lOMoARcPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN - DU LỊCH
BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Mặc dù thế giới quan của tôn giáo đối lập với thế giới quan của chủ nghĩa
Mác - Lênin nhưng hiện nay, tôn giáo vẫn có ảnh hưởng khá lớn trong đời sống xã
hội ở việt nam. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, hãy đề xuất các
giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống
xã hội ở Việt nam hiện nay.
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thu Hà
Lớp học phần: 231_HCMI0121_05
Mục Lục
Phần I. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin về tôn giáo 4
1.1 Tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội................................................4
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...7
1.2.1. Bản chất của tôn giáo.........................................................................................7
lOMoARcPSD| 45740413
1.2.2. Nguồn gốc của tôn giáo.....................................................................................8
1.2.3. Tính chất của tôn giáo.......................................................................................9
1.2.4. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội..............................................................................................................................10
1.3. Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam...............................................................10
Phần II. Thực trạng và phân tích thực trạng về sự ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo lên xã
hội ( nêu ví dụ tiêu biểu và phân tích ).............................................................................11
2.1. Khái quát về tôn giáo.............................................................................................11
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực................................................................................................12
2.2.1. Quan niệm của mác xuất hiện trong tác phẩm :Câu nói nổi “Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”...................................................................12
2.2.2. Các biểu hiện tiêu cực của tôn giáo.................................................................13
2.2.3. Ví dụ tiêu biểu của việc lợi dụng tôn giáo gây rối trong xã hội.......................14
2.3. Ảnh hưởng tích cực................................................................................................15
Phần III. Giải pháp đề xuất...............................................................................................17
3.1. Đảm bảo tự do tín ngưỡng.....................................................................................17
3.2. Phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo...........................................................18
3.3 Các biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức dân chúng....................................19
3.4. Bài trừ tà đạo và bảo hộ chính đạo.........................................................................19
3.5. Tiếp tục thực hiện công tác quản lý tôn giáo theo pháp luật..................................20
Phần IV. Kết luận.............................................................................................................20
lOMoARcPSD| 45740413
Phần I. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin về tôn giáo
1.1 Tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
* Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi một trong ba phát minh quan trọng nhất của
chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo một trong những biểu hiện nét nhất lập
trường duy vật về lịch scủa học thuyết này. Nó thể hiện thông qua c quan điểm của chnghĩa
Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn giáo.
Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo nguồn gốc từ siêu nhiên, thế giới tự
nhiên, hội loài người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực ợng siêu nhiên, thần thánh
thì các nhà duy vật, thần đã quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiobac - nhà triết học duy
vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh sáng tạo
ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình. Tuy nhiên, Phoiobac
chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía cạnh này, ông vẫn chưa thoát khỏi quan
điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phế phán tôn giáo nói chung,
càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Thậm
chí, ông còn cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ tôn giáo khác thay thế, đó “tôn giáo tình
yêu” để xóa bỏ đi những áp bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa vượt lên quan điểm Phoiobac các nhà duy vật trước đó, các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để giải vẫn đề bản chất
của tôn giáo. Theo đó, ý thức hội sự phản ánh tồn tại hội, do tồn tại hội quyết định.
Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần, xét đến cùng,
đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một hiện tượng tinh thần xã hội vì vậy, nó là
một trong những hình thái ý thức hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với
hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược” , “hoang đường” thế giới khách
quan.Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội dung của con người
giới tự nhiên, việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế bên kia thế giới,
lOMoARcPSD| 45740413
Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con người giới tự nhiên một chút ân
huệ của mình”.
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, n giáo sự phản ánh một cách biến dạng,
sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, tôn giáo
sự nhân cách a giới tự nhiên, sự đánh mất bản chất người”.Chính con người đã khoác
cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người
có chỗ dựa, được che chở, an ủi - dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện
tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản
chất của chính mình và đã thần thánh hóa nó như một bản chất xa lạ nào đó. Lột tả bản chất của
tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo chẳng qua sự phản ánh ảo - vào đầu óc con người - của
những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Vấn đề đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư ảo” của tôn
giáo? Tại sao con người lại nhu cầu n giáo đặt niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy?
Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện
tồn tại của tôn giáo chính điều kiện kinh tế - hội. Trong lịch sử tiến hóa của ình, trước
hết con ngườinhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của mình. Nhưng do trình độ khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm
thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu
nhiên. Đó chính sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi hội sự
phân chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, một bộ phận người
dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự
phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo
lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng nguyên nhân khiến người ta tìm đến dựa vào sự che
chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong những
thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được phản
lOMoARcPSD| 45740413
ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực
lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp
Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn có cả những lục lượng xã
hội tác động - những lực lượng này đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài
giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong hiện
thực và phản ánh chính hiện thục đó - một hiện thực cần có tôn giáo và có điều kiện để tôn giáo
xuất hiện và tồn tại. Trong phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo
nàn của tôn giáo vừa biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa sự phản kháng chống sự
nghèo nàn thực hiện ấy. Tôn giáo tiếng thdài của chúng sinh bị áp bức, trái tim của thế
giới không trái tim, cũng như tinh thần của những trật tự không tinh thần. Tôn giáo
thuốc phiện của nhân dân”. Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện nguồn gốc, bản chất,
chức năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử.
Với C.Mác, tôn giáo như là “ vầng hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu
sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn
cho những số phận nhỏ, bất lực trước các hiện tượng áp bức, bất công của hội thì họ chỉ
còn biêt “thở dài” âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ
không thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim” trong
tưởng tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở che tiếp thêm sức
mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn khẳng định
tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn
giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy,
người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó
còn cần dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo
như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng,
chỉ là “ sự đền bù hư ảo”.
lOMoARcPSD| 45740413
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc sự phản ánh hoang
đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó không phải không
những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ những “bông hoa giả” điểm cho một cuộc sống hiện
thực đầy “xiềng xích” mà thôi. Và nếu không có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ phải
vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực vơi đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử tính cách mạng trong học thuyết
Mác về tôn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản
thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn giáo phê phán chính cái hiện thc đã
làm nảy sinh tôn giáo, tức pphán sự áp bức, bất công, bạo lực…trong hội đã đẩy
con người phải tìm đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhận thấy rất
rõ quan hệ nhân - quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng tinh thần có nguyên
nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xóa bỏ tôn giáo , không có cách nào khác phải
xóa bỏ cái hiện thực đã làm nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề không phải “vứt những
bông hoa giả” đi mà là xóa bỏ bản thân cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bông
hoa giả đó để con người thể giơ tay hái những bông hoa thật” cho mình, tức tìm
kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định
rằng, muốn xóa bỏ tôn giáo và giải phóng con người khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước
hết phải đấu tranh giải phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xóa bỏ chế độ áp
bức bất công, nâng cao trình độ nhận thức cho người dân xây dựng một hội mới
không còn tình trạng người bóc lột người , đó là một xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan, thông qua
sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử
hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo một hiện tượng hội phản ánh sự bất
lOMoARcPSD| 45740413
lực, bế tắc của con người trước tự nhiênxã hội.. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số
giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội.
1.2.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử hội loài người, hoàn thiện biến đổi cùng
với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện biến đổi đó gắn liền
với các nguồn gốc sau:
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người
cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hoá những sức mạnh đó. Đó hình thức tồn tại
đầu tiên của tôn giáo.
Khi hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức
mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát hoặc của thế
lực nào đó của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc
lột, tội ác, v.v., của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường hướng niềm tin ảo
tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế,
áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội nguồn gốc sâu xa của tôn
giáo
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, khả năng nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội
và bản thân con người giới hạn nên khi sự xuất hiện tồn tại của tôn giáo, con người
ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các khái
niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hđến mức ảo thì sự vật,
hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lệch
hiện thực.
Nguồn gốc tâm lí:
lOMoARcPSD| 45740413
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra thần linh". V.I. Lênin
tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản..., sự phá sản "đột ngột",
"bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc
sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo làm nảy sinh
những tình cảm như ng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu trong quan hệ giữa con người với tự
nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo.
1.2.3. Tính chất của tôn giáo
Tính lịch sử:
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là một
phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người. Tôn giáo
chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ 5 nhất định. Tôn
giáo sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp
với kết cấu chính trị hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tôn giáo cũng sự thay đổi,
điều chỉnh theo.
Đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi khoa học giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng
nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất
đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
Tính quần chúng của tôn giáo:
Tôn giáo một hiện tượng hội phổ biến tất cả các dân tộc, quốc gia, châu lục. Không
chỉ vậy, tôn giáo còn nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ quần chúng nhân n lao
động.
Tính chính trị của tôn giáo:
Xuất hiện khi hội đã phân chia giai cấp, sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích giai
cấp. Giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình; đấu tranh tôn
giáo một bộ phận của đấu tranh giai cấp; n giáo thay đổi cùng với sự thay đổi của quan hệ
chính trị - giai cấp.
lOMoARcPSD| 45740413
Trong nội bộ các tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái... nhiều khi cũng mang
tính chính trị.
1.2.4. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sự biến đổi
nhiều mặt, như vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Tôn trọng, đảm bảo quyền do tín ngưỡng không tín ngưỡng của nhân dân. Cần
phải nhận thức rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo không phải
mọi tôn giáo những sinh hoạt tôn giáo hay tất cả những tín đồ tôn giáo nói chung, chỉ
những bộ phận người lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng,
gây rối trật tự trị an, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.
Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo
xã hội củ, xây dựng xã hội mới. điều đó nói lên rằng: muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần
phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người,
phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn
giáo gián tiếp đấu tranh với cái thế giới đang cần ảo tưởng. Điều cần thiết trước hết phải
xác lập được một thế giới hiện thực không áp bức, bất công, nghèo đói thất học… cùng
những tệ nạn nảy sinh trong xã hội.
Cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo, bởi vì: ở những thời
kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống hội không như nhau.
Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống hội luôn
có sự khác biệt. Vì vậy cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối
với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn
giáo: phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm tránh khuynh
hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo.
1.3. Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa n tộc, đa tôn giáo. Ước tính khoảng 80% dân số Việt Nam
đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo như: Phật giáo
lOMoARcPSD| 45740413
khoảng 10 triệu tín đồ, Công giáo gần 6 triệu tín đồ, Cao Đài khoảng 2,3 triệu tín đồ, Hòa Hảo
khoảng 1,3 triệu n đồ, Đạo Tin Lành gần 1 triệu tín đồ, Hồi giáo 70.000 tín đồ. Ngoài ra còn
hàng triệu người theo các tôn giáo bản địa như Tịnh độ sĩ, Bửu sơn Kỳ hương, Tứ ân Hiếu
nghĩa, Minh đạo các tôn giáo mới du nhập vào như đạo Bahai... Các tổ chức tôn giáo
nước ta đã xây dựng được một lực lượng chức sắc, các nhà tu hành những người hoạt động
tôn giáo chuyên nghiệp đông đảo. Số chức sắc, chức việc này là lực lượng lãnh đạo các tổ chức
tôn giáo như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 25 Giáo phận Công giáo, 9 Hội thánh Cao Đài, Hội
thánh đạo Tin Lành Việt Nam (miền Bắc), Hội thánh đạo Tin Lành Việt Nam (miền Nam), Giáo
hội Phật giáo Hòa Hảo, Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh... đã được
Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân.
Khái quát một số nét về các tôn giáo ở Việt Nam để thấy đây là vấn đề lớn, phức tạp, đòi
hỏi chúng ta phải có chủ trương, chính sách thích hợp trong hoàn cảnh và điều kiện mới, nhất là
khi nước ta mở cửa, hội nhập quốc tế và các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lợi dụng vấn đề
tôn giáo để tập hợp quần chúng nhằm chống phá cách mạng nước ta với âm mưu "diễn biến hòa
bình".
Phần II. Thực trạng và phân tích thực trạng về sự ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo lên
xã hội
2.1. Khái quát về tôn giáo
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách
hoang đường, ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những hiện
tượng tự nhiên trở thành siêu nhiên. Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ sự phản ánh ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ sự phản ánh trong những lực lượng
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. C.Mác và Ph.Ăngghen còn cho rằng,
tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch sử; một lực lượng xã hội trần thế.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử
xã hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế
tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
lOMoARcPSD| 45740413
Tuy nhiên, tôn giáo ng chứa đựng trong một số nhân tố còn phù hợp. C.Mác khẳng
định: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa sự phản
kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo tiếng thở dài của chúng sinh b áp bức,
trái tim của thế giới không trái tim, cũng giống như tinh thần của những trật tự không
có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy vật mácxit và thế giới quan tôn giáo
là đối lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mácxit hông bao
giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tôn giáo của nhân dân.
Mục tiêu cộng sản chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa là hướng tới xây dựng một xã hội mà trong
đó không còn những khác biệt giai cấp, không còn chế độ tư hữu, không còn chế độ áp bức bóc
lột và bất bình đẳng giữa người với người. Xã hội ấy chính là xã hội mà quần chúng tín đồ cùng
từng ước mơ và phản ánh nó qua một số tôn giáo.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và “ thiên đường” mà các tôn giáo thường
hướng tới chỗ trong quan niệm tôn giáo, “thiên đường” không phải hiện thực hội
là ở “thế giới bên kia”, trên “thượng giới”. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng tới
con người vào xã hội văn minh, hạnh phúc ngày nay ở trên thế giới hiện thực, do mọi người xây
dựng và vì mọi người.
Với lập trường duy vật lịch sử, V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: “Đối với chúng ta , sự thống nhất
của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc
trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên
thiên đường”.
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
2.2.1. Quan niệm của mác xuất hiện trong tác phẩm : Câu nói nổi “Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”
“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”
* Trích: “TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN - CẦN HIỂU ĐÚNG LUẬN
ĐIỂM CỦA MÁC” của Trường chính trị Bình Định
Trước hết xin trích nguyên đoạn văn tập trung vào nội dung này, Mác viết: “Sự nghèo nàn
của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa sự phản kháng chống sự nghèo
lOMoARcPSD| 45740413
nàn hiện thực ấy. Tôn giáo tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, trái tim của thế giới không
có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần.
Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.”
Vào thời của Mác, trên một số diễn đàn khoa học ở Đức, cũng có một số nhà nghiên cứu
thường ví tôn giáo với thuốc phiện bởi thời bấy giờ, thuốc phiện được coi là thứ thuốc giảm đau
các bác thường sử dụng để trị bệnh. Khi nêu lên luận điểm “Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân”, Mác đã coi tôn giáo như một liều thuốc xoa dịu những nỗi đau thực tại.
Theo nghĩa khác, tôn giáo cũng sự “ru ngủ” bằng những hạnh phúc ảo tưởng, làm tê
liệt ý chí đấu tranh của nhân dân, vậy, tôn giáo hay thuốc phiện cũng đều không thể nào
xoá bỏ đi những nỗi đau thực tế.
Bởi vậy, theo Mác, cần xóa bỏ cái hạnh phúc ảo tưởng tôn giáo mang lại cho nhân
dân, Mác viết: “Xóa bỏ tôn giáo, với tính cách xóa bhạnh phúc ảo tưởng của nhân dân,
yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Yêu cầu từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh
của mình cũng là yêu cầu từ bỏ cái tình cảnh đang cần ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn
giáo hình thức manh nha của sự phê phán cuộc sống khổ ải tôn giáo vòng hào quang
thần thánh của nó.
2.2.2. Các biểu hiện tiêu cực của tôn giáo
1. Gây xung đột và bất đồng: Sử dụng tôn giáo để thúc đẩy phản động thường dẫn đến sự
xung đột và bất đồng tôn giáo trong xã hội. Điều này có thể dẫn đến bạo lực tôn giáo
và gây hại cho cộng đồng.
2. Sự phân chia trong hội: Việc sử dụng tôn giáo để chia rẽ người dân dựa trên tôn
giáo thể làm gia tăng sự phân chia căng thẳng trong xã hội, đe dọa sự đoàn kết
và hòa bình.
3. Tăng cường áp lực chính trị: Chính quyền thể tăng cường áp lực kiểm soátđối
với các tôn giáo tín đồ, dẫn đến việc hạn chế tự do tôn giáo quyền tự do ngôn
luận.
lOMoARcPSD| 45740413
4. Tác động đến quốc gia: Tôn giáo thể được sử dụng như một công cđể đánh đổhoặc
thay thế chính quyền hiện tại, có thể dẫn đến sự biến đổi chính trị và xã hội ở quốc gia
đó.
5. Sự tổn hại đến hòa bình toàn cầu: Nếu sử dụng tôn giáo để thúc đẩy phản động vàbạo
lực, điều này có thể có tác động tiêu cực đến hòa bình và ổn định toàn cầu.
6. Một số “tà đạo” đã chối bỏ văn minh, truyền thống văn hóa, đạo đức, thuần phongmỹ
tục của người Việt, có biểu hiện mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, có biểu hiện
xâm phạm nhân phẩm, sức khỏe con người, gây ảnh hưởng tới các mối quan hệ xã hội,
làm thay đổi và xáo trộn về nếp sống, tập quán truyền thống của nhân dân.
7. Sử dụng tôn giáo nhằm đạt mục đích lợi (tiền tài, danh vọng) riêng.Một trong những
biểu hiện tiêu cực của tôn giáo việc sử dụng tôn giáo nhằm đạt mục đích lợi
nhân.
2.2.3. Ví dụ tiêu biểu của việc lợi dụng tôn giáo gây rối trong xã hội
Theo thống của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính đến tháng 12-2022, cả nước
khoảng 85 “tà đạo, tạp đạo”, tổ chức bất hợp pháp mang danh nghĩa tôn giáo. Trong số
các “tà đạo”, có những loại hoạt động trái với chuẩn mực đạo đức xã hội và truyền thống
văn hóa, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, khởi động các phong trào chống phá nhà nước,
chính phủ.
Hội Thánh đức Chúa trời mẹ” ( nguồn gốc từ Hàn Quốc ) hội này đã phát triển
mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở hơn 20 tỉnh, thành phố với hàng nghìn người tham gia,
nhất là ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa… Hội này buộc mỗi
người đã được làm lễ Baptem phải lôi kéo thêm ít nhất một người vào tổ chức. Bên cạnh
đó, các tín đồ bị ép buộc dâng hiến 1/10 thu nhập, nhưng đây lại là điểm họ không công
khai, minh bạch về tài chính. Đây hành vi “Lợi dụng hành nghề tín để trục lợi”, bị
pháp luật ngăn cấm. Việc xúi giục tín đồ bỏ bàn thờ, bất kính cha mẹ, chỉ tin thờ “Đức
Chúa Trời Cha Đức Chúa Trời Mẹ” đi ngược lại đạo đức truyền thống văn hóa
người Việt
lOMoARcPSD| 45740413
Việt Nam, những năm qua, đạo thường xuất hiện phát triển mạnh vùng
nông thôn, vùng sâu xa, nhất địa bàn Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc. Các tổ chức
này đã thu hút được một số lượng người tin theo, trong đó có tà đạo đã lôi kéo hàng nghìn
người tham gia, sinh hoạt tại nhiều địa phương.
Tại Tây Nguyên, năm 1999, số đối tượng FULRO lưu vong Mỹ đã tuyên bố thành
lập cái gọi “Nhà nước Đềga”, đồng thời chúng móc nối với số đối tượng phản động trong
các dân tộc thiểu số hai tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai lập ra cái gọi Tin lành Đề ga” để lôi
kéo, tập hợp đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên tham gia “Nhà nước Đề ga” dưới
ngọn cờ tôn giáo dân tộc để kích động ly khai thành lập nhà nước cho người dân tộc
thiểu số Tây Nguyên; tại Tây Nam Bộ, số đối tượng phản động tăng cường sử dụng
Internet, báo, đài nhằm kích động tưởng “ly khai” vào vùng đồng bào dân tộc Khmer
theo Phật giáo Nam tông, lập “Chính phủ Khmer Krôm lưu vong”, tiến đến thành lập “Nhà
nước Khmer Krôm” trên vùng đất Tây Nam Bộ…; tại vùng dân tộc thiểu số miền núi phía
Bắc, số đối tượng phản động, cốt cán hoạt động “Nhà nước Môngchủ trương phát triển
sở trong đạo Tin lành để tập hợp lực lượng, ráo riết móc nối, lôi kéo số chức sắc, số cầm
đầu các điểm nhóm đạo Tin lành tham gia thành lập “Nhà nước Mông” tự trị…
2.3. Ảnh hưởng tích cực
Với tư cách là thực thể xã hội, tôn giáo luôn có vai trò và đóng góp nhất định trong
các mặt đời sống hội, tạo nên sự đa dạng phong phú trong nền văn hóa của dân tộc,
góp phần hình thành những giá trị đạo đức cho quần chúng nhân dân. Những giá trị n
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo đã góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội giữa
con người với con người và quan hệ giữa con người với tự nhiên, góp phần xây dựng nền
đạo đức mới nhân cách con người Việt Nam hiện nay trong một chừng mực nhất định.
Những giá trị đó cũng góp phần không nhỏ trong việc khắc phục những hạn chế của sự suy
thoái đạo đức do tác động tiêu cực của chế thị trường hiện nay. Thực tế cho thấy, “ở
những nơi tôn giáo ổn định, đông tín đồ thì các tệ nạn hội ít hơn, trật tự ổn định
lối sống đạo đức nề nếp hơn”.
lOMoARcPSD| 45740413
Tôn giáo góp phần xây dựng, củng cố các giá trị đạo đức, luân lý ở mỗi nhân, gia
đình hội, đồng thời khắc phục những hạn chế của sự suy thoái đạo đức do tác động
tiêu cực của hội, góp phần đảm bảo sự bình an tinh thần cho một bộ phận nhân dân. Đạo
đức tôn giáo một bộ phận của đạo đức hội gắn kết chặt chvới đạo đức hội.
Đạo đức tôn giáo đạo đức hội đều hướng con người tới cái thiện, loại trừ cái ác, đề
cao tính cộng đồng, bình đẳng giữa người với người, điều chỉnh hành vi đạo đức của con
người, xây dựng một trật tự tinh thần trong xã hội.
Bên cạnh đó, các tôn giáo còn tham gia vào việc bảo tồn phát huy giá trị di sản
văn hóa của dân tộc nhân loại. Do đó, tôn giáo vai trò quan trọng đối với việc y
dựng nếp sống văn hóa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Các tôn giáo, trong quá trình
phát triển, không chỉ chuyển tải niềm tin của con người, mà còn góp phần duy trì đạo đức
hội trần thế. ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với
cách một bộ phận của ý thức hệ, các tôn giáo đã đem lại cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc,
mỗi khu vực những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập
quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
Tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội, tâm lý, đạo đức, lối sống,
phong tục, tập quán của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mỗi tôn giáo chứa
đựng nhiều nội dung phong phú về lịch sử, tưởng đạo đức, văn hóa, nên nó sức mạnh chi
phối đến sự phát triển các lĩnh vực hội, chính trị. Đóng góp của tôn giáo cho văn a nhân
loại được thể hiện trên các lĩnh vực: văn học, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, điêu khắc, lối sống,
đạo đức dưới các dạng vật thể và phi vật thể. Phật giáo đã góp phần làm nên các công trình mỹ
thuật đặc sắc, như chùa, tháp, tượng Việt Nam. Việc hội nhập phong cách, kiến trúc phương Tây
của Công giáo, Hồi giáo đã góp phần giao thoa hội nhập n hóa dân tộc. Kinh thánh, kinh
phật và các giáo lý tôn giáo là kho tàng văn hóa, lịch sử rất phong phú cần được khai thác, cùng
với lịch sử văn hóa dân tộc; sự ra đời và phát triển các tờ báo tôn giáo đã góp phần truyền tải giá
trị tôn giáo và giá trị văn hóa dân tộc, làm cho văn hóa tôn giáo gần gũi, quen thuộc hơn với văn
hóa Việt Nam và ngược lại, văn hóa Việt Nam được diễn tả trong các lễ nghi đặc sắc tôn giáo.
lOMoARcPSD| 45740413
Các giá trị văn hóa tôn giáo luôn là một trong những chất liệu tinh thần (tâm linh) kết nối
các tôn giáo với nhau, các cộng đồng tôn giáo với các cộng đồng không tôn giáo với nhau, góp
phần tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựngphát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình lịch sử giải phóng xã hội của dân tộc và đất nước.
Việt Nam hiện nay, đời sống vật chất tinh thần của người dân không ngừng được
nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có một bộ phận quần chúng nhân dân đang gặp những
khó khăn trong cuộc sống. Với truyền thống “tương thân tương ái”, “lá lành đùm rách” của
người Việt Nam, nhiều nhân tổ chức, trong đó các tổ chức tôn giáo, đã tham gia công
tác thiện nguyện. Trên thực tế, tôn giáo tham gia rất tích cực trong công tác từ thiện xã hội, cứu
tế an sinh góp phần quan trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Như vậy,
ở một mức độ nhất định, hoạt động từ thiện xã hội, cứu tế an sinh của các tôn giáo đã góp phần
cùng với Nhà nước giải quyết vấn đề an sinh hội. Thông qua đó, các tầng lớp hội gắn bó,
đoàn kết và tạo sự đồng thuận giữa các tầng lớp xã hội với Nhà nước.
Phần III. Giải pháp đề xuất
3.1. Đảm bảo tự do tín ngưỡng
Tự do tín ngưỡng là một quyền cơ bản của con người, được quy định trong Hiến pháp
và pháp luật Việt Nam. Để đảm bảo tự do tín ngưỡng, cần thực hiện các giải pháp sau:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, đảm bảo phù hợp với
Hiến pháp và các quy định quốc tế về nhân quyền.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về tự do tín ngưỡng
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về tự do tín ngưỡng, nâng cao nhận thức của
nhân dân về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật
Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, góp phần
phát huy vai trò tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội.
lOMoARcPSD| 45740413
3.2. Phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo
Cực đoan tôn giáo một hiện tượng xã hội phức tạp, xảy ra khi một cá nhân hoặc
nhóm người sử dụng tôn giáo để biện minh cho những hành động bạo lực, thù địch, chống
đối chính quyền, gây mất ổn định xã hội
Cực đoan tôn giáo có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm:
Lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền, kích động bạo lực
Tổ chức, thực hiện các hành vi bạo lực, khủng bố
Tạo dựng các nhóm đối lập, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong xã hội
Tuyên truyền, cổ xúy cho các quan điểm cực đoan, hận t
Cực đoan tôn giáo gây ra nhiều tác hại cho xã hội, bao gồm:
Gây mất ổn định chính trị, xã hội
Gây thiệt hại về người và tài sản
Gây chia rẽ, mất đoàn kết trong xã hội
Ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của tôn giáo
Để phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo, cần thực hiện các giải pháp sau:
Nhận diện và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước
Cần nhận diện ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà
nước, gây mất ổn định chính trị, xã hội.
Tăng cường giáo dục đạo đức, văn hóa, lối sống cho tín đồ
Tăng cường giáo dục đạo đức, văn hóa, lối sống cho tín đồ, giúp họ hiểu rõ hơn về
tôn giáo, tránh bị lợi dụng, kích động.
Khuyến khích các hoạt động tôn giáo lành mạnh
Khuyến khích các hoạt động tôn giáo lành mạnh, góp phần xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
3.3 Các biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức dân chúng
Tuyên truyền, giáo dục là một giải pháp quan trọng để đảm bảo tự do tín ngưỡng
phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo. Cần thực hiện các biện pháp tuyên truyền nâng
cao nhận thức dân chúng sau:
lOMoARcPSD| 45740413
- Tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luậtcủa Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
- Tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luậtcủa Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, giúp nhân dân hiểu quyền và trách nhiệm của
mình trong việc thực hiện tự do tín ngưỡng.
- Tuyên truyền, giáo dục về tác hại của hiện tượng cực đoan tôn giáo
- Tuyên truyền, giáo dục về tác hại của hiện tượng cực đoan tôn giáo, giúp
nhândân nâng cao ý thức cảnh giác, phòng tránh các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống
phá Nhà nước.
3.4. Bài trừ tà đạo và bảo hộ chính đạo
đạo những giáo, dị giáo, không được pháp luật công nhận. Tà đạo thường
những hoạt động tín, dị đoan, gây mất đoàn kết, chia rẽ trong nội bộ các tôn giáo,
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội. Để bảo vệ chính đạo, cần thực hiện các giải pháp
sau:
Nhận diện và ngăn chặn các hoạt động của tà đạo
Cần nhận diện ngăn chặn các hoạt động của đạo, giúp nhân dân tránh bị lôi
kéo, dụ dỗ.
Nâng cao nhận thức của nhân dân về tác hại của tà đạo
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về tác hại của đạo, giúp nhân dân hiểu
tránh xa tà đạo.
Bảo vệ quyền lợi chính đáng của tín đồ các tôn giáo
Bảo vệ quyền lợi chính đáng của tín đồ các tôn giáo, giúp họ yên tâm thực hiện các
hoạt động tôn giáo lành mạnh.
Việc đảm bảo tự do tín ngưỡng phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo là một
nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Các giải pháp đề xuất trên đây
là một số giải pháp cần thiết để thực hiện nhiệm vụ y. 3.5. Tiếp tục thực hiện công tác
quản lý tôn giáo theo pháp luật.
Hoạt động tôn giáo là hoạt động liên quan và ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời
sống hội, liên quan tới lợi ích chung của xã hội lợi ích quốc gia. Do đó, mọi hoạt
lOMoARcPSD| 45740413
động của các tổ chức tôn giáo cần phải quản theo pháp luật, kiên quyết xử các đối
tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo m ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo đảm
hoạt động tôn giáo được tiến hành có trật tự. Tôn giáo cần phải hoạt động trong khuôn khổ
của Hiến pháp pháp luật; hoạt động tôn giáo không được cản trở trật tự hội, trật tự
công cộng và sinh hoạt bình thường của người dân. Phần IV. Kết luận
Nguyên nhân chung dẫn tới ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo lên đời sống xã hội
Về nguyên nhân nhận thức: Thế giới khách quan cùng tận, nhiều hiện tượng tự
nhiên đến nay con người vẫn chưa giải thích được. Do vậy tâm sợ hãi, trông chờ và nhờ
cậy, tin tưởng vào thần thánh…chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong hội, trong
đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Về nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào
trong tiềm thức của nhiều người dân. Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức hội,
thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại hội, trong đó tôn giáo lại là một trong những
hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần,
ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ
đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.
Về nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn
phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó
mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo,
khủng bố, bạo loạn, lật đổ… còn xảy ra ở nhiều nơi.
Về nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá
độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo chế thị trường. Sự bất bình đẳng về kinh
tế, văn hoá, hội vẫn một thực tế. Đời sống vật chất của người dân chưa cao thì con người
càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên may rủi. Điều đó làm con người
có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
lOMoARcPSD| 45740413
Với bề dày lịch sử tồn tại, tôn giáo cho đến tận bây giờ vẫn đang hoạt động mạnh
mẽ nắm một vị trí quan trọng trong hội con người. Trong quá trình phát triển lan
truyền trên bình diện thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần truyền tải niềm tin của con
người, còn vai trò truyền tải, hòa nhập văn hóa văn minh, góp phần duy trì đạo
đức hội. hình thức phản ánh đặc thù phản ánh ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã
góp phần chế ngự các hành vi đạo đức góp phần làm cho xã hội ngày càng ổn định, nề nếp.
Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Tôn giáo đã đem lại cho
cộng đồng hội trong mỗi khu vực mỗi quốc gia mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo
thể hiện trong cách ứng xử lối sống phong tục tập quán trong các yếu tố văn a vật chất
cũng như tinh thần.
Bên cạnh những mặt tích cực đó, ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo cũng là một trong
những vấn đề nóng cần được chú ý, không chỉ riêng đối với chủ nghĩa xã hội. Việt Nam là
một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Trong những năm vừa qua, nhu cầu tín ngưỡng
tôn giáo của nhân dân ta có xu hướng gia tăng, hoạt động của các tổ chức tôn giáo tiếp tục
diễn ra phức tạp. không ít các nhân, tổ chức lợi dụng tôn giáo để lợi, mị dân, lan
truyền những tưởng phong tục trái với đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Về chính trị, các thế lực thù địch luôn chực chờ lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá
cách mạng nước ta ngày càng thâm độc. Tất cả những tác động đó đã làm ảnh hưởng tiêu
cực đến đời sống xã hội của nhân dân ta và ngày càng gia tăng trong tình hình hiện nay.
Chính thế việc giải quyết các vấn đề tôn giáo cần phải được đặt ra như một vấn
đề cấp thiết, đòi hỏi phải những phương pháp giải quyết đúng đắn. Trong công tác tôn
giáo tuyệt đối không dùng lực để giải quyết các vấn đề đặt ra mà phải dùng tổng hợp
các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội mà nòng cốt là công tác vận động quần chúng. Chỉ
quán triệt sâu sắc toàn diện nội dung quan điểm trên đồng thời vận dụng linh hoạt,
khoa học vào thực tiễn thì ra mới thể đấu tranh có hiệu quả với hoạt động lợi dụng tôn
giáo xâm phạm đến an ninh Quốc gia, bảo vệ vững chắc an ninh Quốc gia trên lĩnh vực tôn
giáo.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN - DU LỊCH BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Mặc dù thế giới quan của tôn giáo đối lập với thế giới quan của chủ nghĩa
Mác - Lênin nhưng hiện nay, tôn giáo vẫn có ảnh hưởng khá lớn trong đời sống xã
hội ở việt nam. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, hãy đề xuất các
giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống
xã hội ở Việt nam hiện nay. Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thu Hà Lớp học phần: 231_HCMI0121_05 Mục Lục
Phần I. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin về tôn giáo 4
1.1 Tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội................................................4
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...7
1.2.1. Bản chất của tôn giáo.........................................................................................7 lOMoAR cPSD| 45740413
1.2.2. Nguồn gốc của tôn giáo.....................................................................................8
1.2.3. Tính chất của tôn giáo.......................................................................................9
1.2.4. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội..............................................................................................................................10
1.3. Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam...............................................................10
Phần II. Thực trạng và phân tích thực trạng về sự ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo lên xã
hội ( nêu ví dụ tiêu biểu và phân tích ).............................................................................11
2.1. Khái quát về tôn giáo.............................................................................................11
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực................................................................................................12
2.2.1. Quan niệm của mác xuất hiện trong tác phẩm :Câu nói nổi “Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”...................................................................12
2.2.2. Các biểu hiện tiêu cực của tôn giáo.................................................................13
2.2.3. Ví dụ tiêu biểu của việc lợi dụng tôn giáo gây rối trong xã hội.......................14
2.3. Ảnh hưởng tích cực................................................................................................15
Phần III. Giải pháp đề xuất...............................................................................................17
3.1. Đảm bảo tự do tín ngưỡng.....................................................................................17
3.2. Phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo...........................................................18
3.3 Các biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức dân chúng....................................19
3.4. Bài trừ tà đạo và bảo hộ chính đạo.........................................................................19
3.5. Tiếp tục thực hiện công tác quản lý tôn giáo theo pháp luật..................................20
Phần IV. Kết luận.............................................................................................................20 lOMoAR cPSD| 45740413
Phần I. Một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lenin về tôn giáo
1.1 Tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
* Quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo
Nếu chủ nghĩa duy vật lịch sử được coi là một trong ba phát minh quan trọng nhất của
chủ nghĩa Mác, thì những quan điểm về tôn giáo là một trong những biểu hiện rõ nét nhất lập
trường duy vật về lịch sử của học thuyết này. Nó thể hiện thông qua các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về cả bản chất, nguồn gốc về cả bản chất, nguồn gốc lẫn chức năng của tôn giáo.
Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo có nguồn gốc từ siêu nhiên, thế giới tự
nhiên, xã hội loài người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh
thì các nhà duy vật, vô thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiobac - nhà triết học duy
vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh sáng tạo
ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình. Tuy nhiên, Phoiobac
chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía cạnh này, ông vẫn chưa thoát khỏi quan
điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời chứ không phế phán tôn giáo nói chung,
càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo. Thậm
chí, ông còn cho rằng người ta vẫn rất cần một thứ tôn giáo khác thay thế, đó là “tôn giáo tình
yêu” để xóa bỏ đi những áp bức, bất công trong xã hội.
Kế thừa và vượt lên quan điểm Phoiobac và các nhà duy vật trước đó, các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử để lý giải vẫn đề bản chất
của tôn giáo. Theo đó, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định.
Mặc dù có tính độc lập tương đối nhưng mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần, xét đến cùng,
đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất. Tôn giáo là một hiện tượng tinh thần xã hội vì vậy, nó là
một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Nhưng khác với những hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với
hiện thực là sự phản ánh đặc thù, đó là sự phản ánh “lộn ngược” , “hoang đường” thế giới khách
quan.Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, “tôn giáo là những sự rút hết toàn bộ nội dung của con người
và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cho bóng ma. Thượng đế ở bên kia thế giới, lOMoAR cPSD| 45740413
Thượng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con người và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”.
Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến dạng,
sai lệch, hư ảo về giới tự nhiên và con người, về các quan hệ xã hội. Hay nói cách khác, tôn giáo
là sự nhân cách hóa giới tự nhiên, là sự “ đánh mất bản chất người”.Chính con người đã khoác
cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người
có chỗ dựa, được che chở, an ủi - dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”. Chỉ ra bản chất sâu xa của hiện
tượng đó, Ph.Ăngghen đã viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản
chất của chính mình và đã thần thánh hóa nó như một bản chất xa lạ nào đó. Lột tả bản chất của
tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo - vào đầu óc con người - của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Vấn đề ở đây là, nguyên nhân nào dẫn đến sự phản ánh “hoang đường”, “hư ảo” của tôn
giáo? Tại sao con người lại có nhu cầu tôn giáo và đặt niềm tin lớn lao vào tôn giáo như vậy?
Đứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện
và tồn tại của tôn giáo chính là điều kiện kinh tế - xã hội. Trong lịch sử tiến hóa của ình, trước
hết con người có nhu cầu cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của mình. Nhưng do trình độ và khả năng cải tạo tự nhiên còn thấp kém, con người luôn cảm
thấy yếu đuối, bất lực trước các hiện tượng tự nhiên và đã gắn cho tự nhiên những sức mạnh siêu
nhiên. Đó chính là cơ sở cho sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng. Đặc biệt, khi xã hội có sự
phân chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, một bộ phận người
dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự
phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo
lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.
Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “Trong những
thời kỳ đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được phản lOMoAR cPSD| 45740413
ánh như thế, và trong quá trình phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau, những lực
lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp…
Nhưng chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn có cả những lục lượng xã
hội tác động - những lực lượng này đối với họ, và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài
giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy”.
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong hiện
thực và phản ánh chính hiện thục đó - một hiện thực cần có tôn giáo và có điều kiện để tôn giáo
xuất hiện và tồn tại. Trong phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác đã viết: “Sự nghèo
nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự
nghèo nàn thực hiện ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế
giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo
là thuốc phiện của nhân dân”. Luận điểm trên của C.Mác đã thể hiện rõ nguồn gốc, bản chất,
chức năng của tôn giáo trên lập trường duy vật lịch sử.
Với C.Mác, tôn giáo như là “ vầng hào quang” ảo tưởng, là những vòng hoa giả đầy màu
sắc và đẹp một cách hoàn mỹ, là ước mơ, là niềm hy vọng và điểm tựa tinh thần vô cùng to lớn
cho những số phận bé nhỏ, bất lực trước các hiện tượng áp bức, bất công của xã hội thì họ chỉ
còn biêt “thở dài” và âm thầm, nhẫn nhục chịu đựng. Cũng trong cuộc sống hiện thực ấy, họ
không thể tìm thấy “một trái tim” để yêu thương, che chở nên phải tìm đến một “trái tim” trong
tưởng tượng nơi tôn giáo. Trái tim đó sẽ sẵn sàng bao dung, tha thứ, chở che và tiếp thêm sức
mạnh cho họ để họ có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
Với luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn khẳng định
tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn
giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy,
người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó
còn cần dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo
như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng,
chỉ là “ sự đền bù hư ảo”. lOMoAR cPSD| 45740413
Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, tôn giáo mặc dù là sự phản ánh hoang
đường, hư ảo hiện thực, là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội nhưng nó không phải không có
những yếu tố tích cực. Tôn giáo chỉ là những “bông hoa giả” tô điểm cho một cuộc sống hiện
thực đầy “xiềng xích” mà thôi. Và nếu không có thứ “thuốc giảm đau” ấy thì con người sẽ phải
vật vã đau đớn trong cuộc sống hiện thực vơi đầy rẫy những áp bức, bất công và bạo lực.
Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học thuyết
Mác về tôn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản
thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã
làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực…trong xã hội đã đẩy
con người phải tìm đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhận thấy rất
rõ quan hệ nhân - quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng tinh thần có nguyên
nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xóa bỏ tôn giáo , không có cách nào khác phải
xóa bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những
bông hoa giả” đi mà là xóa bỏ bản thân cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bông
hoa giả đó để con người có thể “ giơ tay hái những bông hoa thật” cho mình, tức là tìm
kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định
rằng, muốn xóa bỏ tôn giáo và giải phóng con người khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước
hết phải đấu tranh giải phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xóa bỏ chế độ áp
bức bất công, nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới
không còn tình trạng người bóc lột người , đó là một xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan, thông qua
sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử
xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lOMoAR cPSD| 45740413
lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số
giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã hội.
1.2.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện và biến đổi cùng
với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện và biến đổi đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người
cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hoá những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại
đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức
mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát hoặc của thế
lực nào đó của xã hội. Không giải thích được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc
lột, tội ác, v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường hướng niềm tin ảo
tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế,
áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, khả năng nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội
và bản thân con người là có giới hạn nên khi có sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo, con người
ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các khái
niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hoá đến mức hư ảo thì sự vật,
hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Nguồn gốc tâm lí: lOMoAR cPSD| 45740413
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra thần linh". V.I. Lênin
tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản..., sự phá sản "đột ngột",
"bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc
sâu xa của tôn giáo hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo làm nảy sinh
những tình cảm như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu trong quan hệ giữa con người với tự
nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tôn giáo.
1.2.3. Tính chất của tôn giáo Tính lịch sử:
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là một
phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người. Tôn giáo
chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ 5 nhất định. Tôn
giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tôn giáo có sự biến đổi cho phù hợp
với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo.
Đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng
nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất
đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
Tính quần chúng của tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả các dân tộc, quốc gia, châu lục. Không
chỉ vậy, tôn giáo còn là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ quần chúng nhân dân lao động.
Tính chính trị của tôn giáo:
Xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích giai
cấp. Giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình; đấu tranh tôn
giáo là một bộ phận của đấu tranh giai cấp; tôn giáo thay đổi cùng với sự thay đổi của quan hệ chính trị - giai cấp. lOMoAR cPSD| 45740413
Trong nội bộ các tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái... nhiều khi cũng mang tính chính trị.
1.2.4. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sự biến đổi
nhiều mặt, như vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Tôn trọng, đảm bảo quyền tư do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Cần
phải nhận thức rõ rằng, đối tượng đấu tranh trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo không phải là
mọi tôn giáo và những sinh hoạt tôn giáo hay tất cả những tín đồ tôn giáo nói chung, mà chỉ là
những bộ phận người lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan hoặc chống phá cách mạng,
gây rối trật tự trị an, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia dân tộc.
Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo
xã hội củ, xây dựng xã hội mới. điều đó nói lên rằng: muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần
phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người,
phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn
giáo là gián tiếp đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng. Điều cần thiết trước hết phải
xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học… cùng
những tệ nạn nảy sinh trong xã hội.
Cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo, bởi vì: ở những thời
kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội không như nhau.
Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn
có sự khác biệt. Vì vậy cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối
với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn
giáo: phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm tránh khuynh
hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
1.3. Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Ước tính khoảng 80% dân số Việt Nam
có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo như: Phật giáo lOMoAR cPSD| 45740413
khoảng 10 triệu tín đồ, Công giáo gần 6 triệu tín đồ, Cao Đài khoảng 2,3 triệu tín đồ, Hòa Hảo
khoảng 1,3 triệu tín đồ, Đạo Tin Lành gần 1 triệu tín đồ, Hồi giáo 70.000 tín đồ. Ngoài ra còn
hàng triệu người theo các tôn giáo bản địa như Tịnh độ cư sĩ, Bửu sơn Kỳ hương, Tứ ân Hiếu
nghĩa, Minh Sư đạo và các tôn giáo mới du nhập vào như đạo Bahai... Các tổ chức tôn giáo ở
nước ta đã xây dựng được một lực lượng chức sắc, các nhà tu hành và những người hoạt động
tôn giáo chuyên nghiệp đông đảo. Số chức sắc, chức việc này là lực lượng lãnh đạo các tổ chức
tôn giáo như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 25 Giáo phận Công giáo, 9 Hội thánh Cao Đài, Hội
thánh đạo Tin Lành Việt Nam (miền Bắc), Hội thánh đạo Tin Lành Việt Nam (miền Nam), Giáo
hội Phật giáo Hòa Hảo, Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo Thành phố Hồ Chí Minh... đã được
Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân.
Khái quát một số nét về các tôn giáo ở Việt Nam để thấy đây là vấn đề lớn, phức tạp, đòi
hỏi chúng ta phải có chủ trương, chính sách thích hợp trong hoàn cảnh và điều kiện mới, nhất là
khi nước ta mở cửa, hội nhập quốc tế và các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lợi dụng vấn đề
tôn giáo để tập hợp quần chúng nhằm chống phá cách mạng nước ta với âm mưu "diễn biến hòa bình".
Phần II. Thực trạng và phân tích thực trạng về sự ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo lên xã hội
2.1. Khái quát về tôn giáo
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách
hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những hiện
tượng tự nhiên trở thành siêu nhiên. Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng
ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong những lực lượng ở
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. C.Mác và Ph.Ăngghen còn cho rằng,
tôn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch sử; một lực lượng xã hội trần thế.
Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử
xã hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế
tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. lOMoAR cPSD| 45740413
Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng trong một số nhân tố còn phù hợp. C.Mác khẳng
định: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản
kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không
có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Về phương diện thế giới quan thì thế giới quan duy vật mácxit và thế giới quan tôn giáo
là đối lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mácxit hông bao
giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tôn giáo của nhân dân.
Mục tiêu cộng sản chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa là hướng tới xây dựng một xã hội mà trong
đó không còn những khác biệt giai cấp, không còn chế độ tư hữu, không còn chế độ áp bức bóc
lột và bất bình đẳng giữa người với người. Xã hội ấy chính là xã hội mà quần chúng tín đồ cùng
từng ước mơ và phản ánh nó qua một số tôn giáo.
Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và “ thiên đường” mà các tôn giáo thường
hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, “thiên đường” không phải là hiện thực xã hội mà
là ở “thế giới bên kia”, trên “thượng giới”. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng tới
con người vào xã hội văn minh, hạnh phúc ngày nay ở trên thế giới hiện thực, do mọi người xây
dựng và vì mọi người.
Với lập trường duy vật lịch sử, V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: “Đối với chúng ta , sự thống nhất
của cuộc đấu tranh thật sự cách mạng đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc
trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường”.
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực
2.2.1. Quan niệm của mác xuất hiện trong tác phẩm : Câu nói nổi “Góp phần phê
phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”
“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”
* Trích: “TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN - CẦN HIỂU ĐÚNG LUẬN
ĐIỂM CỦA MÁC” của Trường chính trị Bình Định
Trước hết xin trích nguyên đoạn văn tập trung vào nội dung này, Mác viết: “Sự nghèo nàn
của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo lOMoAR cPSD| 45740413
nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không
có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần.
Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.”
Vào thời của Mác, trên một số diễn đàn khoa học ở Đức, cũng có một số nhà nghiên cứu
thường ví tôn giáo với thuốc phiện bởi thời bấy giờ, thuốc phiện được coi là thứ thuốc giảm đau
mà các bác sĩ thường sử dụng để trị bệnh. Khi nêu lên luận điểm “Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân”, Mác đã coi tôn giáo như một liều thuốc xoa dịu những nỗi đau thực tại.
Theo nghĩa khác, tôn giáo cũng là sự “ru ngủ” bằng những hạnh phúc ảo tưởng, làm tê
liệt ý chí đấu tranh của nhân dân, và vì vậy, tôn giáo hay thuốc phiện cũng đều không thể nào
xoá bỏ đi những nỗi đau thực tế.
Bởi vậy, theo Mác, cần xóa bỏ cái hạnh phúc ảo tưởng mà tôn giáo mang lại cho nhân
dân, Mác viết: “Xóa bỏ tôn giáo, với tính cách là xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là
yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Yêu cầu từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh
của mình cũng là yêu cầu từ bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn
giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cuộc sống khổ ải mà tôn giáo là vòng hào quang
thần thánh của nó.”
2.2.2. Các biểu hiện tiêu cực của tôn giáo
1. Gây xung đột và bất đồng: Sử dụng tôn giáo để thúc đẩy phản động thường dẫn đến sự
xung đột và bất đồng tôn giáo trong xã hội. Điều này có thể dẫn đến bạo lực tôn giáo
và gây hại cho cộng đồng.
2. Sự phân chia trong xã hội: Việc sử dụng tôn giáo để chia rẽ người dân dựa trên tôn
giáo có thể làm gia tăng sự phân chia và căng thẳng trong xã hội, đe dọa sự đoàn kết và hòa bình.
3. Tăng cường áp lực chính trị: Chính quyền có thể tăng cường áp lực và kiểm soátđối
với các tôn giáo và tín đồ, dẫn đến việc hạn chế tự do tôn giáo và quyền tự do ngôn luận. lOMoAR cPSD| 45740413
4. Tác động đến quốc gia: Tôn giáo có thể được sử dụng như một công cụ để đánh đổhoặc
thay thế chính quyền hiện tại, có thể dẫn đến sự biến đổi chính trị và xã hội ở quốc gia đó.
5. Sự tổn hại đến hòa bình toàn cầu: Nếu sử dụng tôn giáo để thúc đẩy phản động vàbạo
lực, điều này có thể có tác động tiêu cực đến hòa bình và ổn định toàn cầu.
6. Một số “tà đạo” đã chối bỏ văn minh, truyền thống văn hóa, đạo đức, thuần phongmỹ
tục của người Việt, có biểu hiện mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, có biểu hiện
xâm phạm nhân phẩm, sức khỏe con người, gây ảnh hưởng tới các mối quan hệ xã hội,
làm thay đổi và xáo trộn về nếp sống, tập quán truyền thống của nhân dân.
7. Sử dụng tôn giáo nhằm đạt mục đích tư lợi (tiền tài, danh vọng) riêng.Một trong những
biểu hiện tiêu cực của tôn giáo là việc sử dụng tôn giáo nhằm đạt mục đích tư lợi cá nhân.
2.2.3. Ví dụ tiêu biểu của việc lợi dụng tôn giáo gây rối trong xã hội
Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính đến tháng 12-2022, cả nước có
khoảng 85 “tà đạo, tạp đạo”, tổ chức bất hợp pháp mang danh nghĩa tôn giáo. Trong số
các “tà đạo”, có những loại hoạt động trái với chuẩn mực đạo đức xã hội và truyền thống
văn hóa, chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo, khởi động các phong trào chống phá nhà nước, chính phủ.
Hội Thánh đức Chúa trời mẹ” ( có nguồn gốc từ Hàn Quốc ) hội này đã phát triển
mạnh và hoạt động bất hợp pháp ở hơn 20 tỉnh, thành phố với hàng nghìn người tham gia,
nhất là ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hóa… Hội này buộc mỗi
người đã được làm lễ Baptem phải lôi kéo thêm ít nhất một người vào tổ chức. Bên cạnh
đó, các tín đồ bị ép buộc dâng hiến 1/10 thu nhập, nhưng đây lại là điểm họ không công
khai, minh bạch về tài chính. Đây là hành vi “Lợi dụng hành nghề mê tín để trục lợi”, bị
pháp luật ngăn cấm. Việc xúi giục tín đồ bỏ bàn thờ, bất kính cha mẹ, chỉ tin và thờ “Đức
Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ” là đi ngược lại đạo đức và truyền thống văn hóa người Việt lOMoAR cPSD| 45740413
Ở Việt Nam, những năm qua, tà đạo thường xuất hiện và phát triển mạnh ở vùng
nông thôn, vùng sâu xa, nhất là địa bàn Tây Nam Bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc. Các tổ chức
này đã thu hút được một số lượng người tin theo, trong đó có tà đạo đã lôi kéo hàng nghìn
người tham gia, sinh hoạt tại nhiều địa phương.
Tại Tây Nguyên, năm 1999, số đối tượng FULRO lưu vong ở Mỹ đã tuyên bố thành
lập cái gọi là “Nhà nước Đềga”, đồng thời chúng móc nối với số đối tượng phản động trong
các dân tộc thiểu số ở hai tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai lập ra cái gọi là “Tin lành Đề ga” để lôi
kéo, tập hợp đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên tham gia “Nhà nước Đề ga” dưới
ngọn cờ tôn giáo và dân tộc để kích động ly khai thành lập nhà nước cho người dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên; tại Tây Nam Bộ, số đối tượng phản động tăng cường sử dụng
Internet, báo, đài nhằm kích động tư tưởng “ly khai” vào vùng đồng bào dân tộc Khmer
theo Phật giáo Nam tông, lập “Chính phủ Khmer Krôm lưu vong”, tiến đến thành lập “Nhà
nước Khmer Krôm” trên vùng đất Tây Nam Bộ…; tại vùng dân tộc thiểu số miền núi phía
Bắc, số đối tượng phản động, cốt cán hoạt động “Nhà nước Mông” chủ trương phát triển
cơ sở trong đạo Tin lành để tập hợp lực lượng, ráo riết móc nối, lôi kéo số chức sắc, số cầm
đầu các điểm nhóm đạo Tin lành tham gia thành lập “Nhà nước Mông” tự trị…
2.3. Ảnh hưởng tích cực
Với tư cách là thực thể xã hội, tôn giáo luôn có vai trò và đóng góp nhất định trong
các mặt đời sống xã hội, tạo nên sự đa dạng và phong phú trong nền văn hóa của dân tộc,
góp phần hình thành những giá trị đạo đức cho quần chúng nhân dân. Những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo đã góp phần làm lành mạnh hóa quan hệ xã hội giữa
con người với con người và quan hệ giữa con người với tự nhiên, góp phần xây dựng nền
đạo đức mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay trong một chừng mực nhất định.
Những giá trị đó cũng góp phần không nhỏ trong việc khắc phục những hạn chế của sự suy
thoái đạo đức do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường hiện nay. Thực tế cho thấy, “ở
những nơi tôn giáo ổn định, có đông tín đồ thì các tệ nạn xã hội ít hơn, trật tự ổn định và
lối sống đạo đức nề nếp hơn”. lOMoAR cPSD| 45740413
Tôn giáo góp phần xây dựng, củng cố các giá trị đạo đức, luân lý ở mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội, đồng thời khắc phục những hạn chế của sự suy thoái đạo đức do tác động
tiêu cực của xã hội, góp phần đảm bảo sự bình an tinh thần cho một bộ phận nhân dân. Đạo
đức tôn giáo là một bộ phận của đạo đức xã hội và gắn kết chặt chẽ với đạo đức xã hội.
Đạo đức tôn giáo và đạo đức xã hội đều hướng con người tới cái thiện, loại trừ cái ác, đề
cao tính cộng đồng, bình đẳng giữa người với người, điều chỉnh hành vi đạo đức của con
người, xây dựng một trật tự tinh thần trong xã hội.
Bên cạnh đó, các tôn giáo còn tham gia vào việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa của dân tộc và nhân loại. Do đó, tôn giáo có vai trò quan trọng đối với việc xây
dựng nếp sống văn hóa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Các tôn giáo, trong quá trình
phát triển, không chỉ chuyển tải niềm tin của con người, mà còn góp phần duy trì đạo đức
xã hội trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư
cách một bộ phận của ý thức hệ, các tôn giáo đã đem lại cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc,
mỗi khu vực những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập
quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
Tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội, tâm lý, đạo đức, lối sống,
phong tục, tập quán của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mỗi tôn giáo chứa
đựng nhiều nội dung phong phú về lịch sử, tư tưởng đạo đức, văn hóa, nên nó có sức mạnh chi
phối đến sự phát triển các lĩnh vực xã hội, chính trị. Đóng góp của tôn giáo cho văn hóa nhân
loại được thể hiện trên các lĩnh vực: văn học, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, điêu khắc, lối sống,
đạo đức dưới các dạng vật thể và phi vật thể. Phật giáo đã góp phần làm nên các công trình mỹ
thuật đặc sắc, như chùa, tháp, tượng Việt Nam. Việc hội nhập phong cách, kiến trúc phương Tây
của Công giáo, Hồi giáo đã góp phần giao thoa và hội nhập văn hóa dân tộc. Kinh thánh, kinh
phật và các giáo lý tôn giáo là kho tàng văn hóa, lịch sử rất phong phú cần được khai thác, cùng
với lịch sử văn hóa dân tộc; sự ra đời và phát triển các tờ báo tôn giáo đã góp phần truyền tải giá
trị tôn giáo và giá trị văn hóa dân tộc, làm cho văn hóa tôn giáo gần gũi, quen thuộc hơn với văn
hóa Việt Nam và ngược lại, văn hóa Việt Nam được diễn tả trong các lễ nghi đặc sắc tôn giáo. lOMoAR cPSD| 45740413
Các giá trị văn hóa tôn giáo luôn là một trong những chất liệu tinh thần (tâm linh) kết nối
các tôn giáo với nhau, các cộng đồng tôn giáo với các cộng đồng không tôn giáo với nhau, góp
phần tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình lịch sử giải phóng xã hội của dân tộc và đất nước.
Ở Việt Nam hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được
nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có một bộ phận quần chúng nhân dân đang gặp những
khó khăn trong cuộc sống. Với truyền thống “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách” của
người Việt Nam, nhiều cá nhân và tổ chức, trong đó có các tổ chức tôn giáo, đã tham gia công
tác thiện nguyện. Trên thực tế, tôn giáo tham gia rất tích cực trong công tác từ thiện xã hội, cứu
tế an sinh góp phần quan trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Như vậy,
ở một mức độ nhất định, hoạt động từ thiện xã hội, cứu tế an sinh của các tôn giáo đã góp phần
cùng với Nhà nước giải quyết vấn đề an sinh xã hội. Thông qua đó, các tầng lớp xã hội gắn bó,
đoàn kết và tạo sự đồng thuận giữa các tầng lớp xã hội với Nhà nước.
Phần III. Giải pháp đề xuất
3.1. Đảm bảo tự do tín ngưỡng
Tự do tín ngưỡng là một quyền cơ bản của con người, được quy định trong Hiến pháp
và pháp luật Việt Nam. Để đảm bảo tự do tín ngưỡng, cần thực hiện các giải pháp sau:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, đảm bảo phù hợp với
Hiến pháp và các quy định quốc tế về nhân quyền.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về tự do tín ngưỡng
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về tự do tín ngưỡng, nâng cao nhận thức của
nhân dân về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật
Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, góp phần
phát huy vai trò tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội. lOMoAR cPSD| 45740413
3.2. Phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo
Cực đoan tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, xảy ra khi một cá nhân hoặc
nhóm người sử dụng tôn giáo để biện minh cho những hành động bạo lực, thù địch, chống
đối chính quyền, gây mất ổn định xã hội
Cực đoan tôn giáo có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: •
Lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền, kích động bạo lực •
Tổ chức, thực hiện các hành vi bạo lực, khủng bố •
Tạo dựng các nhóm đối lập, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong xã hội •
Tuyên truyền, cổ xúy cho các quan điểm cực đoan, hận thù
Cực đoan tôn giáo gây ra nhiều tác hại cho xã hội, bao gồm: •
Gây mất ổn định chính trị, xã hội •
Gây thiệt hại về người và tài sản •
Gây chia rẽ, mất đoàn kết trong xã hội •
Ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của tôn giáo
Để phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo, cần thực hiện các giải pháp sau: •
Nhận diện và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước •
Cần nhận diện và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà
nước, gây mất ổn định chính trị, xã hội. •
Tăng cường giáo dục đạo đức, văn hóa, lối sống cho tín đồ
Tăng cường giáo dục đạo đức, văn hóa, lối sống cho tín đồ, giúp họ hiểu rõ hơn về
tôn giáo, tránh bị lợi dụng, kích động. •
Khuyến khích các hoạt động tôn giáo lành mạnh
Khuyến khích các hoạt động tôn giáo lành mạnh, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
3.3 Các biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức dân chúng
Tuyên truyền, giáo dục là một giải pháp quan trọng để đảm bảo tự do tín ngưỡng và
phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo. Cần thực hiện các biện pháp tuyên truyền nâng
cao nhận thức dân chúng sau: lOMoAR cPSD| 45740413 -
Tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luậtcủa Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo -
Tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luậtcủa Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, giúp nhân dân hiểu rõ quyền và trách nhiệm của
mình trong việc thực hiện tự do tín ngưỡng. -
Tuyên truyền, giáo dục về tác hại của hiện tượng cực đoan tôn giáo -
Tuyên truyền, giáo dục về tác hại của hiện tượng cực đoan tôn giáo, giúp
nhândân nâng cao ý thức cảnh giác, phòng tránh các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước.
3.4. Bài trừ tà đạo và bảo hộ chính đạo
Tà đạo là những tà giáo, dị giáo, không được pháp luật công nhận. Tà đạo thường
có những hoạt động mê tín, dị đoan, gây mất đoàn kết, chia rẽ trong nội bộ các tôn giáo,
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội. Để bảo vệ chính đạo, cần thực hiện các giải pháp sau: •
Nhận diện và ngăn chặn các hoạt động của tà đạo
Cần nhận diện và ngăn chặn các hoạt động của tà đạo, giúp nhân dân tránh bị lôi kéo, dụ dỗ. •
Nâng cao nhận thức của nhân dân về tác hại của tà đạo
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục về tác hại của tà đạo, giúp nhân dân hiểu rõ và tránh xa tà đạo. •
Bảo vệ quyền lợi chính đáng của tín đồ các tôn giáo
Bảo vệ quyền lợi chính đáng của tín đồ các tôn giáo, giúp họ yên tâm thực hiện các
hoạt động tôn giáo lành mạnh.
Việc đảm bảo tự do tín ngưỡng và phòng chống hiện tượng cực đoan tôn giáo là một
nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Các giải pháp đề xuất trên đây
là một số giải pháp cần thiết để thực hiện nhiệm vụ này. 3.5. Tiếp tục thực hiện công tác
quản lý tôn giáo theo pháp luật.
Hoạt động tôn giáo là hoạt động liên quan và ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội, liên quan tới lợi ích chung của xã hội và lợi ích quốc gia. Do đó, mọi hoạt lOMoAR cPSD| 45740413
động của các tổ chức tôn giáo cần phải quản lý theo pháp luật, kiên quyết xử lý các đối
tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo đảm
hoạt động tôn giáo được tiến hành có trật tự. Tôn giáo cần phải hoạt động trong khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật; hoạt động tôn giáo không được cản trở trật tự xã hội, trật tự
công cộng và sinh hoạt bình thường của người dân. Phần IV. Kết luận
Nguyên nhân chung dẫn tới ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo lên đời sống xã hội
Về nguyên nhân nhận thức: Thế giới khách quan là vô cùng tận, nhiều hiện tượng tự
nhiên đến nay con người vẫn chưa giải thích được. Do vậy tâm lý sợ hãi, trông chờ và nhờ
cậy, tin tưởng vào thần thánh…chưa thể gạt bỏ khỏi ý thức của con người trong xã hội, trong
đó có nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Về nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào
trong tiềm thức của nhiều người dân. Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
thì ý thức xã hội bảo thủ hơn so với tồn tại xã hội, trong đó tôn giáo lại là một trong những
hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Tín ngưỡng, tôn giáo đã in sâu vào đời sống tinh thần,
ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ, lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ
đến mức trở thành một kiểu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.
Về nguyên nhân chính trị - xã hội: Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn
phù hợp với chủ nghĩa xã hội, với đường lối chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó
là mặt giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Mặt khác, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo,
khủng bố, bạo loạn, lật đổ… còn xảy ra ở nhiều nơi.
Về nguyên nhân kinh tế: Trong chủ nghĩa xã hội, nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ quá
độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Sự bất bình đẳng về kinh
tế, văn hoá, xã hội vẫn là một thực tế. Đời sống vật chất của người dân chưa cao thì con người
càng chịu tác động mạnh mẽ của những yếu tố ngẫu nhiên may rủi. Điều đó làm con người
có tâm lý thụ động, nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên. lOMoAR cPSD| 45740413
Với bề dày lịch sử tồn tại, tôn giáo cho đến tận bây giờ vẫn đang hoạt động mạnh
mẽ và nắm một vị trí quan trọng trong xã hội con người. Trong quá trình phát triển lan
truyền trên bình diện thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần truyền tải niềm tin của con
người, mà còn có vai trò truyền tải, hòa nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo
đức xã hội. Là hình thức phản ánh đặc thù phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã
góp phần chế ngự các hành vi đạo đức góp phần làm cho xã hội ngày càng ổn định, nề nếp.
Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Tôn giáo đã đem lại cho
cộng đồng xã hội trong mỗi khu vực mỗi quốc gia mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo
thể hiện trong cách ứng xử lối sống phong tục tập quán trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.
Bên cạnh những mặt tích cực đó, ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo cũng là một trong
những vấn đề nóng cần được chú ý, không chỉ riêng đối với chủ nghĩa xã hội. Việt Nam là
một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Trong những năm vừa qua, nhu cầu tín ngưỡng
tôn giáo của nhân dân ta có xu hướng gia tăng, hoạt động của các tổ chức tôn giáo tiếp tục
diễn ra phức tạp. Có không ít các cá nhân, tổ chức lợi dụng tôn giáo để tư lợi, mị dân, lan
truyền những lý tưởng và phong tục trái với đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Về chính trị, các thế lực thù địch luôn chực chờ lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá
cách mạng nước ta ngày càng thâm độc. Tất cả những tác động đó đã làm ảnh hưởng tiêu
cực đến đời sống xã hội của nhân dân ta và ngày càng gia tăng trong tình hình hiện nay.
Chính vì thế việc giải quyết các vấn đề tôn giáo cần phải được đặt ra như một vấn
đề cấp thiết, đòi hỏi phải có những phương pháp giải quyết đúng đắn. Trong công tác tôn
giáo tuyệt đối không dùng vũ lực để giải quyết các vấn đề đặt ra mà phải dùng tổng hợp
các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội mà nòng cốt là công tác vận động quần chúng. Chỉ
có quán triệt sâu sắc và toàn diện nội dung quan điểm trên đồng thời vận dụng linh hoạt,
khoa học vào thực tiễn thì ra mới có thể đấu tranh có hiệu quả với hoạt động lợi dụng tôn
giáo xâm phạm đến an ninh Quốc gia, bảo vệ vững chắc an ninh Quốc gia trên lĩnh vực tôn giáo.