-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Tóm tắt lý thuyết môn triết học
Tóm tắt lý thuyết môn triết học của Đại học Kiên Giang giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác Lênin (Z25005) 6 tài liệu
Đại học Kiên Giang 38 tài liệu
Tóm tắt lý thuyết môn triết học
Tóm tắt lý thuyết môn triết học của Đại học Kiên Giang giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác Lênin (Z25005) 6 tài liệu
Trường: Đại học Kiên Giang 38 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Kiên Giang
Preview text:
lOMoARcPSD| 36086670 *Nguyên tắc DVBC là gì?
Những nguyên lý của học thuyết nhận thức duy vật biện chứng. Thứ nhất là
thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý
thức con người. Đây là nguyên tắc cơ bản của học thuyết nhận thức của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. *Nguồn gốc bản chất của nhận thức
Bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật
chất khách quan bởi con người. Vì thế, chủ thể nhận thức chính là con người. *Thực tiễn là gì
Khái niệm về thực tiễn hiện nay được khá nhiều bài viết giải thích theo nhiều
cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, hiểu theo cách nào thì thực tiễn được tác giả tổng hợp như sau:
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử –
xã hội của con người nhằm cải biến thế giới khách quan.
– Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài
hoạtđộng tinh thần của con người đều là hoạt động thực tiễn.
– Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đông bản năng của động vật.
– Có tính lịch sử – xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội vàtrong
những giai đoạn lịch sử nhất định. *Theo quan niệm DT
+ Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần sáng tạo
ra thế giới của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt
động lịch sử xã hội.
+ Chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hành động
vật chất của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con buôn, đê tiện, bẩn thỉu.
Đặc trưng. Thực tiễn là những hoạt động vật chất - cảm tính của con người
hay nói khác đi là những hoạt động vật chất mà con người cảm giác được,
quan sát được, trực quan được. lOMoARcPSD| 36086670
*Đặc trưng của hoạt động thực tiễn
Thực tiễn có ba hoạt động (hình thức) cơ bản: –
Hoạt động SẢN XUẤT VẬT CHẤT là hình thức hoạt động cơ bản,
đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng
những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật
chất, các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình.
Ví dụ: Hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động của các công nhân trong
các nhà máy, xí nghiệp… –
Hoạt động CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI là hoạt động của các cộng đồng
người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ
chính trịxã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. VD: …
Ví dụ: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến hành Đại hội Đoàn Thanh
niên trường học, Hội nghị công đoàn. –
Hoạt động THỰC NGHIỆM khoa học là một hình thức đặc biệt của
thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần
giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác
định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng
hoạt động này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời
kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm
ra các vật liệu mới, nguồn năng lượng.mới, vác-xin phòng ngừa dịch bệnh mới.
*Vai trò thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, lý luận
và là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức, lý luận đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn.
*Các giai đoạn nhận thức lOMoARcPSD| 36086670
Giai đoạn 1: Nhận thức cảm tính Giai đoạn 2: Nhận thức trở về thực
tiễn Giai đoạn 3: Nhận thức lý tính *Quan niệm về chân lý
Chân lý là định nghĩa dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với
thực tế khách quan. Sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi
thực tiễn. Từ đó mang đến kết luận, kiến thức luôn đúng được đúc kết. Có
thể hiểu, chân lý thực chất là thực tại được nhận thức một các đúng đắn.
Mọi chân lý đều mang bốn thuộc tính: tính khách quan, tính tương đối, tính
tuyệt đối và tính cụ thể Chuong 3
KN: Sản xuất vật chất: là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra
của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Sản xuất của cải vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công
cụ lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng
vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu
tồn tại và phát triển của con người.
VTRO: Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát
triển của con người và xã hội. Thông qua sản xuất con người mới có cái ăn,
cái mặc. Cũng như vận dụng vào kinh doanh, mua bán để tìm kiếm các lợi ích kinh tế lớn hơn
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Phương thức sản xuất Phương thức sản xuất là cách thức con người 琀椀 ến hành
quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài
người.Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình
độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.Lực lượng sản xuất: là sự kết hợp giữa lOMoARcPSD| 36086670
người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực 琀椀 ễn
làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhấtđịnh của
con người và xã hội.Người lao động: Là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng
lao động và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sảnxuất của xã hội. Người
lao động là chủ thể sáng tọa, đồng thời là chủ thể 琀椀 êu dùng mọi của cải vật
chất của xã hội.Tư liệu sản xuất: là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất,
bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động .Đối tượng lao động là những yếu
tố vật chất của sản xuất mà con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm
biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người.Tư liệu lao động
là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào đó để tác động lên đối
tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu
cầu sản xuất của con người
Phương tiện lao động: Là những yếu tố vật chất của sản xuất,cùng với
công cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động
trong quá trình sản xuất vật chất
Công cụ lao động: Là những phương tiện vật chất mà congngười trực tiếp
sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng, tạo ra
của của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người và xã hội
Quan hệ sản xuất là tổng hợp cá quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất vật chất. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản
xuất có tác động biện chứng (trong đó, lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất)
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, và ngược lại, nếu không phù
hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lựclượng sản xuất → Đây là quy luật cơ
bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội
Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính năng động,
cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển lOMoARcPSD| 36086670
Quan hệ sản xuất lại có tính ổn định tương đối, khi quan hệ sảnxuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo điều kiện phát triển
cho lực lượng sản xuất
Tuy nhiên, vì lực lượng sản xuất không ngừng vận động, phát triển theo
nhu cầu của con người, do công cụ lao động ngày càng phát triển và do tính
kế thừa khách quan của lực lượng sảnxuất trong suốt tiến trình lịch sử mà
từ đó, quan hệ sản xuất cũ dần trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất
=> Đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là xóa bỏquan hệ sản xuất cũ,
thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển.
=> Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất
mới trong lịch sử, quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất thông qua sự
phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất qua định mục
đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội;hình thành hệ thống động
lực thúc đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng xuất phát triển; đem lại năng
xuất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất
Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm, tuy chỉ diễn ra trong giới
hạn, với những điều kiện nhất định, nhưng nó vẫn có thể phá hoại lực lượng sản xuất
Ý nghĩa trong đời sống xã hội
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng.
Trong thực tiễn muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng
sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động.
Muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ,thiết lập quan hệ sản xuất mới phải căn
cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. lOMoARcPSD| 36086670
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Namluôn quan tâm hàng đầu
đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này, đem lại
hiệu quả to lớn trong thực tiễn.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành
quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
– quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó
xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở
trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người,
trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch
sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã
hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì
lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí,
hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển quá trình sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất
cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ
sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực
lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một
cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ
sở để phát triển hết khả năng của nó. lOMoARcPSD| 36086670
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản
xuất từ chỗ phù hợp trở nên không phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng
xích” của lực lượng sản xuất, kiềm hãm lực lượng sản xuất phát triển.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính
độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ con người trong lao động sản xuất,
đến tổ chức phản công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công
nghệ,… và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến tác Động trong toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển
của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế
độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác
động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.