lOMoARcPSD| 61256830
I. Khái niệm
1. Nền kinh tế
Nền kinh tế cụm từ được dùng để nói đến tất cả các hoạt động kinh
tế của một đất nước, một quốc gia, một vùng lãnh thổ. Theo đó, nền kinh
tế được hiểu là một hệ thống bao gồm tất cả các hoạt động sản xuất và tiêu
dùng liên quan đến nhau. Các hoạt động đều được thực hiện theo một
quy trình: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Mỗi
quốc gia hoặc một khu vực địa nhất định sẽ sự phát triển của nền kinh
tế nhất định.
Nền kinh tế một hệ thống phức tạp gồm sản xuất, phân phối
tiêu thụ trong một hội cụ thể. bao gồm các nhân, doanh nghiệp và
chính phủ tương tác với nhau để xác định cách sử dụng phân phối tài
nguyên. Nó bao gồm bốn thành phần chính: hộ gia đình, doanh nghiệp, tổ
chức chính phủ và khu vực quốc tế. Mỗi thành phần đóng một vai trò quan
trọng trong hoạt động chung của nền kinh tế bằng cách cung cấp hàng hóa
dịch vụ cho tiêu dùng hoặc đầu tư. thể hiểu nền kinh tế điều cần
thiết để đưa ra quyết định sáng suốt về cách phân bổ nguồn lực hiệu quả.
Nền kinh tế vai txác định cách phân bổ các yếu tố, nguyên liệu
cùng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế, được thực hiện thông qua
sự đánh giá các giá trị nổi bật của khu vực kinh tế hoặc các giá trị thể hiện
cung - cầu, lựa chọn nguyên liệu tham gia vào sản xuất, …
Mỗi nền kinh tế những đặc điểm cách thức hoạt động riêng,
phản ánh giá trị và mục tiêu của xã hội mà nó phục vụ.
2. Kế hoạch hoá
Kế hoạch hóa quá trình lên kế hoạch hay sắp xếp các bước cần
thực hiện để đạt được một mục tiêu cụ thể. Qtrình này bao gồm việc xác
định ràng mục tiêu, phân tích tình hình hiện tại, lựa chọn các phương án
hành động, chuẩn bị các tài nguyên cần thiết. Kế hoạch hóa giúp tổ chức
hoặc nhân hướng tới mục tiêu một cách có hthống hiệu quả, đồng
thời giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa nguồn lực.
Trong kinh tế, Kế hoạch hóa trong kinh tế giúp các tổ chức và quốc
gia đưa ra các quyết định thông minh, chuẩn bị tốt cho tương lai, phản
ứng linh hoạt với các thay đổi trong môi trường kinh doanh
lOMoARcPSD| 61256830
3. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là một hệ thống kinh tế trong đó
chính phủ hoặc một cơ quan trung ương đóng vai trò quản lý và điều phối
toàn bcác nguồn lực kinh tế của quốc gia. Đặc điểm chính của nền kinh
tế này sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước vào các hoạt động kinh tế,
bao gồm việc sản xuất, phân phối giá cả các hàng hóa dịch vụ. Giá
cả, tiền lương, lịch trình sản xuất thường được ấn định bởi một bộ máy
quan liêu tập trung
Đặc điểm chính
Kế hoạch Kinh tế Tổng thể: Chính phủ lập kế hoạch chi tiết cho
các hoạt động kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường 5
năm), xác định mục tiêu về sản lượng, sử dụng lao động, và phân phối sản
phẩm.
Sở hữu Nhà nước: Phần lớn các tài nguyên ngành công nghiệp
lớn đều do nhà nước sở hữu và quản lý.
Phân phối Trung ương: Chính phủ quyết định phân phối nguồn lực
sản phẩm, từ việc cung cấp nguyên liệu cho các ngành sản xuất đến phân
phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Không có thị trường cạnh tranh tự do: Thị trường trong nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung ít cạnh tranh, do nhà nước kiểm soát giá cả
sản lượng.
II. Khái quát bối cảnh lịch sử
1. Tình hình quốc tế
Chiến tranh lạnh giữa hai cực Đông - Âu đang diễn ra vào cuối
năm 1953 và đầu 1954 khi chiến tranh lạnh đã đi đến đỉnh cao thì thế giới
đã xuất hiện xu thế các nước lớn bắt đầu đi vào hòa hoãn, chủ trương giải
quyết hòa bình các cuộc chiến tranh khu vực.
2. Tình hình trong nước
Với việc kết và thực hiện Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm
thời bị chia cắt thành hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau.
Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Ngày 10 10 1954, bộ đội
Việt Nam tiến vào tiếp quản Thủ đô. Ngày 16-5-1955, toán lính Pháp cuối
cùng rút khỏi đảo Cát Bà. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã
lOMoARcPSD| 61256830
hoàn thành, tạo điều kiện cho miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
miền Nam, tháng 5-1956, Pháp rút quân khỏi miền Nam khi chưa
thực hiện cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam – Bắc.
vào thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, âm mưu
chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự của Mĩ.
Việt Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền:
cách mạng hội chủ nghĩa miền Bắc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đây đặc
điểm lớn nhất, độc đáo nhất của cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954 – 1975.
Cách mạng hai miền có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, phối hợp
với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Đó quan hệ giữa hậu phương
với tuyền tuyến.
III. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung tại miền Bắc (1954-1975)
1. Giai đoạn khôi phục nền kinh tế (1954-1960)
Giai đoạn khôi phục nền kinh tế ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954
đến 1960 là một thời kỳ quan trọng, đánh dấu sự phục hồi và xây dựng lại
nền kinh tế sau chiến tranh. Kì họp thứ 4 Quốc hội khóa I (từ ngày 20 đến
ngày 16-3-1955) đã quyết nghị: “Ra sức củng c miền Bắc bằng cách đẩy
mạnh hoàn thành cải cách ruộng đất đúng theo kế hoạch, ra sức khôi
phục phát triển kinh tế - văn hóa”. Công cuộc khôi phục kinh tế được
toàn dân tích cực hưởng ứng và triển khai trong tất cả các ngành.
1.1. Các chính sách và biện pháp khôi phục kinh tế:
Ngành nông nghiệp
- Một trong những chính sách lớn nhất trong giai đoạn này
cải cách ruộng đất, nhằm phân phối lại đất đai từ tay địa chủ vào tay nông
dân nghèo. Mục tiêu tăng cường sản xuất nông nghiệp và cải thiện đời
sống của nông dân.
- Khẩn hoang, tăng vụ, tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông
cụ
- Xây dựng công trình thủy nông mới, mở rộng diện tích tưới
và tiêu nước
lOMoARcPSD| 61256830
Ngành công nghiệp
- Chính phủ tập trung vào phát triển công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp nặng, để tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Các
nhà máy và xí nghiệp được xây dựng và khôi phục, tập trung vào sản xuất
than, thép và xi măng.
- Khôi phục mở rộng hầu hết các nhà máy, xí nghiệp bị phá
hỏng, xây dựng thêm một số nhà máy mới như: cơ khí Nội, diêm Thống
Nhất,...
- Đến cuối năm 1957, miền Bắc 97 nmáy, nghiệp lớn
do Nhà nước quản lý.
Ngành thủ công nghiệp
- Nhanh chóng được khôi phục, bảo đảm cung cấp nhiều mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân
- Giải quyết việc làm cho người lao động
- Ngoại thương dần dần tập trung vào Nhà nước. Đến cuối năm
1957, miền Bắc đã đặt quan hệ buôn bán với 17 nước.( thêm ảnh ngoại
giao vs nước ngoài)
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng
- Chính phủ đầu mạnh vào xây dựng khôi phục sở hạ
tầng, bao gồm hệ thống giao thông, cầu đường các công trình công cộng.
- Trong giao thông vận tải: đã khôi phục 700 kilômét đường sắt,
sửa chữa và làm mới hàng nghìn kilômét đường ô tô, xây dựng lại m
rộng thêm nhiều bến cảng như: Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy
- Khai thông đường hàng không quốc tế
Phát triển giáo dục và y tế
- Văn hóa, giáo dục được đẩy mạnh (Hệ thống giáo dục phổ thông
10 năm, xây dựng trường đại học, xóa mù chữ cho hơn 1 triệu người)
- Chính phủ chú trọng phát triển hệ thống giáo dục y tế, nhằm
nâng cao trình độ dân trí và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
- Hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được Nhà nước quan tâm
xây dựng. Nếp sống lành mạnh giữ gìn vệ sinh được vận động thực hiện ở
khắp mọi nơi.
1.2. Cải tạo sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội
lOMoARcPSD| 61256830
Trong ba năm (1958-1960), miền Bắc lấy cải tạo hội chủ nghĩa
làm trọng tâm: cải tạo đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp
nhỏ, công thương nghiệp tư bản tư doanh, khâu chính là hợp tác hóa nông
nghiệp. Thực hiện chủ trương trên, khắp nơi trên miền Bắc sôi nổi phong
trào vận động xây dựng hợp tác xã.
a) Kết quả
- Đến cuối năm 1960, miền Bắc trên 85% hộ nông dân với
70% ruộng đất vào hợp tác nông nghiệp, hơn 8% số thợ thủ công
45% số người buôn bán nhỏ vào hợp tác xã. Một bộ phận thương nhân
được chuyển sang sản xuất hoặc chuyển thành mậu dịch viên.
- Đối với tư sản dân tộc, Đảng và Nhà nước chủ trương cải tạo
bằng phương pháp hòa bình, sử dụng mặt tích cực của họ phục vụ cho công
cuộc xây dựng đất nước. Đến cuối năm 1960, có hơn 95% số hộ tư sản vào
công ty hợp doanh.
b) Hạn chế
- Trong cải tạo, chúng ta mắc một số sai lầm như đã đồng nhất
cải tạo với xóa bỏ hữu các thành phần kinh tế thể; thực hiện sai
các nguyên tắc xây dựng hợp tác tự nguyện, công bằng, dân chủ, cùng
có lợi; do đó, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của xã
viên trong sản xuât.
- Đồng thời cải tạo nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế -
hội, trọng tâm là phát triển thành phần kinh tế quốc doanh. Đến năm 1960,
đã 172 nghiệp do trung ương quản và trên 500 nghiệp do địa
phương quản lí.
1.3. Kết quả và tác động
- Tăng trưởng kinh tế: Nền kinh tế miền Bắc đã đạt được một
số thành tựu nhất định trong việc khôi phục và phát triển, đặc biệt là trong
lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp.
- Cải thiện đời sống: Đời sống của người dân, đặc biệt là nông
dân, được cải thiện nhờ các chính sách cải cách ruộng đất và phát triển kinh
tế.
- Biến động xã hội: Chính sách cải cách ruộng đất và các biện
pháp quốc hữu hóa đã gây ra nhiều biến động xã hội, với sự tái phân phối
của cải và quyền lực, tạo ra một số mâu thuẫn và bất ổn trong xã hội.
lOMoARcPSD| 61256830
2. Giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất (1960-1965)
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) đã bắt đầu triển khai kế
hoạch 5 năm lần thnhất (1961-1965) với mục tiêu xây dựng nền tảng kinh
tế cơ bản với các thành tựu cơ bản tại các ngành kinh tế chính như sau:
Nǎm 1955, từ một nền sản xuất nông nghiệp vốn rất thấp kém, lại b
chiến tranh tàn pnặng nề, chỉ trong 5 nǎm sau khi lập lại hbình, miền
Bắc nước ta đã tiến lên hàng đầu trong các nước Đông - Nam á về nǎng
suất lương thực bình quân mỗi hécta sản lượng lương thực tính theo đầu
người, đó là một thắng lợi ý nghĩa kinh tế chính trị rất lớn. Mặt khác,
nền nông nghiệp của ta trước đây tính chất độc canh, nay đã bắt đầu phát
triển toàn diện hơn. Lương thực tǎng nhanh vẫn giđịa vchủ yếu,
nhưng cây công nghiệp, chǎn nuôi phát triển nhanh hơn.
Về công nghiệp, công nghiệp khí trước kia không có, nay đã
một số cơ sở đầu tiên, sản xuất được một số loại máy công cụ hạng nhỏ
hạng vừa, máy dập gạch ngói, máy xát gạo, tàu kéo, ca nô, toa xe hỏa, máy
phát điện...; cung cấp cho nông nghiệp hàng vạn nông cụ cải tiến, một số
máy bơm nước và máy móc nông nghiệp nhỏ một số loại phụ tùng trước
vẫn phải mua nước ngoài. Chúng ta đã sản xuất được nhiều mặt hàng mới
về như vải, hàng dệt kim, đồ nhựa, đồ sắt tráng men, đồ dùng gia đình, n
phòng phẩm, sǎm lốp xe đạp, một số loại dược
phẩm…
Về giao thông, Riêng vận tải đường sắt, trong ba nǎm qua tǎng hơn
2 lần, vận tải đường biển tǎng gần 2 lần, vận tải đường sông tǎng gần gấp
đôi, vận tải đường ôtô tǎng 1,5 lần. Ngành giao thông tuy chưa phục vkịp
yêu cầu của kinh tế quốc phòng, nhưng đã có những cố gắng tiến bộ.
Phong trào thi đua giải phóng đôi vai (thêm ảnh) ở một số công trường và
một số địa phương, phấn đấu nâng cao nǎng lực trọng tải và bảo dưỡng xe
cộ ở một số cơ sở gần đây đang phát triển, cần được hết sức khuyến khích,
thúc đẩy.
3. Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975)
Giai đoạn 1965-1975 là một giai đoạn đặc biệt khó khăn gian khổ
của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra ác
liệt, đòi hỏi một sự huy động tổng lực về mọi mặt, trong đó kinh tế.
Trong bối cảnh chiến tranh, nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt miền Bắc, đã
chuyển sang chế độ quản kinh tế tập trung cao độ, bước vào thời kỳ
chống chiến tranh phá hoại xen kẽ với những thời kỳ ngắn khôi phục kinh
tế.
lOMoARcPSD| 61256830
3.1. Những thành tựu đạt được:
Công nghiệp hóa nhỏ gọn:
- Mặc dù trong điều kiện khó khăn, công nghiệp Việt Nam vẫn
đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt trong các ngành công
nghiệp nặng.
- Đến năm 1975, miền Bắc hậu phương hội chủ nghĩa đã
hình thành một nền công nghiệp tchủ, với sở vật chất kỹ thuật được
tăng cường đáng kể.
- Nhiều khu công nghiệp lớn đã và đang hình thành.
- cấu công nghiệp đã phát triển hoàn chỉnh hơn, những
sở của các ngành công nghiệp nặng quan trọng liên tục mở rộng về số lượng
phát triển về quy mô, nhất các ngành điện, than, khí, luyện kim,
hóa chất
- Đồng thời phát huy năng lực một số ngành ng nghiệp nhẹ,
côngnghiệp thực phẩm.
Nông nghiệp tự túc:
- Nông nghiệp đã đạt được sự tự túc về lương thực, đảm bảo an
ninh lương thực cho cả nước.
Tinh thần tự lực, tự cường:
- Nhân dân Việt Nam đã phát huy tinh thần tự lực, tcường,
khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất.
3.2. Ảnh hưởng của Chiến tranh đến Nền kinh tế Việt Nam:
Tàn phá cơ sở vật chất:
- Hạ tầng giao thông: Mạng lưới đường xá, cầu cống, cảng biển
bị bom đạn tàn phá nặng nề, gây khó khăn cho việc vận chuyển hàng hóa,
lương thực.
- Nhà máy, xí nghiệp: Nhiều nmáy, xí nghiệp bị phá hủy, sản
xuất đình trệ.
- Nông nghiệp: Ruộng đất, thủy lợi bị tàn phá, ảnh hưởng đến
sản xuất nông nghiệp.
Thiếu hụt nguồn lực:
- Lao động: Nguồn lao động bị phân tán, nhiều thanh niên phải
nhập ngũ, ảnh hưởng đến sản xuất.
lOMoARcPSD| 61256830
- Vốn: Chi phí cho quốc phòng tăng cao, làm giảm nguồn vốn
đầu tư cho phát triển kinh tế.
- Nguyên vật liệu: Việc cung cấp nguyên vật liệu bị hạn chế do
chiến tranh và bao vây cấm vận.
Thay đổi cơ cấu kinh tế:
- Ưu tiên công nghiệp nặng: Sản xuất công nghiệp chuyển
hướng sang các ngành công nghiệp nặng, phục vụ cho chiến tranh.
- Nông nghiệp tự túc: Nông nghiệp tập trung vào việc đảm bảo
lương thực cho quân đội và nhân dân.
Ảnh hưởng đến đời sống người dân:
- Thiếu thốn lương thực, thực phẩm: Do sản xuất nông nghiệp
bị ảnh hưởng, người dân phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực, thực
phẩm.
- Khó khăn trong sinh hoạt: Cuộc sống người dân bị đảo lộn,
nhiều người phải di tản.
- Tinh thần lạc quan cách mạng: Mặc gặp nhiều kkhăn,
người dân Việt Nam vẫn giữ vững tinh thần lạc quan cách mạng, quyết tâm
chiến đấu vì độc lập, tự do.
Lạm phát:
- In thêm tiền: Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh, nhà
nước phải in thêm tiền, gây ra lạm phát.
- Giá cả tăng cao: Giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao, đời sống
người dân gặp nhiều khó khăn.
=> Những ảnh hưởng trên đã đặt ra những thách thức to lớn cho nền
kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, với ý chí quyết tâm cao sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi cuối
cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nội dung về đồng tiền (add sau)
Từ 1954 – 1975, sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền
Nam 2 chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi đồng.
miền Nam, từ 1953, lưu hành Đồng (tiền Việt Nam Cộng hoà). Năm 1953,
tiền kim loại 10, 20, 50 xu được đưa vào lưu thông. 1960, thêm tiền kim
loại 1 đồng, 10 đồng năm 1964, 5 đồng năm 1966 20 đồng năm 1968.
lOMoARcPSD| 61256830
50 đồng đúc năm 1975 nhưng chưa kịp lưu hành thì Việt Nam Cộng hoà
sụp đổ. Vì thế rất hiếm đồng xu này còn tồn tại.
4. Nhận xét chung
Nhìn chung sau 20 năm xây dựng chnghĩa hội, nền kinh tế miền
Bắc đã có những biến đổi căn bản sau:
4.1. Về ưu điểm:
- Đánh giá chung toàn bộ quá trình chuyển biến kinh tế miền Bắc
giai đoạn 1955-1975 ta thấy được các mục tiêu căn bản đã được hoàn thành,
một số lĩnh vực vượt chi tiêu đề ra. Nền kinh tế nước ta đã nhiều những
đổi mới nét, tích cực hơn mở ra một thời kmới nhiều triển vọng
hơn.
Tạo ra được niềm tin hy vọng về một tương lai hội mới tốt đẹp,
một cuộc sống hạnh phúc ấm no cho người dân. Người người nhà nhà đều
một lòng một dạ tin vào Đảng
Đời sống nhân dân miền Bắc được cải thiện một cách rệt so với
trước
Hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, tổ chức lại những ngành sản
xuất thủ công theo chủ nghĩa xã hội, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những
người buôn bán nhỏ, thực hiện chuyển một bộ phận những người buôn bán
nhỏ sang sản xuất một bộ phận nữa thì lựa chọn, giáo dục để sử dụng
trong mạng lưới mậu dịch quốc doanh.
svật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội ngày càng được tăng
cường, lực lượng lao động hội được phân bổ hợp hơn. cấu nền
kinh tế quốc dân đã được dịch chuyển theo hướng tỷ trọng của ng nghiệp
tăng lên. Trong công nghiệp, đã hình thành những ngành chủ yếu của công
nghiệp nặng. Sản xuất lương thực phát triển khá hơn, kim ngạch xuất khẩu
và nhập khẩu đều tăng
Đồng thời phát triển công nghiệp để phục vụ phát triển nông nghiệp,
điển hình sử dụng máy móc thay cho sức người, tăng năng suất sản
lượng. Sự học hỏi tiếp thu nền công nghiệp của các nước phát triển đã
giúp cho trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta nâng lên một tầm cao
mới.
Ngoài ra ta đã bước đầu kết hợp được công nghiệp quốc doanh trung
ương địa phương, nền công nghiệp kỹ thuật hiện đại với nền công nghiệp
nửa cơ giới và thủ công, nền công nghiệp quy mô lớn với nền công nghiệp
quy mô vừa và nhỏ.
lOMoARcPSD| 61256830
Thành tựu quan trọng nước ta đã dần mở cửa, hội nhập thương
mại quốc tế để trao đổi hàng hóa, bước đầu thiết lập các mối quan hệ thương
mại với các nước trên thế giới.
hình chính trị hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa thời kỳ này rất tác dụng trong chiến tranh. Đảng Chính phủ đã
đưa ra những quyết định phù hợp với thực tiễn nước nhà để khôi phục
phát triển nền kinh tế sau chiến tranh. Với chế độ công hữu và quản lý tập
trung kế hoạch hóa, với hệ thống chính trị thống nhất tập trung quyền lực
đã tập trung mọi nguồn lực của nhà nước, tất cả cho tiền tuyến, cho chiến
thắng
=> thể nói, đây những nhân tố quyết định thắng lợi cho kế
hoạch hồi phục và phát triển nền kinh tế miền Bắc nước ta giai đoạn này
4.2. Về hạn chế:
- Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình xây dựng kinh tế
miền Bắc thời kỳ này cũng tồn tại một số hạn chế:
Quan hệ sản xuất mới hội chủ nghĩa chưa thực sự được củng cố
hoàn thiện: sở vật chất kỹ thuật còn non kém, sản xuất nhỏ phổ
biến, năng suất lao động hội thấp; cấu kinh tế còn bị mất cân đối
nghiêm trọng. Sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, phương
pháp quản lý kinh tế mang tính mệnh lệnh
Đời sống nhân dân tuy đã được cải thiện hơn trước nhưng còn nhiều
khó khăn.
Mọi của cải đều được phân phối bình quân. thể nói, dường như
trong mọi hoạt động kinh tế, người lao động đều thờ ơ với công việc mình
đảm nhận, không khuyến khích con người ta lao động, triệt tiêu mất cái sức
cuốn hút con người ta lao vào sản xuất kinh doanh.Nền kinh tế do đó không
có động lực phát triển
Sự tập trung quyền lực cao độ, tuyệt đối hóa vai tlãnh đạo của
Đảng dẫn đến quyền tự do, dân chủ của nhân dân bị hạn chế và nền kinh tế
dễ bị can thiệp quá sâu, sự vận động thực tiễn của nền kinh tế dựa trên chế
độ công hữu và kế hoạch hóa tập trung tất yếu dẫn đến hình thành thể chế
chính trị tập trung quan liêu khó phát triển.
=> Chính vậy, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung nước ta
chỉ tồn tại được khoảng 30 năm, đến năm 1986, đcứu đất nước khỏi rơi
vào tình trạng khủng hoảng triền miên ngày càng trầm trọng hơn, chúng
ta buộc phải chuyển đổi mô hình kinh tế tổng quát
lOMoARcPSD| 61256830
4.3. Bài học kinh nghiệm:
- Cần tôn trọng các quy luật khách quan, những nhận thức giản
đơn, giáo điều, cách làm chủ quan nóng vội sẽ kìm hãm sức sản xuất, dẫn
đến những kết quả ngược với mong muốn
- Việc tập trung nguồn lực cho phát triển công nghiệp theo
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trong điều kiện một nước công
nghiệp lạc hậu, không đđiều kiện tiền đề cho nó, đã làm tăng thêm tình
trạng mất cân đối kinh tế
- Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp chỉ phù hợp
trong điều kiện đất nước có chiến tranh, tuy nhiên cơ chế này càng bộc lộ
nhiều hạn chế: phương pháp quản mang nặng tính chất hành chính bao
cấp, hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế thấp, không tạo động lực cho
doanh nghiệp và người lao động
IV. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trên thế giới hiện nay
Cuba Triều Tiên là những dụ tiêu biểu cho nền kinh tế kế hoạch
tập trung, tuy nhiên, mỗi quốc gia lại những đặc điểm kết quả riêng
biệt.
1. Cuba
Đặc điểm chính của nền kinh tế.
- Tại Cuba, nền kinh tế kế hoạch tập trung được thể hiện rõ nét
quaviệc chính phủ nắm quyền kiểm soát hầu hết các hoạt động kinh tế quan
trọng. Các quyết định về sản xuất, phân bổ tài nguyên đều được thực hiện
từ trung ương.
- Cuba tập trung rất nhiều vào ngành nông nghiệp, đặc biệt
sản xuất đường, một lĩnh vực được quản lý chặt chẽ bởi nhà nước.
- Để đảm bảo sự công bằng trong phân phối hàng hóa, chính
phủ Cuba cũng đã thiết lập hệ thống phân phối lương thực nhu yếu phẩm
cơ bản cho người dân.
Thách thức và khủng hoảng kinh tế vào những năm 1990.
- Phụ thuộc quá nhiều vào Liên Xô: Nền kinh tế của Cuba phụ
thuộc nhiều vào viện trợ và thương mại từ Liên Xô. Sự sụp đổ của Liên
vào năm 1991 dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng với sự
thiếu hụt lương thực, nhiên liệu và các nhu yếu phẩm khác.
lOMoARcPSD| 61256830
- Thiếu đa dạng hóa: Việc tập trung vào xuất khẩu đường
công nghiệp hóa hạn chế làm cho nền kinh tế Cuba dễ bị tổn thương trước
các cú sốc từ bên ngoài.
Kết quả và tình hình hiện tại.
- Từ những năm 1990, Cuba đã thực hiện các cải cách kinh tế
dần dần, cho phép các doanh nghiệp nhân và đầu nước ngoài hoạt
động một cách hạn chế. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn phụ thuộc chủ yếu
vào nhà nước.
- Tình hình hiện tại: Mặc dù đã cải cách, Cuba vẫn tiếp tục đối
mặt với các thách thức kinh tế, bao gồm các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ,
thiếu hụt hàng hóa, lương thực, lạm phát cao, bất ổn xã hội sự thiếu tiếp
cận với các thị trường toàn cầu. Việc duy trì một mô hình kinh tế tập trung
sự phụ thuộc lớn vào các nguồn thu như du lịch khiến quá trình hồi phục
trở nên khó khăn. Các nỗ lực cải cách chưa đủ để tạo ra những những thay
đổi đáng kể trong bối cảnh hiện tại.
2. Bắc Triều Tiên
Đặc điểm chính của nền kinh tế
- Dưới thời Kim Nhật Thành, Triều Tiên áp dụng tưởng
Juche, nhấn mạnh sự tự lực kế hoạch hóa tập trung, trở nên cô lập hơn
với nền kinh tế toàn cầu.
- Tất cả tài sản phương tiện sản xuất đều thuộc shữu của
nhà nước, với các ngành công nghiệp nặng được ưu tiên hơn các mặt hàng
tiêu dùng.
- Tương tự như mô hình Liên Xô, Triều Tiên thực hiện các “kế
hoạch Năm nămđể đặt ra các mục tiêu sản xuất, tập trung vào công nghiệp
nặng và năng lực quân sự.
- Triều Tiên theo đuổi chính sách tự cung tcấp, giảm sphụ
thuộc vào thương mại nước ngoài, đặc biệt sau sự chia rẽ giữa Trung Quốc
và Liên Xô.
Thách thức
- lập kinh tế: Chính sách lập của Triều Tiên hạn chế
thương mại và đầu tư nước ngoài, dẫn đến sự kém hiệu quả và thiếu hụt.
- Nạn đói thập niên 1990: Sự sụp đổ của Liên thiên tai đã
góp phần vào một nạn đói tàn khốc, khiến hàng triệu người thiếu lương
thực.
lOMoARcPSD| 61256830
- Thiếu linh hoạt: Hệ thống kế hoạch tập trung cứng nhắc gặp
khó khăn trong việc thích ứng với các điều kiện toàn cầu thay đổi, dẫn đến
sự kém hiệu quả kinh niên.
Kết quả và tình hình hiện tại.
- Tình hình kinh tế khó khăn kết hợp với căng thẳng quốc tế và
sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền khiến tương lai của Triều Tiên rất
khó đoán. Việc duy trì chính sách đối đầu và tiếp tục phát triển vũ khí hạt
nhân khiến nước này tiếp tục bị lập chịu các biện pháp trừng phạt,
làm hạn chế các cơ hội phát triển kinh tế.
- Vấn đề nhân đạo: Thiếu hụt lương thực kinh niên, sở hạ
tầng kém và hạn chế tiếp cận với các thị trường toàn cầu góp phần vào
những thách thức nhân đạo đang tiếp diễn.
V. Kết luận
- Nền kinh tế kế hoạch tập trung tại miền Bắc Việt Nam 1954-
1975 đã đặt nền móng cho con đường hội chủ nghĩa của đất nước.
hình này đã giúp ta đạt được những thành tựu to lớn trong cuộc kháng
chiến, giúp miền Bắc duy trì công cuộc đấu tranh cho đến khi thống nhất
đất nước vào năm 1975. Đây cũng là giai đoạn đã hun đúc nên tinh thần tự
cường và tự lực cánh sinh, đóng góp tích cực đến đường lối chính sách đối
ngoại của Việt Nam trong những năm sau chiến tranh.
- Tuy nhiên, hệ thống này cũng bộc lộ nhiều hạn chế kém
hiệu quả. Sự kiên trì với hợp tác hóa công nghiệp nặng, mặc cần thiết
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền quốc gia, đã dẫn đến những
hậu quả kinh tế nghiêm trọng, sự cạn kiệt tài nguyên và phụ thuộc vào viện
trợ bên ngoài. Sự cứng nhắc của hệ thống kế hoạch hóa cũng làm hạn chế
khả năng đổi mới linh hoạt, gây ra sự kém hiệu quả trong cả nông nghiệp
và công nghiệp.
- Về lâu dài, những khó khăn tài chính cùng sự trì trệ trong thời
kỳbao cấp đã góp phần thúc đẩy sự chuyển đổi của Việt Nam sang một nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới
vào những năm 1980. Việt Nam hiện nay đã và đang tích cực tham gia các
hiệp định thương mại tự do (FTA) hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn
cầu. Sự linh hoạt, sáng tạo không ngừng đổi mới chính những nhân
tố then chốt giúp Việt Nam vượt qua những thách thức của quá khứ phát
triển mạnh mẽ trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61256830 I. Khái niệm 1. Nền kinh tế
Nền kinh tế là cụm từ được dùng để nói đến tất cả các hoạt động kinh
tế của một đất nước, một quốc gia, một vùng lãnh thổ. Theo đó, nền kinh
tế được hiểu là một hệ thống bao gồm tất cả các hoạt động sản xuất và tiêu
dùng có liên quan đến nhau. Các hoạt động đều được thực hiện theo một
quy trình: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Mỗi
quốc gia hoặc một khu vực địa lý nhất định sẽ có sự phát triển của nền kinh tế nhất định.
Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp gồm sản xuất, phân phối và
tiêu thụ trong một xã hội cụ thể. Nó bao gồm các cá nhân, doanh nghiệp và
chính phủ tương tác với nhau để xác định cách sử dụng và phân phối tài
nguyên. Nó bao gồm bốn thành phần chính: hộ gia đình, doanh nghiệp, tổ
chức chính phủ và khu vực quốc tế. Mỗi thành phần đóng một vai trò quan
trọng trong hoạt động chung của nền kinh tế bằng cách cung cấp hàng hóa
và dịch vụ cho tiêu dùng hoặc đầu tư. Có thể hiểu nền kinh tế là điều cần
thiết để đưa ra quyết định sáng suốt về cách phân bổ nguồn lực hiệu quả.
Nền kinh tế có vai trò xác định cách phân bổ các yếu tố, nguyên liệu
cùng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế, được thực hiện thông qua
sự đánh giá các giá trị nổi bật của khu vực kinh tế hoặc các giá trị thể hiện
cung - cầu, lựa chọn nguyên liệu tham gia vào sản xuất, …
Mỗi nền kinh tế có những đặc điểm và cách thức hoạt động riêng,
phản ánh giá trị và mục tiêu của xã hội mà nó phục vụ.
2. Kế hoạch hoá
Kế hoạch hóa là quá trình lên kế hoạch hay sắp xếp các bước cần
thực hiện để đạt được một mục tiêu cụ thể. Quá trình này bao gồm việc xác
định rõ ràng mục tiêu, phân tích tình hình hiện tại, lựa chọn các phương án
hành động, và chuẩn bị các tài nguyên cần thiết. Kế hoạch hóa giúp tổ chức
hoặc cá nhân hướng tới mục tiêu một cách có hệ thống và hiệu quả, đồng
thời giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa nguồn lực.
Trong kinh tế, Kế hoạch hóa trong kinh tế giúp các tổ chức và quốc
gia đưa ra các quyết định thông minh, chuẩn bị tốt cho tương lai, và phản
ứng linh hoạt với các thay đổi trong môi trường kinh doanh lOMoAR cPSD| 61256830
3. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là một hệ thống kinh tế trong đó
chính phủ hoặc một cơ quan trung ương đóng vai trò quản lý và điều phối
toàn bộ các nguồn lực kinh tế của quốc gia. Đặc điểm chính của nền kinh
tế này là sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước vào các hoạt động kinh tế,
bao gồm việc sản xuất, phân phối và giá cả các hàng hóa và dịch vụ. Giá
cả, tiền lương, lịch trình sản xuất thường được ấn định bởi một bộ máy quan liêu tập trung
Đặc điểm chính
Kế hoạch Kinh tế Tổng thể: Chính phủ lập kế hoạch chi tiết cho
các hoạt động kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 5
năm), xác định mục tiêu về sản lượng, sử dụng lao động, và phân phối sản phẩm.
Sở hữu Nhà nước: Phần lớn các tài nguyên và ngành công nghiệp
lớn đều do nhà nước sở hữu và quản lý.
Phân phối Trung ương: Chính phủ quyết định phân phối nguồn lực
và sản phẩm, từ việc cung cấp nguyên liệu cho các ngành sản xuất đến phân
phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Không có thị trường cạnh tranh tự do: Thị trường trong nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung ít cạnh tranh, do nhà nước kiểm soát giá cả và sản lượng. II.
Khái quát bối cảnh lịch sử
1. Tình hình quốc tế
Chiến tranh lạnh giữa hai cực Đông - Âu đang diễn ra và vào cuối
năm 1953 và đầu 1954 khi chiến tranh lạnh đã đi đến đỉnh cao thì thế giới
đã xuất hiện xu thế các nước lớn bắt đầu đi vào hòa hoãn, chủ trương giải
quyết hòa bình các cuộc chiến tranh khu vực.
2. Tình hình trong nước
Với việc ký kết và thực hiện Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm
thời bị chia cắt thành hai miền, với hai chế độ chính trị khác nhau.
Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Ngày 10 – 10 – 1954, bộ đội
Việt Nam tiến vào tiếp quản Thủ đô. Ngày 16-5-1955, toán lính Pháp cuối
cùng rút khỏi đảo Cát Bà. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã lOMoAR cPSD| 61256830
hoàn thành, tạo điều kiện cho miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam, tháng 5-1956, Pháp rút quân khỏi miền Nam khi chưa
thực hiện cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam – Bắc.
Mĩ vào thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, âm mưu
chia cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự của Mĩ.
Việt Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền:
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Đây là đặc
điểm lớn nhất, độc đáo nhất của cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954 – 1975.
Cách mạng hai miền có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, phối hợp
với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Đó là quan hệ giữa hậu phương với tuyền tuyến.
III. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung tại miền Bắc (1954-1975)
1. Giai đoạn khôi phục nền kinh tế (1954-1960)
Giai đoạn khôi phục nền kinh tế ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954
đến 1960 là một thời kỳ quan trọng, đánh dấu sự phục hồi và xây dựng lại
nền kinh tế sau chiến tranh. Kì họp thứ 4 Quốc hội khóa I (từ ngày 20 đến
ngày 16-3-1955) đã quyết nghị: “Ra sức củng cố miền Bắc bằng cách đẩy
mạnh và hoàn thành cải cách ruộng đất đúng theo kế hoạch, ra sức khôi
phục và phát triển kinh tế - văn hóa”. Công cuộc khôi phục kinh tế được
toàn dân tích cực hưởng ứng và triển khai trong tất cả các ngành.
1.1. Các chính sách và biện pháp khôi phục kinh tế: Ngành nông nghiệp -
Một trong những chính sách lớn nhất trong giai đoạn này là
cải cách ruộng đất, nhằm phân phối lại đất đai từ tay địa chủ vào tay nông
dân nghèo. Mục tiêu là tăng cường sản xuất nông nghiệp và cải thiện đời sống của nông dân. -
Khẩn hoang, tăng vụ, tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông cụ -
Xây dựng công trình thủy nông mới, mở rộng diện tích tưới và tiêu nước lOMoAR cPSD| 61256830 Ngành công nghiệp -
Chính phủ tập trung vào phát triển công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp nặng, để tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Các
nhà máy và xí nghiệp được xây dựng và khôi phục, tập trung vào sản xuất than, thép và xi măng. -
Khôi phục và mở rộng hầu hết các nhà máy, xí nghiệp bị phá
hỏng, xây dựng thêm một số nhà máy mới như: cơ khí Hà Nội, diêm Thống Nhất,... -
Đến cuối năm 1957, miền Bắc có 97 nhà máy, xí nghiệp lớn do Nhà nước quản lý.
Ngành thủ công nghiệp -
Nhanh chóng được khôi phục, bảo đảm cung cấp nhiều mặt
hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân -
Giải quyết việc làm cho người lao động -
Ngoại thương dần dần tập trung vào Nhà nước. Đến cuối năm
1957, miền Bắc đã đặt quan hệ buôn bán với 17 nước.( thêm ảnh ngoại giao vs nước ngoài)
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng -
Chính phủ đầu tư mạnh vào xây dựng và khôi phục cơ sở hạ
tầng, bao gồm hệ thống giao thông, cầu đường và các công trình công cộng. -
Trong giao thông vận tải: đã khôi phục 700 kilômét đường sắt,
sửa chữa và làm mới hàng nghìn kilômét đường ô tô, xây dựng lại và mở
rộng thêm nhiều bến cảng như: Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy -
Khai thông đường hàng không quốc tế
Phát triển giáo dục và y tế
- Văn hóa, giáo dục được đẩy mạnh (Hệ thống giáo dục phổ thông
10 năm, xây dựng trường đại học, xóa mù chữ cho hơn 1 triệu người)
- Chính phủ chú trọng phát triển hệ thống giáo dục và y tế, nhằm
nâng cao trình độ dân trí và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
- Hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được Nhà nước quan tâm
xây dựng. Nếp sống lành mạnh giữ gìn vệ sinh được vận động thực hiện ở khắp mọi nơi.
1.2. Cải tạo sản xuất, bước đầu phát triển kinh tế - xã hội lOMoAR cPSD| 61256830
Trong ba năm (1958-1960), miền Bắc lấy cải tạo xã hội chủ nghĩa
làm trọng tâm: cải tạo đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp
nhỏ, công thương nghiệp tư bản tư doanh, khâu chính là hợp tác hóa nông
nghiệp. Thực hiện chủ trương trên, khắp nơi trên miền Bắc sôi nổi phong
trào vận động xây dựng hợp tác xã. a) Kết quả -
Đến cuối năm 1960, miền Bắc có trên 85% hộ nông dân với
70% ruộng đất vào hợp tác xã nông nghiệp, hơn 8% số thợ thủ công và
45% số người buôn bán nhỏ vào hợp tác xã. Một bộ phận thương nhân
được chuyển sang sản xuất hoặc chuyển thành mậu dịch viên. -
Đối với tư sản dân tộc, Đảng và Nhà nước chủ trương cải tạo
bằng phương pháp hòa bình, sử dụng mặt tích cực của họ phục vụ cho công
cuộc xây dựng đất nước. Đến cuối năm 1960, có hơn 95% số hộ tư sản vào công ty hợp doanh. b) Hạn chế -
Trong cải tạo, chúng ta mắc một số sai lầm như đã đồng nhất
cải tạo với xóa bỏ tư hữu và các thành phần kinh tế cá thể; thực hiện sai
các nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là tự nguyện, công bằng, dân chủ, cùng
có lợi; do đó, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của xã viên trong sản xuât. -
Đồng thời cải tạo là nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã
hội, trọng tâm là phát triển thành phần kinh tế quốc doanh. Đến năm 1960,
đã có 172 xí nghiệp do trung ương quản lí và trên 500 xí nghiệp do địa phương quản lí.
1.3. Kết quả và tác động -
Tăng trưởng kinh tế: Nền kinh tế miền Bắc đã đạt được một
số thành tựu nhất định trong việc khôi phục và phát triển, đặc biệt là trong
lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp. -
Cải thiện đời sống: Đời sống của người dân, đặc biệt là nông
dân, được cải thiện nhờ các chính sách cải cách ruộng đất và phát triển kinh tế. -
Biến động xã hội: Chính sách cải cách ruộng đất và các biện
pháp quốc hữu hóa đã gây ra nhiều biến động xã hội, với sự tái phân phối
của cải và quyền lực, tạo ra một số mâu thuẫn và bất ổn trong xã hội. lOMoAR cPSD| 61256830
2. Giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất (1960-1965)
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) đã bắt đầu triển khai kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) với mục tiêu xây dựng nền tảng kinh
tế cơ bản với các thành tựu cơ bản tại các ngành kinh tế chính như sau:
Nǎm 1955, từ một nền sản xuất nông nghiệp vốn rất thấp kém, lại bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, chỉ trong 5 nǎm sau khi lập lại hoà bình, miền
Bắc nước ta đã tiến lên hàng đầu trong các nước Đông - Nam á về nǎng
suất lương thực bình quân mỗi hécta và sản lượng lương thực tính theo đầu
người, đó là một thắng lợi có ý nghĩa kinh tế và chính trị rất lớn. Mặt khác,
nền nông nghiệp của ta trước đây có tính chất độc canh, nay đã bắt đầu phát
triển toàn diện hơn. Lương thực tǎng nhanh và vẫn giữ địa vị chủ yếu,
nhưng cây công nghiệp, chǎn nuôi phát triển nhanh hơn.
Về công nghiệp, công nghiệp cơ khí trước kia không có, nay đã có
một số cơ sở đầu tiên, sản xuất được một số loại máy công cụ hạng nhỏ và
hạng vừa, máy dập gạch ngói, máy xát gạo, tàu kéo, ca nô, toa xe hỏa, máy
phát điện...; cung cấp cho nông nghiệp hàng vạn nông cụ cải tiến, một số
máy bơm nước và máy móc nông nghiệp nhỏ và một số loại phụ tùng trước
vẫn phải mua ở nước ngoài. Chúng ta đã sản xuất được nhiều mặt hàng mới
về như vải, hàng dệt kim, đồ nhựa, đồ sắt tráng men, đồ dùng gia đình, vǎn
phòng phẩm, sǎm lốp xe đạp, một số loại dược phẩm…
Về giao thông, Riêng vận tải đường sắt, trong ba nǎm qua tǎng hơn
2 lần, vận tải đường biển tǎng gần 2 lần, vận tải đường sông tǎng gần gấp
đôi, vận tải đường ôtô tǎng 1,5 lần. Ngành giao thông tuy chưa phục vụ kịp
yêu cầu của kinh tế và quốc phòng, nhưng đã có những cố gắng và tiến bộ.
Phong trào thi đua giải phóng đôi vai (thêm ảnh) ở một số công trường và
một số địa phương, phấn đấu nâng cao nǎng lực trọng tải và bảo dưỡng xe
cộ ở một số cơ sở gần đây đang phát triển, cần được hết sức khuyến khích, thúc đẩy.
3. Giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975)
Giai đoạn 1965-1975 là một giai đoạn đặc biệt khó khăn và gian khổ
của dân tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra ác
liệt, đòi hỏi một sự huy động tổng lực về mọi mặt, trong đó có kinh tế.
Trong bối cảnh chiến tranh, nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc, đã
chuyển sang chế độ quản lý kinh tế tập trung cao độ, bước vào thời kỳ
chống chiến tranh phá hoại xen kẽ với những thời kỳ ngắn khôi phục kinh tế. lOMoAR cPSD| 61256830
3.1. Những thành tựu đạt được:
Công nghiệp hóa nhỏ gọn: -
Mặc dù trong điều kiện khó khăn, công nghiệp Việt Nam vẫn
đạt được những thành tựu nhất định, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp nặng. -
Đến năm 1975, ở miền Bắc hậu phương xã hội chủ nghĩa đã
hình thành một nền công nghiệp tự chủ, với cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường đáng kể. -
Nhiều khu công nghiệp lớn đã và đang hình thành. -
Cơ cấu công nghiệp đã phát triển hoàn chỉnh hơn, những cơ
sở của các ngành công nghiệp nặng quan trọng liên tục mở rộng về số lượng
và phát triển về quy mô, nhất là các ngành điện, than, cơ khí, luyện kim, hóa chất -
Đồng thời phát huy năng lực một số ngành công nghiệp nhẹ, côngnghiệp thực phẩm.
Nông nghiệp tự túc: -
Nông nghiệp đã đạt được sự tự túc về lương thực, đảm bảo an
ninh lương thực cho cả nước.
Tinh thần tự lực, tự cường: -
Nhân dân Việt Nam đã phát huy tinh thần tự lực, tự cường,
khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất.
3.2. Ảnh hưởng của Chiến tranh đến Nền kinh tế Việt Nam:
Tàn phá cơ sở vật chất: -
Hạ tầng giao thông: Mạng lưới đường xá, cầu cống, cảng biển
bị bom đạn tàn phá nặng nề, gây khó khăn cho việc vận chuyển hàng hóa, lương thực. -
Nhà máy, xí nghiệp: Nhiều nhà máy, xí nghiệp bị phá hủy, sản xuất đình trệ. -
Nông nghiệp: Ruộng đất, thủy lợi bị tàn phá, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
Thiếu hụt nguồn lực: -
Lao động: Nguồn lao động bị phân tán, nhiều thanh niên phải
nhập ngũ, ảnh hưởng đến sản xuất. lOMoAR cPSD| 61256830 -
Vốn: Chi phí cho quốc phòng tăng cao, làm giảm nguồn vốn
đầu tư cho phát triển kinh tế. -
Nguyên vật liệu: Việc cung cấp nguyên vật liệu bị hạn chế do
chiến tranh và bao vây cấm vận.
Thay đổi cơ cấu kinh tế: -
Ưu tiên công nghiệp nặng: Sản xuất công nghiệp chuyển
hướng sang các ngành công nghiệp nặng, phục vụ cho chiến tranh. -
Nông nghiệp tự túc: Nông nghiệp tập trung vào việc đảm bảo
lương thực cho quân đội và nhân dân.
Ảnh hưởng đến đời sống người dân: -
Thiếu thốn lương thực, thực phẩm: Do sản xuất nông nghiệp
bị ảnh hưởng, người dân phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm. -
Khó khăn trong sinh hoạt: Cuộc sống người dân bị đảo lộn,
nhiều người phải di tản. -
Tinh thần lạc quan cách mạng: Mặc dù gặp nhiều khó khăn,
người dân Việt Nam vẫn giữ vững tinh thần lạc quan cách mạng, quyết tâm
chiến đấu vì độc lập, tự do. Lạm phát: -
In thêm tiền: Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh, nhà
nước phải in thêm tiền, gây ra lạm phát. -
Giá cả tăng cao: Giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao, đời sống
người dân gặp nhiều khó khăn.
=> Những ảnh hưởng trên đã đặt ra những thách thức to lớn cho nền
kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, với ý chí quyết tâm cao và sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi cuối
cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nội dung về đồng tiền (add sau)
Từ 1954 – 1975, sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, miền Bắc và miền
Nam có 2 chế độ khác nhau, mỗi chế độ in tiền riêng, đều gọi là đồng. Ở
miền Nam, từ 1953, lưu hành Đồng (tiền Việt Nam Cộng hoà). Năm 1953,
tiền kim loại 10, 20, 50 xu được đưa vào lưu thông. 1960, có thêm tiền kim
loại 1 đồng, và 10 đồng năm 1964, 5 đồng năm 1966 và 20 đồng năm 1968. lOMoAR cPSD| 61256830
50 đồng đúc năm 1975 nhưng chưa kịp lưu hành thì Việt Nam Cộng hoà
sụp đổ. Vì thế rất hiếm đồng xu này còn tồn tại. 4. Nhận xét chung
Nhìn chung sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền
Bắc đã có những biến đổi căn bản sau: 4.1. Về ưu điểm:
- Đánh giá chung toàn bộ quá trình chuyển biến kinh tế miền Bắc
giai đoạn 1955-1975 ta thấy được các mục tiêu căn bản đã được hoàn thành,
một số lĩnh vực vượt chi tiêu đề ra. Nền kinh tế nước ta đã có nhiều những
đổi mới rõ nét, tích cực hơn và mở ra một thời kỳ mới nhiều triển vọng hơn.
Tạo ra được niềm tin và hy vọng về một tương lai xã hội mới tốt đẹp,
một cuộc sống hạnh phúc ấm no cho người dân. Người người nhà nhà đều
một lòng một dạ tin vào Đảng
Đời sống nhân dân miền Bắc được cải thiện một cách rõ rệt so với trước
Hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, tổ chức lại những ngành sản
xuất thủ công theo chủ nghĩa xã hội, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những
người buôn bán nhỏ, thực hiện chuyển một bộ phận những người buôn bán
nhỏ sang sản xuất và một bộ phận nữa thì lựa chọn, giáo dục để sử dụng
trong mạng lưới mậu dịch quốc doanh.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ngày càng được tăng
cường, lực lượng lao động xã hội được phân bổ hợp lý hơn. Cơ cấu nền
kinh tế quốc dân đã được dịch chuyển theo hướng tỷ trọng của công nghiệp
tăng lên. Trong công nghiệp, đã hình thành những ngành chủ yếu của công
nghiệp nặng. Sản xuất lương thực phát triển khá hơn, kim ngạch xuất khẩu
và nhập khẩu đều tăng
Đồng thời phát triển công nghiệp để phục vụ phát triển nông nghiệp,
điển hình là sử dụng máy móc thay cho sức người, tăng năng suất và sản
lượng. Sự học hỏi và tiếp thu nền công nghiệp của các nước phát triển đã
giúp cho trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta nâng lên một tầm cao mới.
Ngoài ra ta đã bước đầu kết hợp được công nghiệp quốc doanh trung
ương và địa phương, nền công nghiệp kỹ thuật hiện đại với nền công nghiệp
nửa cơ giới và thủ công, nền công nghiệp quy mô lớn với nền công nghiệp quy mô vừa và nhỏ. lOMoAR cPSD| 61256830
Thành tựu quan trọng là nước ta đã dần mở cửa, hội nhập thương
mại quốc tế để trao đổi hàng hóa, bước đầu thiết lập các mối quan hệ thương
mại với các nước trên thế giới.
Mô hình chính trị và hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa thời kỳ này rất có tác dụng trong chiến tranh. Đảng và Chính phủ đã
đưa ra những quyết định phù hợp với thực tiễn nước nhà để khôi phục và
phát triển nền kinh tế sau chiến tranh. Với chế độ công hữu và quản lý tập
trung kế hoạch hóa, với hệ thống chính trị thống nhất tập trung quyền lực
đã tập trung mọi nguồn lực của nhà nước, tất cả cho tiền tuyến, cho chiến thắng
=> Có thể nói, đây là những nhân tố quyết định thắng lợi cho kế
hoạch hồi phục và phát triển nền kinh tế miền Bắc nước ta giai đoạn này 4.2. Về hạn chế:
- Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quá trình xây dựng kinh tế
miền Bắc thời kỳ này cũng tồn tại một số hạn chế:
Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa chưa thực sự được củng cố
và hoàn thiện: cơ sở vật chất kỹ thuật còn non kém, sản xuất nhỏ là phổ
biến, năng suất lao động xã hội thấp; cơ cấu kinh tế còn bị mất cân đối
nghiêm trọng. Sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, phương
pháp quản lý kinh tế mang tính mệnh lệnh
Đời sống nhân dân tuy đã được cải thiện hơn trước nhưng còn nhiều khó khăn.
Mọi của cải đều được phân phối bình quân. Có thể nói, dường như
trong mọi hoạt động kinh tế, người lao động đều thờ ơ với công việc mình
đảm nhận, không khuyến khích con người ta lao động, triệt tiêu mất cái sức
cuốn hút con người ta lao vào sản xuất kinh doanh.Nền kinh tế do đó không
có động lực phát triển
Sự tập trung quyền lực cao độ, tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của
Đảng dẫn đến quyền tự do, dân chủ của nhân dân bị hạn chế và nền kinh tế
dễ bị can thiệp quá sâu, sự vận động thực tiễn của nền kinh tế dựa trên chế
độ công hữu và kế hoạch hóa tập trung tất yếu dẫn đến hình thành thể chế
chính trị tập trung quan liêu khó phát triển.
=> Chính vì vậy, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở nước ta
chỉ tồn tại được khoảng 30 năm, đến năm 1986, để cứu đất nước khỏi rơi
vào tình trạng khủng hoảng triền miên và ngày càng trầm trọng hơn, chúng
ta buộc phải chuyển đổi mô hình kinh tế tổng quát lOMoAR cPSD| 61256830
4.3. Bài học kinh nghiệm: -
Cần tôn trọng các quy luật khách quan, những nhận thức giản
đơn, giáo điều, cách làm chủ quan nóng vội sẽ kìm hãm sức sản xuất, dẫn
đến những kết quả ngược với mong muốn -
Việc tập trung nguồn lực cho phát triển công nghiệp theo
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trong điều kiện một nước công
nghiệp lạc hậu, không đủ điều kiện tiền đề cho nó, đã làm tăng thêm tình
trạng mất cân đối kinh tế -
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp chỉ phù hợp
trong điều kiện đất nước có chiến tranh, tuy nhiên cơ chế này càng bộc lộ
nhiều hạn chế: phương pháp quản lý mang nặng tính chất hành chính bao
cấp, hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế thấp, không tạo động lực cho
doanh nghiệp và người lao động IV.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trên thế giới hiện nay
Cuba và Triều Tiên là những ví dụ tiêu biểu cho nền kinh tế kế hoạch
tập trung, tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có những đặc điểm và kết quả riêng biệt. 1. Cuba
Đặc điểm chính của nền kinh tế. -
Tại Cuba, nền kinh tế kế hoạch tập trung được thể hiện rõ nét
quaviệc chính phủ nắm quyền kiểm soát hầu hết các hoạt động kinh tế quan
trọng. Các quyết định về sản xuất, phân bổ tài nguyên đều được thực hiện từ trung ương. -
Cuba tập trung rất nhiều vào ngành nông nghiệp, đặc biệt là
sản xuất đường, một lĩnh vực được quản lý chặt chẽ bởi nhà nước. -
Để đảm bảo sự công bằng trong phân phối hàng hóa, chính
phủ Cuba cũng đã thiết lập hệ thống phân phối lương thực và nhu yếu phẩm cơ bản cho người dân.
Thách thức và khủng hoảng kinh tế vào những năm 1990. -
Phụ thuộc quá nhiều vào Liên Xô: Nền kinh tế của Cuba phụ
thuộc nhiều vào viện trợ và thương mại từ Liên Xô. Sự sụp đổ của Liên Xô
vào năm 1991 dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng với sự
thiếu hụt lương thực, nhiên liệu và các nhu yếu phẩm khác. lOMoAR cPSD| 61256830 -
Thiếu đa dạng hóa: Việc tập trung vào xuất khẩu đường và
công nghiệp hóa hạn chế làm cho nền kinh tế Cuba dễ bị tổn thương trước
các cú sốc từ bên ngoài.
Kết quả và tình hình hiện tại. -
Từ những năm 1990, Cuba đã thực hiện các cải cách kinh tế
dần dần, cho phép các doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài hoạt
động một cách hạn chế. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn phụ thuộc chủ yếu vào nhà nước. -
Tình hình hiện tại: Mặc dù đã cải cách, Cuba vẫn tiếp tục đối
mặt với các thách thức kinh tế, bao gồm các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ,
thiếu hụt hàng hóa, lương thực, lạm phát cao, bất ổn xã hội và sự thiếu tiếp
cận với các thị trường toàn cầu. Việc duy trì một mô hình kinh tế tập trung
và sự phụ thuộc lớn vào các nguồn thu như du lịch khiến quá trình hồi phục
trở nên khó khăn. Các nỗ lực cải cách chưa đủ để tạo ra những những thay
đổi đáng kể trong bối cảnh hiện tại. 2. Bắc Triều Tiên
Đặc điểm chính của nền kinh tế -
Dưới thời Kim Nhật Thành, Triều Tiên áp dụng tư tưởng
Juche, nhấn mạnh sự tự lực và kế hoạch hóa tập trung, trở nên cô lập hơn
với nền kinh tế toàn cầu. -
Tất cả tài sản và phương tiện sản xuất đều thuộc sở hữu của
nhà nước, với các ngành công nghiệp nặng được ưu tiên hơn các mặt hàng tiêu dùng. -
Tương tự như mô hình Liên Xô, Triều Tiên thực hiện các “kế
hoạch Năm năm” để đặt ra các mục tiêu sản xuất, tập trung vào công nghiệp
nặng và năng lực quân sự. -
Triều Tiên theo đuổi chính sách tự cung tự cấp, giảm sự phụ
thuộc vào thương mại nước ngoài, đặc biệt sau sự chia rẽ giữa Trung Quốc và Liên Xô. Thách thức -
Cô lập kinh tế: Chính sách cô lập của Triều Tiên hạn chế
thương mại và đầu tư nước ngoài, dẫn đến sự kém hiệu quả và thiếu hụt. -
Nạn đói thập niên 1990: Sự sụp đổ của Liên Xô và thiên tai đã
góp phần vào một nạn đói tàn khốc, khiến hàng triệu người thiếu lương thực. lOMoAR cPSD| 61256830 -
Thiếu linh hoạt: Hệ thống kế hoạch tập trung cứng nhắc gặp
khó khăn trong việc thích ứng với các điều kiện toàn cầu thay đổi, dẫn đến
sự kém hiệu quả kinh niên.
Kết quả và tình hình hiện tại. -
Tình hình kinh tế khó khăn kết hợp với căng thẳng quốc tế và
sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền khiến tương lai của Triều Tiên rất
khó đoán. Việc duy trì chính sách đối đầu và tiếp tục phát triển vũ khí hạt
nhân khiến nước này tiếp tục bị cô lập và chịu các biện pháp trừng phạt,
làm hạn chế các cơ hội phát triển kinh tế. -
Vấn đề nhân đạo: Thiếu hụt lương thực kinh niên, cơ sở hạ
tầng kém và hạn chế tiếp cận với các thị trường toàn cầu góp phần vào
những thách thức nhân đạo đang tiếp diễn. V. Kết luận -
Nền kinh tế kế hoạch tập trung tại miền Bắc Việt Nam 1954-
1975 đã đặt nền móng cho con đường xã hội chủ nghĩa của đất nước. Mô
hình này đã giúp ta đạt được những thành tựu to lớn trong cuộc kháng
chiến, giúp miền Bắc duy trì công cuộc đấu tranh cho đến khi thống nhất
đất nước vào năm 1975. Đây cũng là giai đoạn đã hun đúc nên tinh thần tự
cường và tự lực cánh sinh, đóng góp tích cực đến đường lối chính sách đối
ngoại của Việt Nam trong những năm sau chiến tranh. -
Tuy nhiên, hệ thống này cũng bộc lộ nhiều hạn chế và kém
hiệu quả. Sự kiên trì với hợp tác hóa và công nghiệp nặng, mặc dù cần thiết
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ quyền quốc gia, đã dẫn đến những
hậu quả kinh tế nghiêm trọng, sự cạn kiệt tài nguyên và phụ thuộc vào viện
trợ bên ngoài. Sự cứng nhắc của hệ thống kế hoạch hóa cũng làm hạn chế
khả năng đổi mới và linh hoạt, gây ra sự kém hiệu quả trong cả nông nghiệp và công nghiệp. -
Về lâu dài, những khó khăn tài chính cùng sự trì trệ trong thời
kỳbao cấp đã góp phần thúc đẩy sự chuyển đổi của Việt Nam sang một nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới
vào những năm 1980. Việt Nam hiện nay đã và đang tích cực tham gia các
hiệp định thương mại tự do (FTA) và hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn
cầu. Sự linh hoạt, sáng tạo và không ngừng đổi mới chính là những nhân
tố then chốt giúp Việt Nam vượt qua những thách thức của quá khứ và phát
triển mạnh mẽ trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.