-
Thông tin
-
Quiz
[TỔNG HỢP] Bài tập ôn tập PLDC | Trường Đại học Hồng Đức
1.Mọi hành vi trái pháp luật đều là vi phạm pháp luật - SAIVÌ: Chỉ khi hành vi trái pháp luật đảm bảo đủ các dấu hiệu vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người; mang tính trái pháp luật; có lỗi; do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện và các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể thì mới là hành vi vi phạm pháp luật.2.Mọi cá nhân khi thực hiện hành vi trái pháp luật đều là chủ thể của vi phạm pháp luật – SAIVÌ: Sai vì chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, đối với những người bị tâm thần , họ không có năng lực trách nhiệm pháp lí thì khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật vẫn không được xem là chủ thể của vi phạm pháp luật3Lỗi, động cơ, mục đích là các dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạmpháp luật. – SAIVÌ: Lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục đích chỉ là các yếu tố làm tăng tính nguy hiểm của hành vi, chứ không phải là dấu hiệu bắt buộc.4.Chỉ có cá nhân mới là chủ thể của vi phạm pháp luật. – SAIVÌ: Không chỉ cá nhân mà cả tổ chức cũng có thể là chủ thể của vi phạm pháp luật.5. Khi chủ thể vi phạm pháp luật nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra thì có lỗi cố ý. – ĐÚNGVÌ: Lỗi cố ý là khi người phạm tội biết rõ hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội và vẫn thực hiện hành vi đó.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Luật (ĐHHĐ) 4 tài liệu
Đại học Hồng Đức 235 tài liệu
[TỔNG HỢP] Bài tập ôn tập PLDC | Trường Đại học Hồng Đức
1.Mọi hành vi trái pháp luật đều là vi phạm pháp luật - SAIVÌ: Chỉ khi hành vi trái pháp luật đảm bảo đủ các dấu hiệu vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người; mang tính trái pháp luật; có lỗi; do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện và các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể thì mới là hành vi vi phạm pháp luật.2.Mọi cá nhân khi thực hiện hành vi trái pháp luật đều là chủ thể của vi phạm pháp luật – SAIVÌ: Sai vì chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, đối với những người bị tâm thần , họ không có năng lực trách nhiệm pháp lí thì khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật vẫn không được xem là chủ thể của vi phạm pháp luật3Lỗi, động cơ, mục đích là các dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạmpháp luật. – SAIVÌ: Lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục đích chỉ là các yếu tố làm tăng tính nguy hiểm của hành vi, chứ không phải là dấu hiệu bắt buộc.4.Chỉ có cá nhân mới là chủ thể của vi phạm pháp luật. – SAIVÌ: Không chỉ cá nhân mà cả tổ chức cũng có thể là chủ thể của vi phạm pháp luật.5. Khi chủ thể vi phạm pháp luật nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra thì có lỗi cố ý. – ĐÚNGVÌ: Lỗi cố ý là khi người phạm tội biết rõ hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội và vẫn thực hiện hành vi đó.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Luật (ĐHHĐ) 4 tài liệu
Trường: Đại học Hồng Đức 235 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|50202050
TÊN: PHAN QUỲNH NHƯ LỚP: 50K06.2 MSSV: 241121006238
ÔN TẬP – KIỂM TRA
Câu 1. Các nhận định sau đúng hay sai, giải thích tại sao?
1. Mọi hành vi trái pháp luật đều là vi phạm pháp luật - SAI
VÌ: Chỉ khi hành vi trái pháp luật đảm bảo đủ các dấu hiệu vi phạm pháp luật là hành vi xác định
của con người; mang tính trái pháp luật; có lỗi; do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện và các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật là mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể thì mới là hành vi vi phạm pháp luật.
2. Mọi cá nhân khi thực hiện hành vi trái pháp luật đều là chủ thể của vi phạm pháp luật – SAI
VÌ: Sai vì chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý.
Tuy nhiên, đối với những người bị tâm thần , họ không có năng lực trách nhiệm pháp lí thì khi họ
thực hiện hành vi trái pháp luật vẫn không được xem là chủ thể của vi phạm pháp luật
3. Lỗi, động cơ, mục đích là các dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạmpháp luật. – SAI
VÌ: Lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục đích chỉ là các yếu tố làm tăng tính nguy hiểm
của hành vi, chứ không phải là dấu hiệu bắt buộc.
4. Chỉ có cá nhân mới là chủ thể của vi phạm pháp luật. – SAI
VÌ: Không chỉ cá nhân mà cả tổ chức cũng có thể là chủ thể của vi phạm pháp luật.
5. Khi chủ thể vi phạm pháp luật nhận thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của
mình gây ra thì có lỗi cố ý. – ĐÚNG
VÌ: Lỗi cố ý là khi người phạm tội biết rõ hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
và vẫn thực hiện hành vi đó.
6. Khi một cá nhân thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không nhận thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra thì không có lỗi. – SAI
VÌ: Sai vì khi một cá nhân thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không nhận thấy trước được hậu
quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra thì có lỗi vô ý cẩu thả.
7. Mọi hành vi trái pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. – SAI
VÌ: Sai vì trách nhiệm pháp lý chỉ được áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.Còn đối với
chủ thể không có năng lực trách nhiệm pháp lý; do sự kiện bất ngờ; do phòng vệ chính đáng; hay
được thực hiện phù hợp với tình thế cấp thiết thì không được truy cứu trách nhiệm pháp lý
8. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều do Tòa án giải quyết. – SAI
VÌ: có những hành vi vi phạm khác không thể do Tòa án giải quyết mà thay vào đó là cơ quan, đơn
vị có thẩm quyền giải quyết lOMoARcPSD|50202050
9. Mọi tổ chức, cá nhân đều có thể thực hiện pháp luật theo mọi hình thức. – SAI
VÌ: Mọi tổ chức, cá nhân có thể thực hiện pháp luật nhưng không phải theo mọi hình thức. Các hình
thức thực hiện pháp luật thường phải tuân thủ theo quy định cụ thể của pháp luật.
10. Mọi hành vi thực hiện pháp luật đều thể hiện dưới dạng hành động. – SAI
VÌ: Hành vi thực hiện pháp luật có thể thể hiện dưới dạng hành động (thực hiện) hoặc không hành
động (không thực hiện những gì pháp luật cấm).
Câu 2. Bài tập tình huống
Do quen biết, ngày 20/4/2024 Anh giả vờ mượn Bình chiếc xe máy để đi thăm người quen.
Sau đó, Anh đã đến thợ khóa làm them một chìa khóa điện xe của Bình rồi trả lại xe cho Bình. Một
tuần sau, Anh lại giả vờ nhờ Bình dùng xe máy chở Anh đến chơi nhà một ng ười bạn khác. Xe
máy của Bình để ở sân được Bình khóa cẩn thận. Chí và Dũng là bạn của Anh và đã được Anh đưa
cho chiếc chìa khóa điện đã đánh thêm từ trước và theo kế hoạch đã được thống nhất, Anh có trách
nhiệm nói chuyện nhằm giữ chân Bình trong nhà người bạn để tạo thuận lợi cho Chí và Dũng dùng
chìa khóa điện làm them để mở xe và chiếm đoạt xe máy của Bình. Số tiền Chí và Dũng bán xe
được 20 triệu đồng, sau đó các đối tượng chia nhau, tiêu xài hết.
Từ tình huống này, hãy:
1. Xác định lỗi của các đối tượng trong trường hợp này? - Anh: •
Lỗi chủ mưu: Anh là người khởi xướng toàn bộ kế hoạch, từ việc làm thêm chìa khóa đến
việc tạo điều kiện cho Chí và Dũng thực hiện hành vi trộm cắp. •
Lỗi đồng phạm: Anh trực tiếp tham gia vào việc thực hiện hành vi phạm tội bằng cách giữ
chân Bình để tạo cơ hội cho đồng bọn. - Chí và Dũng: •
Lỗi đồng phạm: Chí và Dũng trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp xe máy của Bình bằng
cách sử dụng chìa khóa giả.
2. Phân tích cấu thành hành vi vi phạm pháp luật trong tình huống này?
Các hành vi của Anh, Chí và Dũng đều cấu thành vi phạm pháp luật với những yếu tố như sau: •
Mặt chủ quan: Cả ba đối tượng đều có ý định chiếm đoạt tài sản của Bình (lỗi cố ý).
+ Mục đích: Là nhằm chiếm đoạt tài sản cho mình.
+ Hậu quả: Gây thiệt hại cho người bị hại (Bình). •
Mặt khách quan: Hành vi mượn xe để làm chìa khóa điện dự phòng, rồi sử dụng
chìa khóa đó để trộm xe là hành vi cụ thể vi phạm pháp luật. lOMoARcPSD|50202050 •
Chủ thể: Anh, Chí và Dũng đều là những người có đủ năng lực hành vi dân sự để
chịu trách nhiệm về hành vi của mình. •
Khách thể: Tài sản bị chiếm đoạt là chiếc xe máy của Bình, thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Bình. Kết luận
Hành vi của Anh, Chí và Dũng có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm chiếm đoạt tài sản,
vi phạm quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản. Cả ba đối tượng đều phải
chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi của mình.