Tổng hợp câu hỏi Bài tập cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội
Tổng hợp câu hỏi Bài tập cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (PHIL177)
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Catalog
Cơ sở Văn hoá Việt Nam ............................................................................................................................. 2
I. 10 CÂU TÁI HIỆN (mỗi câu 4 điểm) ..................................................................................................... 2
1.Trình bày khái niệm văn hóa. Phân biệt văn hoá với văn minh, văn hiến, văn vật. .................... 2
2.Trình bày đặc trưng và vị trí của nền văn hoá Đông Sơn trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt
Nam. ............................................................................................................................................... 2
3.Trình bày những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong giao lưu tiếp biến với văn hoá Trung
Hoa. .................................................................................................................................................4
4.Trình bày diện mạo văn hoá Đại Việt thời Lý - Trần .................................................................. 5
5.Trình bày đặc điểm hệ thống tín ngưỡng Việt Nam. ................................................................... 7
6.Trình bày ý nghĩa văn hoá của lễ hội truyền thống Việt Nam. ....................................................8
7.Trình bày những đặc trưng văn hóa trang phục của Việt Nam. .................................................. 8
8.Trình bày những đặc điểm của gia đình người Việt truyền thống. ............................................10
9.Trình bày những đặc điểm của lễ Tết Việt Nam. ...................................................................... 12
10.Trình bày những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu với văn hóa Pháp
giai đoạn 1858 – 1945. ................................................................................................................. 15
II. 10 CÂU VẬN DỤNG (mỗi câu 4 điểm) ...............................................................................................21
1.Phân tích đặc điểm của lễ hội truyền thống Việt Nam. Liên hệ việc thực hành lễ hội hiện nay.Error! Bookm
2.Phân tích những đặc điểm của làng Việt truyền thống. Liên hệ với vấn đề xây dựng làng văn
hoá trong giai đoạn hiện nay. .......................................................................................................24
3.Phân tích đặc điểm văn hoá giao thông truyền thống của người Việt. ..................................... 26
4.Phân tích đặc điểm văn hoá ẩm thực truyền thống của người Việt. ......................................... 26
5.Phân tích ý nghĩa văn hóa của lễ Tết. Liên hệ việc thực hành lễ Tết hiện nay. .........................28
6.Phân tích tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt. Liên hệ việc thực hành tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình hiện nay. ........................................................................30
7.Phân tích vai trò của người phụ nữ trong gia đình người Việt truyền thống. ...........................33
8.Phân tích ý nghĩa văn hoá của việc khắc tên những người thi đỗ tiến sĩ lên bia đá đặt trên lưng
rùa ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám .................................................................................................34
9.Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong văn hoá giao thông hiện nay. .....................35
10.Phân tích các chức năng cơ bản của văn hoá. Cho ví dụ minh hoạ. ........................................37
III. 10 CÂU SÁNG TẠO (mỗi câu 2 điểm) ...............................................................................................37
1.Tại sao nói yếu tố thực vật và sông nước ảnh hưởng và in dấu đậm nét trong văn hoá Việt
Nam? .............................................................................................................................................37
2.Tại sao có thể cho rằng có một cuộc cách mạng đá mới trong văn hoá Hoà Bình – Bắc Sơn? 39
3.Ý kiến của anh (chị) về việc gộp tết Nguyên đán (theo âm lịch) vào tết Dương lịch?..............39
4.Yêu nước là giá trị cao nhất trong giá trị truyền thống của dân tộc. Anh (chị) hãy đề xuất một
số giải pháp phát huy lòng yêu nước của thế hệ trẻ hiện nay. ..................................................... 40
5.Đánh giá của anh (chị) về văn hoá trang phục của giới trẻ hiện nay. ........................................41
6.Văn hóa ẩm thực thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Anh (chị) đề xuất một số
giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa ẩm thực góp phần phát triển ngành văn hóa du lịch
nước ta hiện nay. .........................................................................................................................42
7.Đề xuất một số giải pháp giữ gìn và phát huy giá trị lễ hội truyền thống Việt Nam. ...............43
8.Đề xuất một số giải pháp giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa làng Việt truyền thống trước
tác động của quá trình đô thị hóa hiện nay. .................................................................................. 46
9.Đề xuất một số giải pháp nâng cao ý thức văn hóa cho người tham gia giao thông hiện nay. . 45
10.Ý kiến của anh (chị) về một số biến tướng của lễ hội ngày xuân hiện nay? ........................... 47 1 Cơ sở Văn hoá Việt Nam
I. 10 CÂU TÁI HIỆN (mỗi câu 4 điểm) TT Câu hỏi 1
Trình bày khái niệm văn hóa. Phân biệt văn hoá với văn minh, văn hiến, văn vật.
Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích lũy trong lịch sử
nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp
nhận, vận hành trong đời sống xã hội, được xã hội giữ gìn, trao truyền cho thế hệ sau. Văn
hóa thể hiện trình độ phát triển và những đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Sự khác nhau:
Về đối tượng, văn hóa bao gồm tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần, văn vật thiên
về yếu tố vật chất hơn, văn hiến chủ yếu tập trung về các yếu tố tinh thần còn văn minh
lại thiên về các yếu tố vật chất kỹ thuật.
Về tính chất, văn hóa, văn hiến, văn vật có tính lịch sử, tính dân tộc, văn minh lại có
tính quốc tế và chỉ sự phát triển theo giai đoạn.
Cũng bởi những thuộc tính đó mà văn minh thường gắn với xã hội phương Tây còn văn hóa,
văn hiến văn vật lại thân thuộc hơn với xã hội phương Đông. 2
Trình bày đặc trưng và vị trí của nền văn hoá Đông Sơn trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam.
*Đặc trưng của văn hoá Đông Sơn
Văn hoá Đông Sơn là nền văn hoá tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, là cốt lõi của nền văn
hoá thời Việt cổ, phản ánh một thời kỳ phát triển văn hoá rực rỡ.
Đông Sơn là một địa danh nổi tiếng thuộc tỉnh Thanh Hoá. Văn hoá Đông Sơn được phát
hiện từ trước Cách mạng tháng 8, cụ thể là vào năm 1924, một người dân chài trên sông Mã
- ông Nguyễn Văn Lắm đã tình cờ phát hiện ra một số hiện vật bằng đồng đầu tiên của nền
văn hoá này bên bờ sông.
Cho đến hiện nay, người ta đã tìm được dấu tích của văn hoá Đông Sơn trên 100 địa điểm
phân bố hầu hết ở các tỉnh miền Bắc cho tới Hà Tĩnh, Quảng Bình.
Thời gian, vị trí xuất hiện:
Văn Hoá Đông Sơn là nền văn hóa thuộc thời đại đồng thau và sơ kỳ thời đại đồ sắt ở Việt
Nam, nó được phát triển liên tục từ khoảng 2000 năm TCN cho đến thế kỷ VII TCN và trải
qua 4 giai đoạn phát triển: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.
Các nhà văn hoá cho rằng vào thế kỷ VII TCN, các nhóm bộ lạc liên kết với nhau thành 1
cộng đồng lớn và nhà nước sơ khai Văn Lang ra đời. Các nền văn hoá bộ lạc mất dần tính
địa phương tiến tới hòa chung vào một nền văn hóa thống nhất - văn hoá Đông Sơn.
Địa bàn phân bố của nền văn hoá này không chỉ ở vùng Thanh Hoá mà trải rộng khắp vùng
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam, tập trung nhất ở vùng lưu vực các con sông Hồng, Mã,
Chu, Cả. => “ Văn minh sông Hồng” Phương thức sản xuất:
Trong văn hoá Đông Sơn, sản xuất nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, toàn diện và
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống và trong khi đó, nền kinh tế săn bắn, hái lượm vẫn còn
tồn tại với tư cách bổ trợ cho sinh hoạt sống.
Sản xuất nông nghiệp phát triển tới trình độ cao có năng suất khá, kỹ thuật canh tác
thuần thục. Người Việt đã biết “đao canh thuỷ nậu”, biết sản xuất theo mùa (2 mùa), gieo
trồng nhiều loại lúa (nếp, tẻ) và các loại cây rau quả khá đa dạng khác.
Đến giai đoạn này, người Đông Sơn đã biết làm thuỷ lợi nhỏ, biết dẫn thuỷ nhập điền
để tạo ra những đồng ruộng có mực nước phù hợp với nhu cầu phát triển của cây lúa 2
trong từng giai đoạn. Đồng thời, họ cũng biết bón phân để tăng năng suất vụ mùa.
Cùng với sản xuất nông nghiệp là chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà…với vị trí quan trọng:
dùng vật nuôi để làm sức kéo, phục vụ các hoạt động trong nông nghiệp, làm nguồn thực phẩm,…
Nông cụ đa dạng: cuốc, xẻng, mai, thuổng, đặc biệt là lưỡi cày đồng với các chủng
loại phù hợp với từng loại đất.
Các nghề thủ công đặc biệt phát triển như nghề mộc, nghề làm đồ gốm, nghề dệt,
nghề chế tác đá làm đồ trang sức,... đáp ứng nhu cầu sx, sinh hoạt.
Nghề luyện kim đã phát triển đến trình độ cao, họ đã biết đúc các loại công cụ lao
động, luyện sắt và đúc sắt làm công cụ sản xuất, chiến đấu.
Đồ đồng Đông Sơn phong phú, độc đáo, chủ yếu là hợp kim đồng, thiếc, chì, đồ gốm
mỗi vùng có một phong cách riêng có tiến bộ về chất liệu, kỹ thuật tạo hình, tạo dáng và trang trí. Văn hoá vật chất :
Nhà ở bằng các vật liệu thực vật: gỗ, tre, luồng, lá, rạ.
Chủ yếu là nhà sàn hình mai rùa hoặc hình thuyền. Nhà sàn mái cong hình thuyền là
loại kiến trúc chủ yếu thời kỳ này để tránh thú dữ và lũ lụt -> cho thấy sự ứng xử thông
minh trước môi trường của người Việt cổ.
Mô hình bữa ăn là cơm-rau-cá, trong đó cơm và rau là món ăn chủ đạo. Điều này dựa
trên nền tảng là sản xuất thực vật, sx lúa nước và yếu tố sông nước -> sự hiểu biết thấu
đáo và sự kết hợp cao độ của người Đông Sơn với môi sinh.
Văn hóa trang phục: Trang phục chất liệu chủ yếu là bằng tơ tằm, sợi bông…phù hợp
với điều kiện thời tiết và công việc đồng áng. Phụ nữ mặc váy và yếm. Nam giới đóng
khố, cởi trần, xăm mình. Áo tứ thân và áo mớ ba, mớ bảy đã xuất hiện từ giai đoạn này.
Phong tục nhuộm răng, ăn trầu, để tóc dài (búi to hoặc tết đuôi sam). Ngoài ra còn
đeo vòng tai hạt, chuỗi, nhẫn và phổ biến là vòng chân.
Về phương tiện đi lại chủ yếu là thuyền be, đường vận chuyển chủ yếu là đường
sông, ven biển. Thuyền có 2 loại là thuyền độc mộc và thuyền ván ghép từ đó mà hình
thành các điệu lý, điệu hò hát giao duyên. Hoặc sử dụng voi, trâu để cưỡi và mang vác đồ đạc.
Văn hoá tinh thần: Trải qua hàng nghìn năm kinh nghiệm, người Đông Sơn đã phát
triển tư duy, nhận thức của mình đến một trình độ cao
Con người thời này đã có tri thức thiên văn học. Họ đã hình thành một vũ trụ quan sơ
khai, định vị mặt trời là trung tâm và có các hành tinh khác quay xung quanh. Biểu hiện
qua các vòng tròn đồng tâm, các họa tiết trang trí trong các sản phẩm đời sống hàng ngày của người Đông Sơn.
Về tư duy toán học: phát triển cao, đạt đến trình độ nhất định như tư duy đối xứng gương, đối xứng trục.
Về nhận thức thế giới: Tư duy Âm - Dương lưỡng phân, lưỡng hợp được hình
thành, đã có sự nhận thức thế giới và nhận thức chính mình bằng tư duy lưỡng phân: đàn
ông - đàn bà, núi biển,...
Về văn hóa nghệ thuật: Nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạc tượng, nghệ thuật kiến
trúc đã hình thành. Đặc biệt trống đồng Đông Sơn là sự phát triển vượt bậc, là 1 biểu
tưởng văn hóa, cũng là 1 nghệ thuật giá trị đặc sắc.
Về chữ viết: chữ viết Đông Sơn được chạm khắc trên các công cụ, vũ khí đồng thau,
các đường nét còn sơ lược nhưng khúc chiết, rõ ràng. Ngoài ra, còn có các dạng văn tự
khác viết trên đồ đá, đồ gốm. Trong đó có loại hình văn tự thắt nút dùng 1 số sợi dây có
màu sắc khác nhau buộc lại thành các nút khác nhau để trao đổi thông tin.
Về kỹ thuật quân sự: Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng về loại hình, độc đáo về 3
hình dáng, phong phú về số lượng. Có thành quách với các bức thành kiên cố với hào
sâu rộng cùng các ụ, lũy để bảo vệ phòng thủ.
Về tín ngưỡng, tôn giáo: Phát triển tín ngưỡng vạn vật hữu linh (tức là họ tin rằng
mọi vật đều có linh hồn và tôn thờ mọi vật có tác động đến đời sống con người). Điển
hình là hình ảnh mặt trời được thể hiện khắp mọi nơi như ở trống đồng, nhà ở, trang
phục,... tín ngưỡng bái vật giáo, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã phát triển phổ biến ở thời kỳ này, không những thờ cúng tổ
tiên đã sinh ra mình mà họ còn thờ cúng các vị thủ lĩnh bộ lạc, liên minh bộ lạc, thờ vua Hùng.
Về phong tục: đã xuất hiện tục nhuộm răng, ăn trầu, phong tục cưới xin, ma chay,
phong tục lễ hội. Đặc biệt lễ hội thời kỳ này khá phong phú như hội mùa, hội cầu, hội nước,... Tổ chức xã hội :
Xuất hiện chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp. Chủ yếu là hình thức gia đình Mẫu hệ.
Nhà nước đã được hình thành trong nền văn hóa Đông Sơn, đó chính là nhà nước
Văn lang thuộc thời đại Hùng Vương, và nhà nước Âu Lạc thuộc thời đại An Dương Vương.
=> Cấu trúc cơ bản gia đình – làng – nước về cơ bản đã được hình thành
*Vị trí của nền văn hoá hoá Đông Sơn trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam. -> quan trọng
Đây là một nền văn hóa bản địa, phát triển liên tục, lâu dài ổn định trong một giai
đoạn lịch sử lâu dài trước khi tiếp xúc với các nền văn hóa Trung Hoa và Ân Độ.
Đây là một nền văn hóa phi Hoa, phi Ân, có cá tính, có đặc trưng tiêu biểu là nền văn
minh nông nghiệp lúa nước, nền văn hóa xóm làng. Ơ đó, nền văn hóa Việt đã hình
thành bản sắc và truyền thống.
Đây là sự hội tụ lần thứ nhất trong văn hóa Việt Nam giữa những nhóm người Âu
Việt sống trên núi với những nhóm người Lạc Việt sống dưới biển.
Văn hóa Đông Sơn là sự kết tinh của văn hóa các tộc người trên đất nước Văn Lang
– Âu Lạc suốt mấy nghìn năm lịch sử.
Văn hóa Đông Sơn cũng chính là cơ sở, nền tảng, động lực của văn hóa Đại Việt.
Văn hoá Đông Sơn có vị trí và vai trò đặc biệt trong tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam.
Qua 80 năm phát hiện và nghiên cứu, văn hoá Đông Sơn được biết đến như là cơ sở vật chất
cho sự ra đời của nhà nước Văn Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của An Dương Vương.
Với nền văn hoá Đông Sơn, kỹ thuật chế tác đồ đồng đã vươn lên trình độ khác cao so với
trình độ thế lúc đương thời, đồng thời cũng là biểu tượng của văn hoá Đông Sơn là trống
đồng Đông Sơn. Quá trình hình thành và phát triển của văn hoá Đông Sơn/văn minh sông
Hồng ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt Cổ và nhà nước
đầu tiên của họ. Đây là một nền văn hóa thống nhất mà chủ nhân của nền văn hoá đó là một
cộng đồng dân cư gồm nhiều thành phần tộc người gần gũi nhau về nhân chủng và văn hoá.
Văn hoá Đông Sơn là một điển hình của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước. 3
Trình bày những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong giao lưu tiếp biến với văn hoá Trung Hoa. -
K/n giao lưu tiếp biến: GLTB là khi các thành tố của văn hóa gặp gỡ, tiếp xúc với
nhau, sau đó thông qua những hệ giá trị, chuẩn mực, những quan niệm, thói quen ăn sâu vào
tiềm thức => sàng lọc => tiếp nhận => hòa trộn => bổ sung => sáng tạo (nếu đó là những
nội dung có sự tương đồng, phù hợp)
>< đấu tranh (nếu k phù hợp) 4 -
Có 2 hình thức GLTB: tự nguyện >< cưỡng bức -
Quá trình GLTB của vh Việt vs TQ: qua hình thức cưỡng bức. - Biến đổi:
+, Tiếp cận với các kỹ thuật ren, đúc sắt gang => pvu nhu cầu sản xuất và đấu tranh bảo vệ dtoc
+, Sáng tạo kĩ thuật làm gạch, làm đồ gốm, đắp đê, làm thủy lợi,..
+, Từ TK X trở đi, người Việt đã tiếp nhận tiếng nói, chữ viết, hệ tư tưởng tổ chức bộ máy
nhà nước phong kiến TW tuy nhiên, tất cả những tinh hoa vh bên ngoài đã được Việt hóa
=> phù hợp với ng bản địa 4
Trình bày diện mạo văn hoá Đại Việt thời Lý - Trần Giới thiệu chung
- Nhà Lý (1010 - 1225) trải qua các triều đại: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông,
Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý cao Tông, Lý Huệ Tông, Lý Chiêu Hoàng.
- Nhà Trần (1225 - 1400): Trải qua các triều vua: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần
Nhân Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông…
Văn hoá Lý - Trần mở đầu cho thời kỳ văn hoá dv, diễn ra sau khi đất nước thoát khỏi ách
Bắc thuộc. Thời kỳ Lý - Trần tồn tại trong khoảng từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV là thời kỳ
đạt được nhiều thành tựu cơ bản, góp phần khẳng định bản sắc văn hoá dân tộc. 2. Đặc trưng văn hoá 2.1. Văn hoá vật chất * Xây dựng, kiến trúc:
- Sau khi dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều thành luỹ, đền đài.
Lớn nhất là thành Thăng Long.
- Kiến trúc thời Lý phát triển mạnh và để lại nhiều di tích đến ngày nay, như: Chùa Một
Cột, Tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn, tháp Sùng Thiện… Đặc điểm của các kiến trúc này
là có quy mô lớn, hòa hợp với cảnh quan thiên nhiên xung quanh.
* Các nghề thủ công, mỹ nghệ: Khá phát triển:
Nghề dệt: đạt nhiều thành tựu.
Các nghệ nhân thời Lý đã dệt những loại gấm vóc, các loại vải lụa vừa đẹp vừa quý, không
thua kém hàng cổ truyền Trung Quốc.
Năm 1040: Vua Lý Thái Tông cho lập xưởng dệt trong hoàng thành, cho cung nữ học nghề dệt gấm vóc.
Sang đời Trần, nghề dệt tiếp tục phát triển. Các trung tâm dệt nổi tiếng thời Lý - Trần có thể
kể đến như: Thăng Long, Phú Xuân, Quảng Nam, Tân Châu…
- Nghề gốm: Phát triển đạt trình độ cao.
+ Ngoài đồ sành sứ thông dụng, đã sản xuất được nhiều đồ gốm mỹ thuật phủ men ngọc, men hoa nâu, men hoa lam…
+ Các trung tâm gốm thời kỳ Lý - Trần: Bát Tràng, Hương Canh, Thổ Hà, Chu Đậu, Biên Hoà, Ninh Thuận…
- Nghề luyện kim và rèn đúc kim loại: Cho ra đời những thành phẩm cực lớn như: Tháp
Báo Thiên, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng phật chùa Quỳnh Lâm được coi là “An
Nam tứ đại khí”, tất cả đều được đúc bằng đồng.
Nghề thủ công phát triển hình thành các làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng
nhất định, đặc biệt ở thời nhà Trần. 2.2. Văn hoá tinh thần * Hệ tư tưởng:
- Văn hoá thời kỳ Lý - Trần là sự dung hoà tam giáo Nho - Phật - Đạo (còn gọi là chính sách 5
tam giáo đồng nguyên) và có ảnh hưởng của văn hoá Chămpa.
+ Đạo Phật: Thời kỳ này để lại những dấu ấn sâu đậm. Triều Lý, vua và dân chúng đều sùng mộ đạo Phật.
Ơ giữa triều đình, Phật giáo được coi như Quốc giáo. Các cao tăng tham gia vào chính sự,
trở thành cố vấn đối nội, đối ngoại cho các ông vua. Nhiều vua quan quý tộc đi tu.
Đặc điểm của đạo Phật thời kỳ này là có xu hướng nhập thế, dung hợp với tín ngưỡng dân
gian là một yếu tố góp phần làm nên một đạo Phật Việt hoá.
Thời kỳ này đạo Phật có sự phát triển cả số lượng, chất lượng. Năm 1031, triều Lý cho xây
dựng 950 ngôi chùa. Năm 1129, mở hội khánh thành 84000 toà Bảo tháp.
+ Nho giáo: So với đạo Phật, Nho giáo thời kỳ này chưa ảnh hưởng đến đời sống tinh thần
của người Việt. Ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống tinh thần người Việt thời kỳ này
biểu hiện rõ qua chế độ giáo dục và thi cử.
+ Đạo giáo: Du nhập vào nước ta và dần thích ứng, pha trộn với tín ngưỡng dân gian để tồn tại.
* Chế độ giáo dục, thi cử:
Nhà Lý bắt đầu xây dựng nền giáo dục thi cử theo tinh thần Nho giáo. Nhà Lý rất quan tâm
đến việc việc học hành, thi cử để đào tạo nhân tài, tuyển lựa quan lại cho bộ máy hành chính.
Năm 1070 nhà Lý cho dựng Văn Miếu Quốc Tử Giám - trường học dành cho các hoàng tử
và con em quan lại trong triều đình. Năm 1076, triều đình mở khoa thi đầu tiên để lựa chọn nhân tài.
Đến đời Trần, vương triều đã chính quy hóa việc học hành thi cử, mở Quốc học viện và
Giảng Võ đường dành cho con em quý tộc và cả con em thứ dân cũng được học.
Từ cách thi cử này mà Nho giáo ảnh hưởng và có địa vị trong xã hội, Nho giáo dần phát
triển và lấn át Phật giáo, ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống xã hội, trong văn hóa, ứng xử,
quan niệm, giáo dục đạo đức luân lý... của người Việt, góp phần làm giàu cho văn hóa Việt.
* Một số loại hình văn hóa nghệ thuật:
- Văn chương nghệ thuật:
+ Nền văn học viết bằng chữ Hán, sau đó là văn học viết bằng chữ Nôm được hình thành và
phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Trong đó, văn học viết bằng chữ Hán đặc biệt đạt
nhiều thành tựu với đội ngũ đông đảo tác giả tham gia và có một số lượng lớn tác phẩm.
Lực lượng sáng tác thời kỳ này chủ yếu là các trí thức Phật giáo, sau đó là Nho giáo. Nội
dung thơ văn thời kỳ Lý Trần chủ yếu thể hiện tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, đặc biệt
thời Lý còn mang quan niệm Phật giáo, mang tính Thiền.
Một số các tác phẩm tiêu biểu như: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn)…
+ Dòng văn học chữ Nôm cũng được hình thành với tên tuổi của một số tác giả như: Trần
Nhân Tông, Nguyễn Sỹ Cố…
Có thể thấy, đặt trong diễn trình lịch sử văn hoá dân tộc, sự xuất hiện của một nền văn học
dưới cả 2 hình thức viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, đã đánh dấu sự phát triển cả về lượng
và về chất của một nền văn hoá.
- Nghệ thuật điêu khắc:
Nghệ thuật điêu khắc dưới thời Lý Trần phát triển và đạt đến độ ngày càng tinh xảo, phát
triển hơn rất nhiều so với thời kỳ thiên niên kỷ đầu CN. Nghệ thuật điêu khắc thời kỳ này
chủ yếu thể hiện trên đá, gốm, trong kiến trúc của các ngôi chùa.
Thời Lý nghệ thuật điêu khắc chú ý đến những đường nét chạm trổ tinh tế, mềm mại, thanh
thoát. Thời Trần mang tính chất phóng khoáng, khoẻ khoắn và gần thực tế hơn. VD: Hình tượng con Rồng:
Rồng thời Lý: Rồng chỉ có ở kiến trúc cung đình. Được chạm khắc là những con rồng thân 6
tròn lẳng, khá dài, không có vẩy, uốn khúc mềm mại và thon dài từ đầu đến chân, rất nhẹ nhàng và thanh thoát.
Rồng thời Trần: Thân vẫn giữ dáng dấp như rồng thời Lý, nhưng được chạm khắc thêm
nhiều vảy ở lưng và có thêm sự xuất hiện chi tiết cặp sừng và đôi tay. Rồng thời Lý mềm
mại, thanh thoát thì Rồng Trần uốn lượn thoải mái, động tác dứt khoát, mạnh mẽ, tư thế vươn về phía trước.
- Ngoài văn học, điêu khắc, các ngành nghệ thuật sân khấu dân gian như: ca, múa, nhạc,
cheo tuồng, múa rối nước… cũng ra đời và phát triển.
* Bên cạnh những thành tựu về chữ viết, về văn học nghệ thuật, văn hoá thời kỳ Lý Trần
còn cho thấy những kinh nghiệm, những thành quả nghiên cứu thuộc nhiều ngành có liên
quan mật thiết đến việc giữ gìn độc lập, xây dựng và phát triển đất nước như: thiên văn,
lịch pháp, y dược, quân sự…
Về quân sự, do đặc điểm thời kỳ này phải đối phó với giặc ngoại xâm, nên quân sự phát triển.
Nhà Lý đã đề ra và nhà Trần tiếp tục thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”. “Ngụ binh ư
nông” là việc kết hợp hài hòa giữa việc quân sự và nông nghiệp, giữa kinh tế và quân sự,
chuyển hóa nhanh từ thời bình sang thời chiến khi cần.
Thời Lý - Trần đặc biệt coi trọng giáo dục tướng sĩ và binh lính lòng yêu nước, thương dân,
tinh thần đoàn kết chiến đấu, lòng tự hào dân tộc và lòng căm thù giặc. Lý Thường Kiệt
có Nam quốc sơn hà, Trần Quốc Tuấn có Hịch tướng sĩ, các vua thường ra các chiếu, dụ gửi tướng hiệu và quân sĩ.
Nhà Trần chuộng võ, khuyến khích coi trọng vũ thuật của trai tráng là lối sống của nam nhi
từ quý tộc tới nô tỳ. Năm 1253, Trần Thái Tông lập ra Giảng Võ đường để các quan võ tập
trung học binh pháp và ren luyện võ nghệ. Đây chính là trường cao cấp quân sự đào tạo các võ quan.
Trần Quốc Tuấn đã soạn bộ Vạn Kiếp tông bí truyền thư và Binh thư diệu lý yếu lược. Ông
đã tìm hiểu và tổng kết kinh nghiệm chiến tranh của Trung Quốc cổ từ thời Xuân Thu đến
tận Tống, Nguyên đương thời.
Tóm lại, những đặc trưng văn hóa thời Lý - Trần đã thể hiện văn hoá Việt Nam thời kỳ này
phát triển phong phú và đa dạng. Mặc dù đây là thời kỳ xây dựng đất nước sau khi dân tộc
ta thoát khỏi ách đô hộ của các đế chế phương Bắc nhưng nó đã đạt được những thành tựu
nổi bật. Văn hoá Đại Việt thời Lý - Trần là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển văn hoá ở những triều đại sau. 5
Trình bày đặc điểm hệ thống tín ngưỡng Việt Nam.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, người ta thường ví Việt Nam như bảo
tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn
giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và đặc sắc.
Các đặc điểm hệ thống tín ngưỡng ở Việt Nam
* Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng, không kỳ thị, tranh
chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa
dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và tinh thần đoàn kết toàn dân
tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo
khác nhau. Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và người
không có tôn giáo. Ơ nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín đồ của tôn giáo này
sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những người không theo tôn giáo,
và họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng làng, xóm, dòng họ.
*Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là người nước ngoài.
Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, tư tưởng tôn giáo có
từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc và con Rồng. Hệ thống 7
giáo lý của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt
Nam,...) hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
*Ba là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều hướng đến
Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo nên những nét
đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc.
Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín ngưỡng; các tín ngưỡng này đã
có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm năm tồn tại, phát triển, văn hóa tín
ngưỡng ngoại nhập dần được Việt hóa và trở thành một bộ phận của văn hóa Việt Nam.
*Bốn là, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế quốc, phản động
luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn
giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng. 6
Trình bày ý nghĩa văn hoá của lễ hội truyền thống Việt Nam.
* Khái niệm của lễ hội: là một hình thức sinh hoạt văn hóa tất yếu nảy sinh trong xã hội
loài người trên cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người khi sống thành cộng đồng.
- Lễ: là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với
thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân
họ chưa có khả năng thực hiện.
- Hội: là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc
sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc
cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội
thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào 4 chữ “nhân khang, vật thịnh”.
* Ý nghĩa văn hóa của lễ hội truyền thống VN:
- Thực hiện chức năng liên kết cộng đồng, dù dưới hình thức nào lễ hội truyền thống vẫn là
một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân được tổ chức sau thời gian lao động, sản xuất hay
nhân dịp kỷ niệm một sự kiện xã hội quan trọng liên quan đến sự tồn tại của một cộng đồng
hoặc để quần chúng tìm đến một cái gì đó.
- Phản ánh, bảo lưu và truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện ở sự ngưỡng mộ
tổ tiên, ôn lại truyền thống đã qua.
- Tạo cho con người niềm lạc quan yêu đời, yêu chân lý, trọng cái thiện và làm cho tâm hồn,
nhân cách mỗi con người như được sưởi ấm tình nhân đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào
cuộc sống đời thường, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh về giao lưu,
làm cho đời sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.
=> Lễ hội hướng con người tới “cái thiêng” và gắn bó con người lại với nhau, có sức hấp
dẫn lôi cuốn các tầng lớp xã hội, trở thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ 7
Trình bày những đặc trưng văn hóa trang phục của Việt Nam.
* Đặc điểm chung của văn hóa trang phục
- Trang phục là khái niệm chỉ các loại đồ mặc như áo quần, đồ đội như mũ khăn nón, đồ đi
như giày dép guốc, những trang phục phụ như khăn quàng thắt lưng cùng với các đồ trang
sức.Chức năng chủ yếu của trang phục là nhằm bảo vệ thân thể con người và để làm đẹp.
- Trang phục của từng dân tộc, từng quốc gia hình thành và phát triển gắn bó với những đặc
điểm lịch sử, đặc điểm kinh tế, địa lý, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo,... mà dân
tộc đó, quốc gia đó chịu sự chi phối. Trang phục nhiều khi là dấu hiệu bên ngoài để nhận
thấy vị trí xã hội của con người, chỉ rõ đẳng cấp, nguồn gốc xuất thân của người mặc trang 8 phục.
- Trang phục phát triển từ sơ khai cho đến hiện tại và luôn song hành cùng với sự vận động
và phát triển của lịch sử. Ban đầu con người dùng những đồ che thân thô sơ như lá cây, vỏ
cây, da thú… cho đến nay con người tự trang điểm cho mình bằng những bộ trang phục với
chất liệu quý hiếm. Người ta mặc những bộ trang phục thích hợp với hoàn cảnh, với tính
chất nghề nghiệp với môi trường sinh hoạt đa dạng của từng người.
Về chất liệu: chủ yếu được chế tác từ các loại cây cối như tơ cây chuối, cây gai,
bông, nuôi tằm lấy kén dệt vải
Về màu sắc: chủ yếu dùng màu nâu hoặc đen, màu gần với bùn đất, phù hợp với
công việc lao động đồng áng
- Trang phục có thể phân ra nhiều loại hình khác nhau, đó có thể là các bộ triều phục trong
xã hội phong kiến trước đây, trang phục lễ hội cổ truyền, trang phục dân tộc, trang phục
biểu diễn nghệ thuật, trang phục tôn giáo, trang phục lễ cưới, lễ tang…
- Văn hóa trang phục cũng chính là văn hóa mặc của con người. Nhưng con người không
chỉ biết mặc cho ấm mà còn biết mặc cho đẹp, nên vấn đề mặc chính là văn hóa. Đằng sau
văn hóa là thị yếu thẩm mỹ, là quan niệm sống, là sự thể hiện trình độ nhận thức trong văn hóa ứng xử.
- Trang phục của người Việt có thể được xem xét bằng cách phân định thời gian: trang phục
truyền thống, trang phục hiện đại. Cũng có thể tiếp cận vấn đề từ góc độ trang phục đời
thường, trang phục lễ hội. Hoặc chỉ ra các lớp văn hóa hội tụ trên trang phục người Việt từ
phương Đông và phương Tây…
* Trang phục truyền thống
- Chất liệu ban đầu: vỏ cây, lá cây, những sợi dây rừng.
- Trang phục của người phụ nữ là mũ đội đầu, yếm che thân và váy; sau này xuất hiện trang
phục lễ hội với áo mớ ba mớ bảy
- Trang phục của người đàn ông trước đó là chiếc khố che thân, về sau biết tạo ra cho mình
bộ quần áo riêng. Xuất hiện quần ống hẹp, đũng cao, gọn gàng hơn, thường may bằng vải
trắng, đó là quần ống sớ. Lễ phục sau này là áo dài, khăn xếp
- Dần dần, người Việt bắt đầu sử dụng cây gai, cây bông, trồng dâu nuôi tằm để lấy kén để
dệt vải; biết tạo ra sắc màu để làm đẹp -> Kỹ thuật nhuộm vải ra đời, nhiều màu sắc phong
phú được tận dụng từ tự nhiên
- Văn hóa mặc của VN ít nhiều chịu sự tác động và thay đổi khi tiếp xúc với văn hóa Trung
Quốc. Người Việt tiếp nhận các yếu tố vật chất của phương Bắc để bổ sung và làm giàu
thêm cho văn hóa truyền thống
- Tấm áo manh quần không chỉ là cái mặc che thân mà còn là văn hóa lối sống: “nhường
cơm sẻ áo”, “vạch áo cho người xem lưng”, “yêu nhau cởi yếm cho nhau”,... * Trang phục hiện đại
- Đây là văn hóa trang phục của người Việt kể từ khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Khi
tiếp xúc với văn hóa phương Tây, cái truyền thống của người Việt đã chịu tác động của hiện đại và thay đổi nhiều
- Chiếc áo dài hiện nay được kế thừa từ áo tứ thân ngũ thân, cách tân mà tạo thành. Áo dài
Việt Nam trở thành biểu tượng của sự kết hợp thông minh và tài hoa trong sự sáng tạo của
người Việt, trở thành nét độc đáo trong văn hóa trang phục Việt Nam hôm nay, làm nổi bật
sự dịu dàng, nét cong mềm mại đằm thắm của người phụ nữ
- Trang phục nữ giới ngày càng đa dạng: áo sơ mi, áo phông, quần đủ kiểu đủ loại hợp mốt, năng động, thời trang.
- Trang phục nam giới: áo sơ mi, comple, cavat, quần âu, áo khoác,... Nhiều kiểu dáng quần
áo giúp người đàn ông thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ và thị yếu thẩm mỹ của mình.
- Trang phục truyền thống xưa chỉ xuất hiện trong lễ hội hay những sinh hoạt văn hóa đặc 9 thù như giao lưu âm nhạc
- Quá trình xâm nhập của phương Tây một mặt hiện đại hóa văn hóa nước nhà, mặt khác
làm mất đi nét đẹp truyền thống. Trang phục người Việt xưa nghiêng về sự kín đáo tinh tế
thì ngày nay nhiều bộ trang phục khiến nhiều người phải suy ngẫm về quan điểm thẩm mỹ
- Quá trình xâm nhập văn hóa đòi hỏi mỗi chúng ta phải giữ gìn nét đẹp trong văn hóa mặc
của dân tộc mình nhưng đồng thời cũng biết tôn trọng cái khác biệt trong văn hóa dân tộc khác 8
Trình bày những đặc điểm của gia đình người Việt truyền thống.
Sự gắn kết giữa gia đình và dòng họ
Gia đình người Việt trong xã hội cổ truyền có mối quan hệ mật thiết với dòng họ, gia
đình mạnh thì dòng họ mạnh. Ý thức của con người về dòng họ và sự liên minh giữa gia
đình và dòng họ của người Việt trong xã hội cổ truyền độc lộ những mặt tru điểm và hạn chế của nó. .
Về mặt ưu điểm, dòng họ chính là gia đình mở rộng và là nơi nương tựa của con
người cả về vật chất và tinh thần. Đối với người Việt “Một giọt máu đào hơn ao nước
lã”, sự liên minh dòng họ ở đây không theo đuổi mục đích kinh tế mà là sự liên kết để
khẳng định sức mạnh với các dòng họ khác và cơ bản để thực hiện chức năng thờ cúng
Tổ tiên - giá trị tâm linh thiêng liêng mà mỗi gia đình, gia tộc tôn thờ. Văn hoá gia đình
gắn liền với văn hoá gia tộc và ý nghĩa tích cực của nó là ở sự bảo tồn, gìn giữ giá trị đạo đức, gìn giữ gia phong. .
Nhưng sự liên minh giữa gia đình và dòng họ ở mặt trái của nó là chạy theo hư danh,
là sự tranh giành quyền lực, phô trương thanh thế của dòng họ này đối với dòng họ khác,
dẫn đến mất đoàn kết trong họ hàng làng nước.
Chính bởi sự gắn kết bền chặt và linh thiêng giữa gia đình và dòng họ, nên trong các
chức năng văn hoá của gia đình, người Việt Nam rất coi trọng chức năng tái sản xuất văn
hoá tộc người, nghĩa là gia đình phải thực hiện việc duy trì nòi giống. Cần nhấn mạnh tới
chức năng tái sản xuất văn hóa tộc người là bởi gia đình không chỉ sinh con đẻ cái mà
vấn đề quan trọng là giáo dục con cái theo những thang bậc và chuẩn mực giá trị văn hóa
gia đình, giáo dục tri thức và nhân cách để từ đó mỗi thành viên trong gia đình sẽ làm
rạng danh cho gia tộc, cho cộng đồng dân tộc. Con người là chủ thể và là khách thể của
văn hóa, con người tiếp nhận những giá trị văn hóa gia đình và trở thành truyền nhân để
những giá trị đấy được kế thừa có chọn lọc, trở thành chuẩn mực giá trị văn hóa dân tộc,
giá trị văn hóa Việt. Trong gia đình, người ta rất coi trọng gia lễ hay gia phong, những lễ
nghi trong gia đình được phân loại và phổ biến thường thông qua lời giáo huấn của cha
mẹ. Lễ nghĩa chính là cách ăn ở, là văn hóa ứng xử của mỗi người, là khả năng nhập
thân văn hóa quan trọng, là những bài học đầu đời trong môi trường giáo dục gia đình.
Gia lễ hay gia phong không chi trở thành nếp nhà, nó là chuẩn mực văn hóa, là kỷ cương
ràng buộc trong gia tộc, ảnh hưởng tới tương quan xóm làng, tạo lập phép đối nhân xử
thế của mỗi người trong đời sống cộng đồng. Từ đó mới thấy mối quan hệ giữa gia đình
và gia tộc là rất chặt chẽ, mở rộng ra là mối quan hệ giữa gia đình và dân tộc thông qua gia tộc, xóm làng. Hoạt động kinh tế
Do nền sản xuất tiểu nông, gia đình người Việt cổ truyền là một đơn vị sản xuất nhỏ,
Kinh tế tiểu nông là nền kinh tế tự cấp tự túc, bên cạnh nghề nông đóng vai trò chủ đạo
là các nghề thủ công phục vụ cho sản xuất và nhu cầu sinh hoạt gia đình. Nghề chính của
gia đình người Việt là sản xuất nông nghiệp. Song trình độ canh tác còn ở mức độ nhất
định và phụ thuộc vào thiên nhiên nên năng suất bấp bênh không ổn định. Trong xã hội
cổ truyền đã có sự khẳng định lao động chính và sự phân công lao động trong gia
đình:“chồng làm nhà, đẽo cày, đóng cối, đan lát... Vợ may vá, quay tơ, dệt vải...”,v,v... 10
Trong nền sản xuất tiêu nông, vai trò của lao động nữ trong gia đình khá nổi trội:
tham gia những khâu quan trọng và thậm chí đảm nhiệm toàn bộ quá trình sản xuất. Với
phẩm chất chịu thương, chịu khó, cần cù lam lũ, vào những lúc thống nhất, người phụ nữ
cũng đảm nhận các hoạt động kinh tế khác như chăn nuôi, làm nghề phụ... Trong hoạt
động kinh tế của xã hội truyền thống, cùng với sản xuất nông nghiệp là một số nghề thủ
công hoặc buôn bán nhỏ, hoạt động này cũng được phân chia đồng đều cho cả nam và
nữ. Tuy nhiên không phải làng nào và gia đình nào cũng có nghề thủ công.
Còn hoạt động thương nghiệp cũng chỉ dừng lại ở mức bán một số công sản và mua
sắm những vật dụng thiết yếu để đảm bảo các nhu cầu sinh hoạt gia đình. Công việc này
chủ yếu do người phụ nữ đảm nhiệm. Vào các phiên chợ ở nông thôn, phụ nữ chiếm đa
số, đàn ông chỉ là thiểu số.
Cùng với hoạt động kinh tế tạo ra những sản phẩm phục vụ sinh hoạt vật chất của gia
đình, chức năng kinh tế còn biểu hiện ở một khía cạnh nữa, đó là quản lý kinh tế để chỉ
tiêu trong gia đình vừa hợp lý, khoa học, vừa đảm bảo cho cuộc sống ổn định của gia
đình. Người phụ nữ trong gia đình xưa nay vẫn được giao nhiệm vụ quan trọng này, đó
là quản lý kinh tế để duy trì ngọn lửa hạnh phúc trong gia đình, để củng sát cánh với
người đàn ông vượt qua những khó khăn của cuộc sống. Kinh tế gia đình không phải là
kinh tế trao đổi hàng hóa mà mang tính tự cấp tự túc, bởi vậy hoạt động kinh tế của gia
đình trở thành hoạt động đặc thù mang giá trị văn hóa đạo đức, khẳng định phẩm chất và
năng lực của mỗi thành viên, đồng thời góp phần khẳng định vai trò của người phụ nữ
trong gia đình vì trong xã hội Việt Nam, một xã hội có khuynh hướng trong tỉnh, trọng
tình, hướng nội và trọng nữ.
Vai trò của người phụ nữ trong gia đình
Xã hội truyền thống Việt Nam do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Trung Quốc nên mang
tính chất phụ quyền sâu sắc. Những ảnh hưởng đó chỉ mang tính tương đối “vỏ Tàu lõi
Việt”. Còn trong thực tế xã hội Việt Nam rất đề cao vai trò người phụ nữ.
Trong mối quan hệ với các thành viên trong gia đình:
Là người vợ họ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia đình, hay
nói cách khác họ là người giữ lửa cho gia đình lúc nào cũng tràn đầy ấm áp, yêu thương;
họ luôn hiểu chồng, sẵn sàng chia sẻ công việc gia đình và những vui buồn cùng chồng
trong cuộc sống, khiến người chồng luôn cảm thấy yên tâm, từ đó họ có thể đóng góp
nhiều hơn cho xã hội. Không chỉ chăm sóc giúp đỡ chồng trong gia đình, người vợ còn
là chỗ dựa tinh thần là nguồn động viên an ủi giúp đỡ, đóng góp vào thành công trong sự nghiệp của chồng.
Là người mẹ họ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện chức năng sinh đẻ
duy trì nòi giống và nuôi dạy con cái không chỉ lúc trong bụng mẹ, đến lúc sinh ra, mà
ngay cả lúc trưởng thành. Phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái chủ yếu, là
nguồn sữa để nuôi con khôn lớn, là chỗ dựa tinh thần to lớn đối với mỗi chúng ta. Ngoài
ra thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức, nhân cách của người mẹ đã tác động ảnh hưởng to
lớn đến sự hình thành thể lực, trí lực, phẩm chất, nhân cách của những đứa con.
Là người nội trợ, người phụ nữ đã thể hiện vai trò đảm đang trong quán xuyến công
việc gia đình, từ việc đi chợ, lo cơm nước đảm bảo sức khỏe cho các thành viên trong gia
đình, đến việc sắp xếp công việc chung và công việc cho các thành viên trong gia đình
hợp lý, hằng ngày thu xếp, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp để giữ ổn định trong gia
đình. Ngày nay mặc dù khoa học phát triển, đời sống vật chất tinh thần ngày càng cao đã
tạo điều kiện giải phóng phụ nữ khỏi công việc nội trợ gia đình để tham gia hoạt động xã
hội, tuy nhiên vai trò nội trợ của người phụ nữ không vì thế mà mất đi, ngược lại nó
được quan tâm nhiều hơn nữa, yêu cầu cao hơn nữa, đặc biệt người phụ nữ cần có kế
hoạch sắp xếp tổ chức cuộc sống gia đình thật vui vẻ, đầm ấm phù hợp với sở thích của 11
các thành viên trong gia đình với những bữa cơm ngon, thân mật để các thành viên trong
gia đình có đủ sức khỏe để học tập và công tác tốt.
Trong kinh tế, lao động, sản xuất: Là người người lao động tham gia lao động, sản
xuất tạo thu nhập cho gia đình. Người phụ nữ cũng là một thành phần lao động chính,
tham gia vào mọi khâu trong quá trình sản xuất, cũng như hoạt động buôn bán trong xã
hội. đóng vai trò tay hòm chìa khóa, có tác dụng quyết định đến việc chi tiêu trong gia
đình. Vai trò của người phụ nữ hiện đại trong việc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc là hết sức nặng nề. Người phụ nữ phải là người khéo léo sắp xếp để làm sao
tất cả mọi người trong gia đình đều thấy được trách nhiệm của mình tham gia lao động
tạo thu nhập đối với gia đình; Đồng thời chi tiêu một cách hợp lý phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh kinh tế của gia đình và xã hội.
Trong đời sống tín ngưỡng, tâm linh: người phụ nữ còn có vai trò là người giữ gìn,
phát huy những giá trị truyền thống của gia đình, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc mà trước hết đó là xây dựng gia đình văn hóa.
Đó là vai trò của người phụ nữ trong gia đình thời truyền thống còn trong thời đại ngày
nay,vai trò của người phụ nữ ngày càng quan trọng hơn.
Ngày nay trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc giữ
gìn và phát huy các giá trị truyền thống của gia đình là điều rất cần được coi trọng; trong
đó phụ nữ giữ vai trò chủ đạo, vai trò của phụ nữ là cơ sở “hậu phương” vững chắc. Ảnh
hưởng của người phụ nữ tác động sâu sắc đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống gia đình.
Người phụ nữ của một gia đình hiện đại ngày nay biết tự nâng tầm nhận thức của
mình, ý thức được vai trò của mình trong gia đình và biết tự bảo vệ hạnh phúc của chính
mình, có khả năng giải phóng cho chính mình, cân bằng công việc xã hội và công việc
gia đình được coi là một phẩm chất cần thiết để hoàn thiện gia đình.
Người phụ nữ phải biết “giữ lửa”, “truyền lửa” hâm nóng bầu không khí gia đình “Giỏi việc
nước, đảm việc nhà”. Giữ gìn và thực hiện thiên chức của mình càng làm cho hình ảnh
người phụ nữ truyền thống trở nên dịu dàng, hiền thục với đức tính “Công, dung, ngôn,
hạnh” hơn nhưng vẫn không làm giảm đi sự mạnh mẽ, quyết liệt và cao thượng rất hiện đại,
điều đó được chứng minh rất sinh động trong cuộc sống ngày nay có rất nhiều những người
phụ nữ thành đạt trên nhiều lĩnh vực khác nhau do đó tin tưởng rằng những nguy cơ trên
khó có thể đánh bại được ý chí của người phụ nữ trong vai trò xây dựng gia đình văn hóa hạnh phúc. 9
Trình bày những đặc điểm của lễ Tết Việt Nam.
Lễ tết là mỹ tục trong văn hóa của mỗi dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, mỗi dân tộc lại có
một cách tổ chức và tận hưởng lễ tết khác nhau, các nghi thức và phong tục cũng không
giống nhau, thể hiện sắc thái văn hóa khác biệt và quan niệm về lịch pháp không đồng nhất
giữa các quốc gia dân tộc trong quá trình phát triển. Chúng ta nhiều người vẫn băn khoăn
không hiểu người Việt Nam có lễ tết từ bao giờ? đất của Việt Nam có gì giống và khác biệt
với các loại tế của các quốc gia chung cội nguồn văn hóa? người Việt Nam đón bao nhiêu
cái tết trong năm? ý nghĩa văn hóa của từng loại kết là gì? đâu là phong tục truyền thống? và
đâu là yếu tố văn hóa ngoại sinh đã được bản địa hóa trong lễ tới Việt Nam? Để tìm hiểu về
nguồn gốc lễ tết chúng ta cùng tìm hiểu về đặc điểm của để tết Việt Nam
Tết Việt Nam hay được gọi là tết nguyên đán được bắt đầu từ tết táo quân vào 23 tháng
chạp với những lễ nghi mang rất nhiều ý nghĩa. Và tết chỉ thực sự kết thúc bằng tết khai hạ
vào 7/1 lễ hạ nêu. Gọi nó là tết cả đủ thấy tầm vóc và chiều sâu tâm hồn và của nếp sống
văn hóa người Việt. Người ta đã nhổ hoa tết cổ truyền bằng những lễ nghi linh thiêng,
những tín ngưỡng cơ bản, thờ cúng tổ tiên ứng xử văn hóa, khát vọng sum họp gia đình,
cầu chúc nhau mọi điều hạnh phúc. Trong tâm thức văn hóa Việt, tết nguyên đán được đánh 12
giá là một sự kiện trọng đại đánh dấu thời khắc chuyển giao của trời đất, ẩn chứa những ý
nghĩa thiêng liêng trong tâm linh của mỗi người Việt. Người dân đón tết nguyên đán mang
đậm dấu ấn âm hưởng và cốt cách tâm hồn dân tộc tết nguyên đán lễ hội cổ truyền của
người Việt với những lễ tục đậm đà bản sắc dân tộc. Công việc chuẩn bị cho cái tết nguyên
đán của người Việt được bắt đầu từ rất sớm, bởi xuất phát từ nền vẫn sẵn sản xuất nhỏ tự
cung tự cấp nên người Việt chỉ lo ăn no mặc ấm cũng đã là một việc đại sự đến ngày tết họ
mới dám mơ ước được mặc đẹp ăn ngon. Người ta phải chuẩn bị từ rất lâu cả về tinh thần
lẫn vật chất mới có thể có được một cái tết như mong đợi nhộn nhịp và vui nhất là những
phiên chợ tết hằng ngày ngày tết thật phong phú từ đồ ăn thức uống đến những vật dụng
trang trí trong nhà như vàng hương hàng mã hoa quả cây cảnh bánh mứt kẹo chợ tết nơi
con người và cảnh vật thiên nhiên trời đất hài hòa trong nhau tạo nên sắc màu văn hóa đậm nét.
Về quê ăn tết: là khát vọng chung của mọi người vào dịp tết. Nét đẹp về quê ăn tết
lưu giữ 1000 đời nay là cuộc hành hương về với cội nguồn, về với mảnh đất chôn rau
cắt rốn, về làm tròn bổn phận với trời đất tổ tiên cha mẹ đó là đạo lý uống nước nhớ
nguồn là văn hóa ứng xử của người Việt.
Gọi bánh giã giò: là những công việc không thể thiếu trong những ngày giáp tết.
Người ta chọn những lá rong xanh mướt nhất, thứ gạo nếp thơm nhất, kết tinh hương
thơm trời đất và sự thơm thảo của tình người, gói bánh sao cho vuông vắn và đẹp mắt.
Bởi ẩn chưa phía sau đó là tấm lòng thành kính của con cháu khi dâng lên tổ tiên thành
quả của năm lao động. Ngày nay một số nơi đã mua bánh đặt giò dùng trong ngày tết
nên chỉ một số vùng quê còn lưu giữ được phong tục gọi bánh giã giò như nét đẹp của truyền thống xưa
Tất niên: 30/12 là ngày cuối cùng của năm mọi công việc đều phải tiến hành hoàn
tất để sửa soạn thời khắc tiễn năm cũ đón chào năm mới công việc trang hoàng nhà cửa
được tiến hành sớm bàn thờ tổ tiên được sửa sang mọi đồ vật được lau chùi sắp đặt và
bày những lễ vật sóng dần Hương vàng nến hoa tươi vàng mã những bộ tranh tết những
bức tranh dân gian đông hồ cổ truyền có mong sự may mắn thịnh vượng trong năm mới
đứng bên những câu đối đỏ thắm một nét văn hóa tinh thần đoàn kết của người Việt
trong những ngày đầu năm là thú chơi hoa với văn hóa miền Bắc đó là hoa đào miền
Nam lại lựa chọn hoa mai trong ngày tết cổ truyền
Cây nêu: Trong những ngày tết cổ truyền người Việt tục lệ trồng cây nêu lưu giữ
những quan niệm nhân sinh cao đẹp cái niêu trồng trước ngõ là để dẫn đường cho tổ tiên
vui vẻ với con cháu để nối liền 1000 địa nhân theo pháp thoại cây nêu là dấu tích của
cuộc tranh giành đất ở đất trồng trọt giữa người và quỷ với chiến thắng cuối cùng thuộc
về con người gọn nêu sẽ vươn lên đón ánh mặt trời đầu năm đón không khí tươi mới của
mùa xuân để con người hướng tới một cuộc sống trong năm mới tốt đẹp hơn chiều 30
dường như mọi người tất bật hơn để chuẩn bị cỗ cúng tất niên sao cho tương thích thể
hiện tình cảm uống nước nhớ nguồn bông cũ bao gồm mâm ngũ quả của mặt được bày
biện đẹp mắt theo hình hoa là hấp dẫn thể hiện sự giao hòa giữa con người với thiên
nhiên lễ cúng tất niên là tấm lòng thương thảo của con cháu chiên gửi từ nguồn cội là sự
khéo léo vun vén vẹn toàn gia đình của người phụ nữ Việt
Giao thừa: là thời khắc thiêng liêng chuyển giao hai năm cũ mới đất trời giao cảm
muốn sự vật ngưng động lại trong phút giây rồi buông ra một sức sống mới sự tái sinh
mới đúng giao thừa trên bàn thờ gia tiên thấp hương khỏi đen nến lung linh chủ nhà
chấp tay cung kính trước bàn thờ tổ cầu mong mọi sự tốt lành bình yên trong năm mới
mọi người quây quần bên mâm cơm tất niên hòa trong tiếng pháo tính chống văng vẳng
tiếng chuông chùa khiến cho thời khắc giao thừa trở nên linh thiêng trang trọng ngày
nay để đón thời khắc giao thừa nhà nước tổ chức bắn pháo hoa ở những địa điểm lớn 13
chào mừng năm mới và cầu mong sự hưng thịnh tới mọi nhà
Xuất hành du xuân: Sau giờ phút giao thừa mọi người tiến hành du xuân hái lộc
cầu may tục lệ xuất hành được người Việt coi trọng người ta lựa chọn từng giờ xuất
hành hướng đi xem tuổi nó người dân lựa chọn để xuất hành thường là đền chùa để làm
lễ đầu năm người ta thường mong muốn xin lộc ở những cây đa đầu làng cây sung cây
hoa đại hoặc những cây cổ thụ trong vườn chùa đó là những biểu trưng của phúc lộc
tuổi thọ sự viên mãn những ước vọng muôn đời của mọi gia đình
Chúc thọ, mừng tuổi: trong những dịp xuân sang Tết là dịp mọi người thể hiện đạo
lý ứng xử văn hóa mùng một tết cha mùng hai tết mẹ mùng ba tết Thầy nét đẹp văn hóa
tri ân vẫn luôn phải giữ gìn từ hôm nay đến mai sau. Đề cao đạo làm con làm cháu trong
mỗi gia đình đó là cơ sở để xây dựng một xã hội có trật tự bên cạnh chúc tết còn có tục
mừng tuổi chúc thọ người già có thêm một tuổi mới con cháu xem đó là phúc lớn trời
ban lễ chúc thọ nhầm cảm tạ trời đất mong cho người già 100 niên giai lão sống vui vẻ
bên con cháu tiền mừng tuổi được để trong phòng bao giấy hồng dù chỉ là một số tiền ít
nhưng nói lên tình cảm quan tâm hết sức ý nghĩa
Khai bút: Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống hiếu học từ 1000 đời
khai bút là công việc hệ trọng của những nho sinh những người làm nghề cầm bút luôn
coi trọng nét bút đầu xuân năm mới gửi gắm ước mong học hành đỗ đạt thi cử Vĩnh
Hiệp đem về tiếng thơm cho gia đình dòng họ và dân tộc nét bút đầu xuân có thể là
những câu thơ bài phú những nó câu chúc có ý nghĩa
Món ăn ngày Tết: Nhắc tới ẩm thực Việt trong những ngày tết cổ truyền là nhắc tới
nền văn hóa ẩm thực của một dân tộc mang theo cái dư vị đậm đà ngọt bùi của tấm lòng
người Việt. món ăn ngày tết phong phú Đa dạng hài hòa cân đối giữa vị béo và vị chanh
vị đậm đà vị nhạc thưởng thức món ăn mà ta có thể cảm nhận được sự khéo léo tài tình
của người phụ nữ Việt kết tinh phòng bị đất nước sự khéo léo tinh tế của con người
được gửi gắm vào các môn Anh qua các chị biến và thưởng thức rất nghệ thuật mà cũng
rất khoa học ngày tết có thể thêm món mứt cổ truyền mứt bí mứt quất mứt gừng mứt cà
rốt tất cả đều là sản vật của ruộng vườn cây cỏ Việt Nam làm nên phong vị tết cổ truyền Việt Nam
Du xuân: Tết là dịp đi chơi đi thăm hỏi chúc mừng năm mới bạn hữu tạm quên đi
những vất vả lo toan thường nhật gần xa nô nức yến oanh chị em sắm sửa bộ hành chơi
xuân trò chơi ngày tết thật hấp dẫn thu hút đông đảo người dân tham gia các làng xã mở
hội Xuân cho dân làng vui chơi giải trí nào là đánh đu nào là hát chòi nó là kéo co thả
riêu cường người đấu vật không gian sinh hoạt cộng đồng đầy hứng thú thể hiện sự giao
cảm giữa con người và thiên nhiên có các trò chơi người ta thể hiện ước vọng về một
cuộc sống vui tươi ngập tràn niềm vui và gặp thật nhiều may mắn tâm lý cầu may là
điều mà phần đông con người hướng tới trong những ngày tết linh thiêng sao trò chơi
ngày tết là tâm lý trảy hội đầu xuân bởi mùa xuân khởi đầu của lễ hội
Những điều kiêng kị ngày Tết: Ngày mùng một tết thường là ngày vui nhất ngày
đẹp nhất nhưng cũng là ngày con cháu phải tự mình giữ Ý tránh những việc làm không
tốt để giữ may mắn cho cả năm mong muốn con cháu được yên ấm an lành nếu trong
cảm nhận của người Việt màu đỏ tượng trưng cho những điều may mắn tôi mới trong
câu đối trong xác pháo Hồng chị tết đến người ta cảm thấy cần kiêng màu đen màu của
sự rủi ro buồn đau người ta kiên quyết nhà vì sợ thần của theo rác mà đi mất không còn
phù trợ cho gia đình mình trong việc làm ăn kiếm cho lửa xin lửa với lửa là tượng trưng
cho cái đỏ may mắn của mỗi nhà kiêng làm vỡ ấm chén bát đĩa tránh sự đổ vỡ của cả
năm chương chửi mắng đánh đập con cái mong cả năm gia đình yên ấm thuận Hòa Kiên
để đen hết dầu trước đi và giờ xấu chọn đi hưởng tốt, chọn giờ hoàng đạo để xuất hành
sẽ mang may mắn đến với gia đình, kiêng người có tang đến nhà 14 10
Trình bày những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu với văn
hóa Pháp giai đoạn 1858 – 1945.
Văn hóa là tiếp điểm đầu tiên và xuyên suốt của mối quan hệ Pháp - Việt. Không phải đến
khi người Pháp xâm lược Việt Nam, thì giao lưu văn hóa Việt Nam và văn hóa phương
Tây mới diễn ra mà quá trình giao lưu văn hóa này đã diễn ra từ rất sớm trong lịch sử Việt
Nam. Qua các nghiên cứu khảo cổ, người ta thấy trong các di chỉ văn hóa Óc Eo có nhiều
di vật của các cư dân La Mã cổ đại. Thương cảng Vân Đồn cũng đã tiếp đón các thương
nhân phương tây từ thế kỉ X. Thế kỉ XVI, các linh mục phương Tây đã đến Việt Nam để
truyền giáo, nhà Tây Sơn cũng có quan hệ với phương Tây. Tuy nhiên, giao lưu văn hóa
Việt Nam và Pháp chỉ diễn ra toàn diện khi Pháp xâm lược Việt Nam. Đây là thời kì biến
động lớn về tư tưởng và chính trị, đồng thời văn hóa Việt Nam cũng có sự thay đổi căn
bản. Giao lưu văn hóa ở thời kì này diễn ra dưới hai dạng: giao lưu một cách cưỡng bức
và tiếp nhận một cách tự nguyện. Vì cuộc giao lưu tiếp biến văn hóa này diễn ra trong
hoàn cảnh nhân dân ta phải chống lại chính việc cai trị bằng văn hóa của Pháp, tiến hành
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc, mặt khác phải tiếp nhận nền
văn hóa phương Tây để đổi mới, phát triển. Kết quả là quá trình này đã làm thay đổi diện
mạo và cấu trúc văn hóa Việt Nam nhưng những giá trị cốt lõi, bản sắc văn hóa truyền
thống Việt Nam vẫn được bảo tồn. . Văn hóa vật chất
1.1. Trong kiến trúc, cấu trúc đô thị
Trên lĩnh vực đô thị, từ cuối thế kỉ XIX, do ảnh hưởng từ chính sách xây dựng các
thành phố để tăng cường khai thác thuộc địa của Pháp, hàng loạt các đô thị lớn Việt
Nam từ mô hình cổ truyền với chức năng trung tâm chính trị đã chuyển sang phát triển
theo mô hình đô thị công - thương nghiệp chú trọng chức năng kinh tế.
Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương Tây với tính
cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam.
Gần một thế kỷ hiện diện của người Pháp ở Việt Nam đã đặt một nét đậm ảnh
hưởng tới kiến trúc Việt. Quá trình đó thể hiện một phần nào sự giao hòa của hai nền
văn hóa Đông dương - Tây phương. Thời gian này, người ta gọi những đặc điểm kiến
trúc giao thoa đó là kiến trúc thuộc địa. Nhìn lại thời điểm hiện tại, kiến trúc thuộc địa
đã tạo nên những ảnh hưởng lớn trong tiến trình phát triển lịch sử kiến trúc Việt Nam.
Ảnh hưởng đó diễn ra theo trình tự, quy luật song song với giai đoạn chính trị 1858 - 1945. 1.2. Hệ thống giao thông
Sau khi hoàn tất cuộc xâm lược Việt Nam về mặt quân sự, đầu năm 1897, người
Pháp đã triển khai ngay công cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam nói riêng cũng như
Đông Dương nói chung một cách quy mô. Trong đó người Pháp đã tập trung xây dựng
hạ tầng giao thông vận tải lớn ở Việt Nam như: Xây dựng hệ thống bến cảng, đường
sắt, đường bộ, sân bay... để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa.
Ơ Việt Nam thời đó, giao thông đường thủy đóng vai trò chủ đạo, vì thế ngay sau
những đợt tấn công quân sự đầu tiên xâm lược Việt Nam, năm 1860, người Pháp tuyên
bố mở cửa biển cho tàu buôn Pháp tự do vào Sài Gòn. Từ đó đường thủy ven biển và
các kênh rạch ở miền Nam được khai thác. 1.3. Trong âm thực
Một trong những biểu hiện nổi bật của sự kết hợp tinh hoa văn hóa Việt Nam và
văn hóa Pháp chính là trong lĩnh vực ẩm thực. Người Pháp mang rất nhiều nguyên liệu
và hương vị tới Việt Nam như khoai tây, măng tây, cà rốt, hành tây, su su, su hào, củ
rền, bơ, pho mát,…nhưng thứ nổi tiếng nhất, dễ gây chú ý nhất có lẽ là bánh mỳ dài
baguette, loại bánh đã được người Việt áp dụng và tạo nên một phong cách bánh mì 15
Việt. Không chỉ những nguyên liệu đơn giản mà ngay cả những phương pháp nấu ăn
của Việt Nam cũng phần nào chịu ảnh hưởng từ Pháp. Các món ăn hiện đã trở nên rất
quen thuộc với người Việt như salad, pa tê, vịt nấu cam (duck à l’organe), trứng ốp lết
(omlette), bít tết (beef steak), sốt vang, dăm bông (jambon) và xúc xích (saucisse)…
đều là những món ăn từ lâu đã rất phổ biến tại Pháp. Kể từ khi người Pháp đưa cà phê
vào Việt Nam vào những năm 1800, thức uống này đã trở thành một trong những yếu
tố quan trọng của văn hóa xã hội Việt Nam thời hiện đại. Tuy tiếp nhận rất nhiều yếu
tố của văn hóa Pháp nhưng văn hóa ẩm thực của người Việt Nam vẫn duy trì những
nguyên tắc cốt lõi từ bao đời nay như việc coi cơm tẻ là thành phần không thể thiếu
trong bữa cơm, món ăn được phối hợp cân đối hài hòa, và vẫn trọng tính cộng đồng
trong văn hóa ăn uống Việt. 1.4. Trong trang phục
Trang phục phương Tây đã từng bước đi vào đời sống xã hội và văn hoá của Việt
Nam kể từ khi người Pháp áp đặt sự ảnh hưởng lên toàn Việt Nam vào giữa thập niên
80 của thế kỷ XIX. Tại các khu vực thành thị lớn tập trung nhiều thương nhân và
người ngoại quốc như ở Hà Nội và Sài Gòn, các thợ may bản xứ đã nhanh chóng học
hỏi được kỹ thuật cắt may âu phục từ những đơn đặt hàng của người Pháp. Nghề may
âu phục trong nước đã được hình thành và dần chuyển hóa cách ăn mặc của đại bộ
phận người Việt ở tầng lớp cao của xã hội. Trong khi nam giới nặng nề tiếp thu kiểu
ăn mặc phương tây như áo sơ mi, quần âu, veston,…thì trang phục phụ nữ được cải
biến từ cái truyền thống để cách tân cho phù hợp với điều kiện mới. Hiện tượng khá
phổ biến thời kỳ này là cải biên và sáng tạo ra chiếc áo dài – trang phục đặc trưng sau này của phụ nữ Việt.
Phong trào âu hóa trong ăn mặc còn đồng nghĩa với việc tiếp thu hay cải tiến theo
đổi mới chứ không đơn thuần là tiếp nhận hoàn toàn. Trang phục thời kỳ này đã có
những thay đổi đáng kể, nhưng những thay đổi này vẫn dựa trên cơ sở truyền thống,
do vậy chúng ta vẫn sẽ thấy được khá nhiều những yếu tố truyền thống tồn tại trên trang phục. . Văn hóa tinh thần
2.1. Trong ngôn ngữ, chữ viết
Có thể nói dấu ấn lớn nhất của văn hóa Pháp trong hệ thống ngôn ngữ Việt Nam
chính là chữ viết. Đầu thế kỉ XVII khi đến Việt Nam để truyền giáo, các giáo sĩ
phương Tây đã nghĩ đến việc Latin hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày xưa gọi
là "chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin". Chữ Quốc ngữ có đặc điểm đơn giản về hình
thể kết cấu, cách viết, cách đọc, giúp dễ phổ biến trong quảng đại quần chúng nhân dân.
Đến nay, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã tự nguyện lựa chọn chữ Quốc
ngữ làm chữ viết tiếng Việt.
Khi người Pháp đến Việt Nam họ đem theo rất nhiều thiết bị, đồ dùng, thực
phẩm,…chưa từng xuất hiện ở Việt Nam trước đây, nên người dân đã mượn những từ
gốc tiếng Pháp để gọi tên những thứ này. Tuy nhiên khi mượn từ ngữ từ tiếng Pháp,
người Việt không sử dụng y nguyên từ gốc mà có sự việt hóa bằng cách đọc chệch đi,
thay đổi sao cho gần gũi, dễ đọc.
2.2. Trong văn học, nghệ thuật Trong văn học
Sự ra đời và phổ biến của chữ Quốc ngữ đã làm phát sinh một dòng văn học mới
trong nền văn học Việt Nam. Ngoài văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm, chúng ta có
thêm văn học chữ quốc ngữ.
Sự tiếp xúc với văn hóa phương Tây và sự phổ biến của dòng văn học bằng chữ 16
quốc ngữ đã làm nảy sinh trong lĩnh vực văn học thể loại tiểu thuyết hiện đại vốn là
không có trong nền văn học truyền thống Việt Nam. Trong giai đoạn những năm 1930
– 1940, văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ đã xuất hiện hai trường phái lớn chịu ảnh hưởng
từ văn học Pháp là trường phái lãng mạn và trường phái hiện thực. Nhóm Tự lực văn
đoàn tiêu biểu cho trường phái lãng mạn, bên cạnh nhóm Tự lực văn đoàn là các nhà
văn hiện thực phê phán. Chất văn xuôi, tính cách cá nhân phương Tây còn ảnh hưởng
vào cả một lĩnh vực có truyền thống lâu đời như thơ dẫn đến sự bùng nổ của dòng thơ
mới với những tên tuổi như Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận… vào những năm 30.
Mặt khác, sự chuyển mình của văn học Việt Nam giai đoạn này không chỉ ở
phương diện hình thức. Làn gió lạ của phương Tây thổi vào Việt Nam đầu thế kỉ XIX
đã đem theo những tư tưởng mới lạ của chủ nghĩa cá nhân Pháp. Cái tôi cá nhân, sự ý
thức về cá nhân, khao khát tự do, tình yêu được bộc lộ mạnh mẽ trong các tiểu thuyết
của nhóm Tự lực văn đoàn, trong các tập thơ của các nhà thơ Mới là một hiện tượng
mới trong văn hoá Việt Nam. Chưa bao giờ tiếng nói từ hạnh phúc cá nhân lại cháy
bỏng như vậy trong văn học Việt Nam. Trong hội họa
Tác động lớn nhất của văn hóa Pháp đến hội họa Việt Nam là vào năm 1924, khi
Trường mỹ thuật Đông Dương được thành lập tại Hà Nội. Năm 1925 là thời điểm quan
trọng cho các họa sĩ Việt Nam tiếp cận với hội họa Châu Âu. Trường Mỹ thuật Hà Nội
với nhiều bộ môn khác nhau (từ kiến trúc đến hội họa, từ nghệ thuật điêu khắc, nghệ
thuật trang trí đến sơn mài…) là chiếc nôi của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Về
phương diện nghệ thuật, các họa sĩ Việt Nam thời đó được tiếp cận với trường phái
hiện thực, và họ cũng đã có những khái niệm mới trong cách bố trí, trong tầm nhìn và
chiều sâu của bức họa. Về chủ đề trong tranh, trước đó thì hội họa Việt Nam thường
được biết tới qua những bức chân dung của các vị chức sắc, hay những bức tranh thờ
phụng. Qua giao lưu với các nghệ sĩ Pháp, nền mỹ thuật Việt Nam quan tâm nhiều đến
khía cạnh thực tế của cuộc sống, đến thiên nhiên, những sinh hoạt bình thường nhất
trong cuộc sống, trong một gia đình … Trong âm nhạc
Âm nhạc của châu Âu theo chân người Pháp vào Việt Nam từ rất sớm. Đầu tiên
chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Công giáo. Các linh mục Việt Nam
được cũng được dạy về âm nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp đó, người dân được
làm quen với "nhạc nhà binh" qua các đội ken đồng. Tầng lớp giàu có ở thành thị được
tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây. Từ đầu, các bài hát châu Âu,
Mỹ được phổ biến mạnh mẽ ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vòng rồi qua những bộ
phim nói. Những thanh niên yêu âm nhạc thời kỳ đó bắt đầu chơi mandolin, guitar và
cả vĩ cầm, dương cầm. Dần dần hình thành Tân nhạc Việt Nam là thể nhạc lấy nhạc
ngữ Tây phương làm nền tảng. Ban đầu cũng chỉ là các ca khúc nhạc Pháp được phổ
lại lời Việt hoặc những ca khúc được nghệ sĩ Việt Nam sáng tác nhưng mang đậm ân
hưởng nhạc Pháp nhưng sau đó cũng dần thay đổi phát triển tạo ra những dấu ấn riêng
của nền âm nhạc Việt Nam. Kịch nói
Trước thế kỷ XX, nghệ thuật sân khấu Việt Nam tồn tại hai thể loại sân khấu âm
nhạc truyền thống là tuồng và cheo. Tuy nhiên vào thời kỳ đó đã bắt đầu quá trình cải
cách để thích ứng với điều kiện của một xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến. Chính
vào thời kỳ này ở Việt Nam đã xuất hiện những thể loại sân khấu mới là cải lương và
kịch nói. Kịch nói đã ra đời trên cơ sở của nghệ thuật phương Tây, chịu ảnh hưởng từ
sân khấu cổ điển Pháp nhằm phục vụ nhu cầu của giới trí thức và thanh niên (học sinh, 17
sinh viên) – những người chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hoá phương Tây. Ban đầu
kịch nói và văn học kịch đã hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của sân khấu Pháp và
chưa tách hẳn ra khỏi sân khấu âm nhạc dân tộc. Nhiều nhà soạn kịch thường hay sáng
tác đồng thời cho kịch nói cũng như sân khấu âm nhạc. Sau đó vào cuối những năm
1920, phong trào kịch nói phát triển ồ ạt, nhiều nhóm và ban kịch (kể cả không chuyên
nghiệp) đã được thành lập. Nền văn học kịch cũng phát triển và rất nhiều tác phẩm văn
học đã được phóng tác thành kịch để diễn trên sân khấu.
Các thể loại nghệ thuật khác
Nghệ thuật thanh sắc tổng hợp cổ truyền bắt đầu phân hóa thành hàng loạt bộ môn
như ca, múa, nhạc kịch… Các thể chế nghệ thuật khác như nhà hát Opera Hà Nội,
Opera Saigon, Opera Hải Phòng, rạp chiếu phim Cinema Palace (nay là rạp Công
Nhân),… và tiếp tục tồn tại tới ngày nay.
=> Qua quá trình phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam dưới ảnh hưởng của văn
hóa Pháp có thể thấy văn học, nghệ thuật Việt Nam đã chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa
văn hóa Pháp nhưng vẫn luôn phát triển, thay đổi để tạo ra những dấu ấn riêng.
2.2. Trong giáo dục, khoa học
Ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam đã làm thay đổi hoàn toàn chế độ giáo dục của
Việt Nam. Để phục vụ cho guồng máy cai trị, người Pháp đặt mục tiêu hủy diệt nền
Nho học, chữ Hán, chữ Nôm phải triệt bỏ và thay thế bằng chữ Pháp, chữ quốc ngữ
cùng một họ mẫu tự La tinh. Hệ thống thi cử thời phong kiến bị hủy bỏ. Năm 1864 là
kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây). Ơ Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, dưới quy chế bảo hộ, sự thay đổi về giáo dục chậm hơn.
Trong giai đoạn đầu (1862-1917) ở Bắc kỳ và Trung kỳ có sự tồn tại song song
giữa một chế độ khoa cử kiểu Nho giáo, và chế độ giáo dục của Pháp ở Nam kỳ. Năm
1898, chương trình thi Hương có thêm hai môn Quốc ngữ và Pháp văn. Từ năm 1917,
toàn bộ chế độ giáo dục của cả nước được đặt dưới quyền của Toàn quyền Đông
Dương, và thống nhất cả ba kì gồm ba bậc: Bậc tiểu học, gồm ba lớp đồng ấu, dự bị và
sơ đẳng dạy Quốc ngữ và một ít chữ Pháp. Sau đó, thi sơ học yếu lược và học tiếp ba
năm ở các trường huyện, và tỉnh lỵ, rồi thi tiểu học. Sau khi tốt nghiệp tiểu học được
thi học cao đẳng tiểu dạy hoàn toàn Pháp văn, có giờ Việt văn và Hán văn, chương
trình có toán, lý, hóa, sử, địa. Bậc trung học gồm ba năm theo ba năm cuối của trung
học Pháp. Bậc đại học, được thành lập năm 1919, lúc đầu chỉ có các trường cao đẳng
chuyên nghiệp để giúp việc cho người Pháp ở các công sở, là một hình thức trung gian
giữa đại học và trường chuyên nghiệp. Năm 1927, Pháp thành lập các khoa Y, Dược,
Luật và Hành chính, Sư phạm… theo mô hình Pháp. Lúc đầu, có các trường cao đẳng
Y học, Dược học, Sư phạm, Công chính, Giao thông, Thương mại, Canh nông. Hệ
thống Nho học tàn lụi dần. Đến năm 1915 ở Bắc Kỳ và 1918 ở Trung Kỳ, việc thi
Hương bị bãi bỏ, chấm dứt nền Nho học Việt Nam.
Hệ thống giáo dục mới này cùng với sách vở phương Tây đã góp phần giúp tầng
lớp trí thức hình thành và tiếp xúc với các tư tưởng dân chủ tư sản, rồi sau là tư tưởng
Mácxít. Nền khoa học hiện đại manh nha từ thời thuộc Pháp này đến khi giao lưu với
Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, đã trở nên thực sự vững mạnh và phát triển.
Giáo dục thời Pháp kéo dài gần một thế kỷ với nhiều ý kiến đánh giá trái chiều.
Mặt tiêu cực của nó với Việt Nam là những mưu đồ thực dân của Pháp đã đạt được.
Song, mặt tích cực ngoài ý muốn của Pháp là tạo ra một tầng lớp tri thức có trình độ
đại học, nắm vững khoa học, kỹ thuật tiên tiến. Những người này trước là phục vụ bộ
máy cai trị của Pháp, sau tháng 8/1945 lại trở thành nguồn nhân lực có trình độ,
chuyên môn, phục vụ trong bộ máy của Việt Nam. 18
2.3. Trong báo chí, xuất bản
Ơ Việt Nam, báo chí chỉ xuất hiện từ khi quân đội Pháp chiếm được Nam Kỳ và
bắt đầu thiết lập chế độ thuộc địa ở nước ta, khoảng giữa thế kỷ XIX. Sự tác động của
Pháp tới Việt Nam là yếu tố có vai trò vô cùng quan trọng để ngành báo chí ra đời.
Khởi điểm để báo chí ra đời ở Việt Nam là từ ý đồ của thực dân Pháp cần có một thứ
vũ khí nhằm tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa. Do vậy; báo chí ra đời ở Sài gòn
trước tiên. Lúc đầu bằng tiếng Pháp, tiếng Hán, sau là chữ Quốc ngữ. Trong giai đoạn
năm 1920 đến 1945 ở Sài Gòn, báo chí ra đời rất nhiều như Nữ giới chung, Phụ nữ tân
văn, Đuốc nhà Nam, Chuông re … Ơ Hà Nội cũng có các báo như Đăng cổ tùng báo,
Hữu Thanh, Thực nghiệp dân báo, Nam phong, Trung Bắc tân văn, Lao động …bao
gồm cả những tờ báo của chính quyền thuộc địa nhằm phục vụ chính quyền Pháp và tờ
báo tiến bộ. Những tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam cũng ra đời trong giai
đoạn này như báo Thanh niên, báo Búa Liềm,… 2.4. Trong tôn giáo
Trong lịch sử, ở Việt Nam phát triển nhất chủ yếu chỉ có đạo Phật và một số tín
ngưỡng dân gian. Mặc dù chúng ta có sự tiếp xúc với Cơ đốc giáo từ khá sớm và việc
truyền bá Cơ đốc giáo tại Việt Nam cũng có một số thành tựu. Tuy nhiên khi các vua
Nguyễn ra các chính sách hạn chế, cấm đoán đối với tôn giáo, từ Cơ Đốc Giáo đến
Đạo Phật và các tín ngưỡng dân gian, đã làm ảnh hưởng khá nhiều đến hoạt động của
các tôn giáo tại Việt Nam.
Dưới sự can thiệp của Pháp, triều đình nhà Nguyễn buộc phải kí hòa ước Nhâm
Tuất 1862, thừa nhận sự đô hộ của nước Pháp ở miền nam và xóa bỏ các quy định cấm đoán Công giáo.
Dưới sự ủng hộ của chính quyền Pháp thời gian này đạo Công giáo phát triển vô
cùng mạnh mẽ hình thành nên các hệ thống, tổ chức bài bản. Tuy nhiên trong quá trình
phát triển Cơ đốc giáo cũng gặp khá nhiều khó khăn để có thể dung nhập vào xã hội Việt Nam.
Phật giáo cũng có sơ hội phát triển. Dưới ảnh hưởng của phong trào cải cách Phật
giáo tại Trung Quốc, Nhật Bản, Phật giáo Việt Nam bắt đầu công cuộc chấn hưng.
Trong thời gian này, với chính sách tự do tôn giáo của Pháp, nhiều tôn giáo mới
cũng được hình thành như Đạo Cao Đài hình thành từ cuối năm 1925 tại vùng đất
Nam Bộ, Phật giáo Hòa Hảo được khai sáng từ năm 1939 tại tỉnh Chaa Đốc (nay thuộc An Giang).
2.5. Trong tư tưởng, chính trị
Trong quá trình giao thoa tiếp biến với văn hóa Pháp, lĩnh vực tư tưởng, chính trị
Việt Nam cũng có sự thay đổi rất lớn. Những giá trị cổ hủ lạc hậu của Nho giáo dần bị
thay thế bởi những quan điểm tiến bộ tiếp thu từ nền văn minh thế giới. Quá trình tiếp
thu tư tưởng cũng biến đổi dần ban đầu từ sự tiếp thu một cách cưỡng bức dưới sự đàn
áp và cưỡng ép trong chính sách văn hóa nô dịch của thực dân Pháp đã dần chuyển
thành sự tiếp thu chủ động, lựa chọn và chắt lọc những giá trị tiến bộ và đúng đắn.
Trong những năm 1900 - 1918, Việt Nam đã tiếp xúc với tư tưởng dân chủ tư sản tiến
bộ hơn tư tưởng quân chủ phong kiến, lớp sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX đã hướng cả
dân tộc phát triển theo hướng văn minh tư sản.
“Tự do – Bình đẳng – Bác ái” là khẩu hiệu mà thực dân Pháp thường sử dụng để
chính nghĩa hóa những cuộc chiến xâm lược và che dấu tội ác tại các nước thuộc địa,
nhưng các trí thức Việt Nam đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc và nhận ra
những giá trị trong tư tưởng văn hóa Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới Pháp trong
chuyến hành trình ra đi tìm đường cứu nước và phân tích, nghiên cứu chủ nghĩa nhân
văn, tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái trong các tác phẩm của thời kỳ Phục Hưng của 19
thế kỷ thứ sáng của các văn hào nổi tiếng, rồi những tư tưởng mới mẻ của cách mạng
tư sản Pháp năm 1789,… đặc biệt những tư tưởng của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền. Từ đó nhìn nhận giá trị chân chính, những nhân tố tích cực tiến bộ và
những hạn chế của các tư tưởng này và tiếp thu một cách có chọn lọc những giá trị tiến bộ và phù hợp.
Tuy tiếp thu những tư tưởng, giá trị phương Tây nhưng những tư tưởng truyền
thống cốt lõi của dân tộc là lòng yêu nước, coi trọng độc lập, tự do, tinh thần đoàn kết,
tương thân tương ái, là những giá trị không hề bị phai nhòa hay biến chất từ xưa đến nay. 20
II. 10 CÂU VẬN DỤNG (mỗi câu 4 điểm) TT Câu hỏi 1
Phân tích đặc điểm của lễ hội truyền thống Việt Nam. Liên hệ việc thực hành lễ hội hiện nay
Khái niệm: Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tất yếu nảy sinh trong xã
hội loài người trên cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người khi sống thành cộng đồng. .
Đặc điểm của lễ hội truyền thống Việt Nam Về thời gian
Lễ hội thường diễn ra vào 2 dịp xuân thu nhị kỳ: mùa xuân thì mở màn vụ gieo
trồng, mùa thu để bước vào vụ thu hoạch. Đây chính là các mốc mở đầu và kết thúc,
tái sinh một chu trình sản xuất nông nghiệp. Quá trình sản xuất nông nghiệp từ lúc
cắm cây mạ, gieo hạt xuống ruộng, nương, người nông dân chỉ còn biết trông chờ vào
sự phù hộ của các lực lượng thiên nhiên. Để tăng niềm tin cho sự trông chờ đó, họ đã
tìm mọi cách tác động, cầu xin các thế lực thiên nhiên giúp đỡ. Sinh hoạt lễ hội và tín
ngưỡng dân gian của các dân tộc Việt Nam đều bắt nguồn từ sự cầu mùa. Do đó, thời
điểm tổ chức lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng, đều tùy thuộc vào mùa, vụ sản xuất,
nhưng do sự phân bố không đồng đều của các dân tộc ở Việt Nam trên các vùng địa lý
khác nhau, lịch viết và mùa vụ sản xuất cũng khác nhau. Điều đó khiến thời điểm tổ
chức các lễ hội cũng khác nhau. Đa số lễ hội tổ chức vào hai thời điểm mùa xuân và
mùa thu, nhưng ở nhiều dân tộc thiểu số, thời điểm tổ chức các lễ hội lại mở vào cuối
he (thường là tháng 6 hay tháng 7 âm lịch). Về không gian
Thánh, thần là đối tượng tôn thờ, thiêng hóa của cộng đồng, nhân dân tổ chức lễ hội
cũng không ngoài mục đích đó. Có thể nói, không có các vị thánh, thần thì không có lễ
hội truyền thống. Trong tâm thức người Việt, thuyết linh hồn chiếm địa vị chủ đạo. Vì
thế, người Việt quan niệm rằng: linh hồn các vị thánh, thần cần phải có chỗ trú ngụ và
nơi nào linh hồn các vị thánh, thần trú ngụ thì đó là địa điểm linh thiêng. Trong lễ hội
truyền thống, những nghi lễ, nghi trình quan trọng thường được tổ chức tập trung tại địa
điểm linh thiêng. Đó là một không gian hẹp, có thể là không gian nhân tạo như đình,
đền, miếu, chùa, cũng có thể là không gian tự nhiên như gò, đống, bãi… Tại những địa
điểm này, cái thiêng được hiện tồn, biểu trưng như: kiểu kiến trúc, tượng, ngai thờ, nghi
vật, nghi trượng và cả những ứng xử nghi lễ.
Như vậy, không gian linh thiêng là một đặc điểm chung của lễ hội truyền thống, đó
là nơi diễn ra các nghi lễ trọng tâm của lễ hội. Không gian linh thiêng sẽ tạo ra sức lan
toả của lễ hội và quyết định đến quy mô, phạm vi của lễ hội. Nói cách khác, tình cảm,
niềm tin và sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với những vị thánh, thần được thờ tại không
gian linh thiêng sẽ quyết định quy mô, phạm vi của lễ hội. Do đó, cùng thờ một vị thánh,
thần nhưng có nơi không khí thờ cúng lạnh lẽo, ít gây nên cảm giác linh thiêng cho
khách thập phương, song có nơi lại tạo ra không khí tôn nghiêm, thu hút nhiều người
đến tham dự làm cho không gian linh thiêng của lễ hội trở nên rộng lớn. Về nghi thức tổ chức
Lễ hội truyền thống là lễ hội lịch sử của cộng đồng được tái hiện, làm sống lại các
giá trị tốt đẹp, được tập trung trong các nhân vật mà lễ hội thờ phụng. Trong một lễ hội
có rất nhiều nghi thức tuân theo trình tự nhất định, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo,
quá trình tập luyện kỹ lưỡng và sự đồng lòng, hợp sức của nhân dân, nhằm làm cho lễ
hội diễn ra một cách tốt nhất, thu hút nhiều người tham gia, đồng thời thỏa mãn lòng
mong mỏi, chờ đợi của mọi người. Thông thường, người ta đưa ra các chuẩn mực chung
về quá trình chuẩn bị và các nghi thức tổ chức lễ hội như sau: 21
Quá trình chuẩn bị gồm hàng loạt công việc phải làm như: chọn địa điểm, trang
hoàng nơi thờ tự, chuẩn bị tổ chức các trò chơi và các hoạt động dịch vụ để làm cho
không khí hội trở nên sôi động và náo nức hơn; chuẩn bị đồ tế tự, lễ vật (kiểm tra, lau
sạch các đồ vật như cờ, tán, lọng…, chuẩn bị lễ vật với loại hoa quả ngon, các loại bánh,
gạo…); chuẩn bị về con người: những người tham gia các nội dung tế lễ (quan trọng
nhất là ban hành tiết), to nhất là chủ tế (người đại diện cho dân làng hầu hạ thần linh,
ngoại hình khỏe mạnh, cao tuổi, phẩm chất tốt, được nhân dân yêu quý, tín nhiệm, gia
sự phải là một gia đình văn hóa, con cháu phương trượng, có vị trí trong xã hội), bồi tế
(phó tế) là người kề cận chủ tế, nội táng (hai người) giúp chủ tế vào ra, Đông xướng và
Tây xướng một người hô hứng, một người hô bái và một loạt những người phục vụ có
thể từ 10 đến 12 người chấp sự làm nhiệm vụ dâng đồ cúng; chuẩn bị người khiêng kiệu,
người cầm cờ… tất cả đều luyện tập kỹ lưỡng.
Nghi thức tổ chức gồm trình tự các bước: lễ cáo yết: đây là lễ xin phép thần linh
được mở hội, lễ vật ở chùa thường là đồ chay, hương, hoa quả, trà… ở những nơi đình,
đền thường là xôi, gà, rượu, từ sau lễ này đen nhang luôn được thắp sáng trên bàn thờ; lễ
tỉnh sinh: là lễ dâng con vật cúng lên thần linh, thường là gà, thủ lợn, tam sinh thường ba
con; lễ rước nước: người ta rất coi trọng nguồn nước, nghi thức này thường tiến hành
trước ngày hội chính một ngày; lễ mộc dục và lễ gia quan: đây là lễ tắm cho tượng hoặc
bài vị, lễ này được tiến hành trang nghiêm và kín đáo, thường là vào thời điểm ban đêm,
nếu tiến hành ban ngày phải được che chắn cẩn thận. Người làm lễ mộc dục phải là
người có đức độ và thường phải trai giới từ mấy hôm trước, khi làm lễ phải bịt miệng
bằng một chiếc khăn đỏ để thần khí không xông tới thần linh. Mộc dục xong tiến hành
mặc áo cho tượng. Lễ rước là nghi thức mang tính thiêng liêng thể hiện sự nghênh tiếp
thần linh và biểu dương uy vũ của thần. Lễ rước cho thấy sức mạnh của cộng đồng đó là
sức mạnh về kinh tế, về tình đoàn kết và của niềm tin đối với thần thánh. Lễ rước còn
cho thấy trình độ và năng lực thẩm mỹ của cộng đồng đó là thẩm mỹ trong trang phục,
trong cờ đoàn, trong âm thanh, văn nghệ… Lễ rước có ý nghĩa lớn về mặt xã hội - văn
hóa - chính trị. Nó được coi là thành tố trung tâm, là linh hồn của lễ hội. Đại tế là nghi
thức rất quan trọng trong lễ hội, đoàn tế gồm 17 đến 19 người, những người này phải
trai giới trước đó một tuần. Ông chủ tế là người quan trọng nhất mặc áo dài, đội mũ, đi
hài. Đại tế nhằm thỉnh mời và đón rước thần linh về dự hội với dân làng đồng thời để
dâng lòng tỏ bày biết ơn tới thần linh. Diễn xướng dân gian và tục hem là nghi thức tế
lễ, nghi lễ diễn tả lai lịch và công trạng của thần, thánh với quy mô lớn. Tục hem là nghi
thức nhằm thể hiện một tín ngưỡng hoặc một sự tích gắn với vị thần được thờ. Tục hem
thực chất là một hoạt động thể hiện sự kiêng kỵ của nhân dân địa phương nếu bỏ qua tục
này thì sẽ phạm đến sự phồn vinh của làng.
Lễ hội truyền thống của dân tộc với những đặc điểm trên đáp ứng một cách thiết
thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh của nhân dân trong tổ chức các nghi
lễ và hưởng thụ các hoạt động hội. Đồng thời, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của các vùng, miền, dân tộc, tri ân công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa,
các bậc tiền bối đã có công dựng nước và giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua
sinh hoạt lễ hội, nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa, tạo sự chuyển biến nhận
thức biết ơn quá khứ, uống nước nhớ nguồn và giáo dục giá trị chân, thiện, mỹ. .
Việc thực hành lễ hội hiện nay
Trong những năm qua, công tác tổ chức và quản lý lễ hội ở nước ta đã có nhiều
chuyển biến tích cực, từ tư duy nhận thức của các cấp lãnh đạo và toàn xã hội; việc ban
hành và thực thi các văn bản quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra lễ hội cho
đến việc phục hồi và phát huy có hiệu quả nhiều lễ hội dân gian, góp phần quan trọng
vào việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống tinh thần 22 của nhân dân.
Hầu hết các lễ hội quy mô quốc gia đến các lễ hội nhỏ phạm vi làng, xã đều được tổ
chức các nghi thức cúng lễ trang trọng, linh thiêng và thành kính. Chương trình tham gia
phần hội phong phú hấp dẫn, bảo tồn có chọn lọc những phong tục tập quán tốt đẹp của
dân tộc theo xu hướng lành mạnh, tiến bộ, tiết kiệm, tổ chức các hoạt động văn hóa dân
gian, diễn xướng dân gian, dân ca, dân vũ, dân nhạc của các dân tộc để quảng bá, giới
thiệu những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam.
Mặt khác, việc tổ chức lễ hội dân gian đã kết hợp gắn kết các hoạt động văn hóa, thể
thao truyền thống với quảng bá du lịch, giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt
Nam và mỹ tục truyền thống văn hoá lâu đời tốt đẹp, độc đáo của dân tộc ta, khẳng định
bản lĩnh, trí tuệ, tâm thức hướng về nguồn cội của cộng đồng. Đồng thời, các sinh hoạt
lễ hội truyền thống đã góp phần giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, tạo sự gắn kết
giữa các thành viên trong cộng đồng, làm nên vẻ đẹp của các công trình tín ngưỡng, tôn giáo.
Thông qua lễ hội, đã và đang tạo lập môi trường thuận lợi để nhân dân thực sự là chủ
thể của hoạt động lễ hội, chủ động sáng tạo, cùng tham gia tổ chức, đóng góp sức người
sức của cho các lễ hội truyền thống, nâng cao trách nhiệm của tổ chức cá nhân và cộng
đồng trong tham gia hoạt động lễ hội, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước và nhu cầu tín ngưỡng của các tầng lớp nhân dân.
Với tư cách là tài nguyên du lịch nhân văn đặc biệt, bản thân các lễ hội hay việc tổ
chức các lễ hội kết hợp phát triển du lịch là mô hình mới được hình thành những năm
gần đây và đang trên đà phát triển mạnh, đem lại những hiệu quả văn hóa và kinh tế thiết
thực như những đánh giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Hội nghị triển khai
công tác văn hóa, thể thao và du lịch: “Hoạt động lễ hội đã thực sự trở thành hoạt động
văn hóa du lịch, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế”.
Bên cạnh những điều đáng mừng trên, quan sát bức tranh lễ hội cổ truyền hiện nay,
ta vẫn thấy canh cánh những lo lắng, băn khoăn. Sau một thời gian dài, do chiến tranh,
do quan niệm ấu trĩ, sai lầm của chúng ta, lễ hội mất mát, tiêu điều, nay phục hưng trở
lại, do vậy cũng không tránh được lệch lạc, khiếm khuyết; công tác tổ chức và quản lý lễ
hội đã và đang nảy sinh nhiều bất cập, nhiều hạn chế và tồn tại.
Đơn điệu hóa lễ hội: Ngày nay, lễ hội đang đứng trước nguy cơ nhất thể hoá, đơn
điệu hoá, hội làng nào, vùng nào cũng na ná như nhau, làm thui chột đi tính đa dạng của
lễ hội, du khách thập phương sau một vài lần dự hội thì cảm thấy nhàm chán và không
còn hứng thú đi chơi hội nữa.
Trần tục hóa lễ hội: Ngày nay, trong phục hồi và phát triển lễ hội, do chưa nắm được
ý nghĩa thiêng liêng, đặc biệt là cách diễn đạt theo cách “biểu trưng”, “biểu tượng” của
người xưa, nên lễ hội đang bị trần tục hoá, tức nó không còn giữ được tính thiêng, tính
thăng hoa và ngôn ngữ biểu tượng của lễ hội và như vậy lễ hội không còn là lễ hội đích thực nữa.
Quan phương hóa lễ hội: Trong việc phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền hiện nay,
dưới danh nghĩa là đổi mới lễ hội, gắn lễ hội với giáo dục truyền thống, gắn lễ hội với
du lịch…đây đó và ở những mức độ khác nhau đang diễn ra xu hướng quan phương hoá,
áp đặt một số mô hình định sẵn, làm cho tính chủ động, sáng tạo của người dân bị suy
giảm, thậm chí họ còn bị gạt ra ngoài sinh hoạt văn hoá mà vốn xưa là của họ, do họ và
vì họ. Chính xu hướng này khiến cho lễ hội mang nặng tính hình thức, phô trương, “giả
tạo”, mà hệ quả là vừa tác động tiêu cực tới chủ thể văn hoá, vừa khiến cho du khách
hiểu sai lệch về nền văn hoá dân tộc.
Thương mại hóa lễ hội: Cần phân biệt giữa hoạt động mua bán trong lễ hội và việc 23
thương mại hoá lễ hội. Từ xa xưa, trong lễ hội không thể thiếu việc mua bán các sản
phẩm độc đáo của địa phương, các món ăn đặc sản, mà hội chợ Viềng Ơ Nam Định và
các hội chợ vùng núi là hiện tượng điển hình. Chính các hoạt động mua bán đó vừa
mang ý nghĩa văn hoá, phong tục “mua may bán rủi”, vừa quảng bá các sản phẩm địa
phương, mang lại những thu nhập đáng kể cho một số ngành nghề ở địa phương. Đó là
các hoạt động rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, cùng với xu hướng phục hồi và phát
triển lễ hội hiện nay, thì không ít các hoạt động mang tính “thương mại hoá”, lợi dụng lễ
hội để thu lợi bất chính, ép buộc, bắt chẹt người đi trẩy hội, đặc biệt là lợi dụng tín
ngưỡng trong lễ hội để “buôn thần bán thánh” theo kiểu “đặt lễ thuê”, “khấn vái thuê”,
bói toán, đặt các “hòm công đức” tràn lan, tạo dựng các “di tích mới” để thu tiền như
trong lễ hội Chùa Hương, Bà Chúa Kho... Cũng không phải không có một số “tổ chức”
mệnh danh là quản lý lễ hội, hoạt động du lịch để bán vé thu tiền bất chính khách trẩy
hội. Những hoạt động thương mại này đi ngược lại tính linh thiêng, văn hoá của lễ hội,
đẩy lễ hội rớt xuống mức thấp nhất của đời sống trần tục. 2
Phân tích những đặc điểm của làng Việt truyền thống. Liên hệ với vấn đề xây dựng
làng văn hoá trong giai đoạn hiện nay.
* Phân tích những đặc điểm của làng Việt truyền thống:
- Khái niệm: Làng là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức xã hội quan trọng của
nông thôn ở Việt Nam. Suốt nhiều thế kỷ, làng là đơn vị tụ cư cổ truyền lâu đời ở nông thôn
người Việt và là nhân tố cơ sở cho hệ thống nhà nước quân chủ tại Việt Nam.
Làng là không gian sống cũng là không gian kinh tế, không gian xã hội và không gian văn
hóa của người nông dân. Do vậy, văn hóa làng là một cộng đồng văn hóa – cộng đồng sáng
tạo, bảo tồn và hưởng thụ những giá trị vật chất và tinh thần, trong mối quan hệ với môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội. - Phân tích đặc điểm:
Hai đặc trưng cơ bản bao trùm xuyên suốt của văn hóa làng xã truyền thống Việt Nam
chính là: tính cộng đồng và tính tự trị. Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân
đình, bến nước, cây đa. Bất cứ làng nào cũng có một ngôi đình bởi đó là trung tâm hành
chính, nơi diễn ra mọi công việc quan trọng như hội họp, bàn việc làng, việc nước, thu sưu
thuế. Sau đó, đình làng là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các cuộc hội he, biểu diễn
cheo, tuồng hay ăn uống… Nhưng quan trọng nhất đình làng chính là trung tâm về tôn giáo,
tâm linh. Thế đình, hướng đình được xem là yếu tố quyết định đến vận mệnh của cả làng.
Và cuối cùng đình làng là trung tâm tình cảm, nói đến làng người ta nghĩ ngay đến ngôi
đình với nhiều tình cảm gắn bó thân thương nhất, “Qua đình ngả nón trông đình/Đình bao
nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
Tuy nhiên do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa (tư tưởng Nho gia), đình làng từ chỗ là nơi
tập trung của tất cả mọi người dần chỉ là nơi lui tới của cánh đàn ông. Khi bị đẩy ra khỏi
đình, phụ nữ thường quần tụ nơi bến nước (những làng không có sông thì giếng nước), nơi
hằng ngày chị em thường gặp nhau chuyện trò, giặt giũ. Ngoài ra còn có cây đa cổ thụ nằm
ở đầu làng, dưới gốc đa có một miếu thờ, đó là nơi hội tụ của thần thánh, “sợ thần sợ cả cây
đa”. Cây đa gắn liền với quán nước, là nơi nghỉ chân, gặp gỡ những người làm đồng, khách
qua đường. Do vậy gốc đa trở thành cánh cửa liên kết làng với thế giới bên ngoài.
Hương ước thể hiện chức năng hành chính của làng , từ đó một đặc điểm nổi bật của văn
hóa làng được xác định đó là tính tự trị. Tính tự trị tạo nên tính tự quản, tính độc lập tương
đối của làng, khiến “phép vua thua lệ làng”. Nó góp phần quan trọng trong việc tạo dựng
bản sắc, diện mạo độc đáo cho mỗi làng, nó củng cố tình cảm và sức mạnh cộng đồng, nó
khiến mối làng có thêm sức mạnh tự quyết, tự tin để điều hành cuộc sống của dân làng.
Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao bọc quanh làng trở thành
một thứ thành lũy kiên cố, bất khả xâm phạm. Lũy tre là một đặc điểm quan trọng làm cho 24
xóm làng khác biệt hẳn ấp lý Trung Hoa, có thành quất bằng đất bao bọc.
Nếu hoạt động kinh tế của gia đình mang tính chất tự cung, tự cấp thì hoạt động kinh tế của
làng thể hiện tính cộng đồng trong văn hóa lối sống. Biểu hiện trước hết của hoạt động kinh
tế trong làng Việt là ở sự lựa chọn trong hoạt động sản xuất nông nghiệp thì diện mạo của
làng sẽ là làng thuần nông. Cách thức tổ chức hoạt động kinh tế làm nảy sinh một nguyên
tắc, lối sống, đặc điểm mang tính cộng đồng. Tính cộng đồng biểu hiện trong tính cộng
cảm, cộng mênh, cộng cư, cộng sản – cùng chung một lối sống duy tình, chung một số
phận, chung không gian sinh tồn, chung một nguồn tư liệu, chung một phương thức sản
xuất. Tính cộng đồng là một trong những biểu hiện rõ nhất của văn hóa làng, góp phần làm
nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
=> Chính văn hóa làng xã đã tạo nên những đặc trưng văn hóa truyền thống, những đức tính
tốt đẹp của người Việt Nam. Từ quan hệ láng giềng “bán bà con xa, mua láng giềng gần”
nên người Việt có truyền thống đoàn kết, gắn bó yêu thương xóm làng. Tình yêu xóm làng,
quê hương được đẩy lên cao là tình yêu quốc gia, đất nước. Cặp đôi làng- nước là cặp khái
niệm thường trực trong tư duy và đời sống của người Việt. Công cuộc chống giặc ngoại
xâm đòi hỏi phải có tinh thần đoàn kết toàn dân và lòng yêu nước. Hai điều kiện này là sản
phẩm sẵn có của tính cộng đồng và tính tự trị làng xã. Khởi nguồn từ cuộc sống nông
nghiệp, tính cộng đồng của mọi người trong làng đã chuyển thành ý thức cộng đồng trong
phạm vi quốc gia “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”. *Liên hệ:
Ngày nay, làng xã cổ truyền đã thay đổi, không còn bao bọc khép kín trong lũy tre làng mà
là một đơn vị dân cư mở, mỗi xã là một đơn vị hành chính cấp nhỏ nhất trong hệ thống
hành chính bốn cấp hiện nay. Đây là điều kiện để các làng xã phát triển, nhất là phát triển
kinh tế hàng hóa, mở rộng làng nghề hay nông nghiệp sạch… để nâng cao đời sống nhân dân.
Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa làng trong thời đại
mới , văn hóa làng chính là nền tảng để chúng ta xây dựng làng văn hóa một cách vững
chắc trong bối cảnh hiện nay. Thực tế đã chứng minh, làng luôn giữ một vị trí hết sức quan
trọng trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, là nơi lưu giữ những giá trị vật chất, tinh thần
và bản sắc văn hóa dân tộc. Làng văn hóa sẽ trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát
triển ở nông thôn Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Việc lựa chọn làng là đơn vị cơ sở ở khu vực nông thôn là mô hình thích hợp và
đúng đắn trong thời kỳ mới. Làng văn hóa là sức sống mới của nông thôn Việt Nam trên
chặng đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu, đồng thời là chiến lược văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu, đồng thời là chiến lược văn hóa của Đảng vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng ta cũng quán triệt sâu sắc về mối quan hệ biện
chứng giữa văn hóa và kinh tế - chính trị. Phát triển văn hóa phải luôn gắn kết chặt chẽ với
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, chỉnh đốn Đảng là then chốt. Điều kiện quyết định
đảm bảo cho sự phát triển. Xây dựng làng văn hóa trong bối cảnh hiện nay là vấn đề có tính
chiến lược.* Nhiệm vụ hàng đầu của quá trình xây dựng làng văn hóa là tập trung xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh phong phú, gắn kết các phong trào thi đua yêu nước
nhằm nâng cao hiệu quả phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn.
Trong công tác xây dựng làng văn hóa hiện nay, có một hoạt động đóng vai trò quan trọng,
đó chính là tổng kết thực tiễn phong trào xây dựng làng văn hóa nhằm cung cấp luận cứ
khoa học, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, rút ra những bài học về thành tựu và hạn 25
chế của quá trình xây dựng làng văn hóa, từ đó đề ra những giải pháp có tính khả thi. Xây
dựng làng văn hóa phải gắn liền với xây dựng thiết chế văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa
phải gắn liền với xây dựng thiết chế văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng và thực
hiện hương ước trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị tích cực của văn hóa làng truyền
thống, nhằm thực sự phát huy vai trò của làng văn hóa. 3
Phân tích đặc điểm văn hoá giao thông truyền thống của người Việt.
Văn hóa giao thông là biểu hiện cụ thể của văn hóa trên lĩnh vực giao thông. Văn hóa giao
thông được biểu hiện bằng hành vi sử sự đúng pháp luật, theo chuẩn mực của xã hội. Xây
dựng văn hóa giao thông nhằm tạo nên thói quen cư xử có văn hóa, đúng pháp luật, coi việc
tự giác tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông như một chuẩn mực đạo
đức truyền thống và là biểu hiện văn minh hiện đại của con người khi tham gia giao thông.
Văn hóa giao thông cần được hiểu là sự ứng xử một cách có ý thức và có trách nhiệm của
mọi thành viên trong xã hội khi tham gia giao thông hoặc tham gia vào những hoạt động có
liên quan đến giao thông để tạo lập nên một môi trường giao thông an toàn , văn minh , thân thiện và hiệu quả.
Đặc điểm văn hóa truyền thống:
Các phương tiện đi lại:
Ơ văn hóa núi, biển. Ban đầu khi người Việt sống ở văn hóa núi hay văn hóa biển thì
cách thức đi lại của con người dựa vào chính bản thân, hộ đi lại bằng chân trần và in dấu
chân lên mặt đất tạo những con đường. Xã hội của con người được tổ chức cao, họ bắt
đầu thuần hóa súc vật dùng chúng làm phương tiện giao thông: đi bằng voi, ngựa, …
Văn hóa đồng bằng: Con người dựa vào sức nước và phương tiện đi lại ở vùng văn
hóa sông nước chủ yếu là thuyền. VD : thuyền thúng, thuyền độc mộc,.. Đa dạng và
phong phú của các phương tiện giao thông sông nước cho thấy tính năng động linh hoạt
của người Việt khi phải ứng phó với môi trường tự nhiên để sinh tồn. Hình thức giao thông:
Người Việt sống trong môi trường sông nước, cho nên hình thức giao thông đầu tiên
lòa đi lại bằng thuyền, be, ghe, mảng, với dụng cụ hỗ trợ như mái cheo, con sào, dây
kéo, cánh buồm, không gian nước như bến , đôi bờ , triền đê ,con sông,...
Người Việt biết dùng thuyền từ rất sớm ( GT: thuyền được in trên trống đồng Đông
Sơn) họ biết làm cầu VD: cầu khỉ , cầu đá, những loại di động linh hoạt như cầu phao , cầu thuyền
Trên phương diện văn hóa những dụng cụ , phương tiên, không gian sông nước đều
có khả năng trở thành biểu tượng tinh thần sống động chứa nhiều hàm lượng văn hóa,
thể hiện nét văn hóa dân tộc VN
Cảm thụ về không gian, thời gian:
Với việc sống trên không gian nước, đi lại bằng phương tiện thô sơ, người Việt tính thời
gian bằng nước ròng, con nước cạn, mùa nước nổi,... Không gian sông nước là không gian
cách trở, ngàn trùng , bất trắc: Mặt nước, chân mây, cánh beo trôi dạt, lên thác xuống ghềnh,....
-> Giao thông đường thủy là loại giao thông có ý nghĩa quan trọng bởi VN sở hữu mật độ
sông hồ, kênh rạch vào loại lớn nhất trên thế giới. Văn hóa GT đường thủy trở thành đặc
trưng của VH Gthông VN hay giao thông trên nước, ban đầu là đường thủy nội đại, về sau
mở rộng thêm hệ thống đường thủy quốc tế 4
Phân tích đặc điểm văn hoá ẩm thực truyền thống của người Việt. Khái niệm:
Văn hoá ẩm thực là những tập quán và khẩu vị ăn uống của con người; những ứng xử của 26
con người trong ăn uống; những tập tục kiêng kỵ trong ăn uống; những phương thức chế
biến, bày biện món ăn thể hiện giá trị nghệ thuật, thẩm mĩ trong các món ăn; cách thưởng thức thức món ăn…
Đặc điểm văn hóa ẩm thực truyền thống của Việt Nam
1. Tính nông nghiệp truyền thống -
Cơ cấu bữa ăn điển hình thường nhật: Cơm – rau – cá.
Cơm là sản phẩm của nền nông nghiệp truyền thống. Cơm đã không còn chỉ một thành tố
trong bữa ăn mà chỉ chính bữa ăn của người Việt, người ta gọi đó là bữa cơm, nó có ý nghĩa
mật thiết và sâu sắc tới mức người Việt coi “Cơm tẻ mẹ ruột”. Thành phần thứ hai trong cơ
cấu bữa ăn của người Việt là rau, đây là thức ăn không thể thiếu, bởi không chỉ giúp con
người no bụng mà còn tạo nên sự khoẻ khoắn, lành mạnh “Cơm không rau như đau không
thuốc”. Rau muống là thứ cây trồng được sử dụng quen thuộc tới mức trong nỗi nhớ của
người con xa quê chỉ còn hình ảnh: “Anh đi anh nhớ quê nhà - Nhớ canh rau muống, nhớ cà
dầm tương”. Mỗi một loài rau gắn với một vùng quê, với một mùa vụ nhưng nhìn chung
trong cái ăn của người Việt để duy trì sự sống không thể không có rau xanh. Thành tố thứ
ba trong cơ cấu bữa ăn của người Việt là cá. Từ cá người Việt đã tạo nên một sản phẩm làm
nên nét độc đáo trong ẩm thực Việt Nam, đó chính là nước mắm. -
Các loại đồ uống chủ yếu: nước vối, nước che xanh,… Các dịp hội he, giỗ kị, tiếp
khách người Việt còn uống rượu chưng cất từ gạo, ngô, kê… ủ lên men.
2. Tính tổng hợp và linh hoạt - Tính tổng hợp
+ Tính tổng hợp được thể hiện trong cách chế biến và cách ăn ·
Mỗi món ăn là tổng hợp của nhiều nguyên liệu khác nhau ·
Miếng cơm là kết quả của sự tổng hợp, một miếng cơm có cả: cơm-rau-cá ·
Ăn uống là sự tổng hợp các giác quan - Tính linh hoạt
Phương Tây: Sử dụng một bộ đồ ăn gồm dao, dĩa, thìa, mỗi dụng cụ có một chức năng riêng.
Phương Đông: Sử dụng một dụng cụ ăn là đôi đũa với các chức năng linh hoạt khác nhau như gắp, xé, vét…
3. Tính cộng đồng và mực thước - Tính cộng đồng
+ Người Việt thích ăn chung: Bữa ăn là sự sum họp, trò chuyện, nghỉ ngơi…
+ Bữa ăn chứa đựng tình nghĩa: Tình nghĩa giữa những người đang sống với nhau, giữa
những người đang sống với người đã khuất. - Tính mực thước
Ăn uống là thước đo giá trị con người
+ Coi trọng lễ nghi: ăn uống tuân theo các quy tắc nhất định
+ Thể hiện cả địa vị ngôi thứ
4. Tính cân bằng âm dương -
Người Việt nhìn nhận sự vật, hiện tượng thơ triết lý âm dương tuân thủ nghiêm ngặt
quy luật âm – dương bù trừ khi chuyển hóa và chế biến -
Người Việt phân biệt thức ăn theo năm mức âm dương theo ngũ hành:
+ Hàn (lạnh, âm nhiều = thủy)
+ Nhiệt (nóng, dương nhiều = hỏa)
+ Ôn (ấm, dương ít = mộc) + Bình (mát, âm ít = kim) + Trung tính = thổ -
Tính cân bằng âm dương thể hiện trên ba phương diện 27
+ Sự hài hòa trong thức ăn
+ Sự cân bằng âm dương trong cơ thể
+ Sự cân bằng âm dương giữa cơ thể và môi trường tự nhiên -
Để đảm bảo sự cân bằng âm dương giữa cơ thể và môi trường tự nhiên họ lựa chọn
thức ăn đúng thời điểm, đúng trạng thái, đúng giá trị
+ Ăn đúng mùa: Lựa chọn thực phẩm và chế biến theo mùa
+ Ăn đúng bộ phận có giá trị: Đầu chép, mép trôi, môi me, lườn trắm…
+ Ăn đúng chủng loại: Dưa La húng Láng, nem Báng, tương Bần,…
+ Ăn đúng trạng thái, thời điểm có giá trị: Tôm nấu sống, bống để ươn, cơm chín tới…
5. Tính phong phú, đa dạng -
Ẩm thực cung đình: Nguyên liệu quý hiếm, chế biến cầu kì, thể hiên trong sinh hoạt vua chúa -
Ẩm thực bình dân: Rất phong phú, đại diện cho ẩm thực dân tộc -
Ẩm thực vùng miền: Mỗi miền có một cách chế biến, cách ăn khác nhau làm nên tính đa dạng. 5
Phân tích ý nghĩa văn hóa của lễ Tết. Liên hệ việc thực hành lễ Tết hiện nay.
*ý nghĩa của Tết Nguyên đán
Tết Nguyên Đán không chỉ thể hiện sự giao giao cảm giữa trời đất và con người với thần
linh trong quan niệm của người phương Đông. Mà thiêng liêng hơn cả đó chính là ngày
đoàn viên của mọi gia đình. Mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu đều
mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn
thờ tổ tiên, thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà,... được sống lại với
những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu dấu. "Về quê ăn Tết", đó không phải là
một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.
Tết Nguyên đán với ý nghĩa sâu xa và mang tính thiêng, trang trọng là tiễn đưa năm cũ,
chào đón, chúc tụng năm mới sức khỏe con người tốt hơn, sinh kế khá hơn, hạnh phúc cá
nhân – gia đình bền vững hơn và khởi đầu từ ý thức hệ nông nghiệp, sau dần tỏa rộng trong
đời sống con người toàn xã hội, song vẫn mang ý nghĩa nhân văn tốt đẹp.
Người Việt cho rằng, Tết Nguyên đán là cơ hội để thể hiện đạo lý "Uống nước nhớ
nguồn" một cách sâu sắc, cụ thể nhất. Giá trị hướng về cội nguồn là giá trị tâm linh, cũng là
giá trị tình cảm của người Việt với Tết Nguyên đán. Giá trị này đã trở thành nếp sống
truyền thống tốt đẹp, bền vững.
Người ta tin rằng, vào dịp Tết Nguyên đán, tổ tiên cũng sẽ hiện diện trên bàn thờ gia tiên, ở
nhà thờ họ để chứng kiến lòng thành của con cháu, và từ đó sẽ phù hộ cho con cháu được
khỏe mạnh, làm ăn ổn định và sống hạnh phúc trong tình yêu thương giữa ông bà, cha mẹ,
con cháu, vợ chồng. Đó là ý nghĩa tâm linh của Tết Nguyên đán.
Khi thắp nén hương, bày mâm cỗ cúng dâng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên đán, người Việt
mới thấy thỏa mãn và yên lòng trong cuộc sống tiếp theo khi bước vào năm mới.
Tết đến, người Việt chuẩn bị mọi điều kiện sống đầy đủ, có đạo đức, có truyền thống tốt.
Chẳng hạn: ăn phải ngon, bổ dưỡng, khác hẳn ngày thường. Mặc phải đẹp, bất kể lứa tuổi
nào, bất cứ giới nào: nam hay nữ, nông dân, thợ, kẻ sĩ hay chức sắc, lão bà hay lão ông.
Ai cũng thấy như phải gần gũi nhau hơn, nói những điều hay với ngôn ngữ chọn lọc. Chẳng
hạn, Tết là phải chúc mừng nhau: sức khỏe, tuổi tác (trường thọ), chúc "làm ăn bằng năm,
bằng mười năm ngoái"... Có phần ngoa ngôn, song vẫn êm tai và thực lòng. Cho nên, Tết
đến, người ta vui vẻ, dịu hiền, là cơ hội để hòa giải những bất đồng, "giận đến chết đến Tết cũng thôi".
Đó là giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ mà người Việt muốn đạt tới và thường đạt tới. Cho
nên, những ngày trong dịp Tết Nguyên đán thực sự là những ngày vui vẻ, hạnh phúc cho tất 28 cả mọi người.
*Liên hệ thực hành lễ Tết hiện nay
Từ Đổi mới đến nay, truyền thống đón Tết không ngưng đọng trong câu đối đỏ ngày xưa,
cũng không trói chặt trong các “định mức” tem phiếu như thời bao cấp mà Tết đã “bùng
nổ” theo nhiều hình thức với từng đối tượng đón Tết khác nhau. Ngày nay, nhiều hình thức
ăn Tết, chơi Tết xuất hiện như: “Tết di chuyển, du lịch”, “Tết sum họp qua mạng”, …
Không gian Tết không chỉ dừng lại ở không gian gia đình ấm cúng mà còn lan tỏa xuyên
lục địa, xuyên quốc gia, cùng con cháu ở nhiều nước chung niềm vui đón giao thừa Tết Việt.
Tết đã thay đổi nhiều nhưng giá trị của ngày Tết là niềm vui đón mừng năm mới gắn liền
với những lời chúc “Quốc thái dân an”, “Hạnh phúc của mọi nhà”, “Con cháu thành đạt,
chăm ngoan”, “Quê hương đất nước giàu mạnh”, … Năm mới mong mỏi đón chào niềm vui
mới gắn với ước vọng của toàn dân, ngày Tết trở thành ngày họp mặt, sum vầy của cả gia
đình, dòng họ, thôn xóm, … Đó là sự sum họp của các thành viên về mái ấm ngôi nhà có bố
mẹ, ông bà. Đấy là tình cảm giao tiếp gặp mặt hào hứng đầu xuân của làng quê dưới mái
đình trong ngày hội làng. Đó cũng là nơi gặp mặt của thế giới người sống với thế giới của
tổ tiên, ông bà. Đặc trưng đón chào “Cái mới ấm áp sum vầy, đoàn tụ” luôn là giá trị vĩnh hằng.
Trong Tết Truyền thống, đặc trưng của ngày Tết là ngày sum họp. Đó là sự sum họp giữa
các thành viên trong gia đình với nhau, giữa ông bà, bố mẹ và con cháu đi xa trở về nhà.
Đấy là sự sum họp, đề cao tính cộng đồng giữa các thành viên gia đình với làng xã. Và hơn
nữa, đó là sự sum họp giữa “thế giới người sống” với “thế giới người đã khuất” mà đại diện
là tổ tiên. Vì thế mới có tục “tảo mộ” (mời tổ tiên đã khuất về ăn Tết), có tục “hóa vàng”
(tiễn tổ tiên về thế giới bên kia khi ăn Tết xong), …
Cái đặc trưng sum họp đã tạo nên một “cuộc di chuyển” khổng lồ, hàng triệu lao động từ
khắp miền Tổ quốc, từ bên kia trời Âu Mỹ, Đông Bắc Á, … cũng lo bươn chải, vất vả vượt
hàng nghìn, hàng vạn cây số về quê đón Tết. Như thế, cuộc sống cũng đặt ra những yêu cầu
mới, sự sum họp gia đình trong một không gian vật lý cụ thể là mái ấm ngôi nhà, là sân
đình lễ hội, là bàn thờ thiêng, … cũng có xu hướng biến đổi.
Xu hướng thứ nhất, một số bạn trẻ mới lập gia đình, đi làm ăn xa thấy Tết là thời điểm rất
khó khăn cho đi lại, tốn kém nên họ đã chọn ngày giỗ chạp, ngày vui của gia đình để trở về
đoàn tụ thay cho ngày Tết. Như vậy, các bạn trẻ cũng tiết kiệm được bao nhiêu kinh phí đi
lại. Có người công nhận trong các doanh nghiệp nước ngoài chọn làm thêm ca trong ngày
Tết với hệ số tiền lương cao. Như thế, đó cũng là một hướng ứng xử hài hòa với truyền
thống. Các thành viên không về ăn Tết cùng bố mẹ nhưng nhờ công nghệ thông tin nên
khoảng cách không gian bị xóa nhoà.
Toàn bộ việc ăn Tết, quang cảnh ngày Tết, sự đầm ấm gia đình, … đã được “nối mạng”
thông qua các hình thức Facetime, Zalo, Messenger, Viber, Video Calls, … Ông bà càng
cảm động khi nghe đứa bé bi bô chúc Tết từ khoảng trời Tây: “Cháu chúc ông bà mạnh
khỏe, sống lâu”. Tấm lòng người già đầy hạnh phúc, cảm động. Sự trống vắng, nỗi nhớ
mong đã được giảm đi rất nhiều. Một hình thức khác, con cái chỉ đoàn tụ với gia đình ngày
30, sáng Mùng Một, còn lại là đi chơi Tết phương xa theo hình thức Tết du lịch, Tết di động, …
Quỹ thời gian nghỉ Tết có ít, họ chỉ dành một phần để đón Tết quê hương, còn một phần để
khám phá Tết thiên hạ, … Âu, đó cũng là một hình thức ứng xử của thời @. Với các hình
thức đón Tết này, tuy sự sum vầy, tụ họp không được trọn vẹn nhưng vẫn đầm ấm. Niềm
vui xa đã được nối gần, không gian vật lý đã nhường chỗ cho không gian ảo. Xu hướng Tết
du lịch, khám phá Tết ở nơi xa sẽ ngày càng phát triển nhưng cũng không phá vỡ quan điểm
truyền thống. Sẽ xuất hiện 2 xu hướng đón Tết. Xu hướng thứ nhất, là giảm thời gian đón 29
Tết ở nhà, tăng thời gian khám phá. Xu hướng thứ hai, là đón cả nhà, con cháu đón mẹ cha,
ông bà đều tham gia Tết khám phá, thậm chí đón giao thừa ở ngay nơi du lịch. Như vậy, thế
giới tổ tiên cũng phải theo chân con cháu đến đón giao thừa ở nơi mới.
Tết Cổ truyền người Việt đã biến đổi rất nhiều nhưng giá trị về niềm vui đón chào năm mới
với ước vọng hơn hẳn năm qua vẫn được duy trì. Một số phong tục đón Tết có thể chuyển
hóa theo không gian, thời gian và tác động của quá trình toàn cầu hóa nhưng bản sắc riêng
của Tết Việt vẫn tồn tại.
Hồn cốt của Tết là quan niệm đổi mới, đón chào cái mới, bản sắc của Tết phản ánh tính
cộng đồng, sum họp gia đình, dòng họ, xóm làng, … (kể cả thế giới đang sống và thế giới
thần linh). Phong tục tập quán riêng của những ngày Tết có nhiều đặc điểm mang sắc thái
riêng của người Việt đã được phản ánh qua câu đối: “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, Cây nêu
tràng pháo bánh chưng xanh”.
Bây giờ giải thiêng, nhiều người không còn tin vào chức năng của cây nêu, đo đó các gia
đình bỏ tục trồng cây nêu ngày Tết. Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm an toàn cho xã hội nên
“tràng pháo” cũng không còn. Duy chỉ còn “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ, bánh chưng
xanh” vẫn còn tồn tại mãi xuyên qua nhiều thế kỷ đến hôm nay.
Cộng đồng cư dân người Việt ở đô thị, ở các phương trời xa cũng tái sáng tạo tục đón Giao
thừa, du xuân, đón Tết. Tết ngày nay cũng có nhiều điểm khác xa với Tết ngày xưa. Như tôi
vừa phân tích, từ Tết Cổ truyền đến Tết thời bao cấp và hiện nay đã có nhiều yếu tố biến
đổi. Trong Tết Truyền thống, gia đình là một đơn vị sản xuất khép kín; do đó, gia đình phải
chuẩn bị, gieo trồng, chăm sóc, chăn nuôi, gặt hái sao cho đủ sản vật phục vụ ngày Tết. Mỗi
gia đình cũng có vài thửa ruộng trồng lúa nếp, lúa tẻ ngon để làm bánh chưng, nấu cơm
ngày Tết. Họ cũng tự nấu rượu, làm bánh mứt Tết, nấu che lam, rang hạt bí, … Mỗi gia
đình cũng là một hộ chăn nuôi gà, lợn, làm cỗ Tết.
Còn hiện nay, kinh tế phát triển, hệ thống các dịch vụ mua sắm Tết (qua phiên chợ Tết, qua
siêu thị, mua hàng online đem đến tận nhà, …) đã giải phóng sức lao động, lo toan ngày Tết
vất vả của mọi người. Thời gian “làm Tết, ăn Tết” đã chuyển sang “chơi Tết” là chính. Nhu
cầu đời sống vật chất ngày Tết được giải quyết, nhà nhà đều lo đến nhu cầu về đời sống tinh thần.
Mỗi gia đình đều lo sắm hoa Tết theo nhu cầu, địa vị xã hội và khả năng kinh tế. Đơn giản
nhất cũng phải có cành đào hay cành mai, cây quất, nhưng nhà khá giả hơn thì phải chọn
quất thế độc đáo, chọn hoa quả bày bàn thờ phải có chữ “Phúc, Lộc, Thọ”, … Tết ở mỗi gia
đình đô thị với vẻ ấm áp, tính cộng đồng có vẻ giảm đi, mỗi người một phòng, một TV, một
laptop xem chương trình riêng. Nhưng tính cộng đồng với không gian lớn ngày càng mở
rộng. Thanh niên đến với các lễ hội âm nhạc, dạ hội đường phố lên tới hàng chục vạn người
trong khi người già, trung niên lên viếng đền chùa, …
Tuy nhiên, việc sum họp mừng năm mới với nhiều hình thức khác nhau vẫn tồn tại. Ơ mâm
cúng tất niên, ở các lễ tục mừng tuổi chúc Tết ông bà, thầy giáo. Tết có xu hướng chuyển
nhanh từ ăn Tết sang chơi Tết. Nhiều thú vui dân gian lúc còn, lúc mất nhưng dòng chảy của Tết vẫn chảy mãi. 6
Phân tích tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt. Liên hệ việc thực
hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình hiện nay.
- Khái niệm “Tín ngưỡng”
Theo luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016: “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện
thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình
an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.”
- Hệ thống tín ngưỡng ở Việt Nam:
+ Sùng bái các hiện tượng tự nhiên và một số loài động, thực vật.
+ Sùng bái con người: thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng Làng. 30 + Tín ngưỡng phồn thực + Thờ Thần Tài
**Thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt Nam: - Khái niệm:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tục lệ thờ cúng tổ tiên đã qua đời của nhiều dân tộc châu Á,
đặc biệt phát triển trrong văn hóa VN. Đại đa số gia đình người Việt đều thực hiện tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Đây là tín ngưỡng thiêng liêng nhất trong hệ thống tín ngưỡng của người Việt Nam. - Cơ sở xuất phát:
+ Niềm tin về sự bất tử của linh hồn. Người Việt tin rằng con người có phần hồn và phần
xác, khi chết đi con người chỉ chết về phần xác còn phần hồn sống mãi. Ông bà ở nơi chín
suối nhưng vẫn thường xuyên đi về hỏi thăm con cháu, phù hộ độ trì cho con cháu.
+ Cơ sở xã hội đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn, là lòng tin tri ân của con cháu đối với
ông bà Tổ tiên đã tạo dựng hình hài và vóc dáng, đã ban tặng cho con người sự sống. Do đó
đây là một tín ngưỡng thiêng liêng, thể hiện tính nhân bản của người Việt Nam, thể hiện
lòng biết ơn của ngưởi sống đối với người đã khuất và có ý nghĩa triết lý sâu sắc. - Biểu hiện: · Về bàn thờ tổ tiên:
- Đại đa số gia đình người Việt đều có bàn thờ tổ tiên trong nhà
+ Ông bà tôe tiên sinh thành nên được tôn kính nhất nên bàn thờ tổ tiên ngự ở gian giữa – vị trí tôn kính nhất
+ Thổ công ở bên trái – nơi quan trọng thứ hai sau trung tâm theo ngũ hành
+ Bàn thờ thường có nước và lửa biểu tượng cho triết lý Âm – Dương
+ Bàn thờ thường được bao phủ hương khói trong bầu không khí thành kính vào những dịp
giỗ, Tết hoặc những dịp quan trọng của sinh hoạt gia đình.
VD: Trong việc cưới xin, khi con dâu hoặc con rể mới đến nhập gia đều phải đến trước bàn
thờ làm lễ gia tiên để ra mắt tổ tiên.
- Cách bài trí bàn thờ tổ tiên thường không giống nhau mà phụ thuộc vào quan niệm tâm
linh và cả điều kiện kinh tế của mỗi nhà. Nhìn chung, bàn thờ tổ tiên nào cũng có các món
đồ thờ sau: bài vị, bát hương, đĩa đen, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả,… ·
Các dịp thờ cúng tổ tiên:
Thời gian thờ cũng Tổ tiên là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những lễ, tết trong năm.
Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những ngày trong gia đình có sự kiện
quan trọng như lấy vợ, làm nhà, thi cử, đi xa, nhà có người ốm,… ·
Điểm đặc sắc và độc đáo của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong văn hóa Việt Nam
được thể hiện ở ba cấp độ:
- Cấp độ gia đình: thờ cúng Tổ tiên trong gia đình, biểu tượng của nó chính là bàn thờ tổ tiên
- Cấp độ gia tộc: thờ cúng tổ tiên dòng họ, mà biểu hiện kết tinh là từ đường (nhà thờ họ)
hoặc biểu hiện ở tín ngưỡng thờ Thành Hoàng Làng.
- Cấp độ quốc gia: thờ cúng vua Hùng, những người có công khai mở và tạo dựng đất nước Việt Nam
VD: Cứ vào ngày 10/3 âm lịch hàng năm, mọi người dân Việt Nam đều tưởng nhớ đến các
vị vua Hùng. Đây là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc, minh chứng cho sự kết nối
giữa gia đình – gia tộc và dân tộc. - Ý nghĩa:
+ Tập tục thờ cúng tổ tiên thể hiện được tính nhân văn của dân tộc Việt, những người đã
khuất không bị lãng quên. Điều này chứng tỏ dân tộc Việt là một dân tộc đặc biệt mang
trong máu một thứ tình cảm không thể thấy ở các dân tộc châu Âu. 31
+ Duy trì được tình thân trong quan hệ thân tộc. Những ngày lễ, tết là dịp các gia đình tụ
họp với nhau, gắn kết tình cảm.
+ Thông qua phong tục này, không chỉ thể hiện ý thức luôn hướng về cội nguồn, bày tỏ
lòng hiếu thảo mà còn mang giá trị về mặt tâm linh.
+ Có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhắc nhở chúng ta, dù ở đâu, xa quê hương nhưng
luôn tôn thờ và khắc ghi cội nguồn của mình. Thông qua đó giáo dục mỗi người luôn có
trách nhiệm với quê hương đất nước, bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp mà tổ tiên ta đã dày công vùi đắp.
+ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục, một chuẩn mực đạo đức và
nguyên tắc làm người, mang ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng, trong xã hội truyền
thống, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Thờ cúng tổ tiên đã trở thành tín ngưỡng xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi
dây liên kết để góp phần cột chặt tính thống nhất toàn dân tộc và cũng là cội nguồn
của những tín ngưỡng khác.
+ Trải qua bao nhiêu thăng trầm trong lịch sử, nền văn hóa Việt Nam đã chứng kiến bao sự
thay đổi mạnh mẽ trong quá trình giao lưu tiếp nhận các nên văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng
từ bên ngoài. Nhưng trong quá trình “nội sinh hóa các yếu tố ngoại sinh” ấy, dân tộc Việt
Nam có thể giữ trong mình những nét đẹp độc đáo và riêng biệt như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc.
- Liên hệ với việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay:
Hiện nay, đất nước ta đnag bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh có những khó khăn nhất định. Với quan điểm đổi mới toàn diện đồng bộ
cùng những giải pháp đúng đắn phù hợp về văn hóa – xã hội đã giúp Việt Nam có những
bước tiến đáng kể. Sự nghiệp kinh tế văn hóa, giáo dục đạt được nhiều thành tựu to lớn,
trình độ dân trí được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì trong xã hội cũng phát sinh
những mặt yếu kém. Mặt trái của cơ chế thị trường cũng như quy luật cạnh tranh, sự đề cao
sức mạnh của đồng tiền, tình trạng phân hóa giàu ngheo, tệ tham nhũng, quan liêu, chạy
theo lợi ích vật chất mà xem nhẹ giá trị đạo đức văn hóa truyền thống đã tác động đến nhiều
mặt của đời sống xã hội.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hiện nay vận động theo xu hướng phục hồi lại truyền thống.
Nhiều năm qua, đời sống tín ngưỡng tôn giáo nhân dân ta có chiều hướng phát
triển rất đa dạng và phức tạp với những biểu hiện vừa tích cực, vừa tiêu cực. Cái hay, cái
dở, cái lành mạnh và không lành mạnh luôn đan xen nhau. Các cá nhân có xu hướng tự tu
dưỡng, giữ gìn đạo đức, hướng thiện, phục thiện trong hoàn cảnh xã hội nảy sinh nhiều vấn
đề phức tạp, hệ thống các giá trị chuẩn mực đang bị đảo lộn, đạo đức xã hội xuống cấp.
Ngày giỗ, ngày tết là ngày anh em xa gần hội tụ, gia đình đông đủ quây quần bên bàn thờ tổ
tiên để tưởng nhớ đến công đức của tổ tiên và công lao của ông bà cha mẹ, mọi người đểu
thấy trách nhiệm của mình phải cố gắng hơn nửa để đền đáp công ơn tổ tiên làm rạng danh
truyền thống gia đình, quê hương, đất nước.
Kính hiếu, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ và phấn đấu học tập ren luyện để làm
rạng rỡ truyền thống gia đình họ tộc, quê hương là một truyền thống lẽ sống của thế hệ trẻ.
Và với thể hệ hiện nay, lòng hiếu thảo không chỉ dừng lại ở việc trở thành con ngoan hiếu
thảo mà còn trở thành một công dân tốt. Chính vì vậy, thế hệ trẻ phải tự học tập, ren luyện,
để nắm bắt những tri thức mới, dám nghĩ dám làm, dám phá bỏ định kiến, vượt lên những
hạn chế truyền thống để kết hợp những tinh hoa của thời đại với dân tộc. Từ đó thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. 32
Thờ cúng tổ tiên trong các gia đình, dòng họ hiện nay đã có phần giản đơn, song
phần ý thức tâm linh vẫn được đề cao. Qua đây có thể thất xuất phát từ những quan niệm
đúng đắn, từ mối liên hệ huyết thống sâu nặng trong gia đình cũng như trong họ tộc, các lễ
nghi thờ cúng tổ tiên đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của người Việt. Đó
cũng là việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống chống lại làn sóng xâm
lăng về văn hóa khi đất nước vận hành cơ chế thị trường.
Bên cạnh những nét đẹp truyền thống được bảo tồn và phát huy, thì thờ cúng tổ
tiên của người Việt trong những năm gần đây còn có những quan niệm sai lệch, những biểu
hiện chưa tốt như các hủ tục cũ theo hướng mê tín.
Xuất phát từ nhu cầu văn hoá đạo đức, tín ngưỡng, tâm linh, mà hiện nay dòng
người hành hương ngày một lớn, địa chỉ hành hương ngày một rộng, thời gian hành hương
ngày một dài nhiều vấn đề tiêu cục nảy sinh. Trong lễ hội, cái ranh giới giữa tín ngưỡng
thành tâm, tự nguyện với sự mê muội đôi khi rất mỏng manh. Trong gia đình, nhiều người
vì quá tin vào sự tồn tại của tổ tiên, thần thành nên làm bất cứ điều gì cũng khấn vái gia
tiên, thần thánh; thậm chí còn mời thầy cúng lễ về nhà, cứ tin và làm theo chỉ dẫn cảu một
số kẻ buôn thần bán thánh. Việc này vừa tốn kém thời gian, tiền của và sức khỏe.
Tồn tại những cá nhân không quan tâm ren luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức cá
nhân: bất hiếu với cha mẹ, nhân dân, bất tín với bạn be… mà chỉ chăm lo đi lễ chùa cầu xin
thăng quan tiến chức. Điều này không những trái với đạo đức cách mạng mà còn trái với
đạo đức tôn giáo, tín ngưỡng.
Trong các lễ hội cấp làng xã, hiện tượng mê tín dị đoan cũng thể hiện khá rõ nét.
Những sinh hoạt tâm linh gần gũi với tôn gióa như ma chay, lễ hội, đình đám, tử vi, tướng
số,… bung ra một cách tràn lan. Gọi hồn cũng là một biểu hiện của mê tín dị đoan của
người Việt. Ơ các gia đình thường gọi hồn thông qua các thầy cúng, thầy phù thủy để người
nhà đã chết nhập hồn vào người nào đó và nói lên những lời nói của người đã chết.
Chính những hủ tục cũ, thiên về duy tâm, mê tín, một mặt đã làm giảm đi những
giá trị truyền thống tốt đẹp của việc thờ cúng tổ tiên. Mặt khác, nó còn làm cho chính
những con người này mất dần niềm tin vào cuộc sống, vào chính mình khiến họ trở nên bạc
nhược, thụ động, hền kém trong cuộc sống. Vấn đề trên bắt nguổn từ những nguyên nhân
khác nhau như do nhận thức của một số cá nhân còn hạn chế, do anhe hưởng của thói quen,
tâm lý lạc hậu, do sự tác động của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự buông lỏng quản lý,
giáo dục của một số cấp, ngành,…
HÌnh thức thực dụng, phô trương lãng phí của các hoạt động thờ cúng tổ tiên.
Hiện tượng đốt vàng mã tràn lan, nhất là dịp lễ Tết, ma chay, giỗ chạp. Vào dịp
tháng bảy (âm lịch) hàng năm, người ta sẵn sàng mua nhiều đồ vàng mã gồm nhiều kiểu đồ
dùng như: giày dép, quần áo, bát đĩa,… và cả những tiện nghi thời hiện đại: ô tô, xe máy, tủ
lạnh,… Những hàng mã loại này có giá trị rất lớn, những cũng chỉ dùng để đốt đi, gửi
xuống cõi âm, theo như người ta tin là cho người thân mang theo xuống âm phủ để sử dụng
và mong tổ tiên phù hộ được lại nhiều như thế. Đây là một hiện tượng mê tín và có xu
hướng ngày một gia tăng. Điều này đã và đang ảnh hưởng tới đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, đến trật tự an ninh và an toàn xã hội. 7
Phân tích vai trò của người phụ nữ trong gia đình người Việt truyền thống.
Vai trò của người phụ nữ trong gia đình truyền thống VN:
+ Trong XH cổ truyền và cả trong XH hiện đại, ng phụ nữ VN luôn đc tôn trọng và
khẳng định vị thế của mình. Vai trò của ng phụ nữ trong gia đình đc đề cao trước tiên
là do từ cơ tầng sâu XH là chế độ Mẫu hệ cộng với đặc điểm trọng tình nghĩa trong
tính cách ng Việt. Đây cũng là cơ sở cho việc hình thành truyền thống tôn trọng phụ nữ. 33
+ Khẳng định ở thiên chức làm vợ, làm mẹ trong đời sống gia đình. Là vợ, ng phụ nữ
chia sẻ mọi trách nhiệm, nghĩa vụ, nỗi gian truân và niềm hạnh phúc với chồng
( đoạn này thêm mấy câu ca dao) .Trong đời sống tinh thần, ng phụ nữ là chỗ dựa
tinh thần, là nguồn động viên khích lệ tinh thần đối với chồng và là người bảo vệ sự yên ấm trong gia đình.
Để hoàn thành thiên chức làm mẹ, người phụ nữ phải cố gắng hy sinh rất nhiều.
Vai trò làm mẹ của ng phụ nữ ko chỉ thể hiện ở công sinh thành “ chín tháng mang
nặng đẻ đau” mà còn thể hiện ở công lao nuôi dạy con cái. Mẹ là ng đầu tiên dạy con
làm người, trao những giá trị văn hóa cho con …vân vân… tóm lại đoạn này các bạn
yêu mẹ như thế nào thì viết hết ra.
+ Trách nhiệm làm vợ và tình mẫu tử đã khiến người phụ nữ trở thành linh hồn, nơi
hội tụ những tính chất tốt đẹp nhất trong mọi thành viên trong gia đình. Gia đình hạt
nhân trong XH cổ truyền ko tách rời gia đình lớn. Ng phụ nữ là cầu nối giữ các thế
hệ trong gia đình và giữa gia đình mình với họ hàng…( đoạn này ý là quan hệ mẹ
chồng nàng dâu, bà-cháu… )
_ Phẩm chất cần có của ng phụ nữ trong XH hiện nay (mở rộng) đoạn này thích gì chém đấy:
+Người phụ nữ chịu sự tác động của của môi trường xã hội và ngược lại, người phụ
nữ cũng tác động tới sự vận động của xã hội. Sự tác động của xã hội đối với phụ nữ
bao gồm cả hai mặt: tích cực và tiêu cực. Người phụ nữ của thời hiện đại càng không
thể tách rời với thực tế gia đình và xã hội. Bởi chính tại hai môi trường này, người
phụ nữ mới thể hiện, thực hiện được những chức năng của mình. Điều cần làm là làm
sao để gia đình và xã hội tạo được những điều kiện thuận lợi nhất cho phụ nữ phát
huy được khả năng của mình. Đó là: người phụ nữ có công việc ổn định để đảm bảo
cuộc sống, có cơ hội học tập nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, tham gia ngày
càng nhiều hơn vào các hoạt động xã hội, các đoàn thể, câu lạc bộ, có thời gian
hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, chăm sóc sức khỏe, làm đẹp cho bản thân…
+Hiện nay, những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại đã phần nào hỗ trợ người phụ
nữ trong công việc nội trợ, giảm bớt sức lao động của người phụ nữ trong gia đình.
Song, phụ nữ vẫn là người làm chính công việc nhà, từ việc bếp núc tới việc dạy dỗ
con cái, chăm lo đời sống tinh thần cho các thành viên trong gia đình. Cộng với thời
gian làm việc ngoài xã hội, quỹ thời gian dành cho việc hưởng thụ các giá trị văn hóa
tinh thần, việc học tập nâng cao trình độ kiến thức của phụ nữ là rất hiếm hoi, thậm
chí ở một số đối tượng phụ nữ như công nhân, buôn bán, quỹ thời gian này gần như
không có. Bên cạnh đó, nguy cơ bạo lực gia đình đang là mối đe dọa cho một số
không nhỏ phụ nữ. Trong khi đó, ở đâu bạo lực gia đình xuất hiện, ở đó đời sống vật
chất, tinh thần của phụ nữ bị tổn thương.
+Để người phụ nữ đảm đương được vai trò của mình, đồng thời phát huy được hết
khả năng bản thân để phát triển trong thời hiện đại, yếu tố tự thân của mỗi phụ nữ là
rất quan trọng. Chỉ khi nào tính tích cực, chủ động của người phụ nữ được khơi dậy,
phụ nữ mới vừa có thể đảm đương tốt công việc ngoài xã hội, vừa duy trì được mối
quan hệ gia đình bền chặt, một tổ ấm hạnh phúc. 8
Phân tích ý nghĩa văn hoá của việc khắc tên những người thi đỗ tiến sĩ lên bia
đá đặt trên lưng rùa ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Năm 1484, vua Lê Thánh Tông đã quyết định khắc tên tiến sĩ khoa thi từ 1442 đến 34
1481 lên bia đá, đây là lần đầu tiên tên của những người đỗ đạt được khắc biad. Mỗi
tấm bia là một khoa thi, những ai đỗ tiến sĩ đều được khắc tên nhằm ca ngợi công
đức, sự nghiệp nhà Lê, đề cao việc học hành, thi cử, răn dạy các tiến sĩ đỗ đạt, làm
quan phải phụng mệnh vua, làm việc thiện có ích cho dân, chớ làm điều xằng bậy,
tham nhũng, làm khổ muôn dân. Từ năm 1502, Lê Hiến Tông quy định bảng vàng
bia đá sẽ được gắn với nhau trong khuôn viên Quốc Tử Giám có tác dụng thôi thúc,
nhắc nhở tầng trí thức phải ren luyện không ngừng về tài và đức để không làm hổ
thẹn cái danh kẻ sĩ, không phụ lại sự trọng đãi của nhà vua.
Lưu danh hiền tài muôn đời, thể hiện sự coi trọng, đề cao hiền tài, khẳng định
tư tưởng “hiền tài là nguyên khí quốc gia”
Để người khác trông vào mà noi gương phấn đấu, ren luyện, gắng sức giúp
vua, cống hiến cho đất nước, là một cách khuyến khích nhân dân học tập
Ngăn ngừa điều ác, kẻ xấu 9
Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong văn hoá giao thông hiện nay. 1. Định nghĩa
- Văn hóa giao thông là biểu hiện cụ thể của văn hóa trên lĩnh vực giao thông.
- Văn hóa giao thông được biểu hiện bằng hành vi xử sự đúng pháp luật, theo các
chuẩn mực của xã hội về lẽ phải, cái đẹp, cái thiện của người tham gia giao thông.
Xây dựng văn hóa giao thông nhằm tạo nên thói quen cư xử có văn hóa, đúng pháp
luật; coi việc tự giác tuân thủ pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông như
một chuẩn mực đạo đức truyền thống và là biểu hiện văn minh hiện đại của con
người khi tham gia giao thông.
* Để nhận diện văn hóa giao thông cần có 3 tiêu chí cơ bản. Các tiêu chí của văn hóa giao thông gồm:
- Về nhận thức và hành động, hiểu biết đầy đủ và tự giác chấp hành đúng các quy
định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông. –
- Có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, tôn trọng, nhường nhịn và giúp đỡ người khác.
- Có thái độ ứng xử văn minh lịch sự khi xảy ra va chạm giao thông và tinh thần thượng tôn pháp luật.
Văn hóa giao thông cần được hiểu là sự ứng xử một cách có ý thức và có
trách nhiệm của mọi thành viên trong xã hội khi tham gia giao thông hoặc tham gia
vào những hoạt động có liên quan đến giao thông để tạo lập nên một môi trường giao
thông an toàn, văn minh, thân thiện và hiệu quả.
Các yếu tố cơ bản tạo lập nên văn hóa giao thông gồm có:
- Hệ thống pháp luật: Hoàn chỉnh, phù hợp với thực tiễn và một hệ thống các bộ,
ngành, địa phương có năng lực quản lý, điều hành giao thông một cách nghiêm minh,
hiệu quả. Luật pháp phải rõ ràng, nghiêm minh, dân chủ.
- Cơ sở hạ tầng giao thông: Đồng bộ và hiện đại bao gồm hệ thống đường sá các cấp,
cầu cống, cầu vượt, dải phân cách, hệ thống đen tín hiệu giao thông...
- Chương trình giáo dục - đào tạo: Phải có nội dung về an toàn giao thông, nếu đã có
phải tăng cường nội dung hơn nữa, đạo đức của người tham gia giao thông.
- Phương tiện giao thông: Phải có chất lượng tốt, đảm bảo hệ số an toàn cho người
tham gia giao thông. Tăng cường các phương tiện giao thông công cộng.
- Ý thức người tham gia giao thông: Ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm, ứng xử 35
có văn hóa của người tham gia giao thông.
Nói đến văn hoá giao thông trước hết là nói đến các phương tiện giao
thông và cách con người sử dụng các phương tiện đó để đi lại, để dịch chuyển giữa
những vùng văn hoá khác nhau.
+ Ban đầu khi người Việt sống ở văn hoá núi hay văn hoá biển thì cách thức đi lại
của con người dựa vào chính bản thân, họ đi lại trên đôi chân trần và in dấu chân lên
mặt đất tạo thành những con đường.
+ Khi xã hội sống của con người được tổ chức cao, con người cũng đồng thời sử
dụng súc vật đã được thuần hoá làm phương tiện giao thông: con người đi lại bằng voi, bằng ngựa.
+ Con người dựa vào sức nước và phương tiện đi lại ở vùng văn hoá sông nước chủ yếu là bằng thuyền
+ Văn hoá ngày càng phát triển, kéo theo sự phát triển của văn hoá giao thông.
Những cỗ xe xuất hiện: xe tay kéo, xe ngựa rồi đến Xe đạp xuất hiện, cùng với nó là
xe xích lô, những phương tiện giao thông của văn hoá phương Tây: ôtô, tàu hoả... tàu thuỷ trọng tải lớn,…
Một yếu tố nữa của văn hoá giao thông đó là ý thức chấp hành luật lệ giao
thông của người tham gia giao thông. Dân số Việt Nam ngày càng đông, phương
tiện giao thông ngày càng nhiều, nhịp điệu của đời sống ngày càng trở nên gấp gáp,
hối hả - những tác nhân đó đã tạo nên sự thay đổi trong giao thông đường bộ - đường
thuỷ - đường sắt - đường hàng không hiện nay.
Người tham gia giao thông thì đông mà đa số những người tham gia ấy vẫn
hành xử theo thói quen, sống theo lệ mà ít theo luật cho nên nội hàm văn hoá giao
thông - tức là văn hoá giao tiếp ứng xử với nhau khi tham gia vào hoạt động giao
thông - là vấn đề đáng quan tâm của xã hội hôm nay.
2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra |
Thực trạng văn hóa giao thông ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề thu hút
sự quan tâm của toàn thể xã hội.
- Người Việt Nam đang sử dụng các loại hình giao thông đan xen cùng lúc như giao
thông đường thủy, giao thông đường bộ, đường hàng không. Các phương tiện giao
thông cũng trở nên đa dạng và phong phú: xe đạp, xe máy, ô tô, tàu thủy, tàu hỏa, máy bay…
- Cơ sở hạ tầng và phương tiện giao thông do nhiều hạn chế mang tính lịch sử chưa
đáp ứng được nhu cầu phát triển của giao thông hiện đại, thiếu đồng bộ, xuống cấp,
không đảm bảo hệ số an toàn kĩ thuật. Các phương tiện giao thông hiện đại như xe
máy, ô tô lại ngày càng bùng nổ mạnh mẽ, phương tiện vận tải hành khách công cộng
là xe buýt chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Trên cả nước hiện nay có
khoảng gần 40 triệu xe máy, khoảng 500 nghìn ô tô các loại, chưa kể các phương tiện tham gia giao thông khác.
- Người tham gia giao thông chưa thực sự có ý thức tự giác khi tham gia giao thông
và đây là nhân tố quan trọng dẫn đến thực trạng đáng buồn về an toàn giao thông của Việt Nam.
- Vấn đề ùn tắc giao thông và tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra. Người tham
gia giao thông hoặc là thiếu ý thức, hoặc là thiếu hiểu biết về luật giao thông là căn
nguyên dẫn đến mất an toàn giao thông, 36
- Việc điều hành quản lý giao thông cũng là vấn đề nổi cộm. Các nhà quản lý và
điều hành giao thông nhiều khi lúng túng trong giải quyết thực trạng văn hóa giao
thông. Trong công tác quy hoạch giao thông còn nhiều điều bất hợp lý. Các trung
tâm đào tạo, sát hạch và giấy phép lái xe còn nhiều bất cập. 10
Phân tích các chức năng cơ bản của văn hoá. Cho ví dụ minh hoạ.
Văn hoá có 5 chức năng là:
- Chức năng giáo dục: văn hoá thông qua các hoạt động, các sản phẩm của mình
nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con
người, làm cho con người dần dần có những phẩm chất và năng lực theo những
chuẩn mực xã hội đề ra ( VD: VH đề ra những chuẩn mực đạo đức mà con người
phải tuân theo như con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà; không được ăn cắp vặt; không làm điều xấu,...)
- Chức năng nhận thức, dự báo: là chức năng đầu tiên, tồn tại trong mọi hoạt động
văn hoá bởi, con người không có nhận thức thì không thể có bất cứ một hành động
văn hoá nào (VD: tác phẩm “Ông già và biển cả” chúng ta có thể hiểu thêm về biển,
về sự phát hiện những quá trình vật lý, sinh học diễn ra trong lòng đại dương mà còn
ở sự khám phá về mối tương quan giữa con người và biển, về bản lĩnh và khát vọng
của con người trong cuộc đấu tranh xác lập ý nghĩa tồn tại của mình trước thế giới tự
nhiên và thế giới con người)
- Chức năng thẩm mỹ: văn hoá là sự sáng tạo của con người theo quy luật của cái
đẹp, trong đó, văn học nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất sự sáng tạo ấy và con
người tiếp nhận, tự thanh lọc mình theo hướng vươn tới cái đẹp và khắc phục cái xấu
trong mỗi người (VD: Việc đưa bộ môn Mỹ thuật vào các trường học được coi như 1
cách giáo dục nghệ thuật cho học sinh, giúp học sinh có những quan điểm đúng đắn về thế giới thẩm mỹ)
- Chức năng giải trí: sự giải trí bằng các hoạt động văn hoá là bổ ích, cần thiết, góp
phần giúp cho con người lao động sáng tạo có hiệu quả hơn và phát triển toàn diện
(VD: Các lễ hội được tổ chức hàng năm như hội Gióng, Giỗ tổ Hùng Vương, hộ Hai
Bà Trưng, hát Quan họ,... không chỉ là dịp giúp mọi người tưởng nhớ về công lao của
ông cha mà còn là cách để giải trí, vui chơi sau khi lao động vất vả)
- Chức năng kế tục và phát triển: văn hóa có tính kế thừa từ đời này sang đời khác
giúp con người làm được điều này, tức là học hỏi hoặc rút kinh nghiệm từ những giá
trị đi trước để hướng tới những điều mới mẻ hơn, tốt đẹp hơn, hình thành một xã hội
nhân văn hơn (VD: văn hóa thời Văn Lang – Âu Lạc; văn hóa trống đồng Đông Sơn
và kỹ thuật canh tác lúa nước đến nay vẫn được kế thừa và phát triển)
III. 10 CÂU SÁNG TẠO (mỗi câu 2 điểm) TT Câu hỏi 1
Tại sao nói yếu tố thực vật và sông nước ảnh hưởng và in dấu đậm nét trong văn hoá Việt Nam?
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, trên bán đảo Đông
Dương. Do đó có những đặc điểm địa lý, tự nhiên đặc trưng của khu vực này. Khí
hậu đặc trưng là nóng ẩm, mưa nhiều và có hai mùa rõ rệt. Việt Nam được đặc
trưng bởi hệ sinh thái phồn tạp. Trong đó, chỉ số đa dạng giữa số giống loài và số cá
thể rất cao, thực vật phát triển hơn so với động vật (động vật dễ bị dịch bệnh do khí
hậu nhiệt đới gió mùa ẩm). Địa hình Việt Nam trải dài, núi rừng chiếm 2/3 diện tích 37
còn lại là đồng bằng chiếm 1/4 diện tích, mạng lưới sông ngòi dày đặc và phân bố
rộng khắp. Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa ẩm, Việt Nam có hệ sinh thái phát
triển với các loài thực vật đa dạng, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Chính sự đa
dạng của môi trường sinh thái, điều kiện tự nhiên là yếu tố góp phần tạo nên sự đa
dạng trong nền văn hoá của người Việt. Trong đó, nổi lên là hai sắc thái văn hoá
mang tính điển hình của Việt Nam: Sông nước và thực vật. Ví dụ như:
- Trong ẩm thực truyền thống tiêu biểu của người Việt mang đậm nét yếu tố thực
vật, yếu tố sông nước. Khác với tộc người phương Bắc ở xứ lạnh, quen ăn các món
" thịt- trứng sữa", cơ cấu bữa ăn tiêu biểu người Việt là “cơm- rau- cá".Từ xa xưa,
ông cha ta vẫn sinh hợp bằng nghề cày cấy nên thứ đồ ăn chủ yếu là gạo và các
món ăn từ những thứ người dân tự trồng trọt được. Gạo tẻ dùng để nấu cơm là món
ăn chính hàng ngày và xay ra bột để làm bún và các loại bánh tẻ như: bánh lá, bánh
đúc, bánh tráng. Gạo nếp dùng để nấu xôi, đông oán, làm bánh chưng, bánh tét,
bánh dày và xảy ra bột để làm rất nhiều thứ bánh mặn hay bánh ngọt. Còn ngô,
khoai, vừng, dầu, kêu sẵn thì hoặc làm bột, hoặc nấu bánh cũng là các thứ phụ thêm
cho sự ăn uống. Thủy sản và những nguồn thực phẩm sông nước cũng là thức ăn
chủ yếu. Biểu hiện cao nhất của tính hòa hợp với thiên nhiên sông nước như một
đặc trưng tính cách văn hóa con người Nam Bộ. Thiên nhiên ưu đãi cho Nam Bộ sự
sung túc, phong phủ về tài nguyên thủy sản, đặc biệt là nước mắm.
- Nền nông nghiệp với lúa nước là chủ đạo:
Lúa nước được gieo cấy chủ yếu trên các loại đồng bằng châu thổ của các dòng
sông hay trên những đồng bằng ven biển. Để trồng lúa nước ở các vùng đầm lầy
ven suối, ven sông, người vùng núi đã biết chế tạo những guồng tát nước tự động
bằng tre nứa, gỗ để đưa nước suối lên ruộng cạn. Họ cũng chế tạo ra những cối giã
gạo tự động của những dụng cụ, máy móc tuy chưa cao nhưng đó là cách tiếp cận
sản xuất nông nghiệp văn hóa cao vì họ đã biết sử dụng nguồn năng lượng sạch,
năng lượng tự nhiên có sẵn ngay trong địa bàn cư trú.
Cây lúa có ba vai trò quan trọng trong việc hình thành nét văn hóa cho cư dân bản
địa: thúc đẩy quá trình đi tìm và khai thác các đồng bằng châu thổ; thúc đẩy quá
trình hình thành các tổ chức xã hội. làng và các quốc gia nông nghiệp; thúc đẩy
hình thành nền văn hoá nông nghiệp gắn với yếu tố sông nước - Nhà ở
Nơi sinh sống gần với sông nước thì trong cư trú, hình thức tổ chức nhà cửa của
người Việt vùng Tây Nam Bộ là phân bổ theo dạng toà ta, nhà cửa quay ra mặt
sông, lấy sông làm mặt tiền. Đồng thời, do cuộc sống gắn liền với sông nước nên
nhà cửa của người Việt vùng Tây Nam Bộ thưởng rụng ven sông; việc hợp cho
cũng ở trên sông nước, mà người dân địa phương thường gọi là chợ nổi.
Ơ vùng cao, nhà ở thường là nhà sàn, làm các cột gỗ lên cao và có bậc thang lên
nhà. Đó cũng là cách để tranh thủ dữ và côn trùng. Nhà sàn thường dùng mọi thứ
bằng gỗ và lá cây. ở các dân tộc người Tây Nguyên còn có kiểu nhà rông. Đây là
nơi tập trung buôn làng để bản bạc, tụ tập trong những dịp lễ hội. Nhà rông là nhà
có mãi cao lợp bằng rạ hoặc lá cây, sản bằng gỗ, vách có thể làm bằng gỗ hoặc trét đất lên.
Người dân chài lưới thì thường xuyên ăn ở và đi lại trên thuyền, bé. Thuyền của họ 38
thường làm bằng các loại gỗ, bé thường làm bằng các cây tre ghép lại. Nhìn chung,
nhà ở của người Việt, dù có các kiểu thiết kế khác nhau. song nguyên liệu chủ yếu
vẫn là các loại gỗ, hoặc sản phẩm từ cây cỏi.
Như vậy, yếu tố sông nước và thực vật không chỉ tác động đến sinh hoạt văn hóa
vật chất mà còn ảnh hưởng đến sinh hoạt văn hóa tinh thần của cư dân đất Việt.
Yếu tố sông nước, thực vật đã trở thành một phần thiêng liêng của tổ quốc Việt Nam, con người Việt Nam.
=> yếu tố thực vật và sông nước đã ảnh hưởng và in dấu đậm trong văn hoá VN 2
Tại sao có thể cho rằng có một cuộc cách mạng đá mới trong văn hoá Hoà Bình – Bắc Sơn?
Khái quát nền văn hóa Hòa Bình Bắc Son: Là văn hóa thuộc thời đại Đá mới, có
niên đại 8000 đến 12000 năm cách ngày nay, phân bố rải rác ở các hang động
núi đá vôi vùng Tây Bắc, Đông Bắc vào tới tận Quảng Bình, miền Trung Việt Nam
Gọi là cuộc cách mạng đá mới trong văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn vì: bước vào
thời kì văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn đã có sự phát triển vượt bậc về công cụ lao
động, sản xuất, đời sống văn hóa, tinh thần so với thời kì trước. Biểu hiện: Về sản xuất:
Chuyển từ nền kinh tế săn bắt, hái lượm, phụ thuộc tự nhiên sang nền kinh tế
sản xuất tạo ra những sản phẩm mới từ lao động
Các công cụ bằng đá đã được áp dụng kĩ thuật mài cả 2 bên rìa lưỡi công cụ
cho đối xứng, một số công cụ còn đề lại dấu vết cưa, khoan, cắt rất chính xác
Đã biết chế tạo đồ gốm để sử dụng hàng ngày dù chất lượng còn thấp, đã biết
thuần hóa một số loài cây để lấy củ, quả, hạt và thuần dưỡng một số loài động vật như chó, meo, gà , lợn
Đã xuất hiện những liên minh bộ lạc, liên minh thị tộc
Trí tuệ của người Hòa Bình - Bắc Sơn cũng phát triển mạnh: biết được quy luật
nắng mưa theo mùa của tự nhiên, có tư duy ban đầu về mặt trời, vũ trụ và thời gian
Đã xuất hiện những dấu hiệu ban đầu của chữ viết
Về đời sống văn hóa, tinh thần
Phát hiện được nhiều ngôi mộ có chôn theo dụng cụ, công cụ bằng đá
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã bước đầu được hình thành sơ khai và là cơ sở
đề phát triển hơn ở giai đoạn sau
Những thay đổi này mang tính chất của một cuộc cách mạng 3
Ý kiến của anh (chị) về việc gộp tết Nguyên đán (theo âm lịch) vào tết Dương lịch?
Cách đây hơn 10 năm, Giáo sư Võ Tòng Xuân đã khơi mào những tranh luận xoay
quanh việc gộp Tết ta với Tết tây, tức ăn Tết theo Dương lịch. Và cho đến bây giờ,
khi nhắc lại vấn đề này, vẫn luôn có 2 luồng ý kiến: nên và không nên gộp tết âm
với tết dương. Tuy nhiên, khi đưa ra ý kiến này, giáo sư cũng có những quan điểm
riêng của mình: thứ nhất,
Theo quan điểm cá nhân, tôi nghĩ không nên gộp tết âm với tết dương bởi một vài lý do:
Thứ nhất, bởi nó là một sinh hoạt văn hóa tinh thần đã ăn sâu vào tiềm thức 39
dân tộc. Giá trị của nó nằm ở khía cạnh tinh thần, chứ không phải mâm cao cỗ
đầy. Tết ta là truyền thống lâu nay của người Việt, việc giữ gìn truyền thống là
điều rất tốt. Đây cũng là dịp con cháu sum vầy bên gia đình sau một năm làm
việc vất vả, còn Tết tây du nhập từ nước ngoài, nó không có ý nghĩa gì đối
với người Việt. Tại sao phải đồng hóa giống người khác, mà không giữ riêng cho mình sự khác biệt?
Thứ hai, Tết ta giúp thu hút du lịch, dịch vụ và kích cầu kinh tế. Nếu chỉ
ăn Tết tây thì chẳng có gì đặc biệt để những người nước ngoài đến tham quan
Việt Nam. Tại cùng một thời điểm, người nước ngoài phải lựa chọn một là ở
lại nước của họ để hưởng Tết, hoặc là đến Việt Nam du lịch. Thường thì họ sẽ
ở lại quê hương mình để hưởng Tết vì nơi đó có gia đình.
Nhưng nếu giữ Tết ta, họ sẽ có thể chọn ở lại ăn Tết tây tại quê nhà và du lịch
sang Việt Nam trong dịp Tết ta. Như vậy du khách sẽ tăng và khối các dịch vụ
du lịch, nhà hàng, khách sạn, vận tải... sẽ kiếm được khá nhiều thu nhập.
Thứ ba, Tết không làm kinh tế chậm phát triển. Một số người dẫn chứng Nhật
Bản gộp Tết ta vào Tết tây làm kinh tế họ tăng trưởng mạnh. Đây là một sai lầm
lớn. Hiện nay trên thế giới còn rất nhiều nước như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn
Quốc, Singapore, Thái Lan... vẫn ăn Tết Âm lịch, nhưng họ vẫn giàu mạnh,
thậm chí Trung Quốc còn vượt qua cả Nhật Bản.
Xét về mức độ nghỉ lễ thì Việt Nam không bằng một góc nào của Thái Lan. Họ
nghỉ lễ rất nhiều nhưng vẫn giàu và có ảnh hưởng lớn đến giao thương. Nhật
Bản giàu mạnh không phải là vì lý do đó mà họ có tác phong công nghiệp tốt,
chăm chỉ và năng suất lao động cực kỳ lớn.
Thứ tư, Tết ta gây ra các vấn đề về trật tự an toàn xã hội như rượu che, tai nạn
giao thông. Đây không phải là lỗi của Tết, mà là lỗi của văn hóa ăn Tết người
Việt. Nên việc gộp vào không giải quyết được vấn đề.
Tóm lại, tôi hoàn toàn ủng hộ việc giữ tết ta như là giữ nét đặc sắc của dân
tộc. Chúng ta hội nhập quốc tế về văn hóa nhằm làm giàu và bổ sung nền văn
hóa nước nhà chứ không phải “hoà tan”, xóa bỏ những nét đẹp văn hóa truyền
thống. Hãy trân trọng và gìn giữ những giá trị tốt đẹp của lễ Tết truyền thống,
vì một khi để mất đi sẽ chẳng thể lấy lại 4
Yêu nước là giá trị cao nhất trong giá trị truyền thống của dân tộc. Anh (chị)
hãy đề xuất một số giải pháp phát huy lòng yêu nước của thế hệ trẻ hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của
nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các
thanh niên”(5). Tuổi trẻ là niềm hy vọng, là tương lai của Tổ quốc, là lực lượng xung
kích, hăng hái nhất, mạnh mẽ nhất của đất nước. Họ chính là đối tượng chủ yếu của
giáo dục ý thức dân tộc. Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trách nhiệm với đất nước...
là cơ sở quan trọng, to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
giáo dục ý thức dân tộc trong giai đoạn hiện nay phải hướng đến đội ngũ
thanh, thiếu niên; giáo dục một cách bài bản, có hệ thống. Giáo dục ý thức dân tộc 40
cần lồng ghép trong toàn bộ chương trình học tập và hoạt động ngoại khóa của học
sinh, sinh viên, cũng như các hoạt động xã hội khác của thanh, thiếu niên nói
chung. Giáo dục ý thức dân tộc không chỉ dừng lại ở sách vở, mà phải thật sự đi
vào chiều sâu, tạo nên những chuyển biến tích cực trong nhận thức, tình cảm và
hành vi của thanh, thiếu niên. Điều đó có nghĩa, tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu
nước phải luôn hiện hữu trong tâm trí và trái tim thế hệ trẻ Việt Nam, sẵn sàng
chuyển hóa thành những hành động cụ thể và thiết thực.
Hai là, xây dựng chính sách khơi dậy niềm tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng,
phát triển đất nước phồn vinh. Tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất
để khơi dậy tài năng, trí tuệ, phẩm chất, giá trị, sức mạnh con người Việt Nam; có
cơ chế đào tạo, trọng dụng nhân tài; khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám
làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Ba là, phát huy cao hơn nữa vai trò của Mặt trận tổ quốc, tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc nhất là trong cuộc chiến với đại dịch COVID-19 hiện nay.
Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết 36, Chỉ thị 45 về công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngoài, khuyến khích, tạo điều kiện để đồng bào ta ở nước ngoài đóng
góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, tăng cường xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân
và thế trận an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc bằng các giải pháp: quan tâm, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của người dân để nhân dân được ấm no, hạnh phúc, yên tâm, tin tưởng vào con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận
thức của toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; chú
trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp theo
hướng gần dân, chăm lo cho nhân dân; tích cực đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước… 5
Đánh giá của anh (chị) về văn hoá trang phục của giới trẻ hiện nay.
Có thể thấy một điều rõ ràng rằng, ngày nay khi chúng ta bước vào thời đại công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, văn hóa trang phục của người Việt đã thay đổi
thành văn hóa trang phục hiện đại kể từ khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Điều
này có thể được nhìn thấy rõ ràng nhất qua cách ăn mặc của thế hệ trẻ hiện nay.
Nếu như ngày xưa, người Việt hầu hết mặc áo dài, áo tứ thân thì hiện nay, giới trẻ ăn
mặc ngày càng nhiều phong cách phong phú khác nhau như: áo sơ mi, áo phông với
đủ sắc màu, kiểu dáng, quần cũng đủ kiểu, đủ mốt thời trang, vừa rất mềm mại vừa
khỏe khoắn, năng động, hay blazer, comple, cavat, quần âu, jean, gile, áo khoác nhiều
màu và kiểu dáng khác nhau. Ngoài ra còn có những bộ váy ôm body khoe những
đường cong mềm mại, những chân váy ngắn, quần ngắn và những chiếc áo croptop
đã trở thành những món đồ không thể thiếu trong tủ đồ của các bạn trẻ hiện nay, đặc
biệt là nữ giới. Không chỉ vậy, những phong cách phá cách, cá tính hơn cũng rất được
ưa chuộng, các hình thức làm đẹp như nhuộm tóc, xỏ khuyên, xăm trổ đã trở nên vô cùng phổ biến.
Tuy điều này mang đến nhiều sự thay đổi tích cực, giúp giới trẻ tự tin thể hiện cá
tính, bản lĩnh của bản thân nhưng đồng thời cũng có một số mặt trái nhất định. Hiện 41
tượng nhiều “học sinh” không ăn mặc phù hợp với lứa tuổi hay kể cả một số trường
hợp người trẻ ăn mặc không phù hợp với môi trường, hoàn cảnh gây phản cảm nơi công cộng.
Kết lại. có thể ăn mặc theo phong cách của mình, thoải mái và không gây cảm giác
khó chịu miễn là không hở hang quá mức hay ảnh hưởng tới nét đẹp văn hoá dân tộc
ngàn đời nay. Trang phục của con người nên phù hợp với văn hóa của quê hương, đất
nước, thuần phong mĩ tục, tránh kệch cỡm, lố lăng. Thông qua trang phục, ta cũng có
thể nhận diện được đó là văn hoá đại diện cho quốc gia hay dân tộc nào đó. Với mỗi
người, cần phải hiểu trang phục và văn hoá đi liền với nhau và có sự gắn bó nhất
định. Khi giao tiếp với người khác, vẻ bề ngoài rất quan trọng bởi điều thu hút ánh
nhìn của ta trước hết chính là trang phục của người đối diện. Thông qua cách ăn mặc,
ta có thể đánh giá được phần nào tính cách của người đó. Bởi vậy, cần biết cách lựa
chọn trang phục phù hợp không chỉ theo sở thích mà còn phải gắn với chuẩn mực,
nếp sống văn hóa xã hội. 6
Văn hóa ẩm thực thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Anh (chị) đề
xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa ẩm thực góp phần phát
triển ngành văn hóa du lịch nước ta hiện nay.
Ẩm thực chính là lăng kính hội tụ quan niệm, sở thích, trình độ văn hóa của cộng
đồng người. Gắn với lịch sử dân tộc, mỗi món ăn đều mang nét đặc trưng thị hiếu đến
cơ cấu cái ăn, cách ăn..để tựu trung làm nên tổng thể văn hóa ẩm thực Việt Nam
thống nhất trong đa dạng phong phú. Đối với người Việt, ẩm thực không chỉ để sử
dụng trong các bữa ăn mà nó còn truyền tải được truyền thống và giá trị văn hóa.
Con người thưởng thức cái ăn là để khám phá văn hóa, vì vậy phát triển văn hóa ẩm
thực trong bối cảnh hiện nay luôn cần sự chăm lo và hỗ trợ từ các đơn vị, cộng đồng
và cá nhân. Đặc biệt là có sự vào cuộc của nhiều cơ quan bộ ngành từ trung ương đến
địa phương, có sự phối hợp linh hoạt giữa các tổ chức đoàn thể xã hội để Việt Nam
thực sự là điểm đến hấp dẫn , và du lịch Việt Nam sẽ góp phần nâng cao vị thế của
Việt Nam trên diễn đàn văn hóa thế giới thông qua kênh giao tiếp hữu hiệu là ẩm
thực với những sắc thái đặc trưng. Sau đây là một số đề xuất về giải pháp xây dựng
phát triển văn hóa ẩm thực góp phần phát triển ngành văn hóa du lịch nước ta hiện nay:
Một là, xây dựng các sản phẩm thuộc du lịch ẩm thực gắn với các điểm đến: Có thể
tạo ra các tour du lịch ẩm thực kết hợp các chương trình du lịch nông nghiệp, nông
thôn với khám phá đặc sản ẩm thực của địa phương, xây dựng các khu ẩm thực
đường phố tại các điểm đến du lịch. Mỗi vùng miền địa phương trong cả nước cũng
cần lựa chọn các món ăn tiêu biểu, các đặc sản ẩm thực của địa phương để phát triển,
xây dựng và quảng bá gắn với phát triển du lịch tại địa phương đó.
Hai là, phối hợp với các nghệ nhân ẩm thực, các hiệp hội nghề nghiệp liên quan
đến ẩm thực để nghiên cứu và lựa chọn ra một hoặc một vài món ăn, đồ uống tiêu
biểu của Việt Nam để quảng bá, đưa món ăn ấy trở thành một biểu tượng của ẩm thực
Việt Nam như sushi của Nhật Bản hay Kim Chi của Hàn Quốc. Hiện nay, nhiều món
ăn của Việt Nam cũng đã được nhiều du khách và bạn be quốc tế biết đến như phở,
nem cuốn, bún chả, bánh mì, nghệ thuật nấu ăn và cách ăn uống của người Việt Nam
cũng nhờ vậy mà ngày càng được biết đến nhiều hơn trên thế giới. Bên cạnh đó, các 42
chuyên gia du lịch cần phối hợp với chuyên gia ẩm thực để nghiên cứu văn hóa ẩm
thực Việt Nam với tư cách là một tài nguyên du lịch. Trên cơ sở đó tiến hành xây
dựng các chương trình du lịch chuyên đề về văn hóa ẩm thực của từng vùng hoặc khu
du lịch trọng điểm, đưa những món ăn đặc sắc của địa phương quảng bá gắn với phát
triển du lịch tại địa phương đó.
Ba là, tận dụng các trang mạng xã hội phổ biến như Facebook, Instagram,
Youtube, Tiktok… Đây là các kênh truyền thông có mức độ lan tỏa cao, mang lại
hiệu quả quảng bá tích cực trong thời gian ngắn. Các chiến dịch quảng bá du lịch ẩm
thực Việt Nam cần được xây dựng với các nội dung và mục tiêu cụ thể, có sự phối
hợp với các những người nổi tiếng, người có ảnh hưởng đối với việc quảng bá du lịch
và ẩm thực như các nghệ nhân ẩm thực, các đầu bếp thế giới, các nghệ sĩ, hoặc đại sứ
du lịch tại các thị trường trọng điểm của du lịch Việt Nam.
Bốn là, thông qua các cơ quan báo chí, truyền thông trong nước và ngoài nước để
đưa tin, quảng bá du lịch ẩm thực Việt Nam dựa trên cơ sở định vị được các sản
phẩm ẩm thực đặc trưng, tiêu biểu của văn hóa ẩm thực Việt và từng vùng miền. Có
thể triển khai bằng các hình ảnh, video clip chất lượng cao để giới thiệu về các món
ăn, phát triển và phát sóng các chương trình trải nghiệm thực tế về ẩm thực để phát
trên truyền hình, các sản phẩm phục vụ cho hoạt động quảng bá khác như sách ảnh,
tập gấp cả bản in và bản điện tử về văn hóa ẩm thực Việt Nam nhằm thu hút khách du
lịch đến với đất nước ta và trải nghiệm nền ẩm thực phong phú đậm đà bản sắc dân
tộc. Bên cạnh đó, đẩy mạnh quảng bá văn hóa ẩm thực và du lịch ẩm thực Việt Nam
trên các kênh truyền hình trong nước và quốc tế.
Năm là, tăng cường quảng bá ẩm thực Việt Nam ra thế giới thông qua việc tổ
chức các sự kiện lễ hội văn hóa tại nước người như sự kiện Những ngày Việt Nam tại
Nhật Bản, Hàn Quốc. Bên cạnh đó cũng cần phải tăng cường quảng bá ẩm thực Việt
Nam với người dân trong nước, người nước ngoài ở Việt Nam thông qua việc thường
xuyên tổ chức các Lễ hội ẩm thực trong nước tại các vùng, miền gắn với các sự kiện
xúc tiến và quảng bá du lịch hoặc lễ hội ẩm thực Việt Nam ở nước ngoài. Đây cũng là
cơ hội để các địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung có thể giới thiệu, quảng bá
các món ăn, đặc sản ẩm thực vùng miền đến với khách du lịch. Hơn thế, có thể quảng
bá du lịch ẩm thực Việt Nam thông qua các hội chợ, sự kiện chuyên ngành về du lịch
cả trong nước và quốc tế để khách du lịch có điều kiện trực tiếp nếm thử và trải
nghiệm các món ăn tại sự kiện, từ đó, khiến hoạt động du lịch ẩm thực trở nên hấp dẫn hơn.
Như vậy, tổng kết lại, ta có thể thấy được rằng nền ẩm thực Việt Nam đóng góp
một vai trò rất lớn trong việc phát triển nền du lịch nước nhà. Văn hóa ẩm thực là một
trong những đặc trưng sinh động và phong phú nhất, kết tinh thành bản sắc văn hóa
Việt Nam. Dù không mang những yếu tố hào nhoáng, sang trọng hoặc quá độc đáo kì
thú, nhưng ẩm thực Việt Nam vẫn luôn đem lại cho du khách những cảm giác hài
hòa, giản dị và gần gũi. Qua thưởng thức tìm hiểu nền văn hóa ẩm thực Việt, mỗi du
khách sẽ có cái nhìn cụ thể, rõ nét hơn những đặc trưng văn hóa riêng của mỗi vùng
miền trên khắp cả nước. Khai thác giá trị văn hóa ẩm thực là một phần không thể
thiếu trong hoạt động kinh doanh du lịch của mỗi quốc gia. Qua đó có thể thấy giá trị,
vai trò quan trọng của ẩm thực trong sự phát triển du lịch tại Việt Nam. 7
Đề xuất một số giải pháp giữ gìn và phát huy giá trị lễ hội truyền thống Việt 43 Nam. 1. Đặc điểm
- Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tất yếu nảy sinh trong xã hội loài người
trên cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người khi sống thành cộng
đồng. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm
biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ
chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân học chưa có khả năng thực
hiện. Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu
cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá
nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy
nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước
chung vào bốn chữ “nhân khang, vật thịnh”. Lễ hội là hoạt động của một tập thể
người, liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo.
2. Thực trạng lễ hội truyền thống Việt Nam
- Những năm qua khi đất nước chuyển mình mạnh mẽ trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận
nhân dân được nâng cao, do đó tham gia lễ hội đã trở thành một nhu cầu chính đáng, có ý nghĩa lớn.
- Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện cả nước có 7.966 lễ hội
(trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử cách mạng, 544 lễ hội tôn giáo,
10 lễ hội du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam và 40 lễ hội khác).
- Nhu cầu tổ chức lễ hội đã lan tỏa ở hầu hết các địa phương trong cả nước, đặc biệt
là loại hình lễ hội văn hóa du lịch. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội có nhiều chuyển
biến theo hướng tích cực: vừa giữ gìn, phát triển những nét đẹp văn hóa truyền thống,
vừa kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố hiện đại, phát huy được tác dụng tích cực
của lễ hội, nêu cao ý nghĩa giáo dục truyền thống.
- Lễ hội đáp ứng một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa của các vùng, miền, dân tộc, tri ân công đức các anh hùng dân tộc,
danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã có công dựng nước và giữ nước, đấu tranh
giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa.
- Tuy nhiên, với nhiều loại hình và phương thức tổ chức đa dạng lễ hội đã và đang
đặt ra không ít những khó khăn, bất cập trong công tác quản lý. Nếu chỉ tính con số
50% số lễ hội được tổ chức, ước tính cứ mỗi ngày trên đất nước ta có 10 lễ hội diễn
ra, đó là chưa kể đến số lượng loại hình lễ hội mới phát sinh - Vấn đề này chi phối
không ít sức người, sức của, tiền bạc và thời gian của nhân dân, ảnh hưởng tới quá
trình lao động sản xuất, học tập và công tác của các tầng lớp nhân dân.
- Không ít những hiện tượng thiếu lành mạnh xuất hiện tại một số lễ hội đã làm
phiền lòng du khách như dịch vụ khấn thuê, xóc thẻ, bán ấn, cheo kéo khách tham gia
trò chơi cá cược, nâng giá dịch vụ tùy tiện... và điều đáng lo ngại nhất là sự phai mờ,
xói mòn những giá trị, bản sắc của các lễ hội truyền thống.
- Ơ đây thách thức cơ bản không chỉ là những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị
trường mà còn ở sự chuyển đổi các giá trị. Trong khi trước đây các giá trị tinh thần và
yêu cầu thực hiện nếp sống văn minh văn hóa trong lễ hội được coi trọng thì hiện nay
đã xuất hiện tư tưởng trục lợi, thương mại hóa hoạt động dịch vụ phục vụ lễ hội, làm
cho các giá trị vật chất lấn át giá trị văn hóa truyền thống và đạo đức. 44 3. Giải pháp
- Việc phát triển loại hình lễ hội du lịch là một xu thế tất yếu, nhưng do chúng ta
chưa dự báo kịp thời, chưa có sự quan tâm đúng mức, đầu tư đồng bộ và thiếu tính
toán khoa học dẫn đến phá vỡ cảnh quan thiên nhiên và các giá trị vốn có của các di tích.
- Trong công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay, kế thừa truyền thống
tinh hoa văn hóa dân tộc là yêu cầu tất yếu, song việc kế thừa các giá trị văn hóa
truyền thống phải có chọn lọc, có phê phán và có sự sáng tạo riêng. Do đó, bảo tồn,
kế thừa và phát huy giá trị của lễ hội là một vấn đề đặt ra mang tính cấp bách và có
nhiều ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng.
- Ðể công tác tổ chức lễ hội ngày càng đạt được hiệu quả cao cần chú trọng công tác
tuyên truyền các giá trị lịch sử văn hóa và tôn vinh công trạng của danh nhân được
thờ để nhân dân hiểu rõ giá trị của di tích cũng như những quy định của pháp luật có
liên quan, kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch lạc, đẩy mạnh tuyên truyền và thực
hiện nếp sống văn hóa trong lễ hội, làm cho lễ hội ngày càng văn minh, thật sự trở
thành ngày hội văn hóa của nhân dân, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế -
văn hóa của địa phương.
- Trước khi mở hội, phải có sự tính toán cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ
thể. Mỗi lễ hội mới cần xây dựng một kịch bản phù hợp gắn với chủ đề riêng của lễ hội.
- Chính quyền địa phương các cấp cần quản lý chặt chẽ việc quy hoạch sắp xếp các
hàng quán, dịch vụ vui chơi giải trí hợp lý, tạo điều kiện để nhân dân địa phương có
thêm thu nhập nhưng vẫn bảo đảm tính văn hóa trong các hoạt động dịch vụ, không
tạo kẽ hở nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, làm mất đi bản sắc văn hóa và ý nghĩa, tốt đẹp của lễ hội.
- Khai thác nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, đóng góp cho việc giữ gìn di sản văn
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể liên quan đến lễ hội; khuyến khích sự sáng tạo của
nhân dân trong các hoạt động văn hóa lễ hội.
- Khuyến khích các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, nhất là
kiều bào ta ở nước ngoài đầu tư tôn tạo các di tích và tham gia hoạt động tổ chức lễ
hội để hướng đồng bào về với nguồn cội, tổ tiên. Sử dụng nguồn thu từ lễ hội đúng
mục đích, phục vụ tốt công tác bảo tồn di tích và hoạt động lễ hội.
- Cần chú ý bảo tồn có chọn lọc các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc trong lễ hội,
loại bỏ dần các yếu tố lạc hậu, xây dựng thêm các tiêu chí văn hóa mới phù hợp. Tiến
hành rà soát phân loại lễ hội, tăng cường công tác quản lý, nghiên cứu để việc tổ chức
lễ hội, ngày càng khoa học, có ý nghĩa. Phục hồi những trò chơi dân gian truyền
thống, coi trọng tính đặc thù, độc đáo của mỗi loại hình lễ hội, tránh cào bằng đồng
loạt dẫn đến sự nhàm chán trong hoạt động và sinh hoạt lễ hội. Khôi phục, giữ lại nét
riêng của mỗi lễ hội, gắn với truyền thống của mỗi vùng, miền. 9
Đề xuất một số giải pháp nâng cao ý thức văn hóa cho người tham gia giao thông hiện nay.
Trên thực tế, nhiều vụ tai nạn thương tâm bắt nguồn từ lỗi chủ quan của người tham gia giao
thông. Do vậy, xây dựng văn hóa giao thông hay nâng cao ý thức tham gia giao thông của
mỗi người chính là bắt đầu từ những hành động nhỏ nhất, như đội mũ bảo hiểm khi đi xe
mô-tô, xe gắn máy, xe đạp điện; đi đúng phần đường, làn đường quy định; không đi xe trên
vỉa he; đi bộ dưới lòng đường; chấp hành nghiêm hiệu lệnh của đen tín hiệu giao thông; ứng 45
xử có văn hóa khi xảy ra va chạm giao thông…
Với tinh thần "mình vì mọi người, mọi người vì mình", hơn lúc nào hết mỗi người dân cần
tự giác chấp hành nghiêm chỉnh Luật Giao thông để đem lại hạnh phúc cho chính mình cũng
như cho cộng đồng. Tuy bắt đầu từ những điều đơn giản, thiết thực với mỗi người, nhưng
làm sao để mọi người đều có ý thức thượng tôn pháp luật khi tham gia giao thông lại không
đơn giản. Bởi lẽ, chỉ khi nào tất cả mọi người nâng cao ý thức và trách nhiệm, tự giác chấp
hành các quy định và luật lệ giao thông thì tai nạn mới không xảy ra.
Nâng cao ý thức của mỗi người khi tham gia giao thông, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
(1) Trước khi tham gia giao thông phải kiểm tra mức độ an toàn của phương tiện.
(2) Phải đảm bảo đầy đủ giấy tờ theo quy định khi tham gia giao thông.
(3) Phải đội mũ bảo hiểm đảm bảo chất lượng. Nói không với mũ bảo hiểm kém chất lượng.
(4) Đi đúng làn đường, phần đường, vạch đường,… theo quy định, luôn luôn có thái độ chấp
hành đúng luật lệ an toàn giao thông.
(5) Bảo đảm đi đúng tốc độ. Nêu cao ý thức nhường đường, rẽ trái, rẽ phải… đúng quy
định. Ren luyện tính kiên nhẫn, chờ đợi khi gặp đen tín hiệu giao thông hay tắc đường. Phải
biết giúp đỡ người bị tai nạn giao thông.
(6) Bảo dưỡng định kỳ các phương tiện cẩn thận.
(7) Ren luyện nếp sống văn hoá trong giao thông và thực hiện tốt quy ước “Bốn không, ba
có” mà Ủy Ban An toàn Giao thông quốc gia đã kêu gọi toàn dân thực hiện khi tham gia
giao thông (Bốn không gồm: Không uống rượu bia, phóng nhanh vượt ẩu, vượt đen đỏ, vận
hành phương tiện không đủ giấy tờ quy định; không lấn chiếm vỉa he, lòng đường, hành
lang bảo vệ an toàn giao thông; không có thói hư tật xấu trong ứng xử với mọi người cùng
tham gia giao thông cũng như khi xảy ra tai nạn giao thông; không để xảy ra tai nạn khi
tham ra giao thông. Ba có gồm: có hiểu biết đầy đủ pháp luật về giao thông; có ý thức trách
nhiệm cao nhất với bản thân và cộng đồng; có hành vi ứng xử văn hoá, hợp tác giúp đỡ
người bị nạn khi xảy ra tai nạn giao thông).
Giáo dục ý thức tham gia giao thông bắt đầu từ mỗi gia đình. Ông bà, cha mẹ phải thực hiện
tốt nhiệm vụ giáo dục, nhắc nhở các thành viên trong gia đình có ý thức tham gia giao
thông, đặc biệt người lớn phải gương mẫu, phải có ý thức tham gia giao thông an toàn để
con em noi theo. Đây cũng là môi trường giáo dục đầu tiên đối với mỗi con người. Đồng
thời, tuyên truyền, giáo dục ý thức tham gia giao thông của người dân ở nơi cư trú, cơ quan,
trường học, nơi làm việc của người lao động, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, qua đó
họ được nghe, được biết, được hiểu và cùng nhau chia sẻ, rút kinh nghiệm, từ đó có sự cải
thiện trong tư duy, cải thiện về ý thức tham gia giao thông của mỗi người.
Thực hiện nghiêm các quy định, pháp luật của Nhà nước về an toàn giao thông. Việc xử lý
các hành vi vi phạm luật giao thông phải nghiêm minh, rõ ràng và công bằng với tất cả mọi
người, tránh hiện tượng “nhờn luật”, qua đó dần tạo nên ý thức tự giác trong chấp hành
pháp luật khi tham gia giao thông của mỗi người. Đồng thời, nâng cao ý thức trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông, những cơ quan, đơn vị, cá
nhân có trách nhiệm liên quan. 8
Đề xuất một số giải pháp giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa làng Việt truyền
thống trước tác động của quá trình đô thị hóa hiện nay.
Một là, cần nâng cao nhận thức cho các cấp ủy đảng, các cấp lãnh đạo, quản lý, cho
các tầng lớp nhân dân về sự cần thiết phải phát huy bản sắc, giá trị văn hóa trong xây
dựng nông thôn mới hiện nay. Thực tế hiện nay, sự hiểu biết về vai trò của phát huy
giá trị văn hóa nhiều khi dừng lại ở các khẩu hiệu. Cần đẩy mạnh công tác giáo dục,
tuyên truyền trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân về ý nghĩa của bản sắc văn hóa
và các giá trị văn hóa truyền thống. 46
Hai là, cần có sự kiểm kê, đánh giá đúng thực trạng hệ thống di sản văn hóa ở nông
thôn. Di sản văn hóa được coi là loại tài sản có thể khai thác nhiều lần, qua nhiều thế
hệ nhưng không thể tái sinh, không thể phục hồi. Nếu không quan tâm kịp thời đến
công tác bảo tồn, di sản văn hóa sẽ bị hủy hoại. Vì vậy, để biến di sản văn hóa thành
tài sản và nguồn lực trực tiếp cho phát triển nông thôn, chính quyền các cấp và ngành
văn hóa cần xây dựng các kế hoạch dài hạn và trước mắt để bảo tồn, tôn tạo hệ thống
di sản văn hóa nông thôn. Bảo tồn và phát huy tốt hệ thống di sản văn hóa sẽ hướng
tới mục tiêu kép: vừa làm gia tăng sức sống cho các giá trị văn hóa vừa góp phần xây
dựng và quảng bá hình ảnh của địa phương, tạo nên lợi thế trong phát triển.
Ba là, các địa phương tập trung đầu tư xây dựng những làng/ bản giàu bản sắc trở
thành những làng/ bản du lịch cộng đồng. Phát triển du lịch cộng đồng dựa trên các
tài nguyên sinh thái nhân văn sẽ góp phần xóa đói, giảm ngheo, chuyển đổi sinh kế
theo hướng bền vững cho cư dân sở tại đồng thời bảo vệ được bản sắc và các giá trị văn hóa truyền thống.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
ở các địa phương, huy động các nguồn lực trong xã hội tham gia xây dựng, phát triển
văn hóa. Đặc biệt, cần có cơ chế khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt động
phát huy bản sắc, giá trị văn hóa dân tộc.
Năm là, cần có sự kết nối, liên thông giữa các chiến lược, các chương trình phát triển
nông thôn. Chương trình phát triển văn hóa nông thôn phải được đặt trong mối quan
hệ với các chương trình phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và cùng phải được
đặt trong tổng thể Chiến lược phát triển nông thôn. Có như vậy mới đảm bảo được sự
nhất quán, mạch lạc trong phân bổ các nguồn lực cũng như tránh sự lãng phí, chồng
chéo trong triển khai thực hiện. thăn kiu =))
10 Ý kiến của anh (chị) về một số biến tướng của lễ hội ngày xuân hiện nay? - Khái niệm lễ hội:
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tất yếu nảy sinh trong xã hội
loài người trên cơ sở nhắm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người khi sống thành
cộng đồng. "Lễ" là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của
con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước
cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa,
tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống đi kem theo “Lễ”.
Những lễ hội của Việt Nam được phân chia theo vòng quay nông vụ, bốn
mùa xuân hạ thu đông, mùa nào cũng có lễ hội, mùa xuân là mùa nhiều lễ hội nhất
bởi đây là lúc nông nhàn. Các lễ hội chủ yếu là: hội làng Bát Tràng, hội làng Bạch
Hạc, lễ hội chùa Hương, hội đền An Dương Vương, hội Lim, hội Hát Xuân, hội đền Hai Bà Trưng,v.v.
Lễ hội hàm chứa trong mình những giá trị văn hóa cơ bản, không chỉ là
giá trị truyền thống mà còn đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội hiện nay. Lễ
hội là không gian để gắn kết cộng đồng trong một mạch nguồn văn hóa, mang đến 47
cho con người những giá trị nhận thức sâu sắc, hướng về cội nguồn văn hóa dân tộc,
bảo tồn những giá trị lịch sử, bảo vệ bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam.
- Những biến tướng của lễ hội mùa xuân:
Ngoài những lễ hội mang yếu tố gắn kết cộng đồng hướng đến những giá trị
văn hoá tinh thần đích thực thì có những lễ hội vẫn có những lệ cũ không còn phù
hợp và có những lễ hội bị biến tướng theo chiều hướng cực đoan, phản văn hóa. +> Nguyên nhân
Do sự phát triển mạnh mẽ của đô thị, các di tích càng ngày càng bị thu
hẹp lại, tính thiêng liêng của di tích cũng bị mai một. Từ đó dẫn đến không gian của
lễ hội bị thu nhỏ lại, làm cho một số hoạt động và ý nghĩa của lễ hội cũng bị giảm đi.
Dần dần, sự hiểu biết của người dân về lễ hội không còn được trọn vẹn và dễ dàng bị
những yếu tố bên ngoài tác động. Đặc biệt là trong thời đại hội nhập văn hóa mạnh mẽ như hiện nay.
Nền kinh tế thị trường cũng là một yếu tố tác động sâu sắc đến lễ hội.
Nhờ kinh tế thị trường mà không ít lễ hội, di tích, trò chơi, phong tục, nghi lễ… của
lễ hội truyền thống được khôi phục. Có như thế thì mới hấp dẫn du khách đến tham
quan, tăng doanh thu, đẩy chi phí phục vụ tăng thêm. Song, bên cạnh đó, những yếu
tố tiêu cực của việc thương mại hóa, khi đồng tiền được đẩy cao hơn nhu cầu thưởng
thức văn hóa cũng xuất hiện mạnh mẽ và phức tạp như những hủ tục cũ, những mê tín dị đoan… +> Biểu hiện
+ Tồn tại không ít lễ hội xuất phát từ làng bản của địa phương không còn
phù hợp với thời đại mới, con người mới. Có thể tính chất thì giữ được nhưng hình
thức biểu hiện thì không còn phù hợp với lối sống, tư duy văn minh của con người
hiện đại, gây nên tranh cãi như lễ hội chém lợn ở Bắc Ninh hay chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng).
+ Nhiều lễ hội với những phong tục như cướp lộc thánh, cướp ấn, cướp
chiếu, cướp giò hoa tre, cướp trầu cau gây nên mất trật tự, ẩu đả giữa thanh niên làng
này với thanh niên làng kia.
+ Văn hóa lễ hội xuống cấp, bản chất lễ hội bị pha tạp, lễ hội bị biến
thành nơi buôn bán vì mục đích kiếm lời. Nhiều hiện tượng khi muốn đến dự hội làng
thì phải bỏ tiền ra để mua vé vào cổng, bỏ tiền ra gửi xe, xong bỏ tiền ra mua lễ vật
đến để lễ. lễ hội địa phương thành nơi cát cứ của quan chức địa phương và lấy tiền, buôn bán.
=> Những biến tướng của lễ hội văn hóa mùa xuân đã gây nên những ảnh
hưởng tiêu cực, khiến hình ảnh về lễ hội đầu mùa xuân đang bị nhìn nhận một cách
sai lệch, làm mai một các giá trị văn hóa truyền thống. mất đi sự tôn nghiêm, ý nghĩa có của lễ hội.
+> Biện pháp khắc phục
+ Nâng cao vai trò tổ chức và quản lí của các cấp chính quyền, cần có sự
phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ giữa những người làm công tác tổ chức, các nhà
nghiên cứu khoa học và nghệ thuật. Việc phân biệt cho rành rẽ đâu là tín ngưỡng, đâu
là mê tín, mức độ khôi phục các nghi thức cũ đến đâu, thời gian, không gian, tế lễ,
vấn đề công đức... đều phải được chú ý.
+ Nâng cao trình độ văn hóa, nhận thức của người dân trong tham gia và 48
tổ chức các lễ hội đầu xuân.
+ Các nhà quản lý văn hóa- di sản cần tinh lọc bớt những lễ hội, chỉ để lại
cái nào thực sự vừa mang tính văn hóa dân gian truyền thống kế thừa, vừa có thể phù
hợp với cuộc sống hiện tại, tránh lãng phí tiền bạc, sức người, sức của và cả những hệ
lụy không tốt do lễ hội mang lại trong mắt bạn be quốc tế. 49