tăng cường tương tác xã hội với khách hàng, họ có thể sử dụng các kênh truyền thông xã hội như Facebook, Instagram, Twitter để tạo ra một môi trường giao tiếp và tương tác với
khách hàng. Qua đó, họ có thể lắng nghe ý kiến, phản hồi và giải đáp các câu hỏi của khách hàng, tạo ra một mối quan hệ tốt hơn và tăng cường lòng tin của khách hàng đối với doanh nghiệp. Trong những doanh nghiệp kinh doanh
chúng ta còn thấy rõ được sự “tương tác cạnh tranh” vô cùng rõ rệt giữa các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân với nhau. Tương tác cạnh tranh: mang tính tích cực, không liên kết dẫn đến các chủ không thể tìm được tiếng nói chung
VD: hai doanh nghiệp bán cùng 1 loại sản phẩm cạnh tranh để loại bỏ nhau, fan và antifan của 1 nghệ sĩ tranh cãi lẫn nhau nhằm hạ bệ lẫn nhau.
- Lĩnh vực giáo dục: Giáo viên có thể sử dụng các kỹ năng tương tác xã hội để tạo ra một môi trường học tập tích cực và hỗ trợ cho học sinh. Việc lắng nghe và hiểu ý kiến của học sinh, tạo ra các hoạt động tương tác nhóm, khuyến
khích sự thảo luận và chia sẻ ý kiến là những cách giáo viên có thể vận dụng tương tác xã hội trong việc giảng dạy.
- Lĩnh vực chính trị: Các nhà lãnh đạo và chính trị gia có thể sử dụng tương tác xã hội để tạo ra một môi trường giao tiếp và tương tác với người dân. Việc sử dụng các kênh truyền thông xã hội, tổ chức cuộc họp công dân, lắng nghe
ý kiến và phản hồi của người dân là những cách mà các nhà lãnh đạo có thể vận dụng tương tác xã hội để hiểu và đáp ứng nhu cầu của người dân.
- Lĩnh vực y tế: Các nhân viên y tế có thể sử dụng tương tác xã hội để tạo ra một môi trường giao tiếp thoải mái và tạo niềm tin cho bệnh nhân. Việc lắng nghe và hiểu quan điểm của bệnh nhân, giải thích thông tin y tế một cách dễ
hiểu, đáp ứng các câu hỏi và lo lắng của bệnh nhân là những cách mà nhân viên y tế có thể vận dụng tương tác xã hội trong công việc của mình.
CHƯƠNG 4 : HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI
Khái niệm hành động xã hội
- Hành động xã hội: một bộ phận cấu thành trong hoạt động sống của các cá nhân hay các cá nhân hành động là để thực hiện hoạt động sống của mình.
- Ra đời nhằm phản ứng lại quan điểm của các nhà hành vi luận khi nói về hành động của con người: chúng ta không thể nghiên cứu được những yếu tố bên trong qui định hành vi của các cá nhân, mà chỉ có thể biết đến những phản ứng bên ngoài.
Hành động xã hội
- Theo Triết học: “Hành động xã hội là hình thức, cách thức giải quyết các mâu thuẫn, các vấn đề xã hội”. Được tạo ra bởi các phong trào, tổ chức hay đảng phái chính trị. Như vậy, góc nhìn của triết học là ở tầm vĩ mô.
- Theo Xã hội học: M.Weber đã có định nghĩa “Hành động xã hội là hành vi mà chủ thể gắn cho nó ý nghĩa chủ quan nhất định”. Các cá nhân hành động chính là thể hiện hoạt động sống của mình. Hành động xã hội luôn gắn với tính
tích cực của các cá nhân, bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị của chủ thể hành động. Do vậy, để tìm hiểu khái niệm hành động xã hội, chúng ta bắt đầu bằng việc tìm hiểu khái niệm hành vi xã hội.
1.1. Phân biệt hành vi và hành động xã hội
a. Hành vi Hành vi là sự biểu hiện của mối liên hệ giữa kích thích và phản ứng. Theo chủ nghĩa hành vi chính thống: các tác nhân quy định phản ứng của con người, do đó, qua các phản ứng cũng có thể hiểu được các tác nhân. Hành
vi có thể được mô tả là hành động hoặc phản ứng của một người để đối phó với các tình huống kích thích từ bên ngoài hoặc bên trong. Để hiểu hành vi của một người, chúng ta phải hiểu người đó sẽ làm gì nếu có một kích thích xảy ra. Phân Loại Hành Vi:
- Hành Vi Cụ Thể (Molecular) Và Hành Vi Tổng Thể (Molar):
+ Hành Vi Cụ Thể (Molecular Behavior) là một hành vi bất ngờ xảy ra mà không cần suy nghĩ.
+ Hành Vi Tổng Thể (Molar Behavior) là loại hành vi xảy ra sau khi suy nghĩ, Thay đổi cách thức tiếp cận sự việc khi họ nhìn thấy hoặc phát hiện ra một điều có hại.
- Hành Vi Thấy Rõ Và Hành Vi Không Thấy Rõ (Overt and Covert Behavior):
+ Hành Vi Thấy Rõ (Overt Behavior) là loại hành vi có thể nhìn thấy được và được thể hiện cũng như được diễn ra bên ngoài con người.
+ Hành Vi Không Thấy Rõ (Covert Behavior) là loại hành vi không hiển thị ra ngoài để người khác có thể nhận thấy được.
- Hành Vi Tự Nguyện Và Không Tự Nguyện (Voluntary and Involuntary Behavior):
+ Hành Vi Tự Nguyện (Voluntary Behavior) là loại hành vi phụ thuộc vào mong muốn của con người.
+ Hành Vi Không Tự Nguyện (Involuntary Behavior) xảy ra một cách tự nhiên và không cần suy nghĩ.
Mô hình hành vi (reaction). S- -----> R, trong đó, S là tác nhân (stimul) và R là phản ứng (reaction).
Theo sơ đồ này, hành vi của con người không có sự cân nhắc, tính toán kỹ càng mà chỉ là sự phản ứng đối với kích thích. Tức là, không có sự tham gia của ý thức hay một yếu tố nào khác. Các cá nhân bị hạ xuống thành những cái
máy phản ứng.Vì vậy, trong nhiều trường hợp, người ta còn thống nhất khái niệm hành vi với hành động vật lý - bản năng. Hành vi xã hội là một chính thể thống nhất gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Hành vi xã hội có thể được xem là tương tự như trao đổi hàng hóa, với mong muốn rằng khi bạn cho đi, bạn sẽ nhận về điều tương tự.[3] Hành vi này có thể được thực hiện bởi cả phẩm chất của cá nhân và các yếu tố môi
trường (tình huống). Do đó, hành vi xã hội phát sinh là kết quả của sự tương tác giữa hai cơ thể sinh vật và môi trường của nó. Điều này có nghĩa là, liên quan đến con người, hành vi xã hội có thể được xác định bởi cả đặc điểm cá
nhân của con người và tình huống tại chỗ. Theo lý thuyết hành vi mới, giữa các tác nhân và các phản ứng phải có các yếu tố trung gian: hệ thống nhu cầu, hệ thống giá trị và tình huống thực hiện hành vi. Như vậy, các cá nhân sẽ phải
suy nghĩ, đối chiếu, cân nhắc trước mỗi tác nhân, chứ không phải là phản ứng một cách máy móc.
b. Hành động xã hội
Theo triết học, hành động xã hội là một hình thức giải quyết mâu thuẫn và các vấn đề xã hội.
- Hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gán cho một ý nghĩa chủ quan nhất định. Như vậy, hành động bao giờ cũng có động cơ nhất định. Nhưng không phải hành động nào cũng là hành động xã hội (hành động vật lý bản năng,
hành động giống nhau của các cá nhân trong một đám đông, hành động bắt chước thuần tuý...). Tuy nhiên, rất khó phân biệt chính xác hành động xã hội và hành động không xã hội vì con người không phải lúc nào cũng hoạt động một
cách có ý thức, có ý chí. 9
- Hành động xã hội là một bộ phận cấu thành hoạt động sống của cá nhân.
c. Sự khác biệt giữa hành vi xã hội và hành động xã hội
- Hành vi xuất phát từ mô hình kích thích - phản ứng. Còn hành động diễn ra theo nguyên tắc
- Hành vi không có động cơ. Còn hành động luôn được xác định bởi những động cơ đằng sau nó, người ta thực hiện hành động khi muốn một cái gì đó, để đạt một cái gì đó.
- Khi hành động, các chủ thể có khả năng giám sát hành động của chính họ một cách có phản ứng còn hành vi thì không.
- Hành động luôn được quy chiếu theo những giá trị, chuẩn mực của xã hội như đúng – sai, tốt
- Hành vi thì không có tính chuẩn mực. phản ứng có suy nghĩ.
2. Cấu trúc của hành động xã hội
2.1. Các thành phần của hành động xã hội
Một hành động xã hội được tạo nên bởi hệ thống các thành phần sau:
Nhu cầu: Là khởi điểm của hành động xã hội bởi các cá nhân luôn hành động có mục đích và lợi ích cá nhân
Động cơ và mục đích của hành động: Mọi hành động đều được các động cơ thúc đẩy, dẫn dắt, tạo ra các định hướng nhất định để đạt mục đích – tức là kết quả đã được hình dung trước. Các động cơ cơ bản không chỉ liên quan đến
các nhu cầu vật chất mà bao gồm giá trị, lợi ích, lý tưởng đã được các chủ thể tiếp nhận.
Chủ thể hành động: Là các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Trong đó, nếu hành động của chủ thể là một cá nhân thì thường có tính duy ý chí cao, tức là tính chủ quan trong nhận định về hòan cảnh cao hơn khi nó được thể hiện với sự có
mặt của các cá nhân khác. Khi chủ thể hành động là nhóm, cộng đồng hay cả một xã hội hành động thì hành động xã hội là kết quả do một tập hợp cá nhân tiến hành như míttinh, biểu tình, hội họp, làm việc….
Hoàn cảnh hoặc môi trường hành động: Bao gồm những điều kiện về thời gian, không gian vật chất và tinh thần của hành động. Nó sẽ quyết định hành động sẽ diễn ra vào thời gian nào, địa điểm nào và trong bối cảnh xã hội ra sao?
Hoàn cảnh, mối trường hành động tác động rõ đến mức các nhà xã hội học gọi đó là “sự kiềm chế thực tế”.
Công cụ, phương tiện hành động: Tùy theo hoàn cảnh của hành động, các chủ thể hành động sẽ lựa chọn phương án sử dụng công cụ, phương tiện tối ưu nhất đối với họ.
Các thành phần của hành động xã hội không tồn tại một cách độc lập mà có mối liên quan hữu cơ với nhau và có ý nghĩa quan trọng quyết định kết quả của hành động xã hội.
2.2. Hành động xã hội và hậu quả không chủ định
Hành động xã hội luôn có những động cơ thúc đẩy và ý thức về kết quả có thể xảy ra (có chủ định) nhưng đôi khi, chúng vẫn đem lại những kết quả hành động không theo ý muốn. Có hậu quả không chủ định do chúng ta không phải
bao giờ cũng có sự nhận định đầy đủ và chính xác hoàn toàn về môi trường xung quanh. Nhưng không phải mọi kết quả không chủ định đều là những hậu quả xấu và không được mong muốn, nó có thể mang lại kết quả tốt hay những
bất ngờ thú vị cho chủ thể.
Hậu quả không chủ định liên quan đến sự hiểu biết của chủ thể về sự chủ định đó. Thông thường, cá nhân không phải bao giờ cũng có thể nhận diện đầy đủ và chính xác hoàn toàn về môi trường xung quanh, nơi diễn ra hành động đó.
Để giảm bớt hậu quả không chủ định, chúng ta cần tăng cường sự hiểu biết về bản thân, đồng thời chú ý hơn đến hoàn cảnh, điều kiện, môi trường hành động.
3. Phân loại hành động xã hội của Max Weber
Max Weber cho rằng một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không thể là một hành động xã hội
Vd: Em bé khóc khi ở một mình, hành động này là chủ thể thực hiện khi ở một mình, không có sự chứng kiến, cũng không định hướng vào người khác, hành động này không được gọi là hành động xã hội
Hành động không phải là kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì không phải là hành động xã hội.
Ông đã phân loại hành động xã hội ra làm bốn loại:
Hành động hợp lý về mục đích: Hành động này được xác định bởi mức rõ ràng, tính giá trị duy nhất của mục đích, tương ứng với nó là những phương diện đã được ý thức một cách hợp lý, nhằm đảm bảo cho việc chiếm lĩnh hành động
Nó có ưu điểm lớn về mặt phương pháp luận và đóng vai trò mô hình, để từ đó,các loại hành vi được hình thành và xây dựng trên cơ sở những hoàn cảnh cụ thể.
VD: hành động kinh doanh, luôn phải tính toán, lựa chọn giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng để đạt được hiệu quả cao nhất có thể
Hành động hợp lý về mặt giá trị: là loại hành động tuân thủ quy tắc của cái nghĩa, của hành vi đúng mức hay gọi là hành vi chuẩn. Hành động hợp lý về giá trị sẽ kèm theo một đặc tính phụ, là tính có hoạch định. Nhưng giá trị cũng
được thể hiện qua các chuẩn mực khác nhau
VD: Cuộc sống chúng ta có ấm no hạnh phúc hay không là do bản thân chúng ta lên kế hoạch đề ra những nguyên tắc để đạt được thành công như mong đợi.
Hành động truyền thống: Là loại hành động được hình thành trên cơ sở của việc bắt chước những mô hình hành vi nào đó đã được củng cố, khẳng định trong truyền thống văn hóa và được chấp nhận.
Tức là con người hành động theo một thói quen nhất định xuất phát từ những gì được học ngay từ nhỏ. Con người có xu hướng tuân theo giá trị chuẩn mực của cộng đồng, lặp đi lặp lại thành thói quen hàng ngày.
VD: Từ thời xưa ông cha ta đã dạy: “ chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”, hiện nay dù đã có những đài thiên văn để dự báo thời tiết nhưng vẫn có thể dựa vào tự nhiên mà đoán được thời tiết hôm nay.
Hành động tình cảm: Là loại hoạt động mà đặc tính xác định của nó là trạng thái cảm xúc nhất định của chủ thể: Nó bao gồm đam mê tình cảm hay sự ghen tị, cơn thịnh nộ hay sự vui vẻ hào hứng, sự sợ hãi hay lòng quả cảm.
VD : Các cầu thủ Việt Nam sẽ vui mừng, ăn mừng khi thắng trận đấu, hoặc là chúng ta sẽ tức giận khi thấy việc bất bình trước mắt.
Weber cho rằng bốn loại hành động này trong cuộc sống không thể tách rời. Nó đan xen với nhau, khi hiểu con người thì phải hình dung ra 4 loại hành động đó trong trường hợp cụ thể
Có những hành động đối lập với hành động xã hội, đó là những hành động vật lý bản năng nghĩa là không suy nghĩ mà ta vẫn thực hiện được, vì hành động xảy ra nhanh quá không đủ thời gian để ta suy nghĩ
Như trường hợp đang đi bị cái nhánh cây rớt xuống người, hoặc bị điện giựt.
Hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ con người với xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người
Hành động xã hội mang một ý nghĩa bao trùm tổng thể các quan hệ xã hội.
Chương 5: VỊ THẾ XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ XÃ HỘI 1. Vị thế xã hội
1.1. Khái niệm vị thế xã hội
Trong xã hội học, khái niệm vị thế thể hiện ở nhiều nghĩa. 10
- Theo Linton, vị thế có nội dung là địa vị và được hiểu là vị trí tương đối của một cá nhân trong bối cảnh xã hội giới hạn nhất định, từ đó có những hy vọng nhất định về vai trò.
- Thuật ngữ “đẳng cấp” của Max Weber trong tiếng Đức khi dịch sang tiếng Anh cũng có nghĩa là “vị thế”, dùng để chỉ toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ mà một cá nhân thực hiện.
- Trong Xã hội học phân tầng, vị thế của một cá nhân có thể được xác định là một địa vị cao hay thấp trong một hệ thống được sắp xếp theo thứ bậc.
Ở nghĩa chung nhất, người ta quan niệm: Vị thế xã hội là một vị trí trong cấu trúc xã hội. Mỗi vị thế quyết định chỗ đứng của một cá nhân hay một nhóm xã hội và phương pháp ứng xử của cá nhân, nhóm xã hội đó đối với xã hội xung quanh.
Như vậy, vị thế xã hội là địa vị, thứ bậc của chủ thể xã hội, được hình thành trong cơ cấu tổ chức xã hội, tuỳ thuộc vào sự thẩm định và đánh giá của xã hội đối với vị thế đó. Mỗi vị thế của cá nhân được xác lập qua các tiêu chuẩn
mang tính phổ biến trong xã hội như: dòng dõi xuất thân, của cải tài sản, chức vụ, nghề nghiệp, trình độ giáo dục, giới tính, khả năng, quyền lực và quyền uy....Những tiêu chuẩn này biểu lộ thái độ và mức độ tôn trọng hay khinh rẻ
của xã hội đối với vị thế của các cá nhân. Ví dụ: công nhân, nông dân, trưởng phòng, giám đốc, người giàu, người nghèo, giáo viên, bác sĩ, kỹ sư…là những vị thế xã hội.
Về cơ bản, vị thế xã hội là một hiện tượng nhận thức, trong đó, các cá nhân hoặc nhóm được so sánh với những người khác và nhóm khác về sự khác nhau dựa trên một số đặc điểm hoặc phẩm chất được cho là có ý nghĩa trong xã hội.
Từ đó có sự sắp xếp địa vị cho các cá nhân. Mặt khác, sự xếp đặt vị thế còn bắt nguồn từ những quan điểm của những người khác, những quan điểm này được dựa trên một hệ thống giá trị của cộng đồng.
Về mặt tâm lý xã hội, người ta thường tin tưởng, tín nhiệm người có vị thế xã hội cao vì họ có ảnh hưởng lớn. Do đó, xu thế chung là ai cũng muốn vươn lên cải thiện vị thế xã hội của mình. Vị thế xã hội phản ánh quyền lực, lợi ích
và trách nhiệm của cá nhân khi nắm giữ vị thế tương ứng. Đồng thời, cá nhân sẽ khẳng định vị thế của mình thông qua mối quan hệ với những người khác. Tức là vị thế của cá nhân này chỉ có ý nghĩa xã hội đầy đủ trong quan hệ với
các vị thế xã hội khác có liên quan. Ví dụ, vị thế của người giáo viên chỉ có ý nghĩa xã hội đầy đủ trong quan hệ với vị thế xã hội của học sinh – sinh viên.
Phân loại vị thế xã hội
Vị thế thường được phân thành hai nhóm:
- Vị thế tự nhiên (có sẵn, được gán cho): là những vị thế mà các cá nhân không cần phải cố gắng, nỗ lực để đạt được mà cá nhân đó được xã hội gán cho. Những vị thế này thường gắn với những thiên chức, những đặc điểm cơ bản
mà cá nhân không thể tự kiểm soát được.
Ví dụ: Vị thế giới tính, vị thế nguồn gốc xuất thân, vị thế đẳng cấp, vị thế lứa tuổi, vị thế chủng tộc, vị thế thứ bậc trong gia đình và dòng họ....
- Vị thế xã hội (đạt được): là những vị thế phụ thuộc vào những đặc điểm mà trong một chừng mực nhất định, cá nhân có thể tự kiểm soát được. Vị thế xã hội phụ thuộc vào nỗ lực phấn đấu và sự cố gắng vươn lên của bản thân.
Trong đời sống, mỗi cá nhân có nhiều vị thế khác nhau, tạo thành một tập hợp các vị thế. Mỗi vị thế có một sự phù hợp với bối cảnh xã hội. Tuy nhiên, trong các vị thế đó, bao giờ cũng có một vị thế chủ chốt, giữ vai trò chủ đạo,
chi phối các vị thế khác và trong quá trình tương tác, cá nhân thường hành động căn cứ theo vị thế chủ đạo của mình.Nghiên cứu thực nghiệm có hai cách để tìm ra vị thế. Thứ nhất, là tiền đề khách quan – khi xác lập vị thế, nó chú ý
bởi các chuẩn mực xã hội quyết định tới việc đánh giá như thu nhập, nghề nghiệp, trình độ học vấn…Thứ hai là tiền đề chủ quan – quan tâm tới quan niệm của cá nhân về đánh giá, nghĩa là tự đánh giá và đánh giá của người ngoài,
các thang đo uy tín…[Siegfried Lamnek]. Như vậy, xã hội học nghiên cứu vị thế nhằm xem xét, trong quá trình vận động của mỗi một cá nhân, họ có sự thăng tiến hay giảm sút vị thế và cá nhân chịu sự chi phối của các vị thế như thế
nào. Cá nhân thể hiện vị thế của mình thông qua vai trò xã hội. Tức là, chúng ta chiếm giữ các vị thế xã hội khác nhau, nhưng chúng ta sẽ phải thể hiện vị thế với những quyền hạn và trách nhiệm kèm theo thông qua vai trò xã hội.
Những yếu tố ảnh hưởng đến vị thế xã hội
-Sự tự đánh giá của cá nhân về bản thân mình, về vị trí xã hội của mình
-Những đặc trưng nhân cách, sinh lý và tâm lý của cá nhân
Những đặc điểm xã hội của cá nhân:
Giới tính,Lứa tuổi,Nguồn gốc xã hộiDân tộc ,Đảng phái,Học vấn,Thâm niên công tác,Điều kiện sống,Thủ đoạn,Cơ may… 2. Vai trò xã hội
2.1. Khái niệm vai trò xã hội
Thuật ngữ vai trò (role) được các nhà xã hội học vay mượn từ nghệ thuật sân khấu (kịch học) để miêu tả các vai trò xã hội có ảnh hưởng như thế nào trong đời sống xã hội. Giống như các nghệ sĩ trên sân khấu, tất cả chúng ta đều đóng
các vai trò trong cuộc sống hàng ngày. Gắn với mỗi vai trò là một kịch bản, nó giúp chúng ta ứng cử như thế nào với những người khác và họ sẽ tương tác trở lại với chúng ta ra sao?
Về mặt khái niệm xã hội học: Vai trò xã hội là một tập hợp những chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định.
Vai trò xã hội được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội tương ứng. Để thực hiện những quyền và nghĩa vụ của từng vị thế, cá nhân phải thực hiện những hành động nhất định. Những hành động đó chính là mô hình hành vi được xã
hội mong đợi đối với người chiếm giữ một vị thế. Tức là, vai trò xã hội được coi là một mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan, căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất định, để thực hiện những quyền và
nghĩa vụ tương ứng với các vị thế đó.
Những đòi hỏi, mong đợi của xã hội dành cho vai trò của cá nhân được xác định căn cứ vào chuẩn mực xã hội. Để cá nhân thực hiện tốt vai trò của mình, các đòi hỏi, chuẩn mực do xã hội đặt ra phải rõ ràng. Đồng thời, cá nhân luôn
phải học hỏi về các vai trò thông qua quá trình xã hội hoá, tức là học hỏi về những yêu cầu, đòi hỏi mà họ cần phải thực hiện khi họ tiếp nhận một vị thế xã hội nhất định..
2.2. Phân loại vai trò xã hội
Vai trò thường nhật. Là loại vai trò mà mỗi cá nhân chúng ta tham gia đóng thường xuyên và thay đổi liên tục tùy thuộc vào mối quan hệ tương tác. Nó chiếm đại đa số trong tổng số các vai mà cá nhân đóng hàng ngày. Ví dụ: Vai trò
là khách hàng, là vai anh đối với em trong gia đình, vai là một người bạn, người hàng xóm,…. Đây là vai trò mà mỗi cá nhân chỉ cần học hỏi, bắt chước một cách đơn giản là có thể đóng được.
Vai trò định chế. Là loại vai trò nếu cá nhân muốn đóng phải trải qua một qua trình đào tạo, huấn luyện theo một cách thức nhất định nào đó hoặc bởi những qui định do một tổ chức nào đó đã thiết kế sẵn. Đóng loại vai trò này được
xem như là nhiệm vụ phải đảm trách và kèm theo đó là những áp lực. Ở đây, gần như cá nhân không nghĩ đến tính sáng tạo, vì tất cả các vai trò đã trở thành khuôn mẫu, chuẩn, nghĩa là đã được định sẵn, nhập vào những vai này cá
nhân chỉ cứ thế mà đóng, không cần suy nghĩ. Lưu ý trong loại vai này luôn có tính chế tài đối với đối với những cá nhân tham gia đóng.
Vai trò kỳ vọng. Là loại vai trò mà khi cá nhân tham gia đóng sẽ nhận được sự kỳ vọng, sự mong đợi của rất nhiều người trong nhóm, tổ chức hoặc cả xã hội rộng lớn. Ví dụ: Lớp trưởng của một lớp, chủ tịch hội chất độc da cam Việt
Nam,…. Ai đóng vai trò kỳ vọng luôn phải ý thức và có trách nhiệm đáp lại sự mong đợi đó.
Vai trò gán. Là loại vai trò mà cá nhân có được xuất phát tư một yếu tố nào đó như tài năng, giới tính, yếu tố sinh học,… được nhóm hoặc xã hội gán cho bởi sự tôn vinh hay thành kiến thông qua một cuộc bình bầu chính thức hoặc không chính thức.
Vai trò tự chọn. Đây là loại vai trò mà cá nhân đóng hay không đóng phụ thuộc vào ý chủ quan của cá nhân. Tuy nhiên, nó chỉ mang tính tương đối, vì trong một số trường hợp không phải cứ muốn là cá nhân đóng được ngay.
Chương 6: BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI
Bất bình đẳng xã hội Trong các xã hội, vấn đề bình đẳng xã hội và bất bình đẳng xã hội luôn được đặt ra không chỉ bởi các nhà khoa học mà cả đối với các chính phủ cũng như đông đảo quần chúng nhân dân. Dưới góc độ xã hội
học, vấn đề này được xem xét như sau: 11
Khái niệm bất bình đẳng xã hội
Tất cả các xã hội từ trước tới nay đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã hội. Đó là một quá trình mà trong đó, con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi các vị thế, vai trò và những đặc điểm khác của họ. Quá
trình của sự khác biệt đó chuẩn bị cho bất bình đẳng xã hội, là một điều kiện mà con người có cơ hội không ngang bằng nhau về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín.
Xã hội học quan niệm: Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với các cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội. Ở một số nước, có thể thấy, những phúc lợi xã hội về
chăm sóc sức khoẻ, an ninh, giáo dục, việc làm và ảnh hưởng chính trị được phân bố không đều một cách hệ thống.
Bất bình đẳng không phải là sự kiện xã hội ngẫu nhiên, tạm thời giữa các cá nhân trong xã hội mà nó có tính ổn định, vững bền qua nhiều thời đại xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các
nhóm xã hội khác. Qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đẳng khác nhau. Những thành viên của mỗi nhóm xã hội sẽ có những đặc điểm chung và luôn coi vị trí bất bình đẳng của họ sẽ được truyền lại cho con cái họ.
Cơ sở tạo nên bất bình đẳng
Bất bình đẳng được hình thành trong đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Nó gắn liền với sự phân công lao động xã hội. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, sự phân công lao động càng đa dạng phức tạo, bất bình
đẳng xã hội càng trở nên gay gắt.
Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội là sự đa dạng và khác nhau giữa các xã hội và nền văn hoá, gắn liền với những đặc điểm của giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ…Tuy nhiên, theo các nhà Xã hội học, dù
cho những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội có đa dạng và khác nhau thì người ta vẫn có thể quy chúng về 3 nhóm cơ sở chủ yếu:
- Những cơ hội trong cuộc sống: là những thuận lợi vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống như của cải, tài sản, thu nhập, công việc, lợi ích chăm sóc sức khoẻ hay đảm bảo an ninh xã hội. Trong xã hội, một nhóm người có thể
có những cơ hội, trong khi các nhóm khác lại không, mặc dù các thành viên trong nhóm có nhận thức được điều đó hay không. Đây là cơ sở khách quan của bất bình đẳng.
- Do sự khác nhau về địa vị xã hội: bất bình đẳng về địa vị xã hội do thành viên của các nhóm xã hội tạo nên và thừa nhận chúng. Nó có thể là bất cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được các nhóm xã hội khác thừa nhận.
Tuy nhiên, địa vị xã hội chỉ có thể được giữ vững bởi những nhóm nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội khác tự giác thừa nhận sự ưu việt đó.
- Do sự khác nhau về ảnh hưởng chính trị: Bất bình đẳng do ảnh hưởng chính trị là khả năng của một nhóm xã hội thống trị những nhóm khác hay có ảnh hưởng mạnh mẽ trong việc ra quyết định và thu được lợi từ các quyết định đó.
Bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị có thể được nhìn nhận như là có được từ những ưu thế về vật chất hoặc địa vị xã hội cao. Trên thực tế, bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những cơ hội trong
cuộc sống, đặc biệt đối với các cá nhân có chức vụ chính trị cao.
Tóm lại, cấu trúc bất bình đẳng có thể dựa trên một trong ba loại ưu thế đó. Gốc rễ của bất bình đẳng có thể nằm trong mối quan hệ kinh tế, địa vị xã hội, hay trong các mối quan hệ thống trị về chính trị của các giai cấp trong xã hội.
Một vài quan điểm về bất bình đẳng xã hội
Bất bình đẳng xã hội là một hiện tượng xã hội phổ biến, nhưng phải chăng nó là hiện tượng xã hội bất biến? Tuy nhiên, đây là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau. Chúng ta sẽ xem xét một số quan điểm tiêu biểu về bất bình đẳng xã hội.
Aristotle (384 – 322 TCN) từng cho rằng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị trị, và đó là một luật lệ.” Ngay cả đến hiện nay, quan điểm này vẫn còn tồn tại. Steven Goldberg nêu quan điểm: “Sự thống trị và sự thành đạt cao
của nam giới là khả năng không thể đảo ngược, bởi có những khác biệt về sinh học giữa nam và nữ.”
Thực ra những quan điểm hoàn toàn tương tự có thể được tìm thấy trong các xã hội khác. Trong không ít các gia đình Việt Nam hiện đại, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn tồn tại. Người con trai luôn được dành cho những ưu tiên và
cơ hội nhiều hơn người con gái và tất yếu điều này làm cho sự bất bình đẳng ngày một kéo dài và trầm trọng hơn.
Trong luận văn Về nguồn gốc của sự bất bnh đẳng năm 1753, Jean-Jacques Rousseau đã vạch rõ nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội là ở chế độ tư hữu tài sản. Theo ông, bất bình đẳng không phải là một quy luật tự nhiên,
mà là sản phẩm của xã hội loài người; nó tồn tại và phát triển từ khi xuất hiện chế độ tư hữu tài sản; rằng con người đã tạo ra sự bất bình đẳng thì con người cũng có thể xóa bỏ nó. Những đặc điểm về kinh tế – chính trị và thị trường
lao động tạo ra những khác biệt trong thu nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các cá nhân trong cơ cấu xã hội gây ra bất bình đẳng kinh tế. Ông cũng đã phân biệt rõ hai loại bất bình đẳng giữa người với người. Đó là
bất bình đẳng tự nhiên và bất bình đẳng xã hội – bất bình đẳng do cơ chế xã hội tạo nên.
Một số nhà xã hội học khác cho rằng bất bình đẳng là không thể tránh khỏi do xã hội có những nhiệm vụ này cần thiết hơn những nhiệm vụ khác và khả năng thực hiện những nhiệm vụ này khác nhau. Họ lập luận rằng bất bình đẳng
xã hội về lợi ích giữa các cá nhân là cần thiết để thúc đẩy người tài nhất thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất. Chính sự bất bình đẳng thúc đẩy các cá nhân lao đô „ng, học tâ „p để mang lại cơ hô „i cho chính bản thân mình. Do vậy
không thể thủ tiêu bất bình đẳng, vì bình đẳng có thể nguy hiểm cho xã hội như nhà kinh tế học A. Lechevalier phân tích:“Bình đẳng chung chung thậm chí còn đi ngược lại ý niệm về sự công bằng, không chỉ là công bằng về nỗ lực
cá nhân, về nhu cầu, ham muốn mà cả những thiệt thòi.”
Những quan điểm trên quá nghiêng về mặt sinh học của con người hoặc nghiêng về yếu tố kinh tế. Khác với các quan điểm trên, Marx và Weber
Marx chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các học thuyết kinh tế mà ông coi là nền tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp là chìa khoá của mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Marx khẳng định: “Những tư tưởng thống trị của một
thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị” và phục vụ cho giai cấp thống trị.
Max Weber nghiên cứu cấu trúc xã hội sau Marx hơn nửa thế kỷ. Do vậy, ông đã ghi nhận những thay đổi trong cơ cấu giai cấp xã hội để phát triển lý thuyết xã hội học về sự phân tầng xã hội. Theo đó, lĩnh vực kinh tế không còn vai
trò quan trọng đối với sự phân chia giai cấp và tầng lớp xã hội trong xã hội tư bản hiện đại. Cấu trúc xã hội nói chung và sự phân tầng xã hội nói riêng chịu tác động của hai nhóm yếu tố cơ bản là các yếu tố kinh tế và các yếu tố phi
kinh tế trong quá trình hình thành, biến đổi cấu trúc xã hội và sự phân tầng xã hội.
2. Phân tầng xã hội
2.1. Khái niệm phân tầng xã hội
Trong đời sống xã hội, hầu hết các khía cạnh của con người đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến vị trí của họ. Do bản chất của nó, phân tầng xã hộit ra những vấn đề hết sức nghiêm túc về sự phân hoá giàu nghèo, giữa những
người có địa vị cao, có nhiều lợi thế với những người có địa vị thấp và nhiều bất lợi trong sự thăng tiến. Nó cũng làm nảy sinh những cuộc đấu tranh giành quyền lực và lợi ích trong lịch sử. Vì vậy, cần phải nghiên cứu về phân tầng xã hội.
Trước khi tìm hiểu khái niệm phân tầng xã hội, ta cần làm rõ khái niệm tầng xã hội:
- Tầng xã hội là là tập hợp các cá nhân có cùng hoàn cảnh xã hội, được xắp xếp theo trật tự thang bậc nhất định trong hệ thống xã hội. Tức là, tầng xã hội bao gồm một tập hợp người giống nhau về địa vị (vị thế), bao gồm địa vị kinh
tế (của cải, tài sản, thu nhập), địa vị xã hội (uy tín), địa vị chính trị (quyền lực). Từ đó mà họ có được những cơ hội thăng tiến, sự phong thưởng và những thứ bậc nhất định trong xã hội.
- Phân tầng xã hội là trạng thái phân chia xã hội ra thành các tầng xã hội khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, uy tín xã hội, cũng như một số khác biệt về trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách
ứng xử trong giao tiếp và thị hiếu….
Cũng có thể hiểu phân tầng xã hội là sự xếp hạng một cách ổn định các vị trí trong xã hội, xét từ góc độ quyền lực, uy tín hoặc các đặc quyền đặc lợi không ngang nhau. Tuy nhiên, cũng cần phải biết rằng, khi xã hội học sử dụng thuật
ngữ phân tầng xã hội để nói tới trạng thái phân chia xã hội thành các tầng lớp là nhấn mạnh tới yếu tố “tĩnh”, nhưng xã hội luôn biến đổi và trong xã hội, giữa các tầng lớp xã hội không có sự phân biệt rạch ròi mà luôn chuyển hoá cho
nhau từ tầng xã hội này sang tầng xã hội khác hoặc trong nội bộ một tầng, tạo nên yếu tố “động” của phân tầng xã hội do tính cơ động xã hội. Vì vậy, phân tầng xã hội vừa có yếu tố “tĩnh” vừa có yếu tố “động”.
Sự phân tầng thường được mô tả dưới dạng các tháp phân tầng với những hình dáng khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc trưng của mỗi loại xã hội. Có 5 kiểu thường gặp: 12
Tháp hình nón: phản ánh mức độ bất bình đẳng cao của các xã hội. Ở đó, nhóm người giàu, có quyền lực (đỉnh tháp) chiếm tỷ lệ rất thấp, trong khi đa số nghèo khổ (Đáy tháp) lại chiếm tỷ lệ cao.
Tháp hình nón cụt: tầng lớp giàu có tăng lên nhưng tầng lớp nghèo vẫn chiếm đa số.
Tháp hình thoi (quả trám): cả hai nhóm giàu và nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ, nhóm trung lưu chiếm đa số nằm ở phần thân tháp. Tuy nhiên, khoảng cách giữa hai nhóm đỉnh và đáy tháp còn khá xa. Việt Nam thuộc loại tháp này.
Tháp hình trụ: tỷ lệ các nhóm giàu có, trung lưu và nghèo tương đối đồng đều. Tuỳ vào chiều cao của tháp để nói về mức độ bình đẳng xã hội.
Tháp hình đĩa bay, thấp dẹt: có thể có hai trạng thái: bình quân nghèo khổ hoặc xã hội lý tưởng, thịnh vượng toàn dân với tuyệt đại bộ phận các thành viên trong xã hội có mức sống trung lưu và khá giả.
Phân tầng xã hội là một hiện tượng khách quan, phổ biến và khó có thể tránh khỏi. Nó là kết quả của phân công lao động xã hội và sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của hầu hết mọi chế độ xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi chế độ xã hội
khác nhau, trong những nền văn hoá khác nhau, trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, phân tầng lại có nét đặc thù riêng.
Hiện nay, khi nghiên cứu về hiện tượng phân tầng, người ta thường nhắc đến tính hai mặt của hiện tượng này. Đó là phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội không hợp thức. Phân tầng xã hội hợp thức là sự phân tầng dựa trên
sự khác biệt một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), về điều kiện, cơ may cũng như sự phân công lao động căn cứ vào năng lực của các cá nhân và các nhóm xã hội. Sự phân tầng này thực chất là sự vận hành xã hội theo
nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Chính vì vậy đây là sự phân tầng tích cực, cần thiết đối với toàn thể xã hội. Nó tạo động lực thúc đẩy xã hội đi lên, tạo nên chuẩn mực cho sự đánh giá xã hội và sự tự đánh giá
của các cá nhân theo đúng vị thế, vai trò của mình.Vì vậy, đây là một xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
Phân tầng xã hội không hợp thức là sự phân tầng không dựa trên sự khác biệt tự nhiên của các cá nhân, cũng không dựa trên sự khác nhau về tài đức và sự cống hiến của mỗi người cho xã hội mà dựa trên những hành vi bất chính để
có quyền lực….Vì vậy, phân tầng xã hội không hợp thức tạo nên sự bất công xã hội, kìm hãm sự phát triển xã hội. Nó là nguyên nhân tích tụ mầm mống của sự bất bình và xung đột xã hội, tạo nên những mâu thuẫn xã hội, thậm chí,
có thể tạo nên những đối kháng xã hội làm rối loạn và phá vỡ trật tự xã hội. Do đó, cần kiểm soát, ngăn chặn, đẩy lùi sự ảnh hưởng của phân tầng xã hội không hợp thức.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến sự phân tầng
Nguyên nhân dẫn đến sự phân tầng xã hội, có thể tổng hợp thành 2 nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, do sự tồn tại của hiện tượng bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các xã hội loài người, trừ giai đoạn đầu của công xã nguyên thủy.
Thứ hai, do sự phân công lao động xã hội đã dẫn đến sự phân tầng một cách tự nhiên.
2.3Cácdạng phân tầng
Phân tầng xã hội đóng: phân tầng xã hội trong xã hội đẳng cấp phong kiến do người đứng đầu(nhà vua) quyết định dân cư ở các giai tầng. Đặc trưng là sự ranh giới giữa các giai tầng hết sức rõ rệt, duy trì nghiêm ngặt, địa vị mỗi
người được quyết định khi vừa mới sinh ra bởi nguồn gốc dòng dõi cha mẹ mình. Người khác đẳng cấp không được kết hôn với nhau do đó làm giảm tính năng động xã hội.
Phân tầng xã hội mở: phân tầng xã hội trong xã hội công nghiệp. Xã hội tạo ra các điều kiện để các cá nhân tự khẳng định tài năng của mình. Địa vị của con người trong xã hội phụ thuộc chủ yếu vào địa vi của họ trong kinh tế. Ranh
giới giữa các tầng linh hoạt và mềm dẻo hơn. Địa vị của cá nhân phụ thuộc vào nghề nghiệp và thu nhập của họ. Phân tầng xã hội này giải phóng sức lao động xã hội, do vậy tăng tính năng động xã hội, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ.
Các dạng phân tầng khác:
Phân tầng xã hội theo địa vị chính trị: quyền lực và vị trí của cá nhân trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Phân tầng xã hội theo địa vị kinh tế: là dựa trên số của cải và tài sản mà chia ra các hạng người
Phân tầng xã hội theo địa vị xã hội: là uy tín, uy thế và địa vị xã hội của cá nhân trong nhóm xã hội
Phân tầng xã hội theo trình độ học vấn
2.4. Lý thuyết phân tầng xã hội
a. L$ thuyết chức năng
Phân tầng xã hội là sự sắp xếp các cá nhân vào một hệ thống xã hội trên cơ sở sự phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn chung về giá trị địa vị; là kết quả trực tiếp của phân công lao động xã hội và sự phân hoá của các
nhóm xã hội khác nhau. Nó gắn liền với những biện pháp mà nhờ đó, sự bất bình đẳng được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đó hình thành nên những tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Thuyết này khẳng định, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội là những nét thường trực tất yếu và không thể tránh khỏi trong xã hội loài người. Hiện tượng này tồn tại trong quá khứ và sẽ tiếp tục tồn tại như một nét nổi bật trong xã
hội hiện tại và tương lai.
Những nhà xã hội học theo thuyết chức năng cho rằng, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội tồn tại vì nó thực hiện một chức năng cần thiết và tích cực trong xã hội. Sự bất bình đẳng là một di sản mà nhờ vào đó, xã hội đảm bảo
những địa vị quan trọng nhất phải do những người có tài năng nhất đảm nhiệm một cách có ý thức. Trên cơ sở đó, dẫn tới sự khác nhau về mặt uy tín, thu nhập, khả năng thăng tiến của các cá nhân trong xã hội và xã hội phải thiết chế
hoá một số yếu tố của bất bình đẳng.
Tức là, trong một xã hội, có những địa vị khác nhau thực hiện những chức năng nhất định. Mức độ quan trọng của các địa vị là khác nhau tuỳ thuộc vào chức năng của nó. Có những địa vị đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có những kỹ
năng đặc biệt mà chỉ có một số ít người thực hiện được. Do vậy, những người thực hiện được địa vị cao là không nhiều, họ phải trải qua một thời kỳ huấn luyện nhất định để có những kỹ năng chuyên môn cần thiết. Từ đó, phải có hệ
thống phần thưởng bất bình đẳng gắn với một tổ chức ngạch bậc những địa vị xã hội, tuỳ theo mức độ quan trọng của nó và tương xứng với tài năng, công sức, và chi phí học tập để có kỹ năng cần thiết.
Với cách giải thích như vậy, lý thuyết này được coi là lý thuyết hợp thức hoá và bảo vệ sự phân tầng và bất bình đẳng trong xã hội. Đồng thời, thuyết này cũng có những hạn chế nhất định khi chỉ dựa vào tiêu chí giá trị địa vị xã hội,
gạt bỏ những yếu tố khác như kinh tế, chính trị trong quá trình phân tầng xã hội.
b. L$ thuyết xung đột
Với những nhà xã hội học theo thuyết xung đột thì phân tầng xã hội liên quan trực tiếp tới bất bình đẳng giai cấp. Do sự mâu thuẫn, xung đột, tranh giành quyền thống trị giữa các giai cấp mà sinh ra bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
Tức là, bất bình đẳng và phân tầng xã hội tồn tại do phần lớn đời sống của chúng ta nằm trong những mối quan hệ quyền lực đã được thiết chế hoá và chúng ta bị phụ thuộc trong đó. Những nhóm xã hội được ưu đãi có khả năng giữ
một hệ thống các giá trị thống trị để duy trì cơ cấu xã hội có lợi cho họ và là bất bình đẳng với các giai cấp khác.
Những người theo thuyết này chủ yếu dựa vào yếu tố chính trị để phân tích về phân tầng xã hội.
c. L$ thuyết của Marx về phân t!ng xã hội
Marx phân tích phân tầng xã hội dưới khía cạnh giai cấp xã hội. Ông cho rằng, phân tầng xã hội là do quyết định của nhân tố kinh tế (quyền sở hữu tư liệu sản xuất thuộc về ai). Do vậy, có thể phân chia các tầng lớp trong xã hội tư
bản thành giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trên cơ sở mối quan hệ của họ với tư liệu sản xuất.
Theo Marx, mối lợi kinh tế, quyền lực chính trị, uy tín xã hội đều bắt nguồn từ cấu trúc giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển trong xã hội . Đồng thời, đấu tranh giai cấp sẽ tạo ra những điều kiện xoá bỏ giai
cấp cũng như các nguyên nhân tạo nên bất bình đẳng và phân tầng xã hội. 13
d. L$ thuyết dung hoà
Theo Lenski: Trong xã hội, luôn có những động cơ thôi thúc người ta chiếm giữ các vị trí xã hội, đồng thời, cũng diễn ra các quá trình mâu thuẫn, xung đột và tranh giành quyền thống trị, từ đó sinh ra bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội.
Theo Max Weber, phân tầng xã hội không chỉ dựa vào giá trị địa vị xã hội, cũng như quan hệ kinh tế không phải là yếu tố đầu tiên và chủ yếu để giải thích ( như Marx), đó chỉ là cách giải thích một chiều, trong khi sự vận động, biến
đổi xã hội là rất rộng lớn và phức tạp. Từ đó, ông đưa ra nguyên tắc ba chiều về phân tầng xã hội. Bên cạnh việc thừa nhận yếu tố kinh tế, ông cho rằng phân tầng và bất bình đẳng xã hội có thể dựa trên yếu tố quyền lực và uy tín xã hội của các cá nhân.
Như vậy, phân tầng xã hội tồn tại bắt nguồn từ 3 yếu tố: địa vị kinh tế (của cải, tài sản), địa vị chính trị (quyền lực) và địa vị xã hội (uy tín). Nhưng trong 3 yếu tố này, mặc dù về lý thuyết, Weber không tuyệt đối hoá yếu tố nào,
nhưng qua các lập luận và giải thích thì ông đề cao yếu tố địa vị xã hội và quyền lực chính trị. Ông nhấn mạnh rằng, bất bình đẳng có thể không dựa trên quan hệ kinh tế, nhưng dựa trên uy tín và quyền lực chính trị được huy động qua một đảng.
Đồng thời, địa vị và quyền lực chính trị có thể được hình thành từ quyền lực kinh tế nhưng không phải là tất yếu, ngược lại, quyền lực kinh tế có thể có từ quyền lực chính trị và địa vị xã hội.
Xét riêng về quyền lực kinh tế, nếu Marx đề cao quyền sở hữu tư liệu sản xuất – là yếu tố chủ yếu hình thành giai cấp và bất bình đẳng trong xã hội tư bản thì Max Weber lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thị trường (khả năng
chiếm lĩnh thị trường của người lao động) và coi đây là nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản. Thị trường kỹ năng gắn liền với cơ may đời sống của người lao động tạo ra hoàn cảnh giai cấp của các nhóm xã
hội. Những người có khả năng thị trường tương tự và do đó, có cơ may đời sống tương tự hợp thành giai cấp nhất định.
Tóm lại, theo Weber, phân tầng xã hội là một hệ thống xếp hạng cấp bậc các nhóm người vào những vị trí xác định, liên quan đến của cải (tài sản), quyền lực chính trị, uy tín xã hội. Hệ thống này là một cơ cấu bất bình đẳng ổn định
bền vững qua các thế hệ.
2.5.Đặc điểm của phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội có phạm vi phổ quát
Phân tầng xã hội tồn tại dai dẳng theo thời gian, năm, tháng
Phân tầng xã hội tồn tại trong tất cả các nhóm dân cư, các giai cấp, các tầng lớp xã hội
Phân tầng xã hội được duy trì một cách bền vững do điều kiện vật chất, do thể chế chính trị và do cả yếu tố
Chương 7: NHÓM XÃ HỘI – THIẾT CHẾ XÃ HỘI 1. Nhóm xã hội
1.1. Khái niệm nhóm xã hội
Nhóm xã hội là một phạm trù nghiên cứu quan trọng của xã hội học, bởi vì, các mối quan hệ giữa các cá nhân trong thực tế chính là quan hệ giữa các nhóm xã hội. Hơn nữa, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn được gắn vào
nhóm theo nhiều cách thức đa dạng và trong thực tiễn xã hội, chúng ta tin tưởng vào các quyết định của nhóm hơn là những quyết định cá nhân. [Erich H. Witte/Elisabeth Ardelt:303]
Nhóm được định nghĩa như sau::
Nhóm xã hội là một tập hợp người liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, những nhu cầu, lợi ích và những định hướng giá trị nhất định.
Khi tham gia vào nhóm, cá nhân thiết lập những liên hệ xã hội của mình với các cá nhân khác và với tập thể. Các thành viên trong nhóm tương tác với nhau theo cách, mỗi người đều gây ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi người khác
về quan điểm, giá trị, chuẩn mực....
Mỗi cá nhân gắn bó với nhóm thể hiện qua việc tiếp nhận những đặc trưng cơ bản như lợi ích, nhu cầu, chuẩn mực, giá trị....Những đặc trưng của nhóm sẽ giúp cá nhân ý thức được những đặc điểm chung nhất định với những thành
viên khác của nhóm, tức là có được cảm giác “chúng ta”.
Đây là điểm để phân biệt nhóm này với nhóm khác và là một chỉ báo đặc trưng về sự gắn bó chặt chẽ với một nhóm xã hội nào đó của cá nhân. Do đó, nhóm xã hội luôn có mối liên hệ hữu cơ bên trong, những liên hệ trên cơ sở những
lợi ích, đòi hỏi phải cùng cộng tác và chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau.
Khi tìm hiểu về nhóm, chúng ta cần phân biệt nhóm xã hội với đám đông. Điểm giống nhau giữa nhóm xã hội và đám đông là, cùng là một tập hợp người nhất định, liên hệ với nhau theo một cách nào đó nhưng đám đông chỉ là một
tập hợp người ngẫu nhiên, đơn thuần, không có mối liên hệ nào bên trong.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của nhóm xã hội
Đặc trưng cơ bản của nhóm là sự thống nhất về tinh thần, tình cảm, mục đích và phương thức hoạt động của nhóm. Bên cạnh đó, còn có thể kể đến những đặc trưng sau:
- Tư cách thành viên: tuỳ các nhóm khác nhau mà có quy định khác nhau hoặc các nhóm khác nhau có thể có những quy định giống nhau (như về giới, nghề nghiệp, tuổi tác)...
- Địa vị: là vị trí của các thành viên trong nhóm. Trong cơ cấu của đa số các nhóm, thường có thủ lĩnh và các thành viên.
- Vai trò: những ứng xử gắn liền với địa vị của mỗi thành viên trong nhóm.
- Giá trị, mục tiêu mà nhóm theo đuổi: Liên quan đến lợi ích và sự hoàn thành công việc của nhóm.
- Chuẩn mực: những quy tắc ứng xử trong nhóm, bắt buộc mọi thành viên phải tuân theo.
- Chế tài: bao gồm khen thưởng (nếu tuân thủ tốt) và sự trừng phạt mang tính cưỡng chế.
1.3. Phân loại nhóm xã hội
Có rất nhiều tiêu chí được sử dụng để phân loại nhóm, thông thường, người ta hay đề cập đến các tiêu chí sau:
a. Căn cứ vào số lượng thành viên tham gia
Nhóm nhỏ: là một tập hợp ít người. Ví dụ: nhóm gia đình, nhóm bạn bè, lớp học, đội thể thao, đội sản xuất, phòng ban nơi làm việc….
Nhóm lớn: là tập hợp đông người. Ví dụ: nhóm dân tộc, giai cấp, đảng phái chính trị, tổ chức tôn giáo, các tổ chức xã hội….
b. Căn cứ vào tính chất liên kết trong nhóm
Nhóm sơ cấp: các thành viên có quan hệ trực diện, gần gũi với nhau theo huyết thống, tình cảm, sở thích. Ví dụ: gia đình, họ hàng, các nhóm theo sở thích như bạn bè, câu lạc bộ…. 14
Nhóm thứ cấp: có số lượng thành viên lớn, quan hệ với nhau một cách gián tiếp bởi các quy định, điều lệ chung do nhóm đặt ra. Ví dụ: các đoàn thể xã hội như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội
phụ nữ, các tập đoàn kinh tế lớn...
c. Căn cứ vào hình thức biểu hiện mối liên hệ giữa các thành viên trong nhóm
Nhóm chính thức: là nhóm có cơ chế vận hành thông qua luật pháp và các sơ đồ, kế hoạch. Hoạt động của các thành viên và vai trò cá nhân được xác định thông qua những điều lệ và quy tắc nhất định.
Nhóm không chính thức: được hình thành từ các quan hệ tự phát, các thành viên của nhóm có thủ lĩnh riêng và quan hệ theo những luật lệ không thành văn nhưng được họ tán đồng, tự nguyện và trung thành..
d. Căn cứ vào cách thức gia nhập nhóm:
Nhóm tự nguyện và nhóm áp đặt.
Nhóm tự phát và nhóm có tổ chức.
Mỗi loại nhóm đều có cơ cấu riêng với những nội dung của nó. Trong đó có sự phân công về chức năng, thứ bậc, mức độ tương tác... Đặc điểm chung của cơ cấu tất cả các nhóm là bao giờ cũng phải có thủ lĩnh, được xác định bởi uy
tín của cá nhân đối với nhóm.
1.4.Thủ lĩnh nhóm xã hội
Có hai loại thủ lĩnh là:
Thủ lĩnh công vụ: là thủ lĩnh được bầu một cách công khai dựa trên sự lựa chọn của các thành viên của nhóm.
Thủ lĩnh tinh thần: là người được các thành viên trong nhóm tôn trọng và ngầm thừa nhận
2. Thiết chế xã hội
2.1. Khái niệm thiết chế xã hội
Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải dựa vào thiết chế xã hội để tổ chức, điều chỉnh và kiểm soát các hoạt động xã hội của các cá nhân, các nhóm xã hội và toàn thể xã hội nói chung. Vậy thiết chế xã hội là gì?
Thiết chế xã hội là một tập hợp bền vững của các giá trị, chuẩn mực, vị thế, vai trò và nhóm, vận động xung quanh những nhu cầu cơ bản của xã hội.
Thiết chế xã hội bao gồm một hệ thống các cách thức, các quy tắc chính thức và phi chính thức, được con người tạo ra để điều chỉnh hành vi, hoạt động của các cá nhân, các nhóm, các tổ chức nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định
của xã hội. Xã hội sử dụng thiết chế nhằm quyết định “cái gì phải làm” về lâu dài. Vì vậy, thiết chế xã hội hạn chế sự chuyên quyền, tuỳ tiện của hành động xã hội, chúng tạo cho tồn tại đặc tính hình thể, xếp đặt nó và tạo ra tác động chuẩn mực.
Với ý nghĩa đó, thiết chế xã hội được coi là một đoạn của văn hoá đã được khuôn mẫu hoá (J.Fichter).
Theo các nhà xã hội học, thiết chế xã hội nảy sinh, tồn tại và phát triển là do nó đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhu cầu xã hội là lý do hình thành và là mục đích tồn tại của thiết chế xã hội. Lenski và Lenski (1970) cho rằng, trong mọi xã
hội bao giờ cũng có những nhu cầu cơ bản mà việc thoả mãn chúng có ý nghĩa sống còn đối với bản thân xã hội, cụ thể như: nhu cầu giao tiếp giữa các thành viên, nhu cầu sản xuất và sản phẩm dịch vụ, nhu cầu phân phối các sản
phẩm và dịch vụ hàng, nhu cầu bảo vệ các thành viên khỏi tác động của thiên nhiên (như thiên tai), bệnh tật và các nguy hiểm khác; nhu cầu thay thế các thành viên (cả tái sinh sản sinh học và thay thế văn hoá thông qua quá trình xã
hội hoá); nhu cầu kiểm soát hành vi của các thành viên. Việc thoả mãn các nhu cầu trên tạo thành các thiết chế xã hội cơ bản.
Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn xảy ra sự nhầm lẫn khi cho rằng thiết chế xã hội là một tổ chức xã hội, bởi vì, mặc dù khái niệm thiết chế xã hội rất trừu tượng, nhưng bản thân thiết chế lại hữu hình tương tự như một tổ chức xã hội hay
một nhóm xã hội. Do đó, cần phải phân biệt thiết chế xã hội với tổ chức xã hội.
- Tổ chức là một tập hợp người thực hiện những hoạt động nhất định nhằm đạt được mục tiêu xác định. Vì vậy, tổ chức xã hội không phải là thiết chế xã hội mà là chủ thể của những hành động bị thiết chế xã hội điều chỉnh. Tổ chức
xã hội không thể hoạt động được nếu thiếu thiết chế xã hội.
- Tổ chức xã hội gắn liền với thiết chế xã hội giống như những người tham gia cuộc chơi phải tuân thủ luật chơi. Luật chơi ở đây là các quy phạm, giá trị, chuẩn mực chính thức và phi chính thức (tức là thiết chế).
2.2. Một số đặc điểm của thiết chế xã hội
- Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường biến đổi chậm. Bởi vì thiết chế hình thành trên cơ sở của một hệ thống các giá trị, chuẩn mực lâu đời và khá bền vững. Bởi vậy, khi đã tạo thành khuôn mẫu hành vi trong thiết chế thì
nó khó thay đổi (trở thành truyền thống văn hoá).
- Mỗi một thiết chế có đối tượng riêng để hướng tới phục vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu xã hội chuyên biệt liên quan tới đối tượng đó. Vì vậy, thiết chế có tính độc lập tương đối, tự nó được cấu trúc ở mức cao và được tổ chức xung
quanh một hệ thống giá trị, quy tắc, khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận. Ví dụ, thiết chế thể thao bao gồm hệ thống sân vận động, nhà thi đấu, vận động viên, huấn luyện viên, cổ động viên, bộ máy hành chính….gắn liền với các giá
trị và chuẩn mực đối với vai trò của vận động viên (thi đấu trung thực, không sử dụng đophing….), cổ động viên (không có những hành động quá khích, phi thể thao)….
- Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Khi có sự thay đổi về cơ cấu tổ chức hay khuôn mẫu hành vi của một thiết chế xã hội nào đó thì nó thường kéo theo sự thay đổi của các thiết chế khác. Ví dụ, khi thiết chế chính trị có
sự thay đổi về giai cấp cầm quyền thì nó sẽ ảnh hưởng đến các thiết chế khác phụ thuộc vào nó như thiết chế kinh tế, thiết chế pháp luật, thiết chế giáo dục…..
- Các thiết chế có xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội chủ yếu. Bất cứ một sự đổ vỡ nào đó của một thiết chế xã hội cũng đều trở thành những vấn đề xã hội nghiêm trọng. Ví dụ: Nạn thất nghiệp (thiết chế kinh tế),
tình hình tội phạm gia tăng (thiết chế pháp luật), tỷ lệ ly hôn cao (thiết chế gia đình)...
2.3. Chức năng của thiết chế xã hội
Sự tồn tại của mọi xã hội, tính ổn định và phát triển của nó sẽ không thể có được nếu không có sự quản lý và kiểm soát xã hội. Thiết chế xã hội thực hiện sự kiểm soát và quản lý để đảm bảo cho cái đáng có và ngăn chặn cái lệch lạc.
Vì vậy, bất cứ thiết chế xã hội nào cũng có 2 chức năng cơ bản:
- Chức năng quản lý: nhằm khuyến khích, điều chỉnh, điều hoà hành vi của con người cho phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của thiết chế. Ví dụ: trong thiết chế gia đình, con cái phải ngoan ngoãn, hiếu thảo, vâng lời bố mẹ…;
trong thiết chế giáo dục, học sinh phải đi học đúng giờ, khi thi cử không được sử dụng tài liệu trong khi thi…..
- Chức năng kiểm soát: nhằm ngăn chặn, giám sát, thậm chí trừng phạt những hành vi sai lệch so với các chuẩn mực, đòi hỏi của thiết chế hoặc không chịu tuân thủ thiết chế. Ví dụ: vi phạm chế độ một vợ một chồng trong thiết chế
gia đình, sử dụng đophing trong khi thi đấu của thiết chế thể thao; gian lận trong thi cử cảu thiết chế giáo dục…
Như vậy, thiết chế là công cụ để định hướng, điều chỉnh, điều hoà, quản lý và kiểm soát hành vi xã hội của con người. Nhờ có thiết chế, con người có thể có những hành động phù hợp căn cứ vào chuẩn mực, quy phạm. Đồng thời, nó
cũng là công cụ trừng phạt đối với những sai lệch, vi phạm chuẩn mực. Nếu không tuân thủ thiết chế sẽ bị xử phạt theo 2 hình thức: 15
Hình phạt chính thức: các hình phạt của thiết chế pháp luật như cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, từ chung thân và nếu hành vi vi phạm thật sự gây nguy hiểm cho xã hội thì sẽ bị tử hình (loại bỏ cá nhân đó khỏi xã hội)..
Hình phạt phi chính thức: các hình phạt của thiết chế đạo đức và dư luận xã hội.
Có thể nói, các thiết chế đảm bảo cho cá nhân có những ứng xử xã hội được chấp nhận trong nhiều trạng thái xã hội khác nhau. Sự thừa nhận hay không thừa nhận của xã hội đối với khuôn mẫu ứng xử được phản ánh đến từng cá
nhân thông qua hoạt động của thiết chế. Vì vậy, thiết chế mang lại cảm giác yên tâm và an toàn cho các cá nhân tuân thủ nó, vì nó chính là cái mà xã hội cho là đúng, là chuẩn. Thực hiện theo nó, tức là thực hiện theo số đông. Chỉ
những người không thực hiện theo thiết chế xã hội mới cảm thấy bất an vì bị xã hội lên án.
2.4. Các loại thiết chế xã hội
- Thiết chế gia đình: điều hoà hành vi, tình cảm, tình dục và nuôi dạy con cái.
- Thiết chế giáo dục: truyền thụ những tri thức khoa học nói chung.
- Thiết chế kinh tế: đảm bảo quá trình sản xuất, phân phối lợi ích và các dịch vụ
- Thiết chế chính trị: bảo đảm việc thiết lập và giữ vững quyền lực chính trị.
- Thiết chế pháp luật: đảm bảo trật tự, công bằng xã hội và kiểm soát xã hội.
- Thiết chế tôn giáo: thoả mãn nhu cầu tâm li
Chương 8: XÃ HỘI HÓA CÁ NHÂ
Khái niệm xã hội hóa
Khái niệm xã hội hoá hiện nay được dùng với hai nội dung. Thứ nhất, xã hội hoá chỉ sự tăng cường chú ý quan tâm của xã hội đến những vấn đề, sự kiện cụ thể nào đó của xã hội mà trước đây chỉ có một nhóm, một bộ phận của xã
hội quan tâm như xã hội hoá giáo dục, xã hội hoá y tế....(quá trình xã hội hoá các vấn đề, sự kiện xã hội). Thứ hai, xã hội hoá dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ chỉnh thể sinh vật với đầy đủ các tiền đề tự nhiên đến một chỉnh thể
đại diện của xã hội loài người. Xã hội học quan tâm đến nội dung thứ hai, hay còn gọi là quá trình xã hội hoá cá nhân.
Một đứa trẻ sinh ra không mang sẵn bản chất xã hội, chỉ có các phản xạ bẩm sinh. Những hành động của bé lúc sơ sinh chưa có ý thức, trong quá trình phát triển về thể chất, dần dần đứa bé học được cách xử sự từ bố mẹ và những
người lớn tuổi. Quá trình hình thành ý thức trong cách ứng xử, đó là quá trình xã hội hoá.
Vậy xã hội hoá là gì? Có nhiều cách hiểu khác nhau về xã hội hoá. Căn cứ vào tính chủ động của cá nhân trong quá trình xã hội hoá, ta chia thành hai loại:
Loại 1: Cá nhân thu nhận kinh ngiệm từ xã hội và học các chuẩn mực, khuôn mẫu một cách tự nhiên mà không thể chống đối lại được. (cá nhân ít tính chủ động trong quá trình xã hội hoá).
Ví dụ: Một đứa trẻ được cha mẹ dạy cho cách ăn uống, tư thế ngồi ăn, cách giao tiếp như khi ai cho cái gì phải xin phép....Nếu không làm đúng lời dạy bảo thì sẽ bị khiển trách.
Như vậy, mỗi cá nhân được xã hội mặc cho một chiếc áo văn hoá phù hợp theo cách nhìn của xã hội ở từng nơi, từng thời điểm, từng giai đoạn của cuộc sống và cá nhân không có quyền tự lựa chọn chiếc áo văn hóa đó. Tức là, con
người bị giám sát chặt bằng các quy định của xã hội.
Loại 2: Cá nhân không chỉ tiếp thu những kinh nghiệm xã hội mà còn tham gia vào quá trình tạo ra các kinh nghiệm xã hội (khẳng định tính tích cực, sáng tạo của cá nhân trong quá trình xã hội hoá). “Bản thân xã hội sản xuất ra con
người với tư cách là con người như thế nào thì con người cũng sản xuất ra xã hội như thế” – Karl Marx
Qua hai cách giải thích trên, ta thấy, con người có cả hai mặt: vừa thụ động vừa chủ động, sáng tạo và tích cực. Vì vậy, xã hội, một mặt truyền lại cho họ những khuôn mẫu, chuẩn mực trong hành vi, song mặt khác, cũng tạo điều kiện
cho họ phát huy được tính chủ động, tích cực trong công cuộc xây dựng xã hội văn minh, lành mạnh. [Nguyễn Thế Phán, Giáo trình Xã hội học 2002:125]
Từ hai cách hiểu này mà có nhiều khái niệm xã hội hoá khác nhau.
- Neil Smelser (Mỹ): Xã hội hoá là quá trình, trong đó các cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình để phục vụ tốt cho việc thực hiện các mô hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình.
Ở đây, vai trò cá nhân chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh nghiệm, giá trị, chuẩn mực mà chưa đề cập đến khả năng sáng tạo của cá nhân để xã hội học theo. Trong lịch sử, có những nhân cách lớn tạo ra hàng loạt những chuẩn
mực, giá trị.... được thừa nhận trong một quốc gia, thậm chí cả thế giới.
- Fichter (Mỹ): Xã hội hoá là một quá trình tương tác giữa người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và sự thích nghi với những khuôn mẫu.
- Andreeva (Nga): Xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào xã hội, vào hệ thống xã hội; mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách có chủ động các mối quan hệ thông
qua việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các quan hệ xã hội.
- Xã hội hoá là quá trình thích ứng và cọ sát với các giá trị, chuẩn mực và hình mẫu hành vi xã hội mà trong quá trình đó, một thành viên xã hội tiếp nhận và duy trì khả năng hoạt động xã hội [Từ điển Xã hội học, NXB Thế giới 2002:571].
Như vậy, cá nhân trong quá trình xã hội hoá không đơn thuần thu nhận kinh nghiệm xã hội, mà còn chuyển hoá nó thành các giá trị, tâm thế, xu hướng của cá nhân để tham gia tái tạo, tái sản xuất chúng trong xã hội. Mặt thứ nhất của
quá trình xã hội hoá là sự thu nhận kinh nghiệm xã hội, thể hiện sự tác động của môi trường tới con người. Mặt thứ hai của quá trình này thể hiện sự tác động của con người trở lại môi trường thông qua hoạt động của mình.
Mặc dù có nhiều quan điểm, nhưng các nhà khoa học đều thống nhất ở một điểm. Đó là, xã hội hoá là một quá trình: có bắt đầu, có diễn biến và có kết thúc. Là quá trình mà qua đó, cá nhân học hỏi, lĩnh hội nền văn hoá của xã hội
như các khuôn mẫu; là quá trình mà nhờ nó, cá nhân đạt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử phù hợp với vai trò xã hội của mình, hoà nhập vào xã hội.
Các giai đoạn của quá trình xã hội hoá
Khi bàn về các giai đoạn của quá trình xã hội hoá, có nhiều quan điểm, nhiều trường phái và họ đều có sự đánh giá khác nhau về tầm quan trọng của từng giai đoạn. Sau đây là phân đoạn của một số tác giả:
2.1 Phân đoạn quá trình xã hội hóa của G.Mead ( Nhà xã hội học người Mỹ)
Theo Mead, quá trình xã hội hóa trải qua ba giai đoạn chính:
Bắt chước: Đây là giai đoạn mà con người sao chép hành vi của người khác một cách bị động hoặc chủ động
Đóng vai: Đây là giai đoạn mà con người đã nhận thức được những hành vi tưởng ứng với vai trò xã hội nhất định, đặc biệt là các vai trò trong phạm vi quan sát được...Giai đoạn này giúp cho con người hiểu được những suy nghĩ và
hành động của người khác khi họ thực hiện vai trò của mình, phân tích và phán xử hành vi của họ để tạo thành kinh nghiệm xã hội cho các nhân mình.
Trò chơi: Giai đoạn này con người cần phải biết được sự đòi hỏi không phải chỉ một cá nhân nào đó mà là của xã hội nói chung. Giai đoạn này đã giúp cho con người thấy rõ được cái tôi chủ động,cái tôi bị động và cái chúng ta, phân
biệt rõ mình, người khác và cộng đồng. Đây là cơ sở để con người hòa chung vào cuộc sống cộng đồng. 16
Phân đoạn quá trình xã hội hóa của G. Andreeva ( nhà xã hội học người Nga)
Andreeva đã phân chia quá trình xã hội hóa thành ba giai đoạn là giai đoạn trước lao động, giai đoạn trong lao động và giai đoạn sau lao động
- Giai đoạn trước lao động: Bao gồm toàn bộ thời kỳ từ lúc con người được sinh ra cho đến khi họ bắt tay vào lao động. Giai đoạn này gồm hai giai đoạn nhỏ là:
Giai đoạn trẻ thơ là giai đoạn mà đứa trẻ tiếp thu một cách thụ động và máy móc các hành vi và là giai đoạn vui chơi ở nhà hoặc vườn trẻ, nhà mẫu giáo. Giai đoạn này từ lúc trẻ sinh ra đến lúc đi học.
Giai đoạn học hành là giai đoạn đứa trẻ tiếp nhận trí thức và kỹ năng lao động. Vì vậy giai đoạn này đứa trẻ đã có sự tiếp nhận các hành vi một cách có mục đích, có ý thức. Đứa trẻ càng lớn lên thì càng bộc lộ hành vi tiếp nhận có
chọn lọc để tự hình thành cho mình năng lực hành vi riêng.
- Giai đoạn lao động: Bắt đầu từ khi cá nhân tham gia lao động và kết thúc khi không tham gia lao động (về hưu). Giai đoạn này, cá nhân vừa tiếp thu kinh nghiệm xã hội, vừa tích lũy kinh nghiệm cá nhân, vừa bộc lộ năng lực hành
vi trong các hoạt động hàng ngày. Giai đoạn này được đánh giá là vô cùng quan trọng trong quá trình xã hội hóa vì một số lý do sau:
Con người tiếp thu, củng cố, phát triển các tri thức, kinh nghiệm xã hội để nâng cao năng lực hành vi cá nhân.
Lao động đã giúp cho con người hiểu rõ được cái tôi và cái chúng ta để sống hòa
đồng vào cộng đồng xã hội.
Lao động là quá trình thể hiện năng lực hành vi cá nhân có ích cho xã hội và tham gia đóng góp, xây dựng xã hội phát triển.
Lao động thể hiện rõ vai trò của cá nhân trong xã hội, là cơ sở để đánh giá và củng cố năng lực hành vi cá nhân.
Giai đoạn sau lao động: Đó là khi cá nhân kết thúc quá trình lao động của mình, về nghỉ hưu. Hiện nay có hai quan niệm trái ngược nhau ở giai đoạn này. Có quan niệm cho rằng khái niệm xã hội hóa hoàn toàn không có ở giai đoạn
này vì các chức năng xã hội của nó bị thu hẹp lại. Tức là không có chuyện người già tiếp thu kinh nghiệm xã hội, hay thậm chí sản xuất ra nó. Quan niệm thứ hai cho rằng cần phải nhìn nhận một cách tích cực đối với quá trình xã hội
hóa ở giai đoạn này, bởi vì xã hội hiện đại ngày nay đã kéo dài tuổi tho của con người và đồng thời cũng tạo ra các điều kiện phát huy tính tích cực xã hội của người già. Nhiều người già đóng vai trò quan trọng trong việc tái tạo các
kinh nghiệm xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khoa học kỹ thuật thay đổi nhanh chóng, thông tin được phổ biến rộng rãi có tính chất quốc tế, đòi hỏi xã hội phải tái tạo các kinh nghiệm xã hội và truyền đạt những kinh
nghiệm, những giá trị cho thế hệ trẻ.
Tuy còn tồn tại nhiều cách phân đoạn khác nhau dựa trên nhiều căn cứ khác nhau nhưng các nhà xã hội học gần như thống nhất với nhau về ba giai đoạn của quá trình xã hội hoá.
- Giai đoạn xã hội hoá ban đầu của trẻ trong gia đình.
- Giai đoạn xã hội hoá diễn ra trong nhà trường.
Giai đoạn con người thực sự bước vào đời để đảm nhận vai trò mà hai giai đoạn trước đã được chuẩn bị đầy đủ. Lúc này, cá nhân thực hiện một lúc nhiều vai trò khác nhau trong các nhóm xã hội và trong toàn xã hội: làm chồng, làm
vợ hay trở thành cán bộ công chức nhà nước....Chính giai đoạn này, con người có thể tự lập hoàn toàn trong suy nghĩ và hành động, cá nhân phát huy khả năng sáng tạo của mình nhiều nhất, do đó khả năng cống hiến cho xã hội là cao nhất
Ranh giới giữa các giai đoạn này không phải lúc nào cũng rõ ràng, mà chỉ mang tính ước lệ. Vì trong thực tế, cá nhân có thể đã đi làm, đã có gia đình nhưng vẫn tiếp tục học tập và có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ quan hay
trong quan hệ vợ chồng, họ vẫn tìm đến cha mẹ để tìm một lời khuyên. Như vậy, quá trình xã hội hoá chỉ chấm dứt khi cuộc sống của chúng ta chấm dứt mà thôi.
2.2 Môi trường Xã hội hoá
Là nơi cá nhân có thể thực hiện thuận lợi các tương tác xã hội của mình, nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội. Dù có bản chất xã hội và tiền đề tự nhiên phù hợp, con người có thể không trở thành một nhân
cách hoàn thiện, nếu không được đặt trong môi trường thích hợp. Vì vậy, xã hội hoá nghiên cứu xem với tư cách là điều kiện và các yếu tố cấu thành, cơ cấu và quá trình xã hội, văn hoá, kinh tế và sinh thái có tác dụng bằng cách nào
và ở mức độ nào tới sự phát triển nhân cách con người.
Môi trường xã hội hoá thể hiện trong nhiều nhóm xã hội. Trong đó, có những nhóm cơ bản sau:
Môi trường gia đình
Gia đình không chỉ tái sản xuất ra con người về mặt thể chất mà còn tái sản xuất ra đời sống tình cảm, tâm hồn, văn hóa, tức là xã hội hóa-quá trình biến đứa trẻ từ một sinh vật người thành con người xã hội.
Gia đình là môi trường vi mô có vai trò quan trọng nhất trong giai đoạn xã hội hóa ban đầu. Thực tế, hầu hết những đứa trẻ sống không có gia đình, do thiếu sự giáo dục răn dạy cho nên những đứa trẻ dễ bị hư hỏng, vì chúng hấp thu
những thói hư tật xấu trong xã hội. Tuy nhiên, không phải những đứa trẻ có gia đình đầy đủ , bố mẹ đều là những đứa trẻ ngoan.
Trong mỗi gia đình đều có một tiểu văn hoá, được xây dựng trên nền tảng văn hoá chung, nhưng với những đặc thù riêng của từng gia đình, được quy định bởi nền giáo dục gia đình, truyền thống, lối sống của gia đình mà cá nhân sẽ
tiếp nhận những văn hoá không giống nhau. Những quy tắc ứng xử, các giá trị, kinh nghiệm sống... đầu tiên con người tiếp nhận từ chính các thành viên trong gia đình, từ đó, tạo thành những đặc điểm nhân cách khá riêng biệt.
Xã hội hóa của gia đình diễn ra suốt cả cuộc đời con người với tư cách là một quá trình liên tục. Gia đình tham gia vào tất cả các giai đoạn xã hội hoá trong chu trình sống của con người. ở giai đoạn nào vai trò của gia đình cũng thể hiện rất rõ
Giai đoạn tuổi ấu thơ ,Giai đoạn tuổi mẫu giáo nhi đồng ,Lứa tuổi thiếu niên ,Lứa tuổi trưởng thành ,Giai đoạn chuẩn bị kết hôn và làm cha làm mẹ ,Giai đoạn bước sang tuổi già
,Giai đoạn cuối cùng của chu trình sống là chuẩn bị đón cái chết
Giai đoạn tuổi ấu thơ
- Gia đinh là môi trường xã hội hóa đầu tiên của đứa trẻ.
- Chỉ sau khi sinh ra không lâu, trẻ sơ sinh đã hướng về thế giới xung quanh và bắt đầu quá trình học hỏi.
- Các giác quan của trẻ hoạt động thể hiện ở các cảm giác nghe, nhìn, ăn uống, cảm giác nóng lạnh.
- Sự tham gia của các thành viên trong gia đình (mẹ, bố) như cho ăn, tắm rửa, thay tã lót, bế, ru trẻ v.v…và cách thức chăm sóc của họ như giờ giấc ăn, ngủ, tập ăn những thức ăn ngoài sữa mẹ…đã giúp trẻ đào luyện các thói quen.
- Ở giai đoạn này gia đình hầu như là môi trường xã hội hóa và tác nhân xã hội hóa duy nhất
Giai đoạn tuổi mẫu giáo, nhi đồng
- Cùng với việc đào luyện các thói quen, trẻ bắt đầu tập đóng các vai trò của người lớn, chúng mô phỏng hoạt động và quan hệ xã hội của người lớn thông qua các trò chơi. Ở giai đoạn này trẻ bắt đầu có những mối quan hệ với xã hội
bên ngoài như bạn chơi, bạn học, thầy cô giáo. 17
- Trẻ bắt đầu chịu ảnh hưởng của ti vi, phim ảnh, các phương tiện truyền thông đại chúng...Gia đình có vai trò quan trọng trong việc tổ chức và hướng dẫn các hoạt động của trẻ: chơi với ai, cách chào hỏi, mời ăn, xem sách gì, học
trường nào, bao giờ được xem TV và chương trình nào,..
- Gia đình giúp trẻ nhận thức được cái đúng, cái sai, cái được phép và cái không được phép bằng cách khuyến khích, động viên, khen ngợi khi trẻ làm đúng, hoặc ngăn cấm, không bằng lòng khi trẻ làm không đúng, làm cho trẻ có
cảm giác tội lỗi và xấu hổ khi vi phạm quy tắc; giúp trẻ hình thành ý thức trách nhiệm thông qua các việc làm cụ thể.
Giai đoạn tuổi thiếu niên
Trẻ em tiếp xúc đa dạng với thế giới xung quanh, bước đầu hình thành những giá trị, chuẩn mực, thiết lập quan hệ với những người xung quanh trước hết là với những người trong gia đình, thử sức trong các quan hệ xã hội, tiến tới
hình thành nhân cách độc lập
Ở giai đoạn này gia đình giúp đỡ và cung cấp cho các em những kinh nghiệm xã hội trong quan hệ và ứng xử với những người xung quanh, động viên, thông cảm, nâng đỡ các em khi thất bại và nản trí, giúp các em những kiến thức,
hiểu biết cần thiét để tự chủ ở giai đoạn dậy thì khi cơ thể có những thay đổi lớn
Giai đoạn tuổi trưởng thành
Cá nhân phát triển bản sắc cái tôi, hình thành những kinh nghiệm xã hội ổn định, chuẩn bị bước vào những nhóm làm việc, những tổ chức xã hội hay cộng đồng mới. Ở giai đoạn này, xã hội hóa sơ cấp hầu như đã hoàn thành, nhân
cách về cơ bản đã hình thành.
Gia đình giúp cá nhân đã trưởng thành trả lời được 3 câu hỏi:
làm nghề gì để kiếm sống (định hướng nghề nghiệp);
theo lối sống nào (định hướng giá trị);
yêu ai (định hướng hôn nhân)
Giai đoạn chuẩn bị kết hôn và làm cha mẹ
Vai trò của người vợ, người chồng, người mẹ, người cha đã được nhận thức từ trong gia đình qua cách ứng xử của cha mẹ đối với nhau.
Gia đinh tạo cho cá nhân động cơ và mong muốn đi tới kết hôn và giúp cho các cá nhân biết cách ứng xử khi họ kết hôn.
Một người trước khi bước vào hôn nhân thường đã quan sát hôn nhân của cha mẹ trong một thời gian dài.
Các vai trò hôn nhân được học hỏi chủ yếu từ các vai trò thể hiện trong hôn nhân của cha mẹ.
Mô hình hôn nhân của cha mẹ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc xã hội hóa vai trò hôn nhân và làm cha mẹ cho con cái.
Giai đoạn bước sang tuổi già
Người trẻ tuổi có thể hình dung được cuộc sống của mình khi bước sang tuổi già sẽ diễn ra như thế nào chính là nhờ quan sát cuộc sống của những người già trong gia đình. Gia đình giúp mỗi người đương đầu được với tuổi già
và cái chết. Do biết cuộc sống của người già trong gia đình mà người ta đã biết già đi một cách đẹp đẽ.
Giai đoạn cuối cùng của chu trnh sống: chuẩn bị đón cái chết
Gia đình cũng đã giúp cho các thành viên của mình đi đến tiếp nhận cái chết một cách thanh thản hơn vì họ đã có dịp chứng kiến cái chết của nhiều người thân khác. Những nghi lễ của các đám tang có ý nghĩa đối với người sống
nhiều hơn là đối với người chết.
Gia đình giúp cá nhân khắc phục được tâm trạng buồn rầu, cô đơn vì người ta nói đến người đã mất một cách tự nhiên trong mối quan hệ với những người đang sống làm cho cái tang trở nên bình thường.
Sự thương tiếc và thờ cúng của gia đình đối với những người đã chết khiến cho các cá nhân dễ dàng chấp nhận cái chểt của mình hơn khi họ biết rằng dù có chết đi họ cũng vẫn được sống trong lòng người thân.
Tính chất hai chiều của xã hội hóa
Xã hội hóa không chỉ cần thiết đối với con cái, đối với trẻ em mà còn cần thiết đối với bố mẹ và người lớn tuổi.
Xã hội hóa không chỉ gồm những điều cha mẹ truyền cho con cái mà còn cả những điều con cái mang lại cho cha mẹ mình.
Quá trình tương tác giữa cha mẹ và con cái có thể làm thay đổi những chuẩn mực ứng xử, cách thức, phương thức quan hệ do lớp trẻ tiếp cận nhanh chóng hơn với sự đổi mới về văn hóa và hệ thống giá trị, không dừng lại ở tiếp
thu những chuẩn mực và giá trị của những thế hệ trước đây.
Quá trình xã hội hóa trở lại rất dễ dàng nhận thấy ở những xã hội đang diễn ra những sự biến đổi mạnh mẽ.
2.3.2 Môi trường trường học
Vườn trẻ, nhà mẫu giáo là nơi những đứa trẻ vui chơi và học tập. Đây là những hoạt động bước đầu của con người với xã hội. Thông qua hoạt động này, trẻ em đã thu nhận những kiến thức ban đầu về ý thức trách nhiệm và xã
hội. Cũng tại đó, qua giao tiếp, chúng dần dần hình thành các mối quan hệ xã hội, hoà nhập vào đời sống xã hội.
Trong các trường học, hoạt động chủ đạo của cá nhân là học tập, các cá nhân thu nhận những kiến thức khoa học cơ bản về tự nhiên và xã hội, các kiến thức văn hoá chủ yếu làm nền tảng cho cuộc sống sau này. Những kiến thức
này, sẽ phục vụ đắc lực cho việc thực hiện vai trò mà cá nhân cần phải đóng trong tương lai.
Nhưng dưới sự nhìn nhận của các nhà xã hội học, khi trẻ đến trường, nó không chỉ học các kiến thức mà còn học cả những quy tắc và những cách thức xác định hành vi. Như học cách làm sao có quan hệ tốt hơn với bạn bè, thầy
cô giáo, sao cho mọi người đều yêu mến và chấp nhận mình. Vì vậy, trong giai đoạn này, cá nhân thực hiện rất nhiều tương tác và nhiều quan hệ xã hội của họ cũng được thiết lập.
2.3.3 Các nhóm thành viên
Đó là các nhóm mà cá nhân là thành viên. Các nhóm này có ý nghĩa quan trọng trong việc cá nhân thu nhận các kinh nghiệm xã hội theo con đường chính thức và không chính thức, đặc biệt là nhóm bạn bè có chức năng là thỏa
mãn nhu cầu giao tiếp, nhu cầu giải trí giữa các cá nhân. Tuy nhiên, trong thực tế, quan hệ giữa các nhóm xã hội cũng là tác nhân quan trọng ảnh hưởng nhiều đến quá trình xã hội hóa
Quan hệ bạn bè là quan hệ bình đẳng, cùng vị thế xã hội nên các cá nhân thường dễ dàng chia sẽ thái độ, tâm tư và cảm xúc với nhau. Tác động của nhóm nhiều khi mạnh mẽ tới mức lấn át cả ảnh hưởng của gia đình và nhà
trường. Ta nhận thấy điều này trong nhóm bạn thiếu niên – thanh niên (tức giai đoạn dậy thì) vì ở tuổi này, thanh thiếu niên thường dành phần lớn thời gian và tâm trí cho quan hệ bạn bè. Họ cùng nhau tạo nên môi trường văn hóa
riêng với những giá trị chuẩn mực và hệ ngôn ngữ riêng, khác với giá trị chuẩn mực của người lớn. Những thành viên trong nhóm, đều mong đợi cá nhân tuân thủ những chuẩn mực, khuôn mẫu của nhóm nếu chừng nào còn muốn là
thành viên của nhóm đó. Những chuẩn mực này có thể vượt ra ngoài khuôn mẫu chung của xã hội.
2.3.4 Thông tin đại chúng 18
Bao gồm sách báo, tạp chí, đài, vô tuyến truyền hình và các phương tiện thông tin khác....Các nhân tố này ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình xã hội hoá vì hiện nay, đây là phương tiện cung cấp thông tin chủ yếu của
các cá nhân. Qua đó, chúng phổ biến tư tưởng, giá trị và niềm tin mà xã hội mong muốn.
Truyền thông tác động tới trẻ ngay trước khi đi học. Ngày nay nhiều trẻ em được tiếp xúc với truyền hình trước khi được đi học và hằng ngày phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp cho một số lượng đông đảo các thành
viên xã hội những thông tin đa dạng và có tác động lớn đến suy nghĩ cũng như hành vi của họ. Truyền thông mang lại cho con người những kinh nghiệm xã hội,những mẫu văn hóa mang tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn phổ biến. Các
thành viên của xãhội đều chịu ở mức độ khác nhau do những gì mà các phương tiện truyền thông coi trọng hoặc xem nhẹ, đánh giá tích cực hay tiêu cực. Nó cũng là một kênh quan trọng để phổ biến văn hóa, giúp con người có thể
hiểu được những mẫu văn hóa, những nền văn hóa khác. Truyền thông cũng làm cho các thành viên trong một xã hội gắn kết với nhau hơn thông qua những mối quan tâm chung, những giá trị chung đặc biệt là khi có một sự kiện nổi
bật như có một thảm họa, một vinh quang mà đội tuyển quốc gia giành được hay một cuộc chiến tranh bùng nổ…
Tuy vậy, các phương tiện truyền thông cũng có những vấn đề của nó, các phương tiện này có thể làm méo mó, lệch lạc việc tiếp nhận các giá trị qua các chương trình không lành mạnh do tính thương mại hoá hoặc thiếu thận
trọng của nhà lập chương trình truyền tin, dẫn đến việc trẻ em lầm tưởng những gì được in ấn, truyền tải…đều là những thứ được xã hội thừa nhận. Vì thế, một đòi hỏi đặt ra là phải có sự kiểm duyệt có định hướng thông tin đại chúng
để loại bỏ những lệch lạc trong nhận thức xã hội của mọi người. Ngoài ra, truyền thông rất ít hoặc không mang tính tương tác,các khán thính giả không thể thảo luận hay bày tỏ thái độ trực tiếp với những người làm ra chương trình
truyền thông. Chính vì thế vượt xa rất nhiều những gì mà truyền thông đưa đến như một nguồn giải trí. Vì lý do đó, các vấn đề như quảng cáo, bạo lực, lối sống…trên các phương tiện truyền thông đại chúng thường là chủ đề gây tranh
cãi. Mặt khác, nhiều nhà xã hội học cho rằng truyền thông thể hiện ý thức hệ chủ đạo, nó có khuynh hướng thể hiện quyền lợi của phần tử ưu tú. Thông qua thời lượng cũng như cách thức những gì được chuyển tải qua các phương
tiện truyền thông, xã hội bị ảnh hưởng bởi những khuôn mẫu giá trị, cũng như quyền lợi của những nhóm thứ yếu bị xem nhẹ vì họ không nắm giữ các phương tiện truyền thông.
Như vậy, môi trường xã hội hoá có thể chia thành môi trường chính thức và phi chính thức: cá nhân thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội nhằm thực hiện tốt vai trò của mình thông qua con đường giáo dục (chính thức) và toàn bộ sự
dạy dỗ của xã hội đến cá nhân (phi chính thức).
Có thể nói, xã hội hoá là một khái niệm có tính quyết định trong xã hội học, vì nó quan tâm tới quá trình cá nhân hoà nhập vào xã hội và có được những phẩm chất xã hội mong muốn. Thực chất, đây là quá trình cá nhân dần dần nhập
tâm những giá trị và chuẩn mực xã hội đề ra để biến chúng thành giá trị, chuẩn mực của mình. Quá trình xã hội hoá được thực hiện thông qua “cá nhân hoá” các giá trị, chân lý, các quy tắc ứng xử. Vì vậy, xã hội hoá là cần thiết cho
sự hình thành cá nhân của con người, để cho con người phát triển chủ thể của xã hội. 19 20