Tồn tại xã hội và ý thức xã hội | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta được bắt đầu từ cuối năm 1960. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III( 9- 1960) của Đảng lao động Việt Nam đã quyết nghị “ Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Sự nghiệp đó đến nay vẫn còn tiếp tục. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

zz
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: T)N TẠI X+ HÔ
,
I VÀ Ý TH-C X+ HÔ
,
I
GVHD: PGS. TS Đoàn Đức Hiếu
SVTH:
1. Lê Nguyễn Thiên Lộc 23144023
2. Nguyễn Khoa Nam 23144028
3. Trang Thành Vinh 23144042
Mã lớp học: LLCT130105E_23CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2023
1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
Điểm: ……………………………..
KÝ TÊN
2
MỤC LỤC
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II- ĐỀ CƯƠNG KHÁI QUÁT
B- NỘI DUNG
I- CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1- PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT
2- LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
3- QUAN HỆ SẢN XUẤT
4- QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TÍNH CHẤT
VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
II- CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA
1- KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2- TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
3- TÁC DỤNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
4- NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
A- TRANG BỊ KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI
HÓA CÁC NGÀNH CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
B- XÂY DỰNG CƠ CẤU KINH TẾ HỢP LÝ VÀ PHÂN CÔNG LẠI LAO ĐỘNG XÃ
HỘI
III- VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
4
IV- NHỮNG THÀNH TỰU VIỆT NAM Đ+ ĐẠT ĐƯỢC
V- NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
C- KẾT LUẬN
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I- Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta được bắt đầu từ cuối năm 1960. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III( 9- 1960) của Đảng lao động Việt Nam đã quyết nghị “
Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Sự nghiệp đó đến nay vẫn còn
tiếp tục.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh và điều kiện:
- Trong suốt thời gian tiến hành công nghiệp hóa, tình hình trong nước quốc tế luôn diễn
biến rất sôi động, phức tạp không thuận chiều. Bắt đầu công nghiệp hóa được bốn năm thì
đế quốc Mỹ mrộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đất nước phải thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng;
miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ
nghĩa hội được vài năm thì kẻ thù gây ra chiến tranh biên giới. Chiến tranh biên giới kết
thúc lại kéo theo cấm vận của Mỹ.
- Nếu những năm 60, hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, phát triển nhanh không thua kém
nhiều so với các nước bản chủ nghĩa phát triển, có uy tín trên thế giới đã tạo ra hoàn cảnh
quốc tế thuận lợi cho công nghiệp hóa nước ta, thì sang những năm 70, 80 hoàn cảnh quốc
tế lại gây bất lợi cho quá trình công nghiệp hóa ở nước ta. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa của
thế giới( 1973) các nước xã hội chủ nghĩa do chuyển dịch cơ cấu và đổi mới công nghệ chậm
hơn so với các nước tư bản chủ nghĩa, hiệu quả thấp, uy tín trên thị trường quốc tế giảm, cộng
các sai lầm khác đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên các nước Đông Âu, làm mất đi thị
trường lớn sự giúp đỡ không nhỏ từ các nước này( ước tính 1 năm 1 tỷ đô la, chiếm 7%
GDP ).
Công nghiệp hóa nước ta xuất phát từ điểm rất thấp về phát triển kinh tếxã hội, về phát
triển lực lượng sản xuấttừ trạng thái không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ và
tính chất phát triển của lực lượng sản xuất.
Năm 1960 công nghiệp chiếm 18,2% thu nhập quốc dân sản xuất, 7% lao động hội trong
các ngành kinh tế quốc dân; nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương ứng là 42,35 83%; sản lượng
lương thực bình quân đầu người dưới 300 kg; GDP bình quân đầu người khoảng dưới 100 đô
la. Trong khi phân công lao động xã hội chưa phát triển và lực lượng sản xuất ở trình độ thấp
thì quan hệ sản xuất đã được đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa chủ yếu. Đến
năm 1960: 85,8% tổng số hộ nông dân vào hợp tác xã; 100% h sản được cải tạo trong
tổng số sản công thương nghiệp thuộc diện cải tạo, gần 80% thợ thủ công thể vào hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp Đứng trước thực trạng này Đảng ta đã quyết định xóa bỏ chế
hành chính, quan liêu, bao cấp, xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
5
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Nghĩa trong
quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các
sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong
khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực thực tế của con người
trong quá trình sản xuất tạo ra của cải hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động
với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật
chất.Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết công
cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”( 2).
Do đặc trưng sinh học- xã gội riêng của mình, cong người, trong nền sản xuất có sức
mạnh kỹ năng lao động thần kinh cơ- bắp. Trong lao động sức mạnh kỹ năng ấy đã
được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động
trí tuệ lao động trí tuệ. T tuệ con người không phải cái siêu t nhiên,mà sản
phẩm của tự nhiên của lao động. Nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài
người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng hàm
lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện của khoa
học công nghệ hiện nay, đã làm cho con người trở thành một nguồn kực đặc biệt của sản xuất,
là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Trong tư liệu lao động có công cụ lao động những tư liệu lao động khác cần thiết cho
việc vận chuyển bảo quản sản phẩm....
Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi
nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có
một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động sẵn có, còn
sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuấtliên quan đến việc đưa
những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất. Điều đó hoàn toàn tính quy
luật bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người. Đối tượng lao
động chính là yếu tố vật chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm các loại:
+ Loại sẵn trong tự nhiên. Loại này thường đối tượng của các ngành công
nghiệp khai thác.
7
+ Loại đã qua chế biến, nghĩa đã s tác động của lao động gọi nguyên liệu.
Loại này thường là đói tượng của các ngành công nghiệp chế biến.
Với sự phát triển của Cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại, vai trò của nhiều đối tượng
lao động dần dần thay đổi, đồng thời loại đối tượng lao động có chất lượng mới được tạo ra.
Nhưng cơ sở của mọi đối tượng lao động vẫn là đất đai, tự nhiên: “ lao động là cha, còn đất là
mẹ của mọi của cải vật chất”( 3).
liệu lao động: một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn s tác
động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích
của mình.
liệu lao động bao gồm công cụ lao động, hệ thống các yếu tố vật chất phục vụ trực
tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất( nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, ống dẫn, băng chuyền,
đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc...).
Trong các yếu tố hợp thành liệu lao động thì công cụ lao động ý nghĩa quyết định
nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động, theo Ph. Ăngghen là “
khí quan của bộ óc con người”, là “ sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa” có tác dụng “
nối dài bàn tay”nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Còn Mác gọi là hệ thống xương
cốt bắp của nền sản xuất. Công cụ lao động vật thể hay phức hợp vật thể con
người đặt giữa mình với đối tượng lao động. Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động luôn
luôn được cải tiến, tinh xảo hơn để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn. Nó
yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Cùng với sự biến đổi và phát
triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học
của con người cũng tiến bộ, phong phú thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân
công lao động phát triển. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã
gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là nguyên
nhân sâu xa xa của mọi biến cải xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo
trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là cơ sở xác định trình dộ phát triển của sản xuất,
tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Đối với mỗi thế hệ mới,
những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát của sự phát triển tương
lai. Vì vậy những tư liệu đó là cơ sở kế tục của lịch sử.
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng
kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra
8
+ Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc tổ chức quản lý.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
Với tính cách những quan hệ kinh tế khách quan, không ph thuộc vào ý muốn của
con người, quan hệ sản xuất những quan hệ mang tính vật chất thuộc đời sống hội.
Quan hệ sản xuất hình thức hội của lực lượng sản xuất và sở sâu xa của đời sống
tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo
thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực
lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm
nhiều mối quan hệ phong phú đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi mặt quan hệ
của hệ thống quan hệ sản xuất vai trò ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi tác động tới
nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ shữu đối với
liệu sản xuất- biểu hiện thành chế độ sở hữu- là đặc trưng bản của phương thức sản xuất.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tếxã hội xác định, quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất luôn luôn vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ hội khác . Quan
hệ sở hữu là quan hxuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất.
Chính quan hsở hữuquan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các liệu sản
xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa
vị của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức các tập đoàn
trao đổi hoạt động cho nhau, quy định cách thức các tập đoàn tổ chức quản quá trình
sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm
cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất hội. Định nghĩa
quyền sở hữu sản không phải khác trình bày tất cả những quan hệ hội của
sản xuất tư sản”.( 7).
Trong các hình thái kinh tế- hội loài người đã từng trải qua, lịch sử đã chứng kiến
sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu bản đối với liệu sản xuất: sở hữ nhân s
hữu công cộng. Sở hữu công cộng loại hình trong đó liệu sản xuất thuộc về mọi
thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi
cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động trong phân phối sản phẩm. Do
liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đống nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất
10
trong đời sống hội nói chung, tr thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Ngược lại, trong các chế độ hữu, doliệu chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải
hội không thuộc về số đông thuộc về số ít người đó. Các quan hệ hội, do vậy, trở
thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế
độ tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- nin đã ch trong các chế độ sở hữu nhân của các hội điển hình trong lịch
sử( sở hữu tư nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu tư nhân trong chế độ phong kiến và sở
hữu tư nhân trong chế độ bản) thì chế độ sở hữu nhân bản chủ nghĩa là đỉnh cao của
loại sở hữu này.
C. Mác Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng chế đọ bản chủ nghĩa không phải
hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử hội loài người. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ
tư hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản sản xuất
các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng
của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các nhân tố xác định của một nền sản xuất,
điều khiển và tổ chức cách thức vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản
sản xuất có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản sản xuất luôn luôn có xu hướng thích ứng với
kiểu quan hệ shữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy, việc sử dụng hợp lýc
quan hệ tổ chức và quản sản xuất sẽ cho phép toàn bhệ thống quan hệ sản xuất khả
năng vươn tới tối ưu. Trong trường hợp ngược lại, các quan hệ quản lý và tổ chức thể làm
biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội.
Hiện nay, nhờ ứng dụng những thành tựu to lớn của khoa học quản lý hiện đại nên vai
trò của các quan hệ tổ chức quản đối với sản xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản
xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất ở tầm vĩ mô, trên thực tế đã tăng lên gấp bội so
với vài thập kỷ trước đây. Đây điều rất đáng lưu ý trong việc phân tích đánh giá vai trò
của các quan hệ sản xuất hiện đại. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức- quản lý, trong h
thống các quan hệ sản xuất, các quan hvề mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những
nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vân động của toàn bộ nền kinh tế- xã hội.
Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất,
11
xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất
của quá trình sản xuất ra sản phẩm. Quá trình này phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất
và lao động. Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là
sử dụng công cụ thủ công tính chất của lao động lao động riêng lẻ. Những công cụ sản
xuất như búa, rìu, cày bừa, xa quay sợi... do một người sử dụng để sản xuất vật dùng, không
cần tới lao động tập thể, lực lượng sản xuất cóa tính chất cá nhân. Khi máy móc ra đời đòi hỏi
phải có nhiều người mới sử dụng được, để làm ra một sản phẩm cần phải sự hợp tác của
nhiều người. Mỗi người làm một bộ phận công việc mới hoàn thành được sản phẩm ấy cho
nên lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa. Ph. Ăngghen đã nhận định giai cấp tư sản “
không thể biến nhữngliệu sản xuất có hạm ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh
lại không biến chúng từ chỗ liệu sản xuất do cá nhân sử dụng thành những liệu
sản xuất xã hội, chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”( 8). Trên thực tế, tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt với nhau.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển do lực lượng sản xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn
luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công vụ lao động
mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm
sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến
bộ. Lực ợng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản
xuất yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là
hình thức hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết
định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung thay đổi trước sau đó hình thức
mới biến đổi theo. Tất nhiên, trong quan hệ với nội dung , hình thức không phải mặt thụ
động, nó cũng tác động trở lại đối với việc phát triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành, biến
đổi cho phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó động lực
cho lực lượng sản xuất pats triển mạnh mẽ. Nhưng, lực lượng sản xuất luôn phát triển còn
quan hệ sản xuất có xu ớng tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một
trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nữa, trở thành chướng ngại đối với
sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất.
Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng
một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực lượng sản xuất,
13
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Việc xóa b quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng
nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất đã lỗi thời sự ra đời của một phương
thức mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan
hệ sản xuất lỗi thời là sở khách quan của các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là
tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội. C. Mác đã nhận định: “ Tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan
hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã
hội”( 9). đó nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình đphát triển
nhất định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối
với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thhiện tính độc
lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất hình thức xã hội lực lượng sản
xuất dựa vào đó đó đ phát triển, tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất: có thể thúc
đẩy hoặc lìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất trở thành
động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản
xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu
thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở thành xiềng xích trói buộc” kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Song tác dụng kìm m đó chỉ tạm thời, theo tính tất yếu
khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sở quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản
xuất( thúc đẩy hoặc kìm hãm), quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ
chức quản lý sản xuấtquản lýhội, quy định phương thức phân phối phần của cải ít hay
nhiều người lao động được hưởng. Do đó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại quần
chúng lao động- lực lượng sản xuất chủ yếu của hội; nó tạo ra những điều kiện hoặc kích
thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao động....
14
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất- kỹ thuật của một xã hội là: sự biến
đổi phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học- kỹ thuật; tính chất trình
độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
Nói sở vật chất- kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó nói s vật
chất- kỹ thuật đó đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó
được khẳng định sự thay thế phương thức sản xuấtvà được phát triển đúng trênsở bản
thân nó.
Đặc trưng của sở vật chất- kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa
tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa tư
bản, đặc trưng của nền đại công nghiệp cơ khí hóa chkhi xây dựng xong cơ sở đó,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới trở thành phương thức sản xuất thống trị.
Chủ nghĩa xã hội- giai doạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư
bản- đòi hỏi mộtsở vật chất- kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu
sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại.
Do vậy thể hiểu: sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ nền công
nghiệp lớn hiện đại, cấu kinh tế hợp lý, trình đ hội hóa cao dựa trên trình độ
khoa học- công nghệ hiện đại được hình thành một cách kế hoạch thống trị trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa bản hay từ trước chủ nghĩa bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội một tất yếu khách quan được thực
hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là vì: sở vật chất- kỹ thuật là điều kiện
trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan đến sự phát triển về chất đối với lượng sản xuất,
và năng suất lao động; đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong
xã hội và đối với sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.
Có hai loại nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội: các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa( các nước có nền kinh tế kém phát triển).
Đối với những nước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những nước này đã có sẵn
nền đại công nghiệp của chủ nghĩa bản để lại cho nên chỉ cần điều chỉnh nền đại công
nghiệp đó theo yêu cầu của chủ nghĩa hội thì về cơ bản đã có sở vật chất- kỹ thuật của
16
hội mới. Do đó, vấn đề công nghiệp hóa không cần phải đặt ra. Sở chúng ta phải điều
chỉnh nền đại công nghiệp khí của chủ nghĩa bản theo yêu cầu của xã hội nền đại
công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản dù hiện đại đến đâu chỉ là tiền đề vật chất cho xã hội
mới chứ chưa phải là cơ sở vật chất cho chủ nghĩa hội vì nó dựa trên chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa, phân bố không đều giữa xá ngành, vùng do đó tất yếu phải điều chỉnh nó.
Đối với những nước nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa hội chưa
qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa, những nước này nền kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa
vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, muốn có cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện
đại thì phải tất yếu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
tất yếu khách quan vì:
+ con đường duy nhất để tạo ra sự phát triển về chất đối với lực lượng
sản xuất và năng suất lao động. Chất của lực lượng sản xuất là h thống công cụ lao
động hiện đại với trình độ công nghệ hiện đại.
+ Công nghiệp hóa tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần
ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội bởi vì công nghiệp hóa sẽ làm cho lực
lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng, khối kượng của cải sản xuất ra
ngày càng nhiều tù đó mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội nói
chung và của con người nói riêng.
+ Là con đường duy nhất để đảm bảo sự thắng lợi cuối cùng vủa chủ nghĩa xã
hội.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những tất yếu còn điều kiện
sống còn của chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa tất yếu khách quan đối với những nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta.
3- Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng
sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế;
do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân; góp phần quyết định sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước; nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm tăng sự phát triển
17
đã xuất hiện với chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự
nhiên không có được. Thí dụ: vật liệu tổ hợp hay còn gọi là composit với các tính chất
mong muốn; gốm zin côn hoặc các- bua- si- lích chịu nhiệt cao...
- Về công nghệ sinh học: công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và
nuôi cấy tế bào được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế,
hóa chất, bảo vệ môi trường...
Vào khoảng những năm 80, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật( hay công nghệ) hiện
đại chuyển sang giai đoạn thứ ba- giai đoạn có nhiều quan điểm khác nhau đặt tên gọi cho nó.
Tương ứng với giai đoạn thứ ba cuộc cách mạng này còn có một nội dung mới: điện tử và tin
học.
- Về điện tử và tin học: một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và hấp dẫn, nhất là lĩnh
vực máy tính, diễn ra theo 4 hướng nhanh( máy siêu tính); nhỏ( vi tính); máy tính
xử lý kiến thức( trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa( viễn tin học). Cuộc cách mạng
này có hai đặc trưng chủ yếu:
Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách đây hơn 100 năm C.
Mác đã từng dự đoán về mối quan hệ sự phát triển giữa khoa học lực lượng sản xuất.
Người viết Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu xe lửa điện báo... tất cả các thứ đó
thành qu của bộ óc con người, được bàn tay con người tạo ra sức mạnh tri thức đã được
vật hóa. Sự phát triển vốn cố định là chỉ tiêu cho thấy rằng tri thức hội chung đã biến
thành lượng sản xuất với mức độ cao, và do đó cũng là chỉ tiêu nói lên mức độ phụ thuộc
biến đổi của chính những điều kiện hoạt động xã hội với trí tuệ chung”( 11).
Nói khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là bao gồm cả khoa học tự
nhiên- kthuật lẫn khoa học- xã hội, nhất khoa học kinh té; do con người tạo ra thông
qua con người- nhân tố trung tâm- nhân tố chủ thể- đến lực lượng sản xuất. đòi hỏi phải
có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học kỹ thuật. Ngày nay, bất cứ sự tiến bộ nào của kỹ
thuật( công nghệ) sản xuất đều phải dựa trên những thành tựu của khoa học làm cơ s lý
thuyết cho nó.
Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học rút ngắn lại phạm vi ứng
dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng.
Ở nước ta, một nước bỏ qua chế độ tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa và
19
hiện đại hóa được tiến hành trong điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học-
kỹ thuật diễn ra trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa. Trong hoàn cảnh đó cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật nước ta phải bao gồm cơ khí hóa hiện đại hóa, coi then
chốt” và coi khoa học- công nghệ “ động lực” cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
* Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại còn được thực hiện thông qua nhận
chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến:
- Nhận chuyển giao công nghệ mớicách đi sớm đưa nhanh nước ta lên hiện
đại gắn với con đường rút ngắn con đường phát triển hiện đại.
- Thực chất của việc chuyển giao công ngh mới là sự chuyển đổi quyền sở
hữu và quyền sử dụng hàng hóa kỹ thuật công nghệ từ các nước công nghiệp tiên tiến
sang các nước có nền kinh tế kém hoặc đang phát triển.
- Nếu như hàng hóa thông thường thì svận động của đi từ nơi giá thấp
đến nơi giá cao, thì trái lại hàng hóa kỹ thuật công nghệ lại có đặc điểm đi từ nơi
có trình độ cao đến nơi có trình độ thấp.
- Để hiện thực hóa việc chuyển giao cần coi trọng các điều kiện về vốn đội
ngũ làm công tác nhận chuyển giao...
b- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển
bản chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa tất yếu phải phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động hội sự chuyên môn hóa lao động, tức sự chuyên môn hóa giữa
các ngành trong nội bộ từng ngành và giữa từng vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công
lao động tác dụng rất to lớn: nó đòn bẩy của sự phát triển công nghệ năng suất lao
động; cùng với cách mạng khoa học kỹ thuật nó góp phần hình thành phát triển cấu
kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hóa tuân thủ các
quá trình có tính quy luật sau:
- Tỷ trọng tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng số tuyệt
đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản
đơn trong tổng lao động xã hội.
20
| 1/31

Preview text:

zz
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: T)N TẠI X+ HÔ,I VÀ Ý TH-C X+ HÔ,I
GVHD: PGS. TS Đoàn Đức Hiếu SVTH:
1. Lê Nguyễn Thiên Lộc 23144023 2. Nguyễn Khoa Nam 23144028 3. Trang Thành Vinh 23144042
Mã lớp học: LLCT130105E_23CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2023 1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
................................................................................................................................................................
Điểm: …………………………….. KÝ TÊN 2 MỤC LỤC A- ĐẶT VẤN ĐỀ I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II- ĐỀ CƯƠNG KHÁI QUÁT B- NỘI DUNG
I- CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1- PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT
2- LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 3- QUAN HỆ SẢN XUẤT
4- QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TÍNH CHẤT
VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
II- CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA
1- KHÁI NIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2- TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
3- TÁC DỤNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
4- NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
A- TRANG BỊ KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI
HÓA CÁC NGÀNH CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
B- XÂY DỰNG CƠ CẤU KINH TẾ HỢP LÝ VÀ PHÂN CÔNG LẠI LAO ĐỘNG XÃ HỘI
III- VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA- HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM 4
IV- NHỮNG THÀNH TỰU VIỆT NAM Đ+ ĐẠT ĐƯỢC
V- NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT C- KẾT LUẬN
D- TÀI LIỆU THAM KHẢO A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I- Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta được bắt đầu từ cuối năm 1960. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III( 9- 1960) của Đảng lao động Việt Nam đã quyết nghị “
Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Sự nghiệp đó đến nay vẫn còn tiếp tục.
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh và điều kiện:
- Trong suốt thời gian tiến hành công nghiệp hóa, tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn
biến rất sôi động, phức tạp và không thuận chiều. Bắt đầu công nghiệp hóa được bốn năm thì
đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đất nước phải thực hiện đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng;
miền Nam thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội được vài năm thì kẻ thù gây ra chiến tranh biên giới. Chiến tranh biên giới kết
thúc lại kéo theo cấm vận của Mỹ.
- Nếu những năm 60, hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, phát triển nhanh không thua kém
nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, có uy tín trên thế giới đã tạo ra hoàn cảnh
quốc tế thuận lợi cho công nghiệp hóa ở nước ta, thì sang những năm 70, 80 hoàn cảnh quốc
tế lại gây bất lợi cho quá trình công nghiệp hóa ở nước ta. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa của
thế giới( 1973) các nước xã hội chủ nghĩa do chuyển dịch cơ cấu và đổi mới công nghệ chậm
hơn so với các nước tư bản chủ nghĩa, hiệu quả thấp, uy tín trên thị trường quốc tế giảm, cộng
các sai lầm khác đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, làm mất đi thị
trường lớn và sự giúp đỡ không nhỏ từ các nước này( ước tính 1 năm 1 tỷ đô la, chiếm 7% GDP ).
Công nghiệp hóa ở nước ta xuất phát từ điểm rất thấp về phát triển kinh tếxã hội, về phát
triển lực lượng sản xuất và từ trạng thái không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ và
tính chất phát triển của lực lượng sản xuất.
Năm 1960 công nghiệp chiếm 18,2% thu nhập quốc dân sản xuất, 7% lao động xã hội trong
các ngành kinh tế quốc dân; nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương ứng là 42,35 và 83%; sản lượng
lương thực bình quân đầu người dưới 300 kg; GDP bình quân đầu người khoảng dưới 100 đô
la. Trong khi phân công lao động xã hội chưa phát triển và lực lượng sản xuất ở trình độ thấp
thì quan hệ sản xuất đã được đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu. Đến
năm 1960: 85,8% tổng số hộ nông dân vào hợp tác xã; 100% hộ tư sản được cải tạo trong
tổng số tư sản công thương nghiệp thuộc diện cải tạo, gần 80% thợ thủ công cá thể vào hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp Đứng trước thực trạng này Đảng ta đã quyết định xóa bỏ cơ chế
hành chính, quan liêu, bao cấp, và xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và 5
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong
quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các
sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong
khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực thực tế của con người
trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động
với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật
chất.Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công
cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Trong đó, “ lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”( 2).
Do đặc trưng sinh học- xã gội riêng có của mình, cong người, trong nền sản xuất có sức
mạnh và kỹ năng lao động thần kinh cơ- bắp. Trong lao động sức mạnh và kỹ năng ấy đã
được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động
có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trí tuệ con người không phải là cái gì siêu tự nhiên,mà là sản
phẩm của tự nhiên và của lao động. Nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội loài
người, trí tuệ hình thành phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm
lượng trí tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện của khoa
học công nghệ hiện nay, đã làm cho con người trở thành một nguồn kực đặc biệt của sản xuất,
là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Trong tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao động khác cần thiết cho
việc vận chuyển bảo quản sản phẩm....
Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm biến đổi
nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có
một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động sẵn có, mà còn
sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất có liên quan đến việc đưa
những đối tượng ngày càng mới hơn vào quá trình sản xuất. Điều đó hoàn toàn có tính quy
luật bởi chính những vật liệu mới mở rộng khả năng sản xuất của con người. Đối tượng lao
động chính là yếu tố vật chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm các loại:
+ Loại có sẵn trong tự nhiên. Loại này thường là đối tượng của các ngành công nghiệp khai thác. 7
+ Loại đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của lao động gọi là nguyên liệu.
Loại này thường là đói tượng của các ngành công nghiệp chế biến.
Với sự phát triển của Cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại, vai trò của nhiều đối tượng
lao động dần dần thay đổi, đồng thời loại đối tượng lao động có chất lượng mới được tạo ra.
Nhưng cơ sở của mọi đối tượng lao động vẫn là đất đai, tự nhiên: “ lao động là cha, còn đất là
mẹ của mọi của cải vật chất”( 3).
Tư liệu lao động: là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác
động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của mình.
Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động, hệ thống các yếu tố vật chất phục vụ trực
tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất( nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, ống dẫn, băng chuyền,
đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc...).
Trong các yếu tố hợp thành tư liệu lao động thì công cụ lao động có ý nghĩa quyết định
nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao động, theo Ph. Ăngghen là “
khí quan của bộ óc con người”, là “ sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa” có tác dụng “
nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Còn Mác gọi là hệ thống xương
cốt và cơ bắp của nền sản xuất. Công cụ lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con
người đặt giữa mình với đối tượng lao động. Trong quá trình sản xuất, công cụ lao động luôn
luôn được cải tiến, tinh xảo hơn để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn. Nó là
yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Cùng với sự biến đổi và phát
triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học
của con người cũng tiến bộ, phong phú thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân
công lao động phát triển. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã
gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là nguyên
nhân sâu xa xa của mọi biến cải xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo
trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là cơ sở xác định trình dộ phát triển của sản xuất,
là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế. Đối với mỗi thế hệ mới,
những tư liệu lao động do thế hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát của sự phát triển tương
lai. Vì vậy những tư liệu đó là cơ sở kế tục của lịch sử.
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng
kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra 8
+ Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc tổ chức quản lý.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của
con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống
tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội luôn gắn bó với nhau, tạo
thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực
lượng sản xuất. Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm
nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi mặt quan hệ
của hệ thống quan hệ sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó tác động tới
nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất- biểu hiện thành chế độ sở hữu- là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tếxã hội xác định, quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất luôn luôn có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác . Quan
hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất.
Chính quan hệ sở hữuquan hệ giữa các tập đoàn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản
xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa
vị của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất lại quy định cách thức mà các tập đoàn
trao đổi hoạt động cho nhau, quy định cách thức mà các tập đoàn tổ chức quản lý quá trình
sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm
cho các tập đoàn người theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội. “ Định nghĩa
quyền sở hữu tư sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của
sản xuất tư sản”.( 7).
Trong các hình thái kinh tế- xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã chứng kiến
sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: sở hữ tư nhân và sở
hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi
thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ sở đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi
cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư
liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đống nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất 10
và trong đời sống xã hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tư liệu chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải
xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít người đó. Các quan hệ xã hội, do vậy, trở
thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế
độ tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lê nin đã chỉ rõ trong các chế độ sở hữu tư nhân của các xã hội điển hình trong lịch
sử( sở hữu tư nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu tư nhân trong chế độ phong kiến và sở
hữu tư nhân trong chế độ tư bản) thì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là đỉnh cao của loại sở hữu này.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng chế đọ tư bản chủ nghĩa không phải là
hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý sản xuất là
các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng
của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các nhân tố xác định của một nền sản xuất,
điều khiển và tổ chức cách thức vận động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản lý
sản xuất có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn luôn có xu hướng thích ứng với
kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy, việc sử dụng hợp lý các
quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ hệ thống quan hệ sản xuất có khả
năng vươn tới tối ưu. Trong trường hợp ngược lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm
biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội.
Hiện nay, nhờ ứng dụng những thành tựu to lớn của khoa học quản lý hiện đại nên vai
trò của các quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản
xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất ở tầm vĩ mô, trên thực tế đã tăng lên gấp bội so
với vài thập kỷ trước đây. Đây là điều rất đáng lưu ý trong việc phân tích và đánh giá vai trò
của các quan hệ sản xuất hiện đại. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức- quản lý, trong hệ
thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những
nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vân động của toàn bộ nền kinh tế- xã hội.
Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ chức quản lý sản xuất, 11
xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất
của quá trình sản xuất ra sản phẩm. Quá trình này phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất
và lao động. Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là
sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ. Những công cụ sản
xuất như búa, rìu, cày bừa, xa quay sợi... do một người sử dụng để sản xuất vật dùng, không
cần tới lao động tập thể, lực lượng sản xuất cóa tính chất cá nhân. Khi máy móc ra đời đòi hỏi
phải có nhiều người mới sử dụng được, để làm ra một sản phẩm cần phải có sự hợp tác của
nhiều người. Mỗi người làm một bộ phận công việc mới hoàn thành được sản phẩm ấy cho
nên lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa. Ph. Ăngghen đã nhận định giai cấp tư sản “
không thể biến những tư liệu sản xuất có hạm ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh
mà lại không biến chúng từ chỗ là tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng thành những tư liệu
sản xuất xã hội, chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”( 8). Trên thực tế, tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt với nhau.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển do lực lượng sản xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn
luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công vụ lao động
mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm
sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến
bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản
xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết
định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung thay đổi trước sau đó hình thức
mới biến đổi theo. Tất nhiên, trong quan hệ với nội dung , hình thức không phải là mặt thụ
động, nó cũng tác động trở lại đối với việc phát triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành, biến
đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động lực
cho lực lượng sản xuất pats triển mạnh mẽ. Nhưng, lực lượng sản xuất luôn phát triển còn
quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một
trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với
sự phát triển của nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất.
Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng
một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ mới của lực lượng sản xuất, 13
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có
nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất đã lỗi thời và sự ra đời của một phương
thức mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan
hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là
tiền đề tất yếu của các cuộc cách mạng xã hội. C. Mác đã nhận định: “ Tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan
hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ
là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã
hội”( 9). đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối
với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc
lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản
xuất dựa vào đó đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất: có thể thúc
đẩy hoặc lìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trở thành
động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản
xuất lỗi thời không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu
thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở thành “ xiềng xích trói buộc” kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Song tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính tất yếu
khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản
xuất( thúc đẩy hoặc kìm hãm), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ
chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối phần của cải ít hay
nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại quần
chúng lao động- lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội; nó tạo ra những điều kiện hoặc kích
thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ
thuật vào sản xuất, hợp tác và phân công lao động.... 14
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất- kỹ thuật của một xã hội là: sự biến
đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học- kỹ thuật; tính chất và trình
độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất thống trị.
Nói cơ sở vật chất- kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở vật
chất- kỹ thuật đó đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó
được khẳng định sự thay thế phương thức sản xuất cũ và được phát triển đúng trên cơ sở bản thân nó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất- kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa
tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa tư
bản, đặc trưng của nó là nền đại công nghiệp cơ khí hóa và chỉ khi xây dựng xong cơ sở đó,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới trở thành phương thức sản xuất thống trị.
Chủ nghĩa xã hội- giai doạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư
bản- đòi hỏi một cơ sở vật chất- kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu
sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại.
Do vậy có thể hiểu: Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền công
nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ
khoa học- công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan và được thực
hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là vì: cơ sở vật chất- kỹ thuật là điều kiện
trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan đến sự phát triển về chất đối với lượng sản xuất,
và năng suất lao động; đối với việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong
xã hội và đối với sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.
Có hai loại nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội: các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa( các nước có nền kinh tế kém phát triển).
Đối với những nước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những nước này đã có sẵn
nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại cho nên chỉ cần điều chỉnh nền đại công
nghiệp đó theo yêu cầu của chủ nghĩa xã hội thì về cơ bản đã có cơ sở vật chất- kỹ thuật của 16
xã hội mới. Do đó, vấn đề công nghiệp hóa không cần phải đặt ra. Sở dĩ chúng ta phải điều
chỉnh nền đại công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản theo yêu cầu của xã hội vì nền đại
công nghiệp cơ khí của chủ nghĩa tư bản dù hiện đại đến đâu chỉ là tiền đề vật chất cho xã hội
mới chứ chưa phải là cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội vì nó dựa trên chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa, phân bố không đều giữa xá ngành, vùng do đó tất yếu phải điều chỉnh nó.
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, những nước này nền kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa
vào sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, muốn có cơ sở vật chất- kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện
đại thì phải tất yếu tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu khách quan vì:
+ Nó là con đường duy nhất để tạo ra sự phát triển về chất đối với lực lượng
sản xuất và năng suất lao động. Chất của lực lượng sản xuất là hệ thống công cụ lao
động hiện đại với trình độ công nghệ hiện đại.
+ Công nghiệp hóa tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần
ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội bởi vì công nghiệp hóa sẽ làm cho lực
lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng, khối kượng của cải sản xuất ra
ngày càng nhiều tù đó mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội nói
chung và của con người nói riêng.
+ Là con đường duy nhất để đảm bảo sự thắng lợi cuối cùng vủa chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những là tất yếu mà còn là điều kiện
sống còn của chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa là tất yếu khách quan đối với những nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta.
3- Tác dụng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng
sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế;
do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân; góp phần quyết định sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước; nâng cao năng lực tích lũy, tăng công ăn việc làm, nhờ đó làm tăng sự phát triển 17
đã xuất hiện với chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự
nhiên không có được. Thí dụ: vật liệu tổ hợp hay còn gọi là composit với các tính chất
mong muốn; gốm zin côn hoặc các- bua- si- lích chịu nhiệt cao...
- Về công nghệ sinh học: công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và
nuôi cấy tế bào được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế,
hóa chất, bảo vệ môi trường...
Vào khoảng những năm 80, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật( hay công nghệ) hiện
đại chuyển sang giai đoạn thứ ba- giai đoạn có nhiều quan điểm khác nhau đặt tên gọi cho nó.
Tương ứng với giai đoạn thứ ba cuộc cách mạng này còn có một nội dung mới: điện tử và tin học.
- Về điện tử và tin học: một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và hấp dẫn, nhất là lĩnh
vực máy tính, diễn ra theo 4 hướng nhanh( máy siêu tính); nhỏ( vi tính); máy tính có
xử lý kiến thức( trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa( viễn tin học). Cuộc cách mạng
này có hai đặc trưng chủ yếu:
Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách đây hơn 100 năm C.
Mác đã từng dự đoán về mối quan hệ và sự phát triển giữa khoa học và lực lượng sản xuất.
Người viết “ Thiên nhiên không tạo ra máy móc, đầu xe lửa điện báo... tất cả các thứ đó là
thành quả của bộ óc con người, được bàn tay con người tạo ra là sức mạnh tri thức đã được
vật hóa. Sự phát triển vốn cố định là chỉ tiêu cho thấy rằng tri thức xã hội chung đã biến
thành lượng sản xuất với mức độ cao, và do đó cũng là chỉ tiêu nói lên mức độ phụ thuộc và
biến đổi của chính những điều kiện hoạt động xã hội với trí tuệ chung”( 11).
Nói khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nó bao gồm cả khoa học tự
nhiên- kỹ thuật lẫn khoa học- xã hội, nhất là khoa học kinh té; nó do con người tạo ra thông
qua con người- nhân tố trung tâm- nhân tố chủ thể- đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi phải
có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học kỹ thuật. Ngày nay, bất cứ sự tiến bộ nào của kỹ
thuật( công nghệ) sản xuất đều phải dựa trên những thành tựu của khoa học làm cơ sở lý thuyết cho nó.
Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học rút ngắn lại và phạm vi ứng
dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng.
Ở nước ta, một nước bỏ qua chế độ tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa và 19
hiện đại hóa được tiến hành trong điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học-
kỹ thuật diễn ra trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa. Trong hoàn cảnh đó cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật ở nước ta phải bao gồm cơ khí hóa và hiện đại hóa, coi nó là “ then
chốt” và coi khoa học- công nghệ “ động lực” cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
* Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại còn được thực hiện thông qua nhận
chuyển giao công nghệ mới từ các nước tiên tiến:
- Nhận chuyển giao công nghệ mới là cách đi sớm đưa nhanh nước ta lên hiện
đại gắn với con đường rút ngắn con đường phát triển hiện đại.
- Thực chất của việc chuyển giao công nghệ mới là sự chuyển đổi quyền sở
hữu và quyền sử dụng hàng hóa kỹ thuật công nghệ từ các nước công nghiệp tiên tiến
sang các nước có nền kinh tế kém hoặc đang phát triển.
- Nếu như hàng hóa thông thường thì sự vận động của ló đi từ nơi có giá thấp
đến nơi có giá cao, thì trái lại hàng hóa kỹ thuật công nghệ lại có đặc điểm đi từ nơi
có trình độ cao đến nơi có trình độ thấp.
- Để hiện thực hóa việc chuyển giao cần coi trọng các điều kiện về vốn và đội
ngũ làm công tác nhận chuyển giao...
b- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa tất yếu phải phân công lại lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động, tức là sự chuyên môn hóa giữa
các ngành trong nội bộ từng ngành và giữa từng vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công
lao động có tác dụng rất to lớn: nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao
động; cùng với cách mạng khoa học kỹ thuật nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu
kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hóa tuân thủ các
quá trình có tính quy luật sau:
- Tỷ trọng và tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số tuyệt
đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản
đơn trong tổng lao động xã hội. 20