Tổng hợp câu hỏi và đáp án ôn thi môn Triết học | Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Tổng hợp câu hỏi và đáp án ôn thi môn Triết học | Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 75 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mac-Lenin (HN2)
Trường: Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1
TOÀN TẬP CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN ÔN THI MÔN TRIẾT HỌC CAO HỌC 2
CHƯƠNG I . LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG...............................................5
Câu 1. Triết học là gì? Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử về triết
học? Vì sao có sự khác nhau đó? Triết học có những chức năng gì?................................................5
Câu 2. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề gì? Tại sao lại có vấn đề đó? Ý nghĩa của việc phân
tích vấn đề cơ bản của triết học.........................................................................................................7
Câu 3. Có những trường phái triết học cơ bản nào? Khái quát các hình thức phát triển của trường
phái duy vật trong lịch sử. V.I Lê nin đã chỉ ra những nguồn gốc nào của chủ nghĩa duy tâm ?.....9
Câu 4. Phép biện chứng là gì? Khái quát các hình thức lịch sử phát triển của phép biện chứng?
Phép siêu hình là gì? Giá trị của phép siêu hình là ở chỗ nào?.......................................................16
Câu 5. Thực chất của triết học là gì? Hãy nêu các tính quy luật cơ bản của lịch sử triết học.........16
Câu 6. Triết học Trung Hoa và triết học Ấn Độ có những đặc điểm nào? Giải thik tại sao lại có
những đặc điểm đó? Hãy so sánh những nét tương đồng và dị biệt của hai nền triết học này.......16
Câu 7.Hãy diễn giải những nội dung của triết học Nho Giáo. So sánh sự khác nhau giữa Nho giáo
Cổ đại và Nho giáo thời phong kiến. Tại sao có sự khác nhau đó? Nho giáo có những giá trị và
hạn chế nào?....................................................................................................................................16
Câu 8.Hãy diến giải những nội dung chính của triết học Phật giáo? Nhận định các giá trị và hạn
chế của những tư tưởng triết học Phật Giáo....................................................................................17
Câu 9.Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái - Đạo gia và Âm Dương- Ngũ Hành
gia.Nhận định các giá trị và hạn chế của những tư tưởng ấy..........................................................17
Câu 10. Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái Samkhuya, Mimansa, Lokayta và
nhận định các giá trị,hạn chế của các trường phái đó......................................................................24
CHƯƠNG II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MAC.......................26
Câu 11. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa triết học phương Đông cổ đại (mà Ấn Độ và Trung
Quốc là đại biểu) và triết học phương Tây cổ đại( mà hy Lạp là đại biểu).....................................26
Câu 12. Trình bày những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại. Trong đó đặc điểm nào
được coi là quan trọng nhất.? vì sao? Phân tích những nội dung chính của sự đối lập giữa đường
lối Đêmôcrit và “đường lối Platon”.................................................................................................27
Câu 13. Nêu lên những nội dung cơ bản của Triết học Tây âu thời Trung cổ. Vì sao Triết học Tây
Âu thời trung cổ, nhìn chung là một bước lùi so với Triết học Cổ đại?..........................................30
Câu 14. Trình bày những đóng góp của triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng đối với sự phát triển
của triết học nhân loại.....................................................................................................................30
Câu 15. Vì sao triết học Cận đại có tính máy móc siêu hình,thụ động-trực quan và duy vật ko triệt
để. Phân tích những nội dung chính của triết học ph.Becon và R.Đềcáctơ....................................31
Câu 16 . Phân tích và đánh giá những giá trị và hạn chế của triết học cổ điển Đức.Nêu rõ những
đóng góp của triết học cổ điển Đức đối với sự phát triển của triết học nhân loại...........................31
Câu 17. Khái quát những tư tương triết học của Heeghen. Thành tựu vĩ đại nhất của triết học
Heeghen là gì? Khái quát những tư tưởng triết học của Phoiobắc. thành tựu vĩ đại nhất của triết
học Phoiơắc là j?.............................................................................................................................32
CHƯƠNG III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MAC LÊ NIN........................32
Câu 18. Chứng mính sự ra đời của triết học Mac là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết
học...................................................................................................................................................32
Câu 19. V.I LÊnin đã bảo vệ và phát triển triết học Mác như thế nào............................................32
Câu 20. Ngày nay có cần phải tiếp tục bổ sung và phát triển triết học Mác nữa ko? Vì sao..........34
CHƯƠNG IV. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆC NAM...................................................35
Câu 21. Phân tích những biểu hiện của lập trường duy vật và duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam.................................................................................................................................................35 3
Câu 22. Phân tích vị trí của tư tưởng yêu nước Việt Nam trong quá trình phát triển của lịch sử tư
tưởng Việt Nam và cơ sở hiện thực xã hội của nó..........................................................................36
Câu 23. Phân tích vị trí của đạo làm người trong quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với quan niệm về đạo đức làm người trong lịch sử
tư tưởng Việt Nam...........................................................................................................................36
CHƯƠNG V. THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN
CỨU, QUẢN LÝ KINH TẾ................................................................................................................36
Câu 24. Thế nào là thế giới quan triết học? Phân tích chức năng thế giới quan của triết học........36
Câu 25. Trình bày những đặc trưng của thế giới quan duy vật biện chứng. Vì sao thế giới quan
duy vật biện chứng là đỉnh cao trong lịch sử phát triển thế giới quan duy vật trong triết học........36
Câu 26. Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Liên hệ bài học “ xuất phát từ
thực tế khách quan” với thực tiễn quản lý của cơ quan anh/chị......................................................36
Câu 27. Phân tích tính năng động, sáng tạo của ý thức. Vận dụng phân tích lĩnh vực chuyên môn
của anh/chị.......................................................................................................................................38
Câu 28. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Liên hệ với những
vấn đề thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay...................................................................................38
CHƯƠNG VI. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN
LÝ KINH TẾ.......................................................................................................................................38
Câu 29. Phép biện chứng duy vật là gì? Nó có những nội dung nào? Tại sao nói: Phép biện chứng
duy vật là hình thái phát triển hoàn bị của lịch sử phép biện chứng?.............................................38
Câu 30. phép biện chứng duy vật có vị trí như thế nào trong triết học Mác- Lê Nin và trong
nghiên cứu khoa học cũng như trong nhận thức giải quyết các vấn đề thực tiễn kinh tế- xã hội.
Cho một vài ví dụ thực tế................................................................................................................41
Câu 31. Phân tích những nôi dung cơ bản của quy luật và xây dựng những ý nghĩa phương pháp
luận cơ bản từ nội dung đó. Phân biệt quan điểm biện chứng và quan niệm siêu hình về mâu
thuẫn. Vì sao nói: Phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập.? hãy nêu một số loại mâu
thuẫn của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, và phương hướng, biện
pháp lớn trong giải quyết các mâu thuẫn đó (đã được nói trong các văn kiện của Đản)................41
Câu 32. Phân tích những nội dung cơ bản của quy luật lượng- chất và các nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản của quy luật này. Có phải mọi sự thay đổi về lượng đều dẫn đến sự thay đổi về
chất hay không? Vì sao?..................................................................................................................42
Câu 33. Phân tích nội dung cơ bản của phủ định biện chứng và xây dựng các nguyên tắc phương
pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Liên hệ với những vấn đề của thực tiễn đổi mới ở Việt Nam
.........................................................................................................................................................44
Câu 34. Phân tích khái quát nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của 6 cặp phạm trù cơ bản của
phép biện chứng duy vật. Liên hệ với thực tiễn quản lý của cơ quan anh/ chị...............................46
CHƯƠNG VII. THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG TRONG
KINH TẾ.............................................................................................................................................51
Câu 35. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa thực tiễn và nhận thức. Vì sao hoạt động sản xuất vật
chất là dạng hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng nhất...........................................................51
Câu 36. Trình bày sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.Liên hệ
với hoạt động chuyên môn của anh/ chị..........................................................................................51
Câu 37. Phân biệt tri thức kinh nghiêm và tri thức lý luận. Vì sao kinh nghiệm phải được bổ sung
bằng lý luận.....................................................................................................................................53
Câu 38. Vì sao thống nhất giữa lý luận thực tiễn và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mac Lê Nin? Phê phán bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều...............................................53
CHƯƠNG VIII LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA...........................................................................53 4
Câu 39. Phân tích vai trò sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội.........................53
Câu 40. Vì sao trong nghiên cứu về xã hội xuất phát từ sản xuất vật chất, từ phương thức sản xuất
chứ không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của người cẩm quyền...................................54
Câu 41. Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật đó? Liên hệ với quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta...........................................................55
Câu 42. Con người có thể tự do lựa chọn quan hệ sản xuất theo ý muốn của mình được không? Vì
sao? Liên hệ với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta...................................................55
Câu 43. Trình bày mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế với
chính trị. Liên hệ với công cuộc đổi mới ở nước ta........................................................................55
Câu 44. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội . ý nghĩa phương pháp luận của
phạm trù đó. Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta hiện nay......................55
Câu 45. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên.
Chúng ta tiến lên Xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có phù hợp với quá trình lịch
sử - tự nhiên hay không? Vì sao......................................................................................................55
CHƯƠNG IX . VẤN ĐỀ GIAI CẤP, DÂN TỘC,NHÂN LOẠI VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA...........................................................58
Câu 46. Giai cấp là gì/ Cở sở phân định giai cấp? Nguồn gốc trực tiếp và sâu xa của sự phân hóa
giai cấp trong xã hội là gì?..............................................................................................................58
Câu 47. Tại sao nói đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử trong điều kiện xã hội
phân hóa thành giai cấp đối kháng. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản có vị trí gì đối với sự phát
triển lịch sử nhân loại trong thời đại hiện nay.................................................................................58
Câu 48. Dân tộc là cộng đồng lịch sử có những đặc trưng cơ bản nào? Phân tích các đặc trưng đó
và liên hệ với quá trình hình thành, phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Làm rõ sự khác nhau
vê nguồn gốc hình thành dân tộc Việt Nam so với lịch sử hình thành các dân tộc Châu Âu.........59
Vì sao trong thời đại ngày nay đối với các dân tộc thường là các quốc gia – dân tộc? ý nghĩa của
vấn đề này đối vấn đề giữ vững độc lập dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo đảm chủ
quyền an ninh quốc gia của nước ta hiện nay..................................................................................59
Câu 49. Giai cấp và dân tộc luôn có mối quan hệ thống nhất biện chứng. hãy Phân tích mối quan
hệ đó và liên hệ với thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước đây và công cuộc
đổi mới hiện nay..............................................................................................................................59
Câu 50. Nhân loại là gì? Phân tích cơ sở thống nhất của cộng đồng dân tộc, nhân loaj và giai cấp
có quan hệ với nhau như thế nào? Giải phóng giai cấp có ý nghĩa như thế nào đối với sự nghiệp
giải phóng nhân loại?......................................................................................................................60
Câu 51. Thế nào là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ? Bản chất của nền kinh tế độc lập tự
chủ trong thời đại hiện nay?............................................................................................................61
Câu 52. Hội nhập kinh tế quốc tế là thế nào? Phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản nào? Đảng ta
quan niệm như thế nào về hội nhập kinh tế quốc tế?......................................................................62
CHƯƠNG X. LÝ LUẬN NHẬN THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ...66
Câu 53. Phân tích bản chất và những đặc trưng của Nhà nước.? Vì sao nói nhà nước không phải
cơ quan điều hòa mâu thuẫn giai cấp? Chứng minh rằng sự ra đời của nhà nước là một tất yếu
khách quan của quá trình phát triển kinh tế- xã hội?.......................................................................66
Câu 54. Nhà nước có những chức năng cơ bản nào? Quan hệ giữa các chức năng đó? Tại sao chức
năng chính trị là chức năng cơ bản nhất. Vì sao chức năng kinh tế là chức năng riêng có của kiểu
Nhà nước chuyên chính vô sản.......................................................................................................66
Câu 55. Nhà nước có những vai trò gì đối với quá trình phát triển kinh tế của xã hội? Vì sao sự
phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của vai trò nhà nước? Lấy một số
ví dụ về vai trò của nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường ở các nước tư bản....67 5
Câu 56. Hãy nên quan điểm của Đảng công sản Việt Nam về việc tăng cường vai trò quản lý kinh
tế của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa nhằm xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh..................................................69
CHƯƠNG XI .QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC LÊ NIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY
DỰNG CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA...................69
Câu 57. Phân tích những giá trị trong quan niệm về con người của các nền triết học trước Mác.
Triết học Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý nào trong các quan điểm đó?................................69
Câu 58. Cách tiếp cận của triết học Mác đối với con người khác với các tiếp cận của các nền triết
học trước Mác ở chỗ nào? Ý nghĩa của cách tiếp cận đó?..............................................................69
Câu 59. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa phương diện sinh học và phương tiện xã hội trong
con người? vận dụng vào lĩnh vực công tác của anh/ chị................................................................73
Câu 60. Phân tích bản chất của con người. Hiểu thế nào là luận điểm “con người vừa là chủ thể,
vừa là sản phẩm của hoàn cảnh?”....................................................................................................73
Câu 61: Vì sao phát triển nguồn nhân lực con người Việt Nam là yếu tố quyết định thành công
của sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa?................................................................................75
CHƯƠNG I . LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG
Câu 1. Triết học là gì? Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử
về triết học? Vì sao có sự khác nhau đó? Triết học có những chức năng gì?
Khái niệm "Triết học”
Triết học là bộ môn chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội,
nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn
đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức luận.
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như
Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết ( );
người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng,
triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Sự khác nhau cơ bản giữa quan điểm hiện đại và quan điểm lịch sử về triết học? * Quan điểm lịch sử
Phương pháp nhận thức các sự vật và hiện tượng theo quá trình phát sinh, phát triển của nó
trong những điều kiện lịch sử nhất định, như là sản phẩm của sự phát triển lịch sử. QĐLS có những
nét đặc trưng cơ bản sau:
1) Nó xem xét không phải sự thay đổi đơn giản, mà là sự tự vận động, kết cấu nội tại, nguồn
gốc của sự tự vận động;
2) Quá trình phát triển của sự vật và hiện tượng, những giai đoạn chủ yếu đã trải qua, thực trạng
hiện nay, xu thế phát triển tương lai, khả năng tối ưu và những điều kiện khách quan, chủ quan cho
sự thực hiện khả năng tối ưu ấy;
3) Tính kế thừa trong sự phát triển của mọi sự vật và hiện tượng. Vận dụng QĐLS, chủ nghĩa
Mac đã phát hiện quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản, đi đến kết luận: chủ nghĩa tư bản sẽ diệt
vong; chủ nghĩa xã hội sẽ thắng lợi, và đề ra những dự kiến khoa học về sự phát triển của xã hội
cộng sản chủ nghĩa tương lai.
* Quan điểm hiện đại
Tính hiện đại thường được miêu tả như là sự phản ánh một loạt những nguyên tắc cơ bản sau đây.
1. Nó phủ nhận truyền thống và phong tục tập quán với tư cách một quyền lực tiên thiên, mọi
thứ phải chịu sự phê phán mang tính lý tính (thuần lý). 6
2. Nó truy tìm tri thức và chân lý khách quan – những nguyên tắc mang tính lý tưởng, tuyệt đối,
có tính quy luật, phi lịch sử, mà chỉ có thể được nhận biết qua lý tính, sử dụng phương pháp có tính hình thức và thuần lý.
3. Nó thừa nhận rằng, những điều kiện của nhận thức, theo cách nào đó, được quyết định bởi
những năng lực của chủ thể nhận thức; kế tiếp là “sự quay về với chủ thể” và thừa nhận vị thế cao
hơn của nhận thức luận so với siêu hình học; Sự ưu tiên đối với chủ thể cũng được phản ánh trong
sự nhấn mạnh giá trị cá nhân so với giá trị cộng đồng.
Vì sao có sự khác nhau đó?
Những nhà triết học hiện đại chối bỏ quan niệm cho rằng văn hoá, văn cảnh hoặc truyền thống
đóng vai trò quyết định trong tri thức. Thay vào đó, họ tìm kiếm những nguyên lý mang tính quy
luật, tuyệt đối, mang tính nền tảng và những chân lý phi lịch sử, phi thời gian, khách quan.
Ví dụ như Kant từ chối bất kỳ một nền đạo đức học nào dựa trên phong tục tập quán, hoặc
truyền thống, hoặc hành động trong quá khứ, hoặc tác động nào từ bên ngoài. Theo ông, để là “triết
học đạo đức” đích thực, nó phải mang tính quy luật; có nghĩa, nó phải là thứ tiên thiên. Cách tiếp
cận của Kant là không phải chú tâm đến văn hoá, hoặc văn cảnh, hoặc truyền thống cụ thể – công
việc của xã hội học, chứ không phải triết học – mà là suy ngẫm xem chủ thể thuần lý có thể khám
phá và “tuân theo” cái gì khi phản tư về cái nên làm (cái phải là).
Quy luật đạo đức mà Kant tìm kiếm với tư cách quy luật – là cái khách quan, phổ quát và tuyệt
đối; nó mang tính tiên thiên và không chứa các ngoại lệ. Đặc biệt, nó chỉ được “thừa nhận” và có
hiệu lực chỉ duy nhất bởi lý tính – lý tính của mỗi nhân tố cá nhân – vì thế, nó (chỉ trong nghĩa đó)
mang tính chủ quan. Không nhất thiết con người có muốn hay không, có đồng ý hay không, quy luật
này không phụ thuộc vào người lập luật bên ngoài. Đạo đức cũng không phụ thuộc vào hậu quả hay
kết quả, mà chỉ tuân theo lý tính.
Do đó, rõ ràng luật đạo đức là thứ độc lập với bất kỳ một ngẫu nhiên nào của văn hoá, lịch sử,
hay truyền thống. Quả thực, đây là lý do vì sao mà nó áp dụng với tất cả sinh thể thuần lý chứ không
phải là con người nói chung.
Quan điểm của thuyết hiện đại là, người ta phải phán xét tất cả các tuyên bố (tuyên xưng) về
văn hoá, phong tục và truyền thống dưới ánh sáng của lý tính và loại trừ tất cả những gì không phù
hợp với lý tính. Do đó, mối quan hệ giữa triết học và văn hoá không có ý nghĩa gì lắm, hoặc nếu có
mối quan hệ này thì cũng hoàn toàn không quan trọng.
Triết học có những chức năng gì?
* Chức năng thế giới quan của triết học
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về
cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự
hình thành thế giới quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin định hướng
cho hoạt động của con người.
Có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: Thế giới quan huyền thoại, thế giới quan
tôn giáo và thế giới quan triết học.
Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đề thuộc về thế
giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội
loài người. Tồn tại trong thế giới, dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và
nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan. Khi đã hình
thành, thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế
giới. Có thể ví thế giới quan như một "thấu kính", qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh
cũng như tự xem xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa
chọn cách thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Như vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề 7
để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về
sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát
triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa
học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
Các trường phái chính của triết học là sự diễn tả thế giới quan khác nhau, đối lập nhau bằng lý luận;
đó là các thế giới quan triết học, phân biệt với thế giới quan thông thường.
* Chức năng phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi,
xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ: Phương pháp luận
ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Phép biện
chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và phát triển của hiện thực; do
đó, nó không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về thế giới, là lý luận về
thế giới quan. Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít, do tính đúng đắn và triệt để
của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trở
thành những nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng, đề phòng và chống chủ nghĩa
chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình vừa là kết quả, vừa là mục đích trực tiếp của việc học
tập, nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng
Câu 2. Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề gì? Tại sao lại có vấn đề đó? Ý nghĩa của việc
phân tích vấn đề cơ bản của triết học
Triết học là hệ thống lí luận chung nhất của con người về tự nhiên, xã hội, tư duy cũng như chỉ
ra vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
2.1 Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nguyên nhân:
Giải thích mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần là tiền đề, xuất phát điểm của bất kì
một trường phái triết học nào, một học thuyết triết học nào dù theo cách này hay cách khác,
dù gián tiếp hay trực tiếp.
Ang-ghen là người chứng minh và khẳng định một cách thuyết phục rằng giải quyết
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học nói chung và của triết học hiện đại nói riêng.
2.2 Vấn đề cơ bản của Triết học gồm có 2 mặt . Mỗi mặt trả lời cho 1 câu hỏi lớn.
2.2.1 Mặt thứ nhất (Bản thể luận) :
Bàn về nguồn gốc của thế giới: vật chất có trước hay ý thức có trước, cái nào quyết định cái
nào. Có 2 cách trả lời khác nhau đã dẫn đến việc hình thành 2 khuynh hướng triết học lớn đối lập nhau
a) Chủ nghĩa duy vật Những người theo chủ nghĩa duy vật cho rằng và chứng minh rằng : vật chất
là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vất chất.
Trong chủ nghĩa duy vật gồm 3 dạng phái khác nhau:
+ Chủ nghĩa duy vật ngây thơ : là dựa vào việc quan sát một cách trực tiếp các sự vật hiện tượng để
từ đó kết luận về nó. Chính vì vậy mà những kết luận đưa ra thường đúng nhưng không sâu sắc,
không đầy đủ, chưa phản ánh hết sự sinh đọng của thế giới hiện thực khách quan
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình : là dựa vào phương pháp nghiên cứu sự vật trong trạng thái tĩnh tại,
không tính tới qúa trình vận động và phát triển không ngừng của sự vật; cô lập sự vật đó với các sự
vật khác. Vì vậy những kết luận đưa ra thường không đúng và có khi làm méo mó sự vật hiện tượng. 8
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là dựa vào phương pháp nghiên cứu, xem xét, đánh giá sự vật ở
trong trạng thái vừa tĩnh tại vừa luôn luôn vận động phát triển không ngừng và trong mối quan hệ
với các sự vật hiện tượng khác nhau. Chính vì vậy mà những kết luận mà họ đưa ra phản ánh đúng
sự vật hiện tượng một cách khách quan. b) Chủ nghĩa duy tâm
là học thuyết khẳng định rằng ý thức là cái có trước, vật chất là cái có sau, ý
thức sinh ra vật chất quyết định vật chất.
- Chủ nghĩa duy tâm có 2 dạng phái:
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan : cho rằng có một thế giới tinh thần, một thế giới ý niệm tuyệt đối
tồn tại trước con người, vĩnh hằng, hoàn hảo, luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Trong
quá trình vận động và biến đổi đó tha hoá nên tạo nên thế giới hiện thực. Cũng chính vì quan điểm
như vậy mà những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng thế giới hiện thực chỉ là cái
bóng của thế giới tinh thần, bị chi phối bởi thế giới tinh thần ấy.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan : cho rằng thế giới hiện thực là sự phức hợp các cảm giác của con
người, khi cảm giác của con người không còn thì thế giới cũng không còn tồn tại.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm làm thành thuyết “Nhất nguyên luận”
Bên cạnh đó còn có một thuyết “Nhị nguyên luận” : ý thức và vật chất cùng song song tồn tại, không
có cái nào quyết định cái nào, không có cái nào sinh ra cái nào .
2.2.2 Mặt thứ hai (Nhận thức luận) : bàn về việc con người có khả năng nhận thức hay không;
những hiểu biết, những tri thức của con người có phản ánh được đầy đủ, sâu sắc bản chất về thế giới
hiện thực khách quan hay không.
Trong triết học hiện đại có 2 trường phái :
a) Trường phái Khả tri luận
Trường phái này gồm đa số các nhà triết học theo chủ nghĩa, tuyệt đại bộ phận các nhà triết học theo
chủ nghĩa duy vật ; khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới. Tuy nhiên khả
năng nhậ thức đó lại được hiểu khác nhau:
Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng quá trình nhận thức của
con người là quá trình hồi tưởng lại của linh hồn bất tử
Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng tri thức là cái có sẵn dưới
dạng bẩm sinh, chủ thể nhận thức chỉ cần tạo điều kiện cho các nhận thức ấy bùng nổ.
Những người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng nhận thức là một quá trình
của con người đi từ những hiểu biết đơn giản đến những hiểu biết phức tạp, không phải là cái
có sẵn dưới dạng bẩm sinh mà đó là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của mỗi bản
thân con người. Khả năng nhận thức của con người là hữu hạn nhưng khả năng nhận thức
của loài người là vô hạn. Về nguyên tắn cho dù thế giới khách quan có vận đọng không
ngừng thì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được nó.
b) Trường phái Bất khả tri
Cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới, nếu có nhận thức được thì cũng chỉ là nhận
thức được hiện tượng, không thể nhận thức được bản chất của sự vật 2.3 Ý nghĩa:
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ bao trùm của mọi sự vật hiện tượng trong
thế giới, là vấn đề nền tảng và xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học, là
tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của triết gia và học thuyết của họ.
Hiểu các vấn đề cơ bản của Triết học giúp người nghiên cứu có định hướng từ đó rèn luyện
năng lực tư duy và áp dụng vào thực tiễn. 9
Phân tích các vấn đề cơ bản của Triết học, chúng ta có cơ sở để phân tích thế giới quan và xây
dựng phương pháp luận khoa học theo các trường phái triết học mà mình theo đuổi, lý giải được các
vấn đề Triết học sau này, ví dụ như: thế giới quan duy vật là thế giới quan khoa học hay thế giới
quan duy tâm là thế giới quan tôn giáo, ….
Câu 3. Có những trường phái triết học cơ bản nào? Khái quát các hình thức phát triển của
trường phái duy vật trong lịch sử. V.I Lê nin đã chỉ ra những nguồn gốc nào của chủ nghĩa duy
tâm ?Các trường phái triết học cơ bản
Triết học là hệ thống những quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người
trong thế giới đó. Triết học là một môn khoa học nhằm tập trung giả quyết vấn đề cơ bản là giải
thích mối quan hệ giữa con người và môi trường, được biểu hiện thành quan hệ giữa tư duy và tồn
tại, giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học được biểu hiện thành hai mặt cơ bản. Đó là:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào.
Thứ hai, Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không.
Tập trung giải quyết mặt thứ nhất, trong triết học có ba cách giải quyết hình thành ba trường
phái.Một là vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, hình thành trường phái duy vật.
Hai là, ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất, tạo ra trường phái duy tâm.
Hai cách giải quyết trên tuy có đối lập nhau về nội dung nhưng giống nhau ở chỗ, chúng đều
thừa nhận một nguyên thể là nguồn gốc tạo ra thế giới. Hai cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên.
Ba là, vật chất và ý thức tồn tại đôc lập, chúng không có quan hệ sản sinh nhau, không có quan
hệ quyết định nhau. Cách giải quyết này thừa nhận cả vật chất và ý thức cùng là nguồn gốc của thế
giới, trường phái này thuộc về triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hòa
hai trường phái duy vật và duy tâm để dẫn đến một trường phái duy nhất.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, thế giới vật chất tồn tại một cách
khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sáng tạo ra, còn ý thức là phản ánh thế giới
khách quan vào bộ óc con người, không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất. Chủ nghĩa
duy vật đã phát triển qua ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tinh thần, ý thức có trước và là cơ sở tồn tại của giới tự nhiên, của
vật chất. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức.
nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng,
nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy
tâm là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, nguồn gốc nhận thức
của nó là tuyệt đối hóa một mặt của các quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi vật chất.
Để trả lời câu hỏi thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học chia thành hai
trường phái: khả tri và bất khả tri. Hầu hết các nhà duy vật và duy tâm đều cho rằng con người có
thể nhận thức được thế giới. Tuy nhiên, dưới góc độ duy tâm, các nhà triết học theo trường phái này
cho rằng sự nhân thức của con người chỉ là sự tự nhận thức về chính bản thân mình. Còn những nhà
triết học phủ nhận sự nhận thức của con người đã cho ra đời “thuyết không thể biết”. Học thuyết này
cho rằng con người không thể hiểu được đối tượng hoặc có chăng là chỉ hiểu hình thức bề ngoài vì 10
tính xác thực của hình ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình
nhận thức không đảm bảo tính chân thực. Tính tương đối của nhận thức dẫn đến sự hình thành trào
lưu “hoài nghi luận”, những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong
việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt đến chân lý khách quan.
Việc xác định được vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để phân biệt các trường phái triết học,
các quan điểm triết học, các nhà triết học; là cơ sở giải quyết một loạt các vấn đề khác của triết học
như nhận thức luận, nhà nước, tôn giáo. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học giúp con người ta có
thể hình thành thế giới quan và phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người. Thế giới quan là nhân tố để con người nhận thức và hành động. Là thấu kính giúp con người
xem xét chính bản thân mình để xác đinh cho mình mục đích và ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách
thức hoạt động để có nhân sinh quan tích cực. Trình độ thế giới quan chính là tiêu chí đánh giá sự
trưởng thành của cá nhân và toàn xã hội. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học làm triết học thực
hiện chức năng phương pháp luận. Vì thế, mỗi quan điểm lý luận về triết học đồng thời là một
nguyên tắc về phương pháp và lý luận về phương pháp đó tạo khả năng cải biến thế giới.
Các hình thức phát triển của trường phái duy vật trong lịch sử
Chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ
nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
a. Triết học duy vật cổ đại (Duy vật chất phác – ngây thơ)
Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ, xuất hiện trong chế
độ chiếm hữu nô lệ như ở Ấn Độ, Trung Hoa, Hylạp. Về thế giới quan là duy vật có ý nghĩa chống
lại những tư tưởng sai lầm của triết học duy tâm và tôn giáo; nhưng về mặt phương pháp luận thì
chưa có cơ sở khoa học, bởi nó mang tính trực quan, cảm tính chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm
của chính bản thân các nhà triết học hơn là những khái quát khoa học của bản thân tri thức triết học.
Vì, quan niệm về thế giới là vũ trụ, là vạn vật, vật chất là vật thể cụ thể hoặc thuộc tính của vật thể
cụ thể, v.v… còn ý thức là linh hồn, là cảm giác nhưng nó phụ thuộc vào vật chất.
Anghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng
ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời cổ, và nguời đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan
niệm ấy là Héraclite: mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi,
mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình xuất hiện và biến đi”.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ
chất phác vì chủ yếu dựa vào quan sát trực tiếp, chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa
học chuyên ngành vì lúc đó chưa phát triển.
- Chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại
Ở Ấn Độ, chủ nghĩa duy vật xuất hiện tương đối sớm và mang những nét độc đáo, tập trung ở
một số trường phái sau: + Trường phái Sam Khuya
Vào thời gian đầu, triết lý Samkhuya không thừa nhận "tinh thần vũ trụ tối cao" phủ nhận sự tồn
tại của thần. Ngược lại nó khẳng định thế giới này là thế giới vật chất. Đã giải thích mọi vật của thế
giới là kết quả của sự thống nhất ba yếu tố. Đó là Sativa (sự trong sáng; Tamas (tính ỳ thụ động) và
Rajas (kích thích động). Khi 3 yếu tố này ở trạng thái cân bằng thì vật chất đầu tiên chưa biểu hiện
nhưng khi cân bằng bị phá vỡ thì sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Tuy nhiên quan niệm về vật chất của phái Samkhuya còn có nhiều hạn chế. Họ cho ràng dạng
vật chất đầu tiên là không nhận biết được và giải thích về hình thành vạn vật còn chưa đúng đắn đó
là quan niệm về sự hình thành thế giới hữu hình đa dạng từ thế giới vô hình, đồng nhất. +Trường phái Nyaya:
Thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất rất phong phú đa dạng bao gồm nhiều sự vật, hiện
tượng. Thế giới này tồn tại trong không gian do các hạt nhỏ cấu tạo nên và được gọi là nguyên tử. 11
Nguyên tử của thực thể này khác nguyên tử của thực thể kia ở chất lượng, hình dạng và cách kết
hợp. Các vật thể chỉ tồn tại nhất thời, thường xuyên thay đổi và chuyển hoá. Đây quả là một quan
niệm thiên tài hết sức đúng đắn trong điều kiện khoa học tự nhiên thời bấy giờ chưa phát triển. Đã
để lại một tư tưởng quý báu cho nhân loại mà các nhà duy vật sau này tiếp tục kế thừa và phát huy.
Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của phái Nyaya còn hạn chế ở chỗ coi thế giới vật chất tạo nên bởi
4 yếu tố đất, nước, lửa, không khí, cho rằng nguyên tử không biến đổi, không chia cắt được. Âu
cũng là do hạ chế về khoa học tự nhiên lúc bấy giờ.
- Chủ nghĩa duy vật Trung Hoa cổ đại
Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn của Phương Đông cổ - trung đại. Cùng
với những phát minh có tính chất vạch đường trên mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, y học, Trung
Quốc còn là quê hương của nhiều hệ thống triết học lớn. Nhìn một cách tổng thể, các trường phái
triết học cổ đại Trung Quốc đa phần theo khuynh hướng duy tâm, tuy nhiên vẫn có một số tư tưởng
duy vật tiến bộ có ý nghĩa to lớn mà điển hình là Mạc Gia.
Mạc Gia đầu tiên đề xuất quan hệ giữa thực và danh như một phạm trù triết học. Chủ trương
"lấy thực đặt tên để nêu ra cái thực", "cái dùng để gọi tên, cái được gọi lên là thực". Điều đó có
nghĩa khách quan là tồn tại thực.
Đồng thời, Mạc Gia cho rằng để đánh giá đúng sai trong thực tế khách quan phải dựa vào 3 tiêu
chuẩn: trước hết lập luận phải có căn cứ, thứ hai phải được chứng minh và thứ ba lập luận cần có
hiệu quả. Thuyết "tam biểu" này của Mạc Gia thể hiện thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật chất
phác, các học thuyết cùng thời khó sánh kịp.
Về sau thời Hậu Mạc đã phát triển khía cạnh duy vật lên một tầm cao mới. Họ cho rằng sự tồn
tại của vật chất là bất diệt, hình thái tồn tại của sự vật thì có thay đổi, thời gian, không gian liên hệ
mật thiết với sự vận động của sự vật. Vật thể vận động trong không gian và thời gian và muốn nhận
thức được thế giới, trước hết nhờ các khí quan cảm giác (tai, mũi, miệng, mắt, thân) đồng thời để
nhận thức sâu sắc sự vật, con người phải nhờ tâm, tức là hoạt động tư duy là quá trình phân tích so
sánh, tổng hợp trừu tượng hoá để đạt đến ý nghĩa của nó. Vì vậy họ đã làm rõ mối quan hệ giữa cảm giác và tư duy.
Các triết gia hậu Mạc còn phân ra tri thức thành 3 loại: "Văn tử" là sự hiểu biết nhờ sự truyền
thụ của người khác, "Thuyết trị" là kết quả do sự hoạt động suy luận đem lại, "Thân trị" là kết quả
do sự quan sát, đúc kết kinh nghiệm đem lại.
Những quan điểm duy vật của phái Mạc Gia đã hơn hẳn những phái khác về nhận thức lý luận.
Hệ thống lôgic của họ đã tấn công vào thuyết hoài nghi và bất khả thi của phái Trang - Chu. Đồng
thời phê phán khía cạnh duy tâm trong học thuyết của phái Công Tôn Long.
Tuy vậy, học thuyết của Mạc Gia vẫn không tránh khỏi một số sai lầm như xem trời là đấng anh
minh có quyền lực tối cao, trời tạo ra muôn loài. Mạc Tử còn tin có cả quỉ thần giám sát hành vi con
người. Dù vậy, những tư tưởng của Mạc Gia đã khiến cho thế hệ sau này phải ngưỡng mộ bởi tính
đúng đắn tiến bộ của nó trong điều kiện hết sức lạc hậu như vậy. Cũng có lẽ vì thế mà học phái Mạc
Gia đã không có chỗ đứng trong tư tưởng của giai cấp phong kiến và bị tuyệt diệt vào đời Tần hán.
- Chủ nghĩa duy vật Phương Tây cổ đại
+Triết học Hy Lạp cổ đại
Thời cổ đại, các ngành khoa học của Hy Lạp đã rất phát triển, đặc biệt thiên văn, toán học, y
học… Triết học duy vật nhờ đó phát triển rực rỡ, chứa đựng hầu hết các nội dung cơ bản của nó. Sau
đây ta sẽ xem xét một số trường phái tiêu biểu. +Hêraclit (530-470 TCN)
Ông cho rằng thế giới muôn vật không do thần thánh nào tạo nên, cũng không phải con người
tạo ra mà là do ngọn lửa vĩnh viễn, linh động nhen nhóm lên. Mọi sự vật luôn ở trạng thái vận động,
biến đổi và chuyển hoá qua lại. Ông nêu lên tư tưởng hiện vật đều trôi đi, hiện vật đều biến đổi 12
"người ta không thể tắm 2 lần trên 1 dòng sông". "Mặt trời luôn luôn luôn đổi mới và vĩnh viễn đổi mới"
Theo ông nguồn gốc của mọi sự vật thay đổi là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
trong sự vật. Mọi vật đều nảy nở trong quá trình đấu tranh và sự vận động, phát triển liên tục của sự
vật tuân theo các yếu tố khách quan, qui luật quyết định.
Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhận thức là phản ánh hiện tượng khách quan. Ông chia
quá trình nhận thức ra làm 2 giai đoạn cảm tính và lí tính. Hai giai đoạn này có quan hệ chặt chẽ với
nhau, không thể chỉ có một giai đoạn tồn tại độc lập.
Về hạn chế: Hêraclit đã quan niệm lửa là nguồn gốc tạo ra vạn vật. Mọi vật trao đổi với lửa và
lửa trao đổi với tất cả. Mọi sự biến hoá của sự vật dựa trên sự chuyển hoá của chúng thành những
dạng vật chất đối lập với bản thân chúng. "Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh ra từ cái
chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí.
+Triết học Hy Lạp thế kỷ V Đêmôcrit
Ông là nhà Triết học duy vật cổ đại nhất trong thế giới cổ đại. Ông là người hiểu biết sâu rộng
rất nhiều lĩnh vực: Triết học, toán học, đạo đức học, sinh vật học… là học trò và người kế tục phát
triển quan điểm của Lơxip.
Đêmôcrit cho rằng nguyên tử không nhìn thấy được, không âm thanh, màu sắc và mùi vị.
Chúng đồng nhất với nhau về chất nhưng khác nhau về hình thức, thứ tự và tư thế. Ông quan niệm
nguyên tử là vô hạn về lượng và hình thức. Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi những nguyên tử do sự
kết hợp giữa chúng với nhau theo một trật tự và thế nhất định.
Sự biến đổi vật chất là do sự thay đổi trình tự sắp xếp của những nguyên tử tạo thành còn bản thân
nguyên tử thì không thay đổi.
Nguyên tử luôn vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt chẽ giữa vật chất và vận
động. Vận động là vốn có của nguyên tử chứ không phải được đưa từ ngoài vào. Nhưng ông chưa
thấy được nguồn gốc của vận động và vận động không chỉ là sự di chuyển trong chân không của các nguyên tử.
Dựa vào thuyết nguyên tử, Đêmôcrit thừa nhận sự ràng buộc lẫn nhau theo quy luật nhân quả
tính khách qan trong tính tất yếu của sự vật, hiện tượng tự nhiên. Đó là đóng góp quan trọng của
Đêmôcrit vào triết học duy vật. Song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi ngẫu nhiên là một
hiện tượng không có nguyên nhân.
Đêmôcrit bác bỏ quan nhiệm về sự sản sinh ra sự sống và con người của thần thánh. Theo ông
sự sống là kết quả của quá trình biến đổi dần đần từ thấp đến cao cảu tự nhiên. Sinh vật đầu tiên
sống ở dưới nước, sau đó chuyển lên cạn, cuối cùng con người được ra đời. Ông coi cái chết là sự
phân tích của các nguyên tử tạo nên xác và của những nguyên tử cấu tạo lên tinh hồn chứ không
phải linh hồn rời khởi thể xác. Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang tính mộc mạc song nó giữ vai
trò rất quan trọng trong việc chống các quan điểm duy tâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn người.
Đêmôcrit đã có công lao to lớn trong xây dựng lý luận nhận thức giải quyết một cách duy vật
vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác là điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong
việc nhận thức thế giới.
Ông cho rằng đối tượng của nhận thức là vật chất, là thế giới xung quanh con người và nhờ sự
tác động của đối tượng nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức được.
Đêmôcrit phân chia nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối
do các giác quan đem lại còn nhận thức chân lý là do sự phân tích sâu sắc về sự vật để nắm bắt bản chất bên trong của nó.
Triết học duy vật của Đêmôcrit đã đóng vai trò quan trọng trog chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng
sự tồn tại của thần chẳng qua là sự cách hoá những hiện tượng của tự nhiên hay những thuộc tính 13
của con người chẳng hạn thần Dớt là sự nhân cách hoá mặt trời, thần ATêna là sự nhân cách hoá
thuộc tính của con người.
- Duy vật Tây Âu Trung Cổ Phục Hưng và cận đại: đây là những thời kỳ mà chủ
nghĩa duy vật có nhiều thắng lợi rực rỡ.
+Fran xiBêcơn (1561 - 1621):
Là người sáng lập triết học duy vật Anh. Becơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của Thế giới
vật chất khoa học không biết cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tựnhiên ông cho rằng con
người cần phải thống trị làm chủ tựnhiên. Điều đó thực hiện được hay không phụ thuộc vào hiểu biết của con người.
Theo BêCơn, nhận thức tốt nhất là đi từ cái riêng lẻ đến cái chung, cái trừu tượng. Tri thức chỉ
có thể đạt được bằng cách giải quyết những quan hệ nhân quả hiểu biết đúng là hiểu biết bằng nguyên nhân.
Song chủ nghĩa duy vật của Bêcơn là duy vật siêu hình. Ông quy sự vận động của vật chất thất
thành sự lặp lại vĩnh viễn những hình tứhc bất biến. Ông cũng chưa vượt qua được bức tường tôn
giáo và nhà thờ để hoàn toàn tự do với những tư tưởng khoa học và biết học đặc sắc của mình.
+Lút Vích Phoi ơ bắc (1807 - 1872):
Là một nhà nhân vật kiệt suất trước Mác, là nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân chủ. Có công
lớn trong phê phán chủ nghĩa duy tâm công Hêghen nói riêng và chủ nghĩa duy tâm nói chung phê
phán tôn giáo, khôi phục chủ nghĩa duy vật cổ đại.
Phoi ơ bắc cho rằng thế giới vật chát không do ai sáng tạo ra, tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức của con người. Giới tự nhiên vận động biến đổi do những nguyên nhân bên trong của nó.
Ông cho rằng ý thức là sản phẩm của con người. Nếu vật chất chưa tiến hoá đến con người thì chưa có ý thức.
Phoi ơ bắc giải quyết vấn đề nhận thức trên quan điểm duy vật và không có gì con người không
nhận thức được, chỉ có cái chưa nhận thức được mà thôi.
Tuy nhiên khi khẳng định nhận thức của con người, Phoi ơ bắc nhấn mạnh mặt quan sát chứ
không quan tâm đến mặt quan trọng tạo nên nhận thức là hoạt động thực tiễn. Ông coi thường thực
tiễn, hạ thấp vai trò thực tiễn. Đồng thời con người mà Phoi ơ bắc nghiên cứu là con người thuần tuý
động vật. Tức ông chỉ quan tâm đến mặt sinh học mà không quan tâm đến mặt xã hội. Vì vậy, con
người của Phoi ơ bắc là con người trừu tượng.
Do hạn chế trong sự phát triển khoa học kỹ thuật, đồng thời sự tác động trong hệ tư tưởng của
triết học mà những kết luận của chủ nghĩa duy vật cổ đại còn mang nặng tính trực quan, ngây thơ,
chất phác, cảm tính, dự báo, định hướng chứ không có cơ sở khoa học khi giải thích về nguồn gốc
hoặc bản chất của thế giới vật chất và vai trò của con người. Chủ nghĩa duy vật cổ đại thể hiện đồng
nhất vật chất vào thực thể được coi là bản nguyên của thế giới vật chất.
Tuy còn nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy
giới tự nhiên để giải thích về giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay Thượng đế. Chủ nghĩa duy
vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ
này thừa nhận tính thứ nhất của vật chất và đã đồng nhất vật chất với một số dạng vật chất cụ thể
hoặc thuộc tính của nó. Chủ nghĩa duy vật cổ đại còn được gọi là triết học tự nhiên. Nó khái quát
những tư tưởng của khoa học cụ thể và cùng khoa học cụ thể giải quyết những vấn đề của khoa học lý thuyết.
b. Chủ nghĩa duy vật phục hương và cận đại (Duy vật siêu hình)
Siêu hình là thuật ngữ triết học phản ánh khuynh hướng phát triển của triết học duy vật từ thời
kỳ phục hưng đến thời cận đại, còn được gọi là triết học tự nhiên. Xét về mặt thế giới quan là duy 14
vật, nhưng về phương pháp luận lại ảnh hưởng bởi phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên
(phương pháp thực nghiệm) của thời kỳ này, nhất là khoa học vật lý.
Thế giới quan triết học đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển mạnh ở Châu Âu
vào các thế kỉ XVI - XVIII. Thời kì này, triết học gắn liền với khoa học tự nhiên, các nhà triết học
đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên. Họ đã chủ trương giải thích tự nhiên từ bản thân nó. Nhờ
các phương pháp phân tích, mổ xẻ giới tự nhiên thành những bộ phận tách biệt nhau mà khoa học tự
nhiên đã đạt được những bước tiến khổng lồ. Chính cách xem xét đó đã được Bêcơn (F. Bacon) và
Lôckơ (J. Locke) áp dụng vào triết học, đem lại cho triết học một hình thức mới – chủ nghĩa duy vật
siêu hình. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa duy vật siêu hình:
a) Xem xét sự vật một cách hoàn toàn cô lập, tách rời với các sự vật khác;
b) Xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại không vận động, không biến đổi, vĩnh viễn cố định;
c) Quá trình phát triển được xem như là sự tăng trưởng đơn thuần về mặt số lượng chứ không
có sự thay đổi về chất lượng;
d) Tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở bên ngoài sự vật (ở Thượng đế, ở cái hích
đầu tiên, vv.), chứ không tìm trong sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật;
e) Có quan điểm cứng nhắc chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung hợp được; nói
có là có, không là không, cái gì vượt ra ngoài phạm vi đó chẳng có giá trị gì hết.
Đối với những người theo chủ nghĩa duy vật siêu hình thì một sự vật hoặc tồn tại, hoặc không
tồn tại; một sự vật không thể vừa là chính nó, lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái phủ định
tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, nguyên nhân và kết quả cũng đối lập nhau một cách cứng nhắc như vậy.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định chủ nghĩa duy vật siêu hình là một giai đoạn tất yếu trong
sự phát triển của triết học. Nó có vai trò nhất định trong việc bảo vệ và phát triển quan điểm duy vật,
nhưng tất yếu bị thay thế bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Triết học duy vật thời kỳ này đại diện cho những tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ, họ đã tiến
hành đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, nhà thờ trung cổ. Trong số các đại biểu cơ bản của triết
học duy vật thời kỳ này là triết học duy vật Pháp với những quan điểm của Metri (La Mettrie),
Điđơrô (Diderot Denis), Hônbách (Holbach Paul Henri), chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Chủ
nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII-XVIII khẳng định vai trò của vật lý học cổ điển trong lịch sử
phát triển của khoa học, vì vậy phương pháp của khoa học, vật lý học cổ điển không chỉ ảnh hưởng
đối với các khoa học khác mà còn ảnh hưởng đối với triết học, đó là ảnh hưởng của chủ nghĩa duy
vật trong thời kì này tạo ra phương pháp tư duy siêu hình ở trong triết học nên nó được xem là triết học tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII do ảnh hưởng của cơ học cổ điển nên chủ
nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc -
phương pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện
thực, nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại
thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ như quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng (Triết học Mác-Lênin)
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác –
Anghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Với sự kế thừa
tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng triệt để thành tựu của khoa học đương
thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của
chủ nghĩa duy vật chất phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể
hiện được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu
hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực đó. 15
Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy nhân
loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng duy vật
thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép
biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng
đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà
còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành
nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát
điểm của phương pháp luận.
Triết học Mác – Lênin còn được coi là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, qui luật cơ bản của
phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu lịch sử và nghiên cứu con người. Cho nên
triết học Mác – Lênin còn được gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Nghiên cứu triết học Mác – Lênin thực chất là việc khẳng định ý nghĩa bước ngoặc cách mạng
do Mác thực hiện trong lịch sử triết học và được Lênin bổ sung phát triển thêm.
Triết học Mác – Lênin không chỉ giải thích về thế giới vật chất và vai trò con người về mặt lí
luận mà chủ yếu là sự vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn xã hội để khẳng định vai trò của triết
học đối với đời sống xã hội.
Sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật Mác – Lênin đã bao hàm sự thống nhất
giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học.
Sự hình thành những quan điểm duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin được coi là cơ sở lí
luận về mặt thế giới quan duy vật và phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu
con người. Đó cũng là việc khẳng định sản xuất vật chất được coi là cơ sở đối với sự tồn tại, vận
động phát triển của xã hội, khẳng định con người là chủ thể của lịch sử, khẳng định quần chúng
nhân dân là lực lượng sang tạo chân chính của lịch sử, đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định tồn
tại của xã hội, ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Triết học Mác – Lênin giải quyết mối quan hệ triết hộc và khoa học hiện đại trên cơ sở nghiên
cứu của triết học. Song, nó cũng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho
sự hoạt động của đảng cộng sản trong quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân thế
giới, và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất hữu cơ với
nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại".
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự phát triển của
khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế
giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa học.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa triết học Mác -
Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu
tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy
vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì trước những phát hiện mới, người ta dễ mất phương h-
ướng và đi đến những kết luận sai lầm về mặt triết học.
Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm vững triết học Mác - Lênin
giúp chúng ta tự giác trong quá trình trao dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực t ư duy sáng
tạo của mình, tránh những sai lầm do chủ nghĩa chủ quan và phương pháp tư duy siêu hình gây ra.
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề
trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần tránh cả hai khuynh hướng sai
lầm: hoặc xem thường triết học hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học. Nếu xem thường triết học
sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất phương h-
ướng, thiếu chủ động và sáng tạo. 16
Còn nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc
những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trường hợp riêng,
dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại. 3. Kết Luận:
Chủ nghĩa duy vật trong lịch sử là những kho tàng quý giá để lại cho thế giới loài người mà sau
này Mác và Ăng ghen là những người kế tục hoàn hảo nhất. Đặc biệt là duy vật HyLạp cổ đại, duy
vật phoi ơ bắc và phép biện chứng của Hêghen. Hai ông nhiều lần nói rằng, trong sự phát triển của
mình, hai ông chịu ơn nhiều nhà triết học Đức và là học trò của triết học HyLạp cổ đại.
Tuy trong từng thời kỳ các tư tưởng duy vật còn có những hạn chế riêng song đã đóng góp tích
cực vào kho tàng nhận thức của nhân loại. Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cho thấy chỉ khi nào đứng
trên quan điểm duy vật, chúng ta mới có thể nhận thức được các sự vật, một cách khoa học, bản chất
và giải quyết các mối quan hệ một cách đúng đắn, mới có thể cải tạo tự nhiên biến đổi xã hội theo
hướng phát triển. Ngược lại các quan điểm duy tâm duy ý chí siêu hình sẽ dẫn đến sai lầm, khuyết
điểm gây tổn thất cho quá trình phát triển của xã hội.
Vì vậy học tập nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy vật là hết sức cần thiết.
Nó giúp ta nắm vững phép biện chứng duy vật, thấu suốt những phương pháp luận đồng thời nắm
được nguồn gốc ra đời, hình thành, phát triển qua quá trình đấu tranh gay gắt với chủ nghĩa duy tâm
và các quan điểm siêu hình để khẳng định được vị trí to lớn của nó trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Hiện nay đất nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu lịch sử
chủ nghĩa duy vật là nhu cầu bức thiết để đổi mới tư duy. Nghiên cứu từ lịch sử của nó cũng là một
phương pháp biện chứng trong nghiên cứu triết học. Đảng ta khảng định nguyên tắc là phải trung
thành với Mác - Lênin, giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, không che giấu sai lầm và phải vận
dụng sáng tạo phương pháp biện chứng Mác Xít để khắc phục những sai lầm xây dựng thành công
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ
nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, nguồn gốc
nhận thức của nó là tuyệt đối hóa một mặt của các quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận
thức, ý thức khỏi vật chất
Câu 4. Phép biện chứng là gì? Khái quát các hình thức lịch sử phát triển của phép biện
chứng? Phép siêu hình là gì? Giá trị của phép siêu hình là ở chỗ nào?
Câu 5. Thực chất của triết học là gì? Hãy nêu các tính quy luật cơ bản của lịch sử triết học
Câu 6. Triết học Trung Hoa và triết học Ấn Độ có những đặc điểm nào? Giải thik tại sao lại
có những đặc điểm đó? Hãy so sánh những nét tương đồng và dị biệt của hai nền triết học này
Câu 7.Hãy diễn giải những nội dung của triết học Nho Giáo. So sánh sự khác nhau giữa
Nho giáo Cổ đại và Nho giáo thời phong kiến. Tại sao có sự khác nhau đó? Nho giáo có những
giá trị và hạn chế nào? 17
Câu 8.Hãy diến giải những nội dung chính của triết học Phật giáo? Nhận định các giá trị và
hạn chế của những tư tưởng triết học Phật Giáo
Câu 9.Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái - Đạo gia và Âm Dương- Ngũ
Hành gia.Nhận định các giá trị và hạn chế của những tư tưởng ấy
1. Sự ra đời và các đại diện tiêu biểu của Đạo gia
a) Nguồn gốc tư tưởng và sự ra đời:
Đạo gia là tên gọi với tư cách một trường phái triết học lớn, lấy tên của phạm trù “Đạo”, một
phạm trù trung tâm và nền tảng của nó. Nguồn gốc tư tưởng của Đạo gia xuất phát từ những quan
điểm về vũ trụ luận, thiên địa, ngũ hành, âm dương, Kinh Dịch…
Đạo gia ra đời và phát triển rực rỡ từ cuối thời Xuân Thu đến cuối thời Chiến Quốc và sau đó
có tác động ảnh hưởng to lớn đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, triết học, văn chương, nghệ
thuật, âm nhạc, y thuật, sinh học, hoá học, vũ thuật, địa lí… ở Trung Quốc và một số nước châu Á khác.
b) Người sáng lập và các đại diện tiêu biểu:
Ngoài Lão Tử là người sáng lập, thì Đạo gia còn có hai yếu nhân khác được thừa nhận và tôn
vinh muôn đời, đó là Dương Chu và Trang Tử. Trong đó vị trí của Trang Tử được sánh ngang với
Lão Tử, nên còn gọi là Đạo Lão – Trang.
Lão Tử (khoảng 580 – 500 TCN), sinh ra ở huyện Khổ, nước Sở, nay là Lộc Ấp, tỉnh Hà Nam.
Tiểu sử của ông còn gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền, trước khi Lão Tử cưỡi
trâu qua nước Tần và biến mất, ông đã nghe lời Doãn Hy (người gác cửa ải phía tây Hàm Cốc) viết
lại "Đạo Đức Kinh", gồm 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Các học giả
hiện đại đánh giá, đó là một tập hợp những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như muốn người
đọc phải tự lí giải. Chính vì vậy, về sau có hàng trăm bản dịch nghĩa cho bộ sách này.
Dương Chu (khoảng 440 – 360 TCN) là một đạo sĩ ẩn danh và bí hiểm. Theo luận giải, ông phải
sinh trước Mạnh Tử (372 - 289 TCN) và sau Mặc Tử (478 - 392 TCN). Tư tưởng của ông được diễn
đạt lại thông qua các tác phẩm của cả những người ủng hộ lẫn những người chống đối ông. Chủ
thuyết của ông là quý sự sống, trọng bản thân. Ông thường mượn chuyện Bá Thành Tử Cao không
chịu mất một sợi lông để làm lợi cho thiên hạ, nhằm trình bày tư tưởng của mình.
Trang Tử (365 – 290 TCN), tên thật là Trang Chu, tác giả bộ Nam Hoa kinh, là một trong hai
bộ kinh điển của Đạo gia. Bộ sách gồm ba phần, chứa 33 thiên. Trong đó, có nhiều điểm lấy từ Đạo
Đức kinh làm chủ đề, nhưng không phải bao giờ cũng đồng thuận. Một số nhà nghiên cứu sau này
cho rằng phần lớn nội dung tác phẩm Nam Hoa kinh là do các đệ tử của ông biên tập.
2. NHỮNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA ĐẠO GIA
Quan điểm triết học của Đạo gia tuy hết sức phong phú, đa dạng, song tựu trung lại không đi
sâu vào giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo cách lý giải của truyền thống triết học phương
Tây, mà tập trung vào vấn đề con người trong mối tương quan và thống nhất với tự nhiên, trực giác
tâm linh và phi lý tính. Nó được thể hiện qua các tác phẩm “Đạo Đức kinh” của Lão Tử, “Nam Hoa
kinh” của Trang Tử và một số tư tưởng của Dương Du được ghi chép tản mạn trong các sách “Mạnh
Tử”, “Nam Hoa kinh”, “Hàn Phi Tử”, “Lã Thị Xuân Thu”, “Liệt tử”…
Mặc dù cả Lão Tử, Dương Chu và Trang Tử đều có những luận điểm khác nhau, đặc biệt là
giữa Dương Chu và Trang Tử, song về cơ bản, những tư tưởng triết học chính yếu của phái Đạo gia
đều thống nhất trên nên tảng các quan điểm về Đạo, tư tưởng biện chứng và quan điểm “vô vi”.
Dưới đây xin trình bày khái quát về ba quan điểm triết học cơ bản đó.
2.1. Quan điểm về “ĐẠO” hay vấn đề bản thể luận: 18
“Đạo” là một danh từ triết học đã được người Trung Hoa dùng từ thời thượng cổ, nhưng chỉ đạt
được tầm quan trọng đặc biệt và trở nên phổ biến nhờ bộ Đạo Đức kinh của Lão Tử. Theo tiếng Hán
cổ, Đạo có nghĩa là "con đường", "phương tiện", "nguyên lý"…
Còn “Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi
được, không phải là Danh thật sự. Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật” (Đạo
khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh. Vô danh thiên địa chi thuỷ, hữu danh
vạn vật chi mẫu – Đạo Đức kinh)”. Bởi vì: “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải
là nó. Đạo cũng chẳng có thể thấy được, thấy được không còn phải là nó nữa.Có thể nào lấy trí mà
hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được chăng? Vậy thì không nên đặt tên cho đạo” (Nam Hoa kinh).
Khái niệm Đạo được xem là siêu việt, vượt lên trên mọi khái niệm, vì nó là cơ sở của tồn tại và
phi tồn tại, ta không thể luận đàm, định nghĩa được. Đạo sinh ra âm dương và nhờ sự chuyển động
của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng. “Vạn vật trong trời đất sanh từ hữu, hữu
sanh từ vô. Hữu vô đều từ thiên đạo” (Đạo Đức kinh).
Xét về mặt bản thể luận, “đạo” được trình bày dưới ba dạng thức: Thể, Tướng, Dụng. Nhưng nó
không đồng nhất với phạm trù “bản thể” của triết học phương Tây. 2.1.1. Thể của Đạo:
Chỉ nguồn gốc, nguyên lý tối sơ, tối hậu, cái tuyệt đối của vũ trụ vạn vật, cả tồn tại lẫn không
tồn tại, cả hữu hình lẫn vô hình, cả cái tĩnh lặng và cái biến đổi, cả cái đậm đặc và cái trống rỗng. Nó
là “đạo huyền”, “đại đạo”, “đạo thường”, “một”, “cốc thần”, “thái cực” và đồng nhất với “đạo” nói
chung, có sức sáng tạo vô lượng vô biên: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”…
Thể của Đạo là vô thủy vô chung: “Ta không biết Đạo con ai mà hình hiện ra ngoài trước cả
tiên đế” (Lão Tử, Đạo Đức kinh). “Đạo tự bản tự căn, vốn tồn tại như xưa, khi chưa có trời đất, làm
thiêng liêng quỷ thần, Thượng đế, sinh ra trời đất, ở trước thái cực mà chẳng là cao, ở dưới lục cực
mà chẳng là sâu. Sinh trước trời đất mà chẳng là lâu, dài hơn thượng cổ mà chẳng là già” (Nam Hoa
kinh, Đại tông sư). Đạo sinh ra vạn vật, là “mẹ” của muôn loài, làm chủ trời đất một cách tự nhiên,
không ý chí, không mục đích, nên cũng không tự cho vạn vật là của mình. Nhờ đó mà trời đất vạn
vật phó mặc tự nhiên, cứ sinh sinh hóa hóa không ngừng…
2.1.2. Tướng của Đạo:
Nhằm ngụ ý đến hình dáng, trạng thái của Đạo. Nó không có một thuộc tính quy định nào ngoài
vẻ tự nhiên chất phác, sâu thẳm, mập mờ, thấp thoáng, trống rỗng, huyền diệu, nhìn không thấy,
nghe không được, không nắm được, không nếm được, không ngửi được, không sáng, không tối…
“Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường...” (Trang Tử, Nam Hoa kinh, Thiên hạ). Nói
chung, Đạo không thể cảm giác, không thể diễn tả dưới bất cứ hình thức nào. 2.1.3. Dụng của Đạo:
Nhằm nói đến công dụng và năng lực của Đạo. Đó là trạng thái vận động, biến đổi, sản sinh,
nuôi dưỡng và “huyền đồng”, làm cho vạn vật hiện ra muôn hình vạn trạn, vô cùng, vô tận… theo
trật tự của Đạo. Đạo làm cái không làm, săn sóc cái không việc, không làm mà như đã làm, đã làm mà như không làm…
2.2. Quan điểm vô vi về chính trị xã hội
“Vô vi”, theo Đạo gia, không có nghĩa là không làm gì, không có hoạt động gì, mà là phải tiến
hành các hoạt động một cách tự nhiên, thuần phác; không làm trái với Đạo, không cố gắng hoạt
động mang tính giả tạo, gượng ép, thái quá, bất cập… Bởi vì “Đạo đức là cái luật tự nhiên, không
cần tranh mà thắng, không cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà hay mưu tính” 19
Như vậy, “vô vi” nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có của sự vật. Nếu
để mất nó, tức là ham muốn, dục vọng… thì sẽ chuốc lấy tai họa. Về mặt chính trị - xã hội, Đạo gia
chủ trương đường lối trị quốc theo đạo “vô vi”, chống lại chủ trương “hữu vi” cùng mọi chuẩn mực
đạo đức và thể chế pháp luật, vì coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự nhiên của
con người. Nó là nguyên nhân gây ra điều ác và bất ổn: “Nước nào chính sự lờ mờ thì dân thuần
thục, nước nào chính sự rành rọt thì dân lao đao”; “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng nghèo, dân
nhiều khí giới nhà nước càng loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng thêm, pháp luật càng tăng
trộm cướp càng nhiều” (Đạo đức kinh, chương 57).
Lão Tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và ông gọi giới quý tộc thống trị là bọn ăn
bám và đàn áp, gây ra mọi ham muốn và dục vọng nơi dân chúng. Bọn họ chẳng “vô vi”.
Ngược lại: “Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta vô tình mà dân tự chính. Ta vô dự mà dân tự giàu. Ta
vô dục mà dân chất phác” (sđd, chương 57). Do đó, cần phải xóa bỏ mọi lễ giáo, pháp luật, văn hóa,
kỹ thuật, nghệ thuật… Nói chung, bỏ tất cả những gì do con người sáng tạo ra trái với bản tính tự nhiên thuần phác.
Tư tưởng “vô vi” chủ trương thực hiện triệt để chính sách ngu dân, “không làm cho dân sáng
mà làm cho dân ngu” (sđd, chương 65); “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” (sđd, chương 18). Bởi hiểu
biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều thì ham muốn càng nhiều, càng muốn tranh
đoạt và xâm phạm lẫn nhau, làm trái với đạo tự nhiên. Con người càng “theo học thì càng phiền
phức, mà theo đạo thì ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (sđd, chương 48). Cũng
như: “Không chuộng hiền khiến dân không tranh, không trọng vật nên dân không trộm cướp, không
thấy vật đáng ham khiến lòng dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc thánh nhân là làm cho dân
lòng trống, bụng no, ý chí yếu, xương cốt mạnh, thường khiến dân không biết, không muốn” (sđd, chương 3).
2.3. Một số tư tưởng biện chứng:
Quan điểm biện chứng của Đạo gia được thể hiện ngay trong tư tưởng về Đạo, nơi cội nguồn
của mối liên hệ phổ biến và sự vận động biến đổi của vũ trụ vạn vật, mà nguồn gốc là do các mối
liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập; cách thức là khi phát triển đến tột đỉnh rồi sẽ trở
thành cái đối lập, tương phản với chính nó; khuynh hướng của sự vận động biến đổi là sự trở về với Đạo.
Đặc biệt, thông qua tư tưởng biện chứng đó, Đạo gia đã khái quát thành hai quy luật căn bản chi
phối toàn bộ vũ trụ vạn vật, đó là luật quân bình và luật phản phục.
2.3.1. Luật quân bình (luật bù trừ):
Bắt nguồn từ tư tưởng Dịch học (quẻ Thái), nói về thế cân bằng, trung dung trong trời đất; là
trạng thái trời đất giao hòa, muôn vật hanh thông, vũ trụ vạn vật vận động biến đổi theo một trật tự
điều hòa, tự nhiên, không có gì thái quá hay bất cập, “gãy thì liền, cong thì thẳng, trống thì đầy, cũ
thì mới, ít thì được, nhiều thì mất” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 22); “Đạo của trời bớt chỗ dư bù
chỗ thiếu” (sđd, chương 42); “Một âm một dương”; “rắn thì nát, nhọn thì nhụt” (Trang Tử, Nam Hoa kinh).
Thế quân bình của Đạo được ví như nước, mềm mại và linh hoạt, làm bằng phẳng tất cả. Nước
ở chỗ thấp, là nơi chỗ cao đổ về, là “nơi thiên hạ họp về”, như biển mênh mông rộng lớn, không gì
không thể chứa đựng. “Trong thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước, mà công phá vật rắn mạnh
thì không gì hơn được nó, không lấy gì thay thế được nó” (Lão Tử, Đạo đức kinh, chương 78).
Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ, thì vạn vật sẽ rối
loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại, chẳng khác nào “nhón gót lên thì không đứng vững, xoạc
chân ra thì không bước được…”.
2.3.2. Luật phản phục: 20
Quan niệm cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với chính nó; sự vật khi
phát triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ đi ngược lại để trở thành tính
chất tương phản. Điều đó cần phải hiểu theo hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa có tính chất tuần hoàn, đều đặn, nhịp nhàng
và tự nhiên của vạn vật, như hết ngày đến đêm, hết đêm sang ngày, trăng tròn lại khuyết, trăng
khuyết lại tròn… Vạn vật cứ mập mờ, thấp thoáng, khi đầy khi vơi, lúc sinh lúc tử… Đó là vòng
biến đổi tuần hoàn bất tận.
Nghĩa thứ hai, phản phục là sự vận động trở về với Đạo (“phản giả đạo chi động”), “đến chỗ
cùng cực hư không là giữ vững được trong cái tĩnh. Vạn vật cùng đều sinh ra, ta lại thấy nó trở về
với gốc. Ôi! Mọi vật đều trùng trùng trở về với cội rễ của nó. Trở về với cội rễ gọi là tĩnh, thế gọi là
quay về với mạng” (Đạo đức kinh, chương 16). Sự trở về với Đạo của vạn vật chính là sự trở về với
trạng thái tự nhiên, nguyên sơ, tĩnh lặng, trống rỗng… Đó là tất yếu và không thể cưỡng lại. “Đạo
pháp tự nhiên” là vậy. Mọi sự can thiệp vào Đạo – luật tự nhiên – nhất định sẽ thất bại.
3. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
Những tư tưởng triết học cơ bản của Đạo gia tuy đã được xây dựng cách đây hơn hai ngàn năm,
và tất nhiên có không ít hạn chế, nhưng đến nay vẫn còn ý nghĩa thiết thực về mặt phương pháp
luận, gợi mở cho chúng ta nhiều điều cả trong hoạt động nhận thức lẫn trong hoạt động thực tiễn.
3.1. Trong hoạt động nhận thức:
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia nêu trên đã cung cấp cho chúng ta một số hạt
nhân hợp lý về sự tồn tại, vận động và biến đổi không ngừng của thế giới khách quan, độc lập với ý
thức con người. Thế giới ấy thống nhất trong đa dạng và phong phú, thể hiện ra muôn hình vạn
trạng, với các mặt đối lập và vô vàn các mối liên hệ. Thế giới ấy không do ai sáng tạo ra hoặc chi
phối nó dưới bất kỳ hình thức nào, mà tự sinh thành và hoạt động theo những quy luật tự nhiên vốn có.
Do đó, trong hoạt động nhận thức, con người cần tránh lối tư duy gán ghép, máy móc, siêu
hình, áp đặt chủ quan đối với mọi sự vật hiện tượng tự nhiên… Mà phải nhận thức cái khách quan, cái bản tính tự
nhiên thuân phác, vốn có của nó.
Đồng thời, thông qua luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đã cung cấp nhân sinh
quan và nghệ thuật sống mang tính nhân văn sâu sắc, có tác dụng an ủi con người hài lòng và hạnh
phúc với những gì mình có trong cuộc sống, không nên ham muốn, mơ tưởng hão huyền.
Mặc dù quan điểm “vô vi” về chính trị - xã hội của Đạo gia mong muốn quay ngược bánh xe
lịch sử trở về chế độ công xã nguyên thủy ở giai đoạn cuối, nhưng đã hé lộ cho chúng ta những khát
vọng chân chính về một xã hội công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi bất công, áp bức, bóc lột, không
còn chế độ tư hữu và nhà nước, con người được sống tự do… Nó khiến chúng ta liên tưởng tới và
rất có thể là nguồn gốc lịch sử gián tiếp cho những tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng ở Tây Âu sau này.
Với ý nghĩa đó, nếu chúng ta biết rút ra bài học từ những hạt nhân tư tưởng tích cực và tiến bộ,
thì nó sẽ cung cấp cho chúng ta những cơ sở quan trọng để xây dựng và phát triển quan điểm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử; chống lại chủ nghĩa duy tâm, quan điểm siêu hình… Ngược lại,
nếu nhìn về những mặt hạn chế, nó sẽ dẫn chúng ta đến với chủ nghĩa duy tâm thần bí về “đạo”, tư
tưởng biện chứng tuần hoàn thô thiển, chủ nghĩa khách quan tuyệt đối, thuyết bất khả tri…
3.2. Trong hoạt động thực tiễn:
Những quan điểm triết học cơ bản của Đạo gia đã góp phần chỉ ra cho chúng ta, trong hoạt động
thực tiễn, con người cần phải tôn trọng quy luật khách quan, nắm vững và vận dụng phù hợp các
quy luật tự nhiên vào cuộc sống, nếu không sẽ phải trả giá và chuốc lấy hậu quả khôn lường, như
Lão Tử cảnh báo: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt” (Đạo đức kinh, chương 73). 21
Đặc biệt, Đạo gia yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải “thuận theo tự nhiên”,
không được làm trái quy luật tự nhiên, không được cải tạo tự nhiên theo những toan tính lợi ích tầm
thường của mình. Điều này có tính thời sự đặc biệt và sâu sắc trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn
cầu hiện nay, với thiên tai và dịch bệnh luôn đe dọa nghiêm trọng, cộng thêm những bất ổn về chính
trị - xã hội, một hệ lụy trực tiếp từ quá trình con người “nhân tạo hóa thiên nhiên”, tạo dựng một nền
“văn minh” không tương thích với bản tính tự nhiên của vũ trụ vạn vật.
Đồng thời, trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải biết quý trọng mọi sự sống nói chung,
gắn với quý trọng môi trường tự nhiên, không được tàn sát sinh vật và hủy hoại môi trường một cách tùy tiện.
Bên cạnh đó, với việc chỉ ra luật quân bình (bù trừ) và luật phản phục, Đạo gia đòi hỏi con
người cần tránh mọi cực đoan, thái quá, nóng vội, chủ quan duy ý chí… Mà phải luôn luôn tạo dựng
sự cân bằng, hợp lý, tự nhiên; khách quan nhưng không ỷ lại, thụ động trước các điều kiện khách
quan, không nên “cầm đèn chạy trước ô tô”…
Đạo gia còn dạy con người phải biết sống khiêm tốn, giản dị, mà vẫn ung dung, tự tại, không lo
sợ, không đau buồn… trước mọi biến động xảy ra trong đời; không tham lam, vụ lợi, giả dối; không
đấu tranh, giành giật; không đua đòi, bon chen, đố kỵ… Mà cần phải sống hòa nhã, trung dung,
ngay thẳng, tự nhiên thuần phác, “thản nhiên mà đến, thản nhiên mà đi”…
Tuy nhiên, nếu xét ngược lại, với những mặt tiêu cực và hạn chế, thì Đạo gia chủ trương con
người không nên tăng cường các hoạt động sáng tạo, không cần mở mang trí tuệ, chấm dứt cải tạo tự
nhiên và cải tạo xã hội, mà quay về sống như thời nguyên thủy, đúng với bản tính tự nhiên thuần
phác của một loài động vật bậc cao được sinh ra từ “đạo”… phủ nhận mọi hoạt động thực tiễn của con người.
Ngày nay, mặc dù tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã thay đổi vượt bậc, song những tư tưởng
triết học của Đạo gia vẫn có sức sống và tác động đáng kể đối với đời sống con người, đặc biệt ở
những nước vốn chịu sự ảnh hưởng truyền thống của nó
ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH GIA
Âm Dương và Ngũ hành là hai phạm trù quan trọng trong tư tưởng triết học Trung Hoa, là
những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự sản sinh biến hóa của vũ trụ. Việc sử
dụng hai phạm trù Âm - Dương và Ngũ hành đánh dấu bước tiến bộ tư duy khoa học đầu tiên nhằm
thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng do các khái niệm Thượng đế, Quỷ thần truyền thống đem lại.
Đó là cội nguồn của quan điểm duy vật và biện chứng trong tư tưởng triết học của người Trung Hoa.
- Tư tưởng triết học về Âm - Dương
"Dương" nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời hay những gì thuộc về ánh sáng mặt trời và ánh
sáng; "Âm" có nghĩa là thiếu ánh sáng mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối. Về sau, Âm - Dương
được coi như hai khí; hai nguyên lý hay hai thế lực vũ trụ: biểu thị cho giống đực, hoạt động, hơi
nóng, ánh sáng, khôn ngoan, rắn rỏi, v.v. tức là Dương; giống cái, thụ động, khí lạnh, bóng tối, ẩm
ướt, mềm mỏng, v.v. tức là Âm. Chính do sự tác động qua lại giữa chúng mà sinh ra mọi sự vật,
hiện tượng trong trời đất. Trong Kinh Dịch sau này có bổ sung thêm lịch trình biến hóa của vũ trụ có
khởi điểm là Thái cực. Từ Thái cực mà sinh ra Lưỡng nghi (âm dương), rồi Tứ tượng, rồi Bát quái.
Vậy, nguồn gốc vũ trụ là Thái cực, chứ không phải Âm Dương. Đa số học giả đời sau cho Thái cực
là thứ khí "Tiên Thiên", trong đó tiềm phục hai nguyên tố ngược nhau về tính chất là Âm - Dương.
Đây là một quan niệm tiến bộ so với quan niệm Thượng đế làm chủ vũ trụ của các đời trước.
Hai thế lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà thống nhất, chế ước lẫn nhau theo các nguyên lý sau:
- Âm - Dương thống nhất thành thái cực. Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, tính chỉnh thể,
cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất biến và biến đổi. 22
- Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm -
Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Các nguyên lý trên được khái quát bằng vòng tròn khép kín, có hai hình đen trắng tượng trưng
cho Âm Dương, hai hình này tuy cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau nhưng ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau.
- Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Từ "Ngũ hành" được dịch là năm yếu tố. Nhưng ta không nên coi chúng là những yếu tố tĩnh
mà nên coi là năm thế lực động có ảnh hưởng đến nhau. Từ "Hành" có nghĩa là "làm", "hoạt động",
cho nên từ "Ngũ hành" theo nghĩa đen là năm hoạt động, hay năm tác nhân. Người ta cũng gọi là
"ngũ đức" có nghĩa là năm thế lực. "Thứ nhất là Thủy, hai là Hỏa, ba là Mộc, bốn là Kim, năm là Thổ.
Cuối Tây Chu, xuất hiện thuyết Ngũ hành đan xen. Ngũ hành được dùng để giải thích sự sinh
trưởng của vạn vật trong vũ trụ. "Thổ mộc hỏa đan xen thành ra trăm vật", "hoà hợp thì sinh ra vật,
đồng nhất thì không tiếp nối" (Quốc ngữ - trịnh ngữ). Tức là nói những vật giống nhau thì không thể
kết hợp thành vật mới, chỉ có những vật có tính chất khác nhau mới có thể hóa sinh thành vật mới.
Tiếp theo là thuyết Ngũ hành tương thắng, rồi xuất hiện thuyết Ngũ hành tương sinh đã bổ khuyết
chỗ chưa đầy đủ của thuyết Ngũ hành đan xen.
Tư tưởng Ngũ hành đến thời Chiến Quốc đã phát triển thành một thuyết tương đối hoàn chỉnh là
"Ngũ hành sinh thắng". "Sinh" có nghĩa là dựa vào nhau mà tồn tại, thắng có nghĩa là đối lập lẫn nhau.
Như vậy, tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng phân tích cấu trúc của vạn vật và quy nó
về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, nhưng tương tác với nhau.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh - khắc
với nhau theo hai nguyên tắc sau:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh
Hỏa; Hoả sinh Thổ, v.v..
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc
Mộc; và Mộc khắc Thổ, v.v..
Thuyết Âm Dương và Ngũ hành được kết hợp làm một vào thời Chiến Quốc đại biểu lớn nhất
là Trâu Diễn. Ông đã dùng hệ thống lý luận Âm Dương Ngũ hành "tương sinh tương khắc" để giải
thích mọi vật trong trời đất và giữa nhân gian. Từ đó phát sinh ra quan điểm duy tâm Ngũ đức có
trước có sau. Từ thời Tần Hán về sau, các nhà thống trị có ý thức phát triển thuyết Âm Dương Ngũ
hành, biến thành một thứ thần học, chẳng hạn thuyết "thiên nhân cảm ứng" của Đổng Trọng Thư,
hoặc "Phụng mệnh trời" của các triều đại sau đời Hán.
2. Giá trị và hạn chế
Thuyết Âm dương ngũ hành đã đươc Đổng Trọng Thư kết hợp để giải thích các hiện tượng tự
nhiên, xã hội, con người. Theo ông, giữa con người và tự nhiên có một mối quan hệ thần bí. Khi giải
đáp về khởi nguồn, kết cấu của vũ trụ, ông đã sáng tạo ra một vị thần có nhân cách đứng trên cả vũ
trụ, có ý thức và đạo đức đó là trời. Theo ông, trong vũ trụ con người là sự sáng tạo đặc biệt của trò
vượt lên vạn vật, tương hợp với trời, trời có bốn mùa, con người có tứ chi. Từ thuyết "thiên nhân
hợp nhất", ông đã dẫn dắt ra mệnh đề "thiên nhân cảm ứng", cho rằng thiên tai là do trời cảnh cáo
loài người. Ông còn lợi dụng quan điểm định mệnh trong học thuyết âm dương ngũ hành để nói rằng
"dương thiên, âm ác". Tuy Đổng Trọng Thư đưa ra phạm trù "khí", "âm dương", "ngũ hành" để giải
thích quy luật biến hóa của thế giới, song ông lại cho rằng những thử khí ấy bi ý chí của thượng đế
chi phối. Triết học của ông có màu sắc mục đích luận rõ nét. Bên cạnh đó ông còn nói trời không
đổi, đạo cũng không đổi để phủ nhận sự phát triển và biến hóa của thế giới khách quan. 23
Tác phẩm "Hoàng Đế Nội kinh" đã sử dụng triết học âm dương ngũ hành làm hệ thống lý luận
của y học. Tác phẩm này đã dùng học thuyết trên để giải thích mối quan hệ giữa con người với trời
đất: coi con người và hoàn cảnh là một khối thống nhất, con người chẳng qua là cơ năng của trời và
đất thu nhỏ lại, con người không thể tách rời giới tụ nhiên mà sinh sống được, con người với giới tự
nhiên là tương ứng. Tự nhiên có âm dương ngũ hành thì con người có "thủy hỏa" ngũ tạng. Nội kinh
viết: "âm dương là quy luật của trời đất tuy không thấy được nhưng chúng ta có thể hiểu được nó
thông qua sự biểu hiện của thủy hỏa khí huyết, trong đó hỏa khí thuộc dương, thủy huyết thuộc âm".
Tác phẩm này còn dùng các quy luật âm dương ngũ hành để giải thích mối quan hệ giữa các phú
tạng trong cơ thể. Tác phẩm đã vãn dụng sự kết hợp giữa học thuyết âm dương với học thuyết ngũ
hãnh để giải thích các hiện tượng tự nhiên cũng như các biểu hiện trong cơ thể con người và mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đây là một quan điểm hoàn chỉnh và là một điển hình của phép biện chứng thô sơ.
Học thuyết âm dương đã nói rõ sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan với hai mặt
đối lập thống nhất đó là âm dương. Âm dương là quy luật chung của vũ trụ, là kỉ cương của vạn vật,
là khởi đầu của sự sinh trưởng, biến hóa. Nhưng nó sẽ gặp khó khăn khi lý giải sự biến hóa, phức
tạp của vật chất. Khi đó nó phải dùng thuyết ngũ hành để giải thích. Vì vậy có kết hợp học thuyết
âm dương với học thuyết ngũ hành mới có thể giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách hợp lý.
Hai học thuyết này luôn luôn phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời. Muốn
nhìn nhận con người một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết hợp cả hai học thuyết âm dương
và ngũ hành. Vì học thuyết âm dương mang tính tổng hợp có thể nói lên được tính đối lập thống
nhất, tính thiên lệch và cân bằng của các bộ phận trong cơ thể con người, còn học thuyết ngũ hành
nói lên mối quan hệ phức tạp, nhiều vẻ giữa các yếu tố, các bộ phận của cơ thể con người và giữa
con người với tự nhiên. Có thể khẳng định, trên cơ bản, âm dương ngũ hành là một khâu hoàn chỉnh,
giữa âm dương và ngũ hành có mối quan hệ không thể tách rời.
Âm dương ngũ hành là những phạm trù cơ bản trong tư tưởng của người Trung Quốc cổ đại. Đó
cũng là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa để giải thích sụ sinh thành, biến hóa của
vũ trụ. Đến thời Chiến quốc, học thuyết âm dương ngũ hành đã phát triển đến một trình độ khá cao
và trở thành phổ biến trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Song học thuyết âm dương ngũ hành
cũng như các học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại là thế giới quan của người Trung Hoa ở vào
một thời kỳ lịch sử đã lùi vào dĩ vãng, lúc đó lực lượng sản xuất và khoa học còn ở trình độ thấp,
cho nên không khỏi có những hạn chế do những điều kiện lịch sử đương thời quy định Đặc biệt, sự
phát triển của nó chưa gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên cận hiện đại, nó còn mang
dấu ấn của tính trực giác và tính kinh nghiệm. Song học thuyết đó đã trang bị cho con người tư
tưởng duy vật khá sâu sắc và độc đáo nên đã trở thành lý luận cho một số ngành khoa học cụ thể. 24
Câu 10. Nêu khái quát tư tưởng triết học của các trường phái Samkhuya, Mimansa, Lokayta
và nhận định các giá trị,hạn chế của các trường phái đó 1.Đặt vấn đề
Trong thời kì cổ đại, CNDV đã thu được nhiều thành tựu giúp xác lập chỗ đứng và tạo nên
nền tảng vững chắc là cơ sở cho sự phát triển của CNDV những giai đoạn sau. Xuất phát từ sự
quan sát thực tế, CNDV thời kì cổ đại đã đưa ra nhiều quan điểm đúng đắn nhưng mang tính ngây
thơ, chất phác. Trong thời kì cổ đại ở phương Đông nổi lên có triết học Ấn Độ và Trung Quốc. 2.Nội dung
Ở Ấn Độ những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị và khoa học…là những cơ sở cho sự phát
sinh và phát triển của những tư tưởng triết học. Mặc dù xuất hiện từ rất sớm nhưng triết học Ấn
Độ chỉ thực sự xuất hiện vào cuối giai đoạn Vesda với những thành tựu nổi bật là sự ra đời của 9 trường phái triết học
Triết học có 9 phái: 6 phái chính thống & 3 tà giáo. + 6 phái chính thống Samkhya, Vaisesika, Nyaya, Yoga, Mymansa, Vedanta. + 3 phái tà giáo Lokayata, Buddhism, Jaina.
A. Trường phái Samkhya (Số luận)
Trường phái Samkhya bắt nguồn từ tư tưởng triết học ở nhiều tác phẩm rất cổ xưa. Lý luận về bản
nguyên vũ trụ là tư tưởng triết học trung tâm của trường phái này.
Ưu điểm: Những nhà tư tưởng của phái Samkhya sơ kỳ đã bộc lộ những tư tưởng có tính duy
vật và ít nhiều biện chứng về bản nguyên hiện hữu. Họ đưa ra học thuyết về sự tồn tại của kết quả
trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân
trong kết quả. Họ cho rằng loại nào có nguyên nhân của loại ấy với luận điểm nổi tiếng " Trồng
Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi". Từ đó, trong quan niệm về sự hình thành sự vật, họ cho
rằng nếu vạn vật của thế giới này là vật chất thì yếu tố tạo nên vạn vật với tính cách là nguyên
nhân cũng phải là vật chất; đó là "vật chất đầu tiên"(Prakriti) - một dạng vật chất không thể dùng
cảm giác mà có thể biết được. Thế giới vật chất là thể thống nhất của ba yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng,
vui tươi); Rajas (kích thích, động); Tamas (nặng, ỳ). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng thì
Prakriti ở trạng thái chưa biểu hiện - tức là trạng thái không thể trực quan được. Nhưng khi sự cân
bằng bị phá vỡ thì đó là điểm khởi đầu của sự sinh thành vạn vật của vũ trụ.
Trái lại, các nhà tư tưởng của phái Samkhya hậu kỳ lại có khuynh hướng nhị nguyên luận khi
thừa nhận sự tồn tại song song của hai yếu tố đầu tiên là vật chất (Prakriti) và tinh thần (Purusa).
Yếu tố tinh thần (Purusa) mang tính phổ quát vĩnh hằng và bất biến, nó truyền sinh khí, năng
lượng và biến hóa vào yếu tố vật chất. ở con người, khi tinh thần chiếu rọi vào Sattva thì sinh ra trí
tuệ; khi tinh thần chiếu rọi vào Rajas thì sinh ra vận động; khi tinh thần chiếu rọi vào Tamas thì sinh ra hình thể.
Hạn chế: Về bản chất con người, phái Samkhya cho rằng con người có sự ý thức về mình.
Chính vì vậy mà họ nảy sinh ra những lo lắng, ham muốn và hành động để đạt đến cái "tôi". Do
đó tinh thần con người không thoát ra được, luôn bị chìm đắm trong vòng luân hồi, khổ não. 25
Muốn giải thoát, con người phải dùng phương pháp Yoga.
B. Trường phái Mimansa
Kinh điển của triết học Mimansa là "Mimansa - Sutra". Một đại biểu lớn của trường phái này
là Sabara, người viết chú giải cho "Mimansa - Sutra".
Các nhà triết học Mimansa dựa vào tư tưởng triết học - tôn giáo của Véđa, nhưng coi Véđa
như các tập công thức hay thần chú về nghi lễ. Mimansa sơ kỳ không thừa nhận sự tồn tại của
thần. Theo Sabara thì chúng ta thiếu chứng cứ về sự tồn tại của thần và cảm giác không nhận thức
được thần. Nhưng cảm giác lại được coi là nguồn gốc của mọi tri thức khác. Phái Mimansa không
phản đối việc coi thần linh như cái tên hay âm thanh cần thiết cho các câu thần chú của nghi lễ.
Nghi lễ không phải là hành động khẩn cầu, sùng bái thần linh, mà nghi lễ tự nó có sức mạnh, có
thể đưa lại hiệu quả. Họ hiểu nghi lễ như một hành động ma thuật. Tuy nhiên, tinh thần duy vật và
vô thần của phái Mimansa không được tiếp tục phát triển. Những nhà triết học Mimansa hậu kỳ đã
thừa nhận sự tồn tại của thần.
Về nguồn gốc thế giới, phái Mimansa có quan điểm duy vật cho rằng thế giới được sinh ra từ các nguyên tử (Anu)
Ưu điểm: Phái Mimansa coi đời người là khổ và vấn đề đặt ra là phải thoát khỏi nỗi khổ ấy.
Họ chủ trương thoát khổ bằng cách duy trì các nghi lễ, đặc biệt là lễ "Hiến sinh". Họ cho rằng cần
phải biết kết hợp lòng tin và kiến thức để đạt đến giải thoát. Có hai con đường để tạo kiến thức là
bằng giác quan và bằng suy luận.
Hạn chế: Khi giải quyết mối quan hệ giữa tinh thần với thể xác, họ lại đứng trên lập trường
duy tâm coi tinh thần tồn tại mãi mãi, còn thể xác thì mất đi.
C. Trường phái triết học Lokayata và phong trào tư do tư tưởng ở Đông Ấn
Đông ấn là vùng đồng bằng sông Hằng với điều kiện tự nhiên, khí hậu điều hòa, đất đai phì nhiêu,
màu mỡ thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, công, thương mại và kỹ nghệ tạo nên
những khu đô thị, những trung tâm kinh tế, buôn bán sầm uất trong nước cũng như giao lưu với
bên ngoài, hình thành những tầng lớp điền chủ, đại công thương làm chủ về kinh tế, về tư tưởng
và sinh hoạt xã hội. Trên cơ sở đó đã nảy sinh những tư tưởng triết học mới với những trường phái
triết học duy vật, vô thần. Họ cố gắng giải thích thế giới bằng các sự vật, hiện tượng của tự nhiên
như nước, lửa, không khí, đất..., phủ nhận linh hồn bất tử và đưa ra các khái niệm, phạm trù của
triết học. Đặc biệt trong các trào lưu duy vật, vô thần, hoài nghi tôn giáo và thần linh ấy là trường
phái triết học duy vật Lokayata.
Trong học thuyết về tồn tại, phái Lokayata cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong vũ
trụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành. Chúng có khả năng tự tồn tại, tự
vận động trong không gian để tạo thành vạn vật, kể cả con người. Tương ứng với bốn nguyên tố là
bốn nguyên tử đất, nước, lửa và không khí tồn tại ngay từ đầu, không thay đổi và không thể tiêu
diệt được. Mọi đặc tính của các vật thể đều phụ thuộc vào chỗ chúng là kết hợp của các nguyên tử
nào, vào số lượng và tỷ lệ kết hợp của các nguyên tử. ý thức, lý tính và các giác quan cũng xuất
hiện do sự kết hợp của các nguyên tử và sẽ mất đi khi sự kết hợp đó bị tan rã.
Ưu điểm: Về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, họ giải thích trên quan điểm duy vật thô
sơ, mộc mạc. Theo họ, ý thức là thuộc tính cố hữu của cơ thể; rời khỏi nhục thể thì người ta không
thể có ý thức. Khi con người chết đi, thể xác tan ra thì ý thức về "cái tôi" cũng hết.
Về đạo đức học, họ phê phán những thuyết tuyên truyền cho sự chấm dứt khổ đau bằng cách 26
kiềm chế mọi ham muốn, dục vọng và hy vọng cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia sau khi chết.
Họ chủ trương hãy để cho mọi người sống, hoạt động, hưởng thụ tất cả mọi thứ trong cuộc đời
nên đạo đức học của họ được gọi là "chủ nghĩa khoái lạc"
Hạn chế: Về nhận thức luận và lôgic học, phái Lokayata mang tính chất duy cảm, thừa nhận
cảm giác là nguồn gốc duy nhất xác thực của nhận thức. Chỉ có cái gì cảm giác biết được thì mới
tồn tại. Các giác quan có thể tri giác được sự vật bởi vì bản thân các giác quan cũng gồm các
nguyên tố giống như các sự vật. Theo họ, suy lý, kết luận hay những chứng minh của kinh Véđa
đều là những phương pháp sai lầm của nhận thức. Từ đó, họ phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, linh hồn. 3. Kết luận
Những thành tựu của chủ nghĩa duy vật ngây thơ, chất phác trong triết học Ấn Độ có ý nghĩa rất
lớn đến sự phát triển của chủ nghĩa duy vật nói chung và sự nhận thức của con người nói riêng về
thế giới. Những thành tựu này góp phần tạo thành bộ khung cơ bản nhất để mô tả thế giới. Những tư
tưởng của các nhà triết học phương Đông dù còn rất sơ khai nhưng bước đầu nó đã cho thấy quan hệ
biện chứng trong tự nhiên và mối quan hệ biện chứng trong xã hội.
CHƯƠNG II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MAC
Câu 11. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa triết học phương Đông cổ đại (mà Ấn Độ và
Trung Quốc là đại biểu) và triết học phương Tây cổ đại( mà hy Lạp là đại biểu)
Thứ nhất, đó là Triết học phương Đông nhấn mạnh vào sự thống nhất trong mối quan hệ giữa
con người và vũ trụ với công thức thiên địa nhân, là một nguyên tắc ‘thiên nhân hợp nhất’. Đối với
phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, là chúa tể để
nghiên cứu chinh phục vũ trụ - thế giới khách quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khác nhau
dẫn đến hướng nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau :
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần túy mà thường
đan xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại
và phát triển cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có những thời kỳ
người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học như triết học Trung Hoa đan xen với chính
trị lý luận, còn triết học Ấn Độ lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật. Nói chung, ở phương Đông thì
triết học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây, ngay từ thời kỳ đầu, triết học đã là một khoa học độc lập với các môn khoa học
khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình : khoa
học muốn tồn tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo hội.
Thứ ba, lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy vọt về chất có tính vach ra ở
các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn Độ, cũng như Trung Quốc, các
trường phái có từ thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi cho tời ngày nay (từ thế kỷ VIII – V trước công nguyên đến thế kỷ 19).
Ngược lại, ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh các
truờng phái cũ lại có những trường phái mới ra đời, có tính chất vạch thời đại như thời cổ đại bên
cạnh trường phái Talét, Hêraclit,… đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà
Lan, triết học cổ điển Đức, v.v. Và hơn nữa, cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính chất
quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, sự phân chia trường phái triết học cũng khác :
Ở phương Đông, đã xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện chứng, siêu hình không
rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy 27
vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới quan thiết nhất quán,
thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại, triết học phương Tây có sự phân chia các trường phái rõ nét hơn và các hình thức tồn
tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cũng khác so với triết học phương Tây ở 3 mảng : -
Về bản thể luận : phương Tây dùng thuật ngữ ‘giới tự nhiên’, ‘bản thể’, ‘vật chất’.
Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ ‘thái cực’, đạo sắc, hình, vạn pháp,… hay ngũ hành :
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, ….để nói về bản chất của vũ trụ, đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ
giữa con người và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù khách thể - chủ thể, con người với tự
nhiên, vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy. Còn phương Đông ại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí –
khí, hình – thần. Trong đó, hình – thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất. -
Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới : phương Tây dùng thuật ngữ ‘biện chứng’
siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu tranh cái động là chính. Đối với
phương Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã, và lấy cái
thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc – là vì phương Đông triết học được xây dựng trên quan điểm vũ
trụ là một, phải mang tính nhịp điệu. -
Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì phương Tây
dùng thuật ngữ ‘liên hệ’, ‘quan hệ’, ‘quy luật’. Còn phương Đông dùng thuật ngữ ‘đạo’, ‘lý’,
‘mệnh’, ‘thần’, cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính
nhịp điệu, tính quy luật, tính xoắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi...Có nhịp điệu là
hài hòa âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn ốc…
Thứ sáu, tuy cả hai dùng triết học phương Đông và phương Tây đều nhằm giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học nhưng phương Tây nghiêng nặng về giải quyết mặt thứ nhất, còn mặt thứ hai chỉ
giải quyết những vấn đề có liên quan. Ngược lại, ở phương Đông, nặng về giải quyết mặt thứ hai
cho nên dẫn đến hai phương pháp tư duy khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nên tư duy tất định – tư duy vật lý chính xác nhưng
lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các
ẩn dụ triết học với những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu cách nào
cũng được, nó gói được cả cái ngẫu nhiên mà ngày nay khoa học gọi là khoa học hỗn mang – dự báo.
Câu 12. Trình bày những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại. Trong đó đặc điểm
nào được coi là quan trọng nhất.? vì sao? Phân tích những nội dung chính của sự đối lập giữa
đường lối Đêmôcrit và “đường lối Platon”
Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Quá trình lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ đại gắn liền với
sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự phân chia xã hội thành giai
cấp , sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân tay đã dẫn tới sự hình
thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên nghiệp chuyên nghiên cứu về khoa học, triết học.
Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào lúc xã hội này đã phát triển lên chế độ chiếm hữu nô lệ
với hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ nên nó là hệ tư tưởng, là thế giới quan của giai cấp chủ nô
thống trị, đồng thời nó còn là công cụ bảo vệ, duy trì địa vị, quyền lợi của giai cấp chủ nô, là công
cụ nô dịch, đàn áp các giai cấp khác về mặt tư tưởng. Bên cạnh tính giai cấp rõ rệt đó, triết học Hy
Lạp cổ đại coi trọng, đề cao vai trò của con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá. Do là một
trong những nền triết học mở đường trong lịch sử triết học nhân loại hơn nữa các quan niệm triết
học được rút ra trên cơ sở suy luận, suy đoán từ sự quan sát trực tiếp các sự kiện xảy ra trong tự 28
nhiên, trong xã hội nên triết học Hy Lạp cổ đại mang nặng tính sơ khai, chất phác, ngây thơ. Tuy
nhiên, từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học sau này đã nhìn thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm
mống của tất cả các kiểu thế giới quan sau này và xem nó là một đỉnh cao của triết học nhân loại.
Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, tuỳ từng không gian địa lý cụ thể mà triết học Hy Lạp cổ đại
chia thành các trường phái và các giai đoạn phát triển khác nhau.
Có thể nói nền triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp
xướng của triết học phương tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân loại
làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương tây sau này.
Nhìn chung triết học Hy Lạp có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất của nhận thức nhân
loại từ PTSX thứ nhất đến PTSX thứ hai ở phương Tây vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề
cơ bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dầu
chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn hình muôn
vẻ…Ph. Ăngghen nhận xét như sau: “Chính vì trong các hình thức muôn vẻ của triết học Hi Lạp đã
có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hi Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, coi trọng vấn đề về con người.
Nó khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy, con
người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, Triết học Hi Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà biện chứng sơ khai, cố
gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường xuyên vận động và biến đổi
không ngừng. Gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực
khác nhau, nhằm xây dựng một bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự
vật, hiện lại xảy ra trong nó.Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại
đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Đây cũng chính là đặc điểm qun trọng nhất
của Triết học Hi Lạp cổ đại, là nền tảng cơ bản cho phép suy luận biện chứng sau này.
-Thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị.
- Có sự phân chia và các sự đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái, duy vật - duy tâm, biện
chứng - siêu hình, vô thần - hữu thần.
Triết học cổ Hy Lạp mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Tách ra khỏi yếu tố thần linh
thống trị con người từ xưa, đỉnh cao của triết học cổ Hy Lạp là triết gia Socrate.
Như vậy, nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề cơ bản của triết
học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải quyết theo nội dung của thời đại
mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về sau này. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những
thành tựu triết học cơ bản của nó xứng đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của loài người.
Phân tích những nội dung chính của sự đối lập giữa đường lối Đêmôcrit và “đường lối Platon” 29 ĐÊMOCRITE (khoảng 460-370)
Chiếm vị trí nổi bật trong triết học Hi Lạp cổ đại là khuynh hướng nguyên tử luận mà đại biểu là
Lơxip và Đêmocrit. Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời cổ đại.Ông cho rằng, tất
cả mọi vật đều hình thành từ nguyên tử, đó là phần tử vật chất bé nhỏ, cơ sở của mọi vật và không
phân chia được nữa. Học thuyết nguyên tử của Đêmôcrit là thành quả vĩ đại của tư tưởng duy vật
trong thế giới cổ đại. Những tư tưởng vũ trụ học của ông xây dựng trong lý luận nguyên tử về cấu
tạo vật chất và thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát có một ý nghĩa sâu sắc đối với lịch sử triết học.
Thừa nhận vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmocrit cho rằng có vô số thế giới vĩnh viễn phát sinh,
phát triển và tiêu diệt.
Ông phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất, đó là một phỏng đoán thiên tài. Theo ông,
vận động của những nguyên tử là vĩnh viễn, không có điểm kết thúc.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrits nêu ra khái niệm không gian. Theo ông, không gian
là khoảng chân không rộng lớn, trong đó những nguyên tử vận động vĩnh viễn. Không gian là những
khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật thể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết
nguyên tử, Đêmmocit cho rằng không gian là gián đoạn và có thể phân chia vô tận.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcit là quyết định luận (thừa nhận sự ràng buộc theo
luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm chống lại mục đích luận (là quan
điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên không phải là tính nhân quả mà có tính mục
đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tất yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong
những thành quả có giá trị nhất của triết học duy vật Hi Lạp cổ đại.
Đêmocrit có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt ra và giải quyết một
cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của
nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của Đêmôcrit là chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng sở dĩ con người
tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượng khủng khiếp của tự nhiên. Theo
ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những hiện tượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con
người. Thí dụ, mặt trời mà tôn giáo Hi Lạp đã thần thánh hoá thì ông cho đó chỉ là một khối lửa.
Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan niệm duy vật về tự
nhiên. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của triết học duy vật.
Đối lập với chủ nghĩa duy vật Hi Lạp cổ đại là chủ nghĩa duy tâm trong triết học mà đại biểu lớn nhất là Platôn. PLATÔN (427-347)
Platôn là người dầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan,
đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật
đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclit, Đêmôcrit. 30
Theo Platôn, giới tự nhiên-thế giới của những vật cảm tính-bắt nguồn từ những thực thể tinh thần
tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm. Ông cho rằng, để nhận thức
được chân lý người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình cảm tính; phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh
hồn bất tử quan sát được trong thế giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên cơ
sở học thuyết về linh hồn bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.
Nếu ở Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở Platôn phép biện chứng
lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platôn chống lại đường lối Đêmôcrit trong triết học Hi
Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các
quan hệ toán học. Đạo đức học của ông được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một
hình thức của lý luận tôn giáo, là bộ phạn quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc.
Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Aten, Platôn coi “chế độ quý tộc” tức là chế độ nhà
nước của tầng lớp thượng lưu là “nhà nước lý tưởng”.
Triết học Platon được nhiều nhà triết học thời trung cổ và sau đó, nhiều nhà duy tâm thời cận
đại lặp lại dưới những hình thức cải biên…nhằm phục hồi và đẩy cao tính duy tâm mà Platôn mắc
phải làm cho nó trở nên thần bí hơn với khẩu hiệu “trở về với Platôn”.
Câu 13. Nêu lên những nội dung cơ bản của Triết học Tây âu thời Trung cổ. Vì sao Triết
học Tây Âu thời trung cổ, nhìn chung là một bước lùi so với Triết học Cổ đại?
Câu 14. Trình bày những đóng góp của triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng đối với sự phát
triển của triết học nhân loại
Những đóng góp của triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng đối với sự phát triển của triết học nhân
loại thông qua những tư tưởng sau:
+ Tư tưởng triết học về tự nhiên:
Triết học tự nhiên là triết học phản kinh viện, được hình thành trong bối cảnh khoa học tự nhiên
đã đạt được những thành tựu to lớn. Kết quả của tư tưởng triết học tự nhiên thời kỳ là: những
phương pháp nghiên cứu tự nhiên bằng toán học thực nghiệm; giải thích hiện thực theo quan điểm
quyết định luận đối lập với việc giải thích tự nhiên theo quan điểm mục đích luận của các nhà triết
học kinh viện; đề ra những định luật khoa học không dính dáng tới những yếu tố của thuyết hình
nhân. Các kết quả này đã chứng minh sự phá sản phương pháp nhận thức tự nhiên của chủ nghĩa
kinh viện, chính là sự chiến thắng của thế giới quan duy vật.
+ Tư tưởng triết học về con người:
Thời kỳ phục hưng đã hình thành các thuyết triết học về nguồn gốc lịch sử, sự phát triển các
mặt của con người, về chủ nghĩa nhân đạo, về thuyết giải phóng cá nhân ra khỏi các tín điều, các
quy định của nhà thờ… Các học thuyết này, đặc biệt là học thuyết về chủ nghĩa nhân đạo và chủ
nghĩa cá nhân, đã đặc trưng cho tư tưởng của giai cấp tư sản đấu tranh chống chế độ phong kiến và
những quan điểm thần học thời trung cổ; tuyên bố tự do cá nhân con người, phản đối chủ nghĩa khổ
hạnh tôn giáo; có tính chống đẳng cấp của xã hội, chống nhà thờ và có tính đạo đức (tính đạo đức
sinh là lòng nhiệt thành, dũng cảm như một tư cách đạo đức cá nhân).
+ Tư tưởng triết học về chính trị và xã hội:
Sự hình thành quan điểm về xã hội học với đặc trưng là xã hội là tổng số những cá nhân riêng
lẻ. Bên cạnh đó, đã có những thí nghiệm táo bạo trong việc xây dựng học thuyết về nhà nước không
phụ thuộc vào nhà thờ. Các nhà triết học thời kỳ này đã đặt nền móng cho khoa học về nhà nước.
Các ông cho rằng chính trị đối lập và đứng trên tất cả mọi nền đạo đức. 31
Câu 15. Vì sao triết học Cận đại có tính máy móc siêu hình,thụ động-trực quan và duy vật ko
triệt để. Phân tích những nội dung chính của triết học ph.Becon và R.Đềcáctơ
Câu 16 . Phân tích và đánh giá những giá trị và hạn chế của triết học cổ điển Đức.Nêu rõ
những đóng góp của triết học cổ điển Đức đối với sự phát triển của triết học nhân loại
Những giá trị và đóng góp của triết học cổ điển Đức.
1. Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch
sử nhân loại. Triết học thời kì này đặc biệt đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người,
thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn về
những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận… đến chỗ coi con người như một chủ thể hoạt
động, là nền tảng và là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
Tuy có hạn chế là quá đề cao sức mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động của con người tới
mức cực đoan nhưng phải thấy rằng, một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là:
Thứ nhất, nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực
con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn
bộ nền văn minh do chính mình tạo ra.
Thứ hai, nó nghiên cứu tiến trình lịch sử của nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ
con người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
2. Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ
thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgic biện chứng, học thuyết về các
quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả các tìm tòi của họ đó là phép biện
chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong các di sản
triết học truyền thống từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở thành một phương
pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Trong đó
Canto la người đầu tiên chọc lỗ thủng đầu tiên vào quan niệm siêu hình về tự nhiên thống trị
trong khoa học. Đến Hêghen, ông đã phát hiện ra những quy luật và các phạm trù cơ bản của
phép biện chứng, xây dựng nó trở thành một khoa học về sự phát triển của tất thảy mọi sự vật và tư tưởng
3. Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, nhiều nhà triết học cổ điển
Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được từ trước tới
giờ. Tiếp thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVII trong việc phát triển tư duy lý luận và
hệ thống hoá toàn bộ tri thức con người, các nhà triết học từ Cantơ tới Hêghen đều có ý đồ
xây dựng một hệ thống triết học vạn năng của mình làm nền tảng cho toàn bộ thế giới quan
của con người, khôi phục lại các quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
4. Triết học cổ điển Đức là một trong những tiền đề lí luận cơ bản của triết học Mac, và
toàn bộ chủ nghĩa Mac – Lênin nói chung. Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển
Đức đã được triết học Mac khắc phục, kế thừa và nâng lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại.
Những hạn chế của triết học cổ điển Đức.
1. Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức là thể
hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng - khoa học về tư tưởng với tính bảo thủ, cải
lương về lập trường chính trị - xã hội.
Hầu hết các nhà triết học thời kì này đều xây dựng được hệ thống triết học chứa đựng
những tư tưởng khoa học lớn có tính vạch thời đại, đặc biệt là triết học Cantơ và Hêghen. 32
Nhưng họ lại không dám tiến hành, thực hiện những cuộc cải cách mà lại tìm mọi cách bảo
vệ chính thể nhà nước Phổ phong kiến. Họ cho rằng sự phát triển như một quá trình tinh
thần, một quá trình tự thức tỉnh và sự phát triển của lý tính. Cách hiểu đó đã xóa nhoà bản
chất vật chất của sự cải tạo xã hội hiện thực và về lý thuyết nó biện hộ cho sự thoả hiệp
chính trị với các thế lực phong kiến của giai cấp tư sản.
2. Hạn chế thứ hai và cũng là hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức chính là
chủ nghĩa duy tâm thần bí. Phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ điển Đức là một
dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết học Khai sáng. Song các
nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan điểm duy vật, người ta không thể giải thích
được thế giới. Bản chất của thế giới theo họ là tinh thần, do vậy chỉ có thể giải quyết được
những vấn đề của thế giới bằng tinh thần. Họ đã từ thế giới tinh thần xây dựng nên những hệ
thống triết học duy tâm, thần bí.
3. Hạn chế thứ ba của triết học cổ điển Đức là: Triết học trừu tượng tách rời hiện
thực. Triết học cổ điển Đức đưa ra được những tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ
nhưng đó chỉ là những tư tưởng, nó không đi vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng
mà chỉ là những hệ thống triết lý trừu tượng ở bên trên. Nếu các nhà tư tưởng Pháp tiến hành
cách mạng trong thực tiễn, công khai chống lại Nhà nước và Giáo hội thì các nhà triết học cổ
điển Đức chỉ suy nghĩ về nó trong tư tưởng, không giám công khai chống lại thực tại đó. Họ
là các giáo sư chính thức trong các trường Đại học của vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực
cách mạng, thoả hiệp với giai cấp tư sản, tư tưởng cách mạng của họ đã phải phủ ngoài triết
học của mình một lớp vỏ thần bí duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện thực.
Câu 17. Khái quát những tư tương triết học của Heeghen. Thành tựu vĩ đại nhất của triết
học Heeghen là gì? Khái quát những tư tưởng triết học của Phoiobắc. thành tựu vĩ đại nhất của
triết học Phoiơắc là j?
CHƯƠNG III. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MAC LÊ NIN
Câu 18. Chứng mính sự ra đời của triết học Mac là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
Câu 19. V.I LÊnin đã bảo vệ và phát triển triết học Mác như thế nào
Hoàn cảnh lịch sử
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển và chuyển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc tăng cường thống trị và bóc lột lên các nước thuộc địa và nhân dân lao động. Mâu
thuẫn trong xã hội ngày càng trở nên gay gắt, mà điển hình là mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và
các nước thuộc địa, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa cùng với phong trào cách mạng vô sản đã kết hợp thành một làn
sóng mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa đế quốc. Trung tâm của cuộc đấu tranh này là nước Nga, nơi giai
cấp vô sản và nhân dân lao động Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích do Lê-nin đứng đầu
đã trở thành ngọn cờ đầu trong phong trào cách mạng vô sản trên thế giới.
Trong giai đoạn này, khoa học tự nhiên đạt được những thành tựu mới, đặc biệt trong lĩnh
vực vật lý. Đòi hỏi đặt ra là cần phải có sự khái quát về triết học duy vật biện chứng làm cơ sở
phương pháp luận cho sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Cũng trong thời kỳ này, nhiều khuynh hướng triết học đối lập xuất hiện (chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại…) tấn công vào triết học Mác. Vì vậy cần
phải đấu tranh về mặt lý luận để chống lại các khuynh hướng tư tưởng đối lập và V.I. Lê-nin, lãnh tụ
vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới đã đảm nhiệm vai trò lịch sử đó.
Nội dung quá trình bảo vệ và phát triển triết học Mác của Lê nin : 33
- Giai đoạn từ 1893 đến 1907
Lê-nin đã viết nhiều tác phẩm quan trọng đấu tranh chống lại phái dân túy, bảo vệ chủ nghĩa Mác như :
Tác phẩm Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ-xã
hội ra sao là cương lĩnh của chính đảng Bôn-sê-vích đã vạch trần cơ sở triết học duy tâm chủ quan
và phương pháp siêu hình của giai cấp tư sản tự do. Lê-nin đã tận dụng phương pháp biện chứng của
triết học Mác để nhận thức những quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội ; chỉ ra con đường
tất yếu của lịch sử và vai trò của giai cấp vô sản trong sự liên minh nông để lật đổ chế độ Nga
hoàng, thiết lập chế độ mới xã hội chủ nghĩa.
Trong tác phẩm Làm gì , Lê-nin đã làm sáng tỏ những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
đề cập đến các hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản và vai trò của hệ tư tưởng lý luận trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Năm 1905, Lê-nin viết tác phẩm Hai sách lược của đảng dân-chủ xã hội trong cách mạng dân
chủ đã giải quyết những nội dung của cách mạng tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khẳng
định cách mạng dân chủ tư sản là tiền đề tiến hành cách mạng xã hộ chủ nghĩa ; nhấn mạnh vai trò
của tầng lớp nhân dân, của đảng chính trị và các nhân tố chủ quan trong cuộc đấu tranh của cách
mạng để tiến tới thắng lợi.
- Giai đoạn từ 1907 đến Cách mạng Tháng Mười Nga 1917
Đây là giai đoạn mà chính phủ Nga hoàng thiết lập một chế độ khủng bố tàn bạo trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện của chủ nghĩa Ma-khơ nhằm đóng vai trò là triết học duy nhất
khoa học, thực chất là chủ nghĩa duy tâm phản động.
Trước tình hình đó, nhiệm vụ của Lê-nin là phải tuyên chiến với các tư tưởng đối lập, bảo vệ và
phát triển triết học Mác, xác lập thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng cho giai cấp công
nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Các tác phẩm quan trọng trong giai đoạn này của Lê-nin có thể kể đến như : Chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908), Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác (1913), Bút kí triết học (1895-1916), Nhà nước và cách mạng (1917).
- Giai đoạn sau Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga 1917
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trong giai đoạn này,
Lê-nin vẫn tiếp tục phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Một số tác
phẩm nổi bật của giai đoạn này là : Sáng kiến vĩ đại, Bệnh ấu trĩ « tả khuynh » trong phong trào
cộng sản, Về chính sách kinh tế mới, Về tác động của chủ nghĩa duy vật chiến đấu. Trong tác phẩm
năm 1919, Lê-nin cho rằng : «Năng suất lao động xã hội là Sáng kiến vĩ đại
yếu tố quyết định cho sợ thắng lợi của xã hội mới ». Tác phẩm cũng đưa ra định nghĩa về giai cấp và
phân tích rằng giai cấp công nhân có hai nhiệm vụ : một là đánh đổ giai cấp tư sản và thiết lập chính
quyền cách mạng ; hai là xây dựng xã hội mới – đây là nhiệm vụ khó khăn hơn.
Năm 1920, Lê-nin viết Tác phẩm
Bệnh ấu trĩ « tả khuynh » trong phong trào cộng sản nhằm
mục đích tuyên truyền kinh nghiệm cho các đảng viên cộng sản trẻ tuổi trong phong trào cộng sản,
vạch ra chiến lược và sách lược của các đảng vô sản trong điều kiện lịch sử mới, nhằm tránh những
sai lầm có tính chất bè phái, giáo điều trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Năm 1921, Lê-nin viết những tác phẩm bàn về cuộc sống kinh tế mới, khẳng định «Cơ sở vật
chất duy nhất của CNXH chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp »
Năm 1922, Lê-nin viết bài báo Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu nhằm đặt ra nhiệm
vụ phát triển triết học duy vật biện chứng trên cơ sở tổng kết lịch sử hiện đại, củng cố liên minh
thống nhất giữa triết học và khoa học tự nhiên, phê phán chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo trên cơ sở 34
khoa học. Tác phẩm cũng vạch ra vai trò của công tác tuyên truyền triết học vô thần đến với đông
đảo quần chúng nhân dân.
Như vậy, trong sự nghiệp cách mạng của mình, Lê-nin đã không ngừng phát triển triết học Mác,
làm phong phú và sâu sắc thêm những quan điểm triết học Mác-xít, để triết học thực sự trở thành vũ
khí tinh thần cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Câu 20. Ngày nay có cần phải tiếp tục bổ sung và phát triển triết học Mác nữa ko? Vì sao
Ngày nay vẫn cần phải tiếp tụ bổ sung và phát triển triết học Mác bởi vì:
Như ta biết chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của ba bộ phận triết học nghiên cứu các
quy luật của thế giới, giúp ta hiểu bản chất, mới quan hệ tự nhiên - xã hội - con người, chính trị kinh
tế vạch ra quy luật đi lên của xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ ra con đường và phương pháp
nghiên cứu con người. Chủ nghĩa Mác là một chỉ nghĩ vì con người, chủ nghĩa nhân đạo. Học thuyết
đó không chỉ chứng minh bản chất của con người ("tổng hoà của các quan hệ xã hội") và bản tính
con người ("luôn vươn tới sự hoàn thiện") mà còn vạch hướng đưă con người đi đúng bản chất và
bản tính của mình, giải phóng, xoá bỏ sự tha hoá, tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất
người, phát triển toàn diện, hài hoà cho từng cá nhân. Sự phù hợp giữa tư tưởng Mác với bản chất và
bản tính người đã thu phục và làm say mê những con người hằng mong vươn lên xây dựng xã hội
mới, mở ra mọi khả năng cho sự phát triển con người.
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thẻ vạch rõ được hướng đi đúng cho con đường đi lên xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước
(1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người việt Nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác
không thể áp dụng được, và chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng
chính thống của toàn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam.
Thực tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn
diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm
nhuần tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao
động mới ngày càng có tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng ta đã có một đội
ngũ cán bộ văn hoá khoa học công nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước.
Có thể nói chỉ trong một thời gian ngắn hệ tư tưởng Mac đã thể hiện xu hướng của mình đối với
nền văn hoá dân dã, xoá bỏ dần dần sự thống trị của các loại tư tưởng tự phát, lạc hậu, thấp kém
trong con người cũ, mê tín dị đoan, các niềm tin mù quáng… Với sức mạnh có tính khoa học, học
thuyết Mác - Lênin đã vạch rõ được những yếu tố phi khoa học, phi nhân đạo, các loại thế giới quan,
nhân sinh quan sai lệch mà trước đó đã làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong con người của các hệ
tư tưởng truyền thống. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện rõ tính ưu việt trong con người
đối với các luồng tư tưởng tư sản ngoại nhập của Phương Tây, và các trào lưu tư tưởng tư sản hiện
tại đang làm lệch hướng đi của những con người chân chính trong điều kiện đời sống vật chất khó
khăn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc xiềng xích của chân lý cổ truyền, của nền sản xuất tiểu nông
với tư duy còn hạn chế, kinh nghiệm, phi khoa học trong con người thiếu văn hoá do xã hội cũ để lại
đã được tri thức khoa học Mác xít phá tan. Một ý thức tiên tiến ra đời. Các tín ngưỡng dần dần cũng
phải nhường chỗ cho niềm tin khoa học. Các yếu tố tư duy duy vật biện chứng hình thành trong đời
sống thường ngày, trong lao động, cũng như trong mọi hoạt động của xã hội. Thế giới quan khoa
học ngày càng ăn sâu ở những con người luôn phấn đấu cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội nó nhìn
thế giới, xã hội, con người trong sự vận động và phát triển trong tính hiện thực và tiềm ẩn những khả
năng, sự tồn tại khách quan là điều kiện sống và sự phát triển con người. 35
Thế giới quan đó hàm chứa nhân sinh quan tiến bộ, khắc phục dần những quan niệm sai lầm,
phiến diện về con người của các hệ tư tưởng khác.
Sự chuyển đổi hệ tư tưởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị của xã hội và giá trị con người, con
người từ chỗ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng tạo, từ chỗ dựa trên tập quán chuyển sang lý trí,
dân chủ, từ chí tìm cách hoà đồng chuyển sang tôn trọng cả cá tính và bản lĩnh riêng. Các chuẩn
mực mới của con người đòi hỏi không chỉ phát triển từng mặt riêng lẻ mà phải là cá nhân phát triển
hài hoà tính cách mạng của học thuyết Mác xít khắc phục dần lối sống thụ động, hẹp hòi, làm cơ sở
cho lối sống tích cực, vì xã hội, phát triển ý thức luôn vươn lên làm chủ và xây dựng cuộc sống mới
xuất hiện những nhân cách mới.
Tuy nhiên sự phát triển con người ngày nay không chỉ là sản phẩm của hệ tư tưởng Mác vì ngay
khi chủ nghĩa Mác trở thành hệ tư tưởng chính thống ở Việt Nam thì các tôn giáo, các hệ tư tưởng
và văn hoá bản địa đã có sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập, nó như một hệ
tư tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá bản địa, nhưng nó cũng chịu sự chi phối tác động
đan xen của các yếu tố sai - đúng, yếu - mạnh, mới - cũ, v.v.. Các yếu tố tích cực đã thúc đẩy, còn
các yếu tố tiêu cực thì kìm hãm sự phát triển con người.
Sự văn minh, phát triển hoá con người Việt Nam của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa có lợi thế song
cũng không tránh khỏi những sai lầm. Sai lầm là sự chống trả của tư tưởng văn hoá bản địa đã thành
truyền thống. Lợi thế là văn hoá bản địa chưa có một hệ tư tưởng khoa học định hình vững chắc, nó
dường như đang thiếu một lý thuyết khoa học. Nếu như không có chủ nghĩa Mác - Lênin xã hội Việt
Nam phát triển hơn, đó là tư tưởng của những người thiếu hiểu biết về một xã hội tiến bộ, luôn coi
cái trước mắt mình là những thứ vô giá trị mà chỉ chạy theo trào lưu, điều đáng trách hơn là họ cần
cho rằng văn hoá Việt Nam sẽ phong phú hơn, đặc sắc hơn. Thực tế, từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác
- Lênin xã hội Việt Nam như được tiếp thêm sức mạnh, phát triển có khoa học hơn, ở khía cạnh nào
đó trình độ dân trí, trình độ năng lực, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… Con người Việt Nam không
thua kém con người của các nước văn minh khác.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người chỉ những cá thể, là sự thống nhất giữa mặt sinh học và
mặt xã hội của nó. Cái mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm được đó là lý luận con người trong xã hội
chứ không chỉ mặt sinh học như trước đây. Và chính vậy mà nó đã được áp dụng vào xã hội Việt
Nam, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là
mục tiêu của mọi chính sách kinh tế - xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng được một xã
hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện trong thực tế nguyên tắc "Sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" và ở một
đất nước ta, một đất nước đang còn nghèo nàn thì việc phát triển yếu tố con người là một vấn đề mà
Đảng ta đã xác định đó là vấn đề then chốt cho sự phát triển kinh tế đất nước lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin là kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
Chúng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội, việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh
hoạt chính trị của đất nước, việc mở cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hoá
và chính trị, trên thế giớ. Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển vũ
bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng chủ
nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội mới
nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm cao mới.
CHƯƠNG IV. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆC NAM
Câu 21. Phân tích những biểu hiện của lập trường duy vật và duy tâm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam 36
Câu 22. Phân tích vị trí của tư tưởng yêu nước Việt Nam trong quá trình phát triển của lịch
sử tư tưởng Việt Nam và cơ sở hiện thực xã hội của nó
Câu 23. Phân tích vị trí của đạo làm người trong quan niệm về đạo làm người trong lịch sử
tư tưởng Việt Nam. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với quan niệm về đạo đức làm người trong lịch
sử tư tưởng Việt Nam
CHƯƠNG V. THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VẬN DỤNG TRONG
NGHIÊN CỨU, QUẢN LÝ KINH TẾ
Câu 24. Thế nào là thế giới quan triết học? Phân tích chức năng thế giới quan của triết học
Câu 25. Trình bày những đặc trưng của thế giới quan duy vật biện chứng. Vì sao thế giới
quan duy vật biện chứng là đỉnh cao trong lịch sử phát triển thế giới quan duy vật trong triết học
1. Những đặt trưng của thế giới quan duy vật biện chứng
- Nhìn nhận, giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, ở sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật triệt để và ở
tính thực tiễn cách mạng của nó.
- Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng.
- Quan niệm duy vật triệt để (duy vật cả về mặt xã hội
- Tính thực tiễn - cách mạng. Tính thực tiễn - cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng
trước hết thể hiện ở chỗ CNDVBC hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới
CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi ích nhân
loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học.
2.Thế giới quan duy vật biện chứng là đỉnh cao trong lịch sử phát triển thế giới quan duy vật trong lịch sử.
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa học thực tiễn,chủ nghĩa duy vật đã hình thành và
phát triển với 3 hình thức cơ bản là : chủ nghĩa duy vật chất phác , chủ nghĩa duy vật siêu hình và
chủ nghĩa duy vật biện chứng.Chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật siêu hình đều có
những mặt hạn chế , và chưa phản ánh đúng hiện thực.Còn chủ nghĩa duy vật biện chứng với thế
giới quan duy vật lịch sử do C.Mác và Ph.Ăng ghen sáng lập,sau đó Lê nin và những người kế tục
ông bảo vệ và phát triển.Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng
triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương thời , chủ nghĩa duy vật và thế giới quan duy vật
từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác và siêu hình.Nó phản
ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, cung cấp công cụ vĩ
đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Câu 26. Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Liên hệ bài học “ xuất phát
từ thực tế khách quan” với thực tiễn quản lý của cơ quan anh/chị
Phân tích vai trò quyết định của vật chất với ý thức:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan bởi bộ óc của con người , , nên bản chất của ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất. Khi nói ý thức 37
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.
“Thực tại khách quan” (vật chất) là cái có trước (tính thứ nhất), còn “cảm giác” (ý thức) là cái
có sau (tính thứ hai). vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý thức.
Quan điểm Mácxít cho rằng vật chất quyết định ý thức, ý thức là sản phẩm của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc -
đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, Vật chất luôn luôn vận động nên vật chất
quyết định sự vận động biến đổi của ý thức.
Thứ nhất, phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có sự ra đời của ý thức.
Thứ hai, là phải có lao động và ngôn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý thức. Nhờ có lao
động mà các giác quan của con người phát triển phản ánh tinh tế hơn đối với hiện thực. ngôn ngữ là
cần nối để trao đổi kinh nghiệm tình cảm, hay là phương tiện thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận
thấy rằng nguồn gốc của xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức.
Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức vì vật chất là để chỉ thực tại khách quan
được ý thức phản ánh. Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, nó có trước ý
thức và tạo nên nội dung của ý thức.
Khi ý thức ra đời có tính độc lập tương đối tác động trở lại thế giới vật chất.
Như vậy, mặc dù chịu sự quyết định của vật chất về nguồn gốc và nội dung, song ý thức có tính
độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất nên nó có tính năng động sáng tạo, góp phần cải biến thế
giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, có nghĩa là ý thức tích cực, khoa học, đúng
đắn thì nó có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn theo khuynh hướng đi lên trong quá trình cải tạo
thế giới khách quan. Tất cả những việc làm đó là nhờ có tri thức khoa học dẫn đường, nhờ có ý chí
vươn lên để làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân của họ. Ngược lại, nếu ý thức
phản ánh không đúng hiện thực khách quan, có nghĩa là ý thức tiêu cực, phản khoa học thì nó vẫn
định hướng cho hoạt động thực tiễn, tác động vào hiện thực, nhưng làm cho hiện thực vận động đi
xuống. Trong lịch sử loài người, những tư tưởng phản động đã từng là vật cản đối với sự phát triển của lịch sử.
Như vậy, vất chất và ý thức luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Tuyệt đối hóa bất cứ mặt nào
cũng đều sai lầm. Điều đó có ý nghĩa phương pháp luận hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn của con người.
Liên hệ: Vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, do đó trong hoạt động thực tiễn, chúng ta
phải xây dựng và tôn trọng nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc khách quan góp phần ngăn
ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí.Nguyên tắc này thể hiện ở các vấn đề sau:
- Một là đòi hỏi tư duy của chúng ta phải nhận thức sự vật với tư cách khách quan, tồn tại và
phát triển ngoài ý thức của con người.
- Hai là, ngoài việc tôn trọng sự vật, hiện tượng, cần coi trọng nhân tố chủ quan: tính năng
động, sáng tạo của ý thức trong việc tìm ra những con đường, những phương pháp tốt nhất để cải
cải tạo hiện thực. Trong bất cứ xã hội nào, việc giáo dục ý chí vươn lên cho con người, việc xây
dựng một đời sống tinh thần lành mạnh, đặc biệt là sự phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức
cũng hết sức quan trọng.
- Ba là, đòi hỏi sự trung thực trong sự phản ánh, điều đó có tác dụng ngăn ngừa tư duy của
chúng ta vấp phải những sai lầm do việc chủ thể đưa vào khách thể một số yếu tố khách quan vốn
không có trong bản thể khách thể đó. 38
Ý thức tác động trở lại thế giới vật chất. Vì vậy, trong nhận thức cũng như trong hoạt
động thực tiễn, nhất là khi đề ra chủ trương đường lối chính sách cần phải xuất phát từ thực
tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, đồng thời phải nâng cao tính năng động chủ quan.
Trong hoạt động thực tiễn xã hội, muốn nhận thức đúng sự vật hiện tượng phải đặt
chúng trong không gian và thời gian tồn tại cụ thể của nó; xem xét sự vật trong qúa trình tồn
tại, vận động và phát triển của nó, như vậy sẽ tránh được những nhận thức mang tính phiến diện, siêu hình.
Câu 27. Phân tích tính năng động, sáng tạo của ý thức. Vận dụng phân tích lĩnh vực chuyên
môn của anh/chị
Câu 28. Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Liên hệ với
những vấn đề thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay
CHƯƠNG VI. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ
Câu 29. Phép biện chứng duy vật là gì? Nó có những nội dung nào? Tại sao nói: Phép biện
chứng duy vật là hình thái phát triển hoàn bị của lịch sử phép biện chứng? 1. Phép BCDV là gì?
“Biện chứng” là lý luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại tới nay, nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
gắn liền với khoa học và thực tiễn như:
- Phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại: xuất hiện chủ yếu trong triết học
Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại với các nhà “biện chứng bẩm sinh” tiêu biểu như
Hêracờlít, Xôcrát, Platôn, Arixtốt … Đặc trưng cơ bản chung của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ.
- Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức với Cantơ, Hêghen, phép biện
chứng này vẫn còn không tránh khỏi “tính chất gò ép, giải tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”.
- Phép BCDV: Ph.Ăng ghen định nghĩa “phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ
phổ biến” V.I.Lenin viết “phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức
hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức
của con người, nhận thức này phản ánh vất chất luôn luôn phát triển con người. Có thể hiểu
phép BCDV là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển; về những quy luật chung
nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép BCDV là sự thống nhất
hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với
logic biện chứng. Sự ra đời của phép BCDV là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy
triết học; là phương pháp tư duy khác về chất so với các phương pháp tư duy trước đó; là
“phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng
trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”.
Phép BCDV có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động.
Mỗi luận điểm của phép BCDV là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giwois tự nhiên, cũng
như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên ly, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều
được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học. 39
2. Nội dung của phép BCDV 2.1.
Nội dung của phép BCDV a.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biển
Mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát mối liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật,
hiện tượng. cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó,
các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau đến thế nào đi chăng nữa,
thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.
Các mối liên hệ có tính khác quan, phổ biến đa dạng và giữ vai trò khác nhau trong quá
trình vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới trong
những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới
khách quan, tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được
trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau. b.
Nguyên lý về sự phát triển
“Phát triển” dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy
vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật và hiện tượng mới ra đời. Phát triển là tự
thân. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng. Phát triển đi theo đường “xoáy ốc”, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng, đặc
tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những
bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
Phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động, trong quá trình phát triển sự vật và
hiện tượng có sự chuyển hóa sang chất mới cao hơn, phức tạp hơn, làm thay đổi và hoàn
thiện phương phức vận động, cơ cấu tổ chức, chức năng của sự vật. Phát triển có tính khách
quan và phổ biến, đa dạng. 2.2.
Các cặp phạm trù cơ bản của phép BCDV
- Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất định và cái đơn nhất.
Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính lặp lại trong nhiều sự vật,
nhiều hiện tượng. Cái đơn nhật là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ có ở
một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật hiện tượng khác.
Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cái
chung chỉ tổn tại trong cái riêng và biểu hiện thông qua cái riêng; ngược lại cái riêng tồn toàn
trong mối liên hệ với cái chung và bao hàm cái chung; cái riêng là cái phong phú và toàn bộ
hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng lại sâu sắc hơn cái riêng; cái đơn nhất và cái
chung có thể chuyển hóa cho nhau trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.
- Nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc
giữa các sự vật hiện tượng với nhau từ đó tạo nên những biến đổi. Kết quả là những biến đổi
xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự
vật hiện tượng với nhau.
Giữa nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau. Nguyên nhân
sinh ra kết quả và có trước kết quả, kết quả lại ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự
phân biệt giữa nguyên nhân và kết quả chỉ mang tính tương đối, chúng luôn ở trong mối quan hệ cụ thể.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên 40
Tất nhiên do mối liên hệ bản chất, do những nguyên nhân cơ bản bên trong của sự vật,
hiện tượng quy định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không
thể khác. Ngẫu nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên nhân hoàn cảnh bên
ngoài quyd dịnh; có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này hoặc thế khác.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có mối quan hệ biện chứng với nhau, tất nhiên vạch đường đi
cho mình thông qua ngẫu nhiên, ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện của tất nhiên và bổ
sung cho tất nhiên. Tất nhiên chi phối sự phát triển, ngẫu nhiên làm thay đổi tiến độ sự phát
triển và hình thức phát triển. Sự phân biệt tất nhiên và ngẫu nhiên có tính chất tương đối và
chuyển hóa lẫn nhau trong điều kiện nhất định.
- Nội dung và hình thức
Nội dung là sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng. Hiện
tượng là phương thức tồn tại phát triển của chúng; là hệ thống các mối liên hệ tương đối bên
vững giữa các yếu tố của sự vật và hiện tượng.
Nội dung và hình thức có mối liên hê qua lại quy định lẫn nhau, nhưng nội dung giữ vai
trò quyết định. Hình thức phải phù hợp với nội dung, nôi dung thay đổi buộc hình thức phải
thay đổi theo. Tuy nhiên hình thức cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại nội dung.
Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó trở thành động lực thúc đẩy nội dung phát triển,
ngược lại thì nó cản trở sự phát triển của nội dung. Trong quá trình phát triển, cùng một nội
dung nhưng nó có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức, cùng một hình thức nhưng nó thể hiện nhiều nội dung khác nhau.
- Bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định
bên trong, quy định sự tồn tại, vận động phát triển của sự vật. Hiện tượng là những biểu hiện
bề ngoài, bên ngoài sự vật.
Bản chất và hiện tượng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Bản chất và hiện tượng
thống nhất với nhau, bản chất thể hiện thông qua hiện tượng, hiện tượng là sự thể hiện của
bản chất, bản chất “được ánh lên” thông qua hiện tượng. Hiện tượng phong phú hơn bản
chất, bản chất tương đối ổn định, ít biển đổi; hiện tượng thường xuyên biến đổi và “động” hơn.
- Khả năng và hiện thực
Khả năng là cái hiện chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích hợp. Hiện
thực là cái đang có, đang tồn tại thật sự.
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hiện thực luôn chứa
đựng những khả năng nhất định; khả năng lại nằm trong hiện thực và khi đủ điều kiện sẽ
biến thành hiện thực mới. Trong từng giai đoạn phát triển của sự vật thường có nhiều khả
năng và khả năng nào thành hiện thực lại phải phụ thuộc vào điều kiện cụ thể, do đó trong
thực hiện phải dự báo các khả năng và tạo điều kiện khả năng tốt thành hiện thực, ngừa khả năng xấu. 2.3.
Các quy luật cơ bản của phép BCDV
- Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về
chất và ngược lại: Chất là tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhát hữu
cơ giữa các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải cái khác. Lượng là tính quy định vốn
có của sự vật về số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động , phát triển của sự vật
cũng như các thuộc tính của nó. Mỗi sự vật đều thống nhất giữa chất và lượng, những sự
thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất gọi là độ, những thay đổi về lượng vượt
quá độ làm cho chất biến đổi căn bản. Điểm mà tại đó sự thay đổi căn bản về chất gọi là 41
điểm nút. Bước nhảy là bước thay đổi căn bản về chất do thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Sự thay đổi về chất lại tác động đến lượng và thúc đẩy lượng phát triển.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, mặt đối lập là những yếu tố
có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau: Mọi sự vật hiện tượng đều có những mặt đối lập,
sự tác động giữa chúng tạo thành mâu thuẫn bên trong sự vật. Mâu thuẫn biện chứng là phổ
biến, khách quan, vốn có của sự vật. Các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh lẫn nhau,
thống nhất là tương đối và đấu tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn. Sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động phát triển.
- Quy luật phủ định của phủ định: phủ định biện chứng là quá trình khách quan, tự
thân, là quá trình kế thừa cái tích cực của cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời
của sự vật, hiện tượng mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình phủ định của phủ định tạo thành
sự vận động, phát triển không ngừng, mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Trải qua vô
số lần phủ định, sự vật, hiện tượng dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở mới,
cao hơn, dẫn đến phát triển không đi theo đường thẳng mà đi theo đường “xoáy ốc”.
3. Phép BCDV là hình thái phát triển hoàn bị của lịch sử.
Sở dĩ nói “Phép BCDV là hình thái phát triển hoàn bị của lịch sử” vì:
Phép BCDV đã kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học trước đó, dựa
trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời ấy và thực tiễn lịch sử loài
cũng như thực tiễn xã hội, vào giữa thế kỉ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phép BCDV, về sau được V.I.Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX,
đem lại cho phép biện chứng một hình thức mới về chất. Phép BCDV của chủ nghĩa Mác –
Lenin được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
Phép BCDV là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận
biện chứng. Chính vì vậy, nó đã khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng chất
phác thời cổ đại và những thiếu sót của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại.
Nó đã khái quát đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động và phát triển
của thế giới. Phép BCDV trở thành một khoa học thực sự, trên cơ sở thống nhất giữa thế giới
quan và phương pháp luận, nó không chỉ dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ
để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Phép BCDV được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù
cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Vì thế
Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”./.
Câu 30. phép biện chứng duy vật có vị trí như thế nào trong triết học Mác- Lê Nin và trong
nghiên cứu khoa học cũng như trong nhận thức giải quyết các vấn đề thực tiễn kinh tế- xã hội.
Cho một vài ví dụ thực tế
Câu 31. Phân tích những nôi dung cơ bản của quy luật và xây dựng những ý nghĩa phương
pháp luận cơ bản từ nội dung đó. Phân biệt quan điểm biện chứng và quan niệm siêu hình về
mâu thuẫn. Vì sao nói: Phát triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập.? hãy nêu một số
loại mâu thuẫn của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, và phương
hướng, biện pháp lớn trong giải quyết các mâu thuẫn đó (đã được nói trong các văn kiện của Đản) 42
Câu 32. Phân tích những nội dung cơ bản của quy luật lượng- chất và các nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản của quy luật này. Có phải mọi sự thay đổi về lượng đều dẫn đến sự
thay đổi về chất hay không? Vì sao? I.
Phân tích những nội dung cơ bản của quy luật lượng- chất và các nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản của quy luật này: Khái niệm:
Quy luật lượng - chất hay còn gọi là quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về sự thay đổi
về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ cách thức của sự vận động, phát triển, theo
đó sự phát triển được tiến hành theo cách thức thay đổi lượng trong mỗi sự vật dẫn đến chuyển
hóa về chất của sự vật và đưa sự vật sang một trạng thái phát triển tiếp theo. Ph.Ăng-ghen đã khái quát quy luật này.
Nội dung duy luật này được phát biểu như sau
Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng, lượng thay đổi
đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi
về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại
tác động trở lại lượng mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại
của sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác động qua
lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.
1. Nội dung quy luật:
1.1 Khái niệm chất và lượng a. Khái niệm chất:
- Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những
thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật và hiện tượng khác.
- Phân biệt chất với tính cách là phạm trù triết học với chất hiểu theo khái niệm thường dùng
hàng ngày hoặc với khái niệm chất liệu.
- Phân biệt chất với thuộc tính. Mỗi chất gồm nhiều thuộc tính.
- Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có một hoặc nhiều chất tuy theo những mối quan hệ xác định
- Chất tồn tại khách quan.
- Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
- Trong những trường hợp đặc biệt, chất là cái trừu tượng và dường như nằm ngoài sự vật, hiện tượng.
VD: tính lỏng của nước là tính quy định về chất của nước, phân biệt nước ở trạng thái hơi( hơi
nước) và ở trạng thái rắn(nước đá). b. Khái niệm lượng
- Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt qui mô, trình độ, tốc độ phát triển của
nó, biểu thị bằng các con số, các thuộc tính, các yếu tố,.. cấu thành nó.
- Lượng không chỉ biểu hiện bằng các con số, các đại lượng xác định cụ thể, mà lượng còn được
nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
- Lượng là nhân tố quy định bên trong, nhưng đồng thời cũng có những lượng chỉ nói lên nhân
tố dường như bên ngoài sự vật.
- Lượng tồn tại khách quan.
- So với chất, lượng là cái thường xuyên biến đổi.
Ví dụ tốc độ của ánh sáng là 300.000km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân, một nước có 50 triệu dân..v..v 43
* Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.
1.2. Tính thống nhất và mối quan hệ phổ biến của lượng và chất.
a. Khái niệm “Độ”
Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau, mà
tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
- “Độ” là khái niệm nói lên mối quan hệ quy định lẫn nhau của chất và lượng. Nó là giới hạn mà
trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa biến thành cái khác. Trong giới hạn “độ” lượng
biến đổi nhưng chưa dẫn đến chuyển hóa về chất.
- Độ cũng biến đổi khi những điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng biến đổi.
VD: dưới áp suất bình thường của không khí, sự tăng hoặc giảm nhiệt độ trong khoảng từ 0-
100c nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng.
b. Những hình thức biến đổi từ lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.
Ranh giới của lượng do chất quy định, nhưng sự chuyển hóa thì bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay
đổi về lượng. Các hình thức cơ bản của sự chuyển hóa:
+ Tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng
+ Sự dung hợp của nhiều lực lượng thành một hợp lực về căn bản khác với tổng số những lực lượng cá biệt.
+ Thay đổi về kết cấu, tổ chức, qui mô của sự vật, hiện tượng.
- Khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì dẫn đến thay đổi về chất. Sự thay đổi về chất
được gọi là bước nhảy (có 4 loại bước nhảy cơ bản: bước nhảy toàn phần, bước nhảy cục bộ, bước
nhảy dần dần, bước nhảy đột biến), đó là bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi dần dần về lượng.
- Giới hạn mà ở đó xảy ra bước nhảy được gọi là điểm nút.
- Sự chuyển hóa đòi hỏi phải có điều kiện.
VD: Nhiệt độ của nước đó giảm xuống dưới 0C nước thể lỏng chuyển thành thể rắn, và duy trì
nhiệt độ đó từ 100C trở lên nước nguyên chất thể lỏng chuyến sang trạng thái hơi. Như vậy điểm
giới hạn: 0C, 100C là điểm nút.
Khi nhiệt độ của nước vượt quá điểm nút là 100C tức là thực hiện một bước nhảy nước chuyển
từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi.
c. Ảnh hưởng của chất mới đối với sự biến đổi của lượng
Khi chất mới ra đời nó tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có một sự thống nhất mới giữa
chất và lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở qui mô và nhịp điệu phát triển mới của lượng.
VD: để chữa khỏi bệnh nào đó phải dung thuốc đủ liều, nếu dung ko đủ liều hoặc quá liều đều
không tốt, có thể ko khỏi bệnh hoặc có thể có hậu quả mới có hại.
Tóm lại, quy luật lượng-chất chỉ ra cách thức biến đổi sự vật, hiện tượng. Đó là quá trình tác
động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới ra đời
với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất đang kìm hãm
nó, tạo nên chất mới với lượng mới. Như vậy phát triển là quá trình vô hạn, vừa mang tính liên tục
(biểu hiện ở sự biến đổi của lượng) vừa có tính gián đoạn (biểu hiện ở sự thay đổi về chất).
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Sự vận động và phát triển là kết quả của quá trình tích lũy về lượng. Trong hoạt động thực tiễn
cần chống lại hai khuynh hướng:
+ Tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa có sự tích lũy đầy đủ về lượng đã muốn thực
hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến bước nhảy, xem nhẹ tích lũy về lượng, dẫn đến
các hành động phiêu lưu mạo hiểm.
+ Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn
mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng, từ đó rơi vào chủ nghĩa cải lương và tiến hóa luận. 44
- Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi điều kiện thực
hiện bước nhảy đã chín muồi.
+ Cần phân biệt các bước nhảy trong tự nhiên và trong xã hội.
+ Phải nhận thức đúng đắn các bước nhảy khác nhau về qui mô, nhịp độ.
+ Chống chủ nghĩa giáo điều
Có phải mọi sự thay đổi về lượng đều dẫn đến sự thay đổi về chất không? Vì sao
Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa chất và lượng
tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác. Trong mối quan hệ giữa
chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát
triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng.
Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức
khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ
khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất.
Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy.
Như vậy, khi lựợng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho
chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến
đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự
vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô
tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt
trong sự vận động, phát triển.
+ Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ
động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng
mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có thể được
biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
Câu 33. Phân tích nội dung cơ bản của phủ định biện chứng và xây dựng các nguyên tắc
phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Liên hệ với những vấn đề của thực tiễn đổi mới ở Việt Nam 1. Khái niệm
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự
thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Tuy nhiên
có sự phủ định chỉ là phá hủy cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến lên và lực lượng phủ định
được đưa từ ngoài vào kết cấu của sự vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự
phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay cái cũ.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng –
o Phủ định biện chứng là loại phủ định mang tính khách quan:
> Sự phủ định ấy do mâu thuẫn nội tại của sự vật ấy tự quy định.
> Nhân tố phủ định là sản phẩm phát triển của chính sự vật, do đó quá trình phủ định
biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển.
> Phương thức phủ định sự vật do bản thân sự vật tự quy định
o Phủ định biện chứng là loại phủ định mang tính kế thừa.
3. Những đặc trưng cơ bản
Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật.
Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu
thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc
vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện 45
chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm
cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
Kế thừa: vì phủ định biện chứng kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó
không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng
cái cũ. Cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo
những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi
thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng định.
4. Phân tích nội dung cơ bản
- Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của
sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng
diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố
tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
- Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp
hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực,
thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Cái mới trong phủ định biện chứng là cái biểu
hiện sự phát triển phù hợp qui luật của sự vật, hiện tượng, là biểu hiện sự chuyển hóa từ giai
đoạn thấp đến giai đoạn cao trong quá trình phát triển.
- Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ
định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị
cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh
hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường “xoáy ốc” hay
"vòng xoáy trôn ốc". Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như
lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
- Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của
quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng
của đường “xoáy ốc” dường như thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
- Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, là sự thống nhất
giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ
mang lại những nhân tố mới. Do đó sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng
sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
- Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn bên
trong của sự vật. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập
trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định.
- Phủ định biện chứng được hoàn thành trong một chu kỳ phát triển. Sự vật ở điểm
xuất phát ban đầu qua lần phủ định thứ nhất, trở thành cái đối lập với mình- bước trung gian
của sự phát triển; lần phủ định thứ hai, tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Lần
phủ định thứ hai được gọi là phủ định của phủ định. Ví dụ: Hạt thóc - Cây lúa- Bông lúa.
5. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu phủ định biện chứng có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức được tính đúng đắn và tất
yếu của sự vật bởi phát triển là khuynh hướng chung, do đó cái mới bao giờ cũng chiến
thắng. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường đường thẳng mà con đường xoắn
ốc: quanh co, phức tạp với nhiều chu kỳ và giai đoạn trung gian. 46
- Sự vật ra đời sau luôn là cái mới, cái tiến bộ hơn cái trước thế nhưng không phải lúc
nào cũng như vậy, có nhiều lúc, cái mới lại là cái thụt lùi so với cái cũ, thế nhưng sự thụt lùi
đó là những bước thụt lùi trong quá trình phát triển chung của nó.
- Nhận thức được quy luật này chúng ta sẽ biết cách tác động phù hợp sao cho sự vật
phát triển nhanh hay chậm, tránh được những nhận thức sai lầm, chủ quan duy ý chí và bảo
thủ trong công việc và trong các hiện tượng xã hội. Đồng thời cần phải chống thái độ phủ
định sạch trơn hoàn toàn không có gì, coi thường giá trị truyền thống mà cần phải biết phát
hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
6. Liên hệ với những vấn đề của thực tiễn đổi mới ở Việt Nam
- Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta phải biết kế thừa và phát triển tất cả
các nguồn lực trong nước cũng như các thành tựu khoa học của các nước đi trước.
- Việc phát huy các nhân tố kế thừa trong kinh tế đã được Đảng và nhà nước ta đặc
biệt chúý trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên CNXH bỏ qua chế độTBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến thức thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thnàh tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chếđộ TBCN đặc biệt là về khoa học vầ công nghệ phát triển nhanh LLSX
xây dựng nền kinh tế hiện đại.
- Quy luật phủ định biện chứng và vai trò đặc biệt quan trọng của nó đối với việc phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn
đổi mới. Các doanh nghiệp cần phải có chủ động sáng tạo trong việc phát huy các nhân tố kế
thừa để phát huy hết các tiềm lực trong nhân dân cũng như sử dụng cải tạo vàđổi mới vác cơ
sở kinh tế dựa trên những nền tảng có sẵn trong thời kỳ trước không thể có thái độ ngồi trờ
vào chính phủ và nhà nước.
Câu 34. Phân tích khái quát nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của 6 cặp phạm trù cơ
bản của phép biện chứng duy vật. Liên hệ với thực tiễn quản lý của cơ quan anh/ chị
1. Cặp phạm trù cái riêng và cái chung
+ Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
+ Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những
có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
+ Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện
tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác
+ Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối liên hệ biện chứng với nhau. Cái chung chỉ
tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng; ngược lại, cái riêng chỉ tồn tại trong mỗi liên hệ
với cái chung, bao hàm cái chung; cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là
cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng; cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong
quá trình vận động, phát triển của sự vật.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình. Do
đó, trong hoạt động thực tiễn không nên nhấn mạnh tuyệt đối hóa cái chung phủ nhận cái riêng.
Vì cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng bao hàm
cái chung. Do đó, trong hoạt động thực tiễn không được nhấn mạnh tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung.
Để phát hiện ra cái chung, quy luật chung chúng ta phải xuất phát từ cái riêng, phải xuất phát từ
việc phân tích các sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Cái chung sau khi đã được rút ra từ cái riêng, khi đem
áp dụng vào cái riêng lại phải căn cứ vào đặc điểm của cái riêng để làm cho nó phù hợp. 47
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng. Cái riêng là cái phong phú hơn cái
chung. Cho nên trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào cái chung sâu sắc làm
cơ sở, đồng thời chú ý đến cái riêng phong phú để bổ sung cho nó hoàn thiện.
Trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại.
Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn muốn xác định được đâu là cái chung đâu là cái đơn nhất phải đặt
nó trong một quan hệ xác định. Có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để cái đơn nhất có lợi cho
con người trở thành cái chung và cái chung bất lợi trở thành cái đơn nhất.
2. Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả
+ Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
+ Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra.
+ Giữa nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại , quy định lẫn nhau. Nguyên nhân là cái sinh
ra kết quả nên luôn có trước kết quả; sau khi xuất hiện, kết quả có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với
nguyên nhân. Sự phân biệt nguyên nhân, kết quả có tính tương đối. Một sự vật, hiện tượng ở trong
mỗi quan hệ này là nguyên nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mỗi quan hệ khác và ngược lại tạo nên
chuỗi nhân- quả vô tận. Do vậy , nguyên nhân, kết quả bao giờ cũng ở trong mỗi quan hệ cụ thể.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
Vì mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến và tính tất yếu, nghĩa là bất kỳ sự vật,
hiện tượng nào cũng tồn tại trong quan hệ nhân quả. Điều đó đòi hỏi con người khi đứng trước một
sự vật, hiện tượng nào đó phải khám phá ra nguyên nhân của sự vật, hiện tượng đó; trong thế giới
khách quan chỉ có những cái con người chưa biết nhưng rồi sẽ biết, chứ không có cái gì con người
không thể biết. Nghiên cứu mối quan hệ nhân quả sẽ trang bị cho chúng ta quan điểm quyết định
luận đúng đắn khác với quan điểm duy tâm theo thuyết định mệnh. Thừa nhân quy luật nhân quả,
nhưng những người theo quan điểm duy vật biện chứng đồng thời khẳng định vai trò của con người
trong việc nhận thức, vận dụng quy luật vì mục đích sống của mình.
Một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vị trí khác
nhau trong việc hình thành kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại nguyên
nhân (bên trong hay bên ngoài, chủ yếu hay thứ yếu, trực tiếp hay gián tiếp, chủ quan hay khách
quan v.v.) để đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng nguyên nhân với việc hình thành kết quả. Đồng
thời phải nắm được các nguyên nhân tác động cùng chiều hoặc tác động ngựơc chiều nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân nghịch chiều.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng kết quả không tồn tại thụ động mà có tác động trở lại
nguyên nhân sinh ra nó. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết khai thác, vận dụng các
kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển.
3. Cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Tất nhiên (tất yếu) là cái do bản chất, do nguyên nhân bên trong của kết cấu vật chất
quyết định và trong những điều kiện nhất định nó nhất định phải xảy ra như thế này chứ không thể
xảy ra như thế khác, nó là cái tương đối ổn định.
+ Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất quyết định mà do
những nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định; do đó,
nó có thể xuất hiện như thế này, hoặc xuất hiện như thế khác, nó là cái không ổn định.
+ Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mỗi liên hệ biện chứng với nhau. Tất nhiên bao giờ cũng vạch ra
đường đi cho mình thông qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên,
bổ sung cho tất nhiên. Tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển,, còn ngẫu nhiên chỉ có thể làm
cho sự phát triển diễn ra nhanh hoặc chậm, trong hình thức này hay hình thức khác. Sự phân biệt tất
nhiên, ngẫu nhiên có tính tương đối; trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau.
+ Ý nghĩa phương pháp luận 48
Nếu như cái tất nhiên là cái gắn bó với bản chất của sự vật, là cái nhất định phải xảy ra theo quy luật
nội tại của nó, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất của sự vật, là cái có thể xảy ra hoặc
không xảy ra thì trong hoạt động thực tiễn, chúng ta phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải
căn cứ vào cái ngẫu nhiên và dừng lại ở cái ngẫu nhiên. Mặt khác, cái ngẫu nhiên có tác dụng chi
phối sự phát triển của sự vật làm cho nó diễn ra nhanh hoặc chậm, cho nên chúng ta không được bỏ
qua cái ngẫu nhiên, coi nhẹ cái ngẫu nhiên, đúng như C.Mác đã khuyến cáo: “lịch sử sẽ mang tính
chất thần bí nếu như cái ngẫu nhiên không có tác dụng gì cả”.
Vì cái tất nhiên vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên để thể hiện ra, còn ngẫu
nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho tất nhiên, cho nên, muốn
nhận thức được cái tất nhiên thì phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích, so sánh rất nhiều cái
ngẫu nhiên. Trong số những cái ngẫu nhiên, con người phải tìm cho được cái ngẫu nhiên có lợi, cố
định lại để biến nó thành cái tất nhiên, và phải tìm cho ra cái ngẫu nhiên có hại, tạo điều kiện để loại trừ nó.
Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau, vì vậy, không nên cứng nhắc khi xem xét sự
vật hiện tượng. Để xác định cái gì là tất nhiên hay ngẫu nhiên chúng ta phải đặt nó trong một quan hệ xác định.
4. Cặp phạm trù nội dung và hình thức
+ Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình hợp thành cơ sở tồn tại và
phát triển của sự vật.
+ Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là cách thức tổ chức và kết cấu của nội dung.
+ Giữa nội dung và hình thức có mối quan hệ biện chứng với nhau
Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó chặt chẽ với nhau trong một sự vật hiện tượng. Các yếu
tố cấu thành nên sự vật hiện tượng, các quá trình vừa góp phần tạo nên nội dung, đồng thời lại vừa
tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Do đó nội dung và hình thức không tách rời nhau
mà gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau. Không có hình thức nào lại không có nội dung, ngược lại
không có nội dung nào lại không tồn tại trong hình thức xác định.
Tính chất của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức hết sức phức tạp, nó biểu hiện: cùng một nội
dung được biểu hiện ra nhiều hình thức khác nhau, và một hình thức cũng có thể bao hàm các nội dung khác nhau.
Vai trò quyết định của nội dung đối với hình thức trong quá trình phát triển của sự vật.
Quá trình vận động phát triển của sự vật hiện tượng, nội dung là mặt động nhất, nó có khuynh
hướng chủ đạo là sự biến đổi. Còn hình thức là mặt tương đối bền vững của sự vật nên khuynh
hướng chủ đạo là ổn định. Sự phát triển của sự vật bao giờ cũng từ sự biến đổi phát triển của nội
dung. Khi nội dung biến đổi đến một mức độ nhất định thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho
phù hợp với nội dung mới.
Nội dung luôn giữ vai trò quyết định hình thức, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối, tác động
trở lại nôi dung. Nếu hình thức phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc
đẩy nội dung phát triển và ngược lại nếu hình thức không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ
ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Nội dung và hình thức có thể chuyển hóa cho nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
Vì nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ không tách rời nhau trong quá trình vận động, phát triển
của sự vật, cho nên chúng ta không được tách rời tuyệt đối hóa giữa nội dung và hình thức, đặc biệt
cần chống chủ nghĩa hình thức. Do cùng một nội dung trong quá trình phát triển có thể có nhiều
hình thức thể hiện và một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau, cho nên, trong hoạt
động thực tiễn chúng ta phải tận dụng mọi loại hình thức có thể có, kể cả một số hình thức cũ để 49
phục vụ cho nội dung mới, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác nhau.
Vì nội dung giữ vai trò quyết định với hình thức, nhưng hình thức lại có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại nội dung, cho nên để nhận thức và cải tạo sự vật, trước hết chúng ta phải căn cứ vào
nội dung, mặt khác phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung với hình thức và làm cho hình thức
phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển. Không nên cứng nhắc khi xem xét nội dung
và hình thức, để xác định cái gì là nội dung cái gì là hình thức chúng ta phải đặt nó trong một quan hệ xác định.
5. Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự
vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng là hình thức biển hiện ra bên ngoài của bản chất.
Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng: sự thống nhất biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau.
Sự thống nhất đó được thể hiện:
Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua các hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là biểu hiện của
bản chất nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng. Ngược lại cũng không
có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện bản chất nhất định.
Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất bao giời cũng được bộc lộ qua
những hiện tượng nhất định. Bản chất nào thì hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ thành
những hiện tượng khác nhau. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo.
Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Bản chất và hiện tượng tuy thống nhất với nhau nhưng đó là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự
đối lập giữa bản chất và hiện tượng được thể hiện:
Bản chất là cái bên trong, sâu sắc hơn hiện tượng, hiện tượng là cái bên ngoài, phong phú hơn bản chất.
Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm hơn, còn hiện tượng thường xuyên biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Bản chất và hiện tượng có thể chuyển hóa cho nhau. Bản chất hiện ra, xâm nhập vào hiện tượng, còn
hiện tượng không tách rời bản chất, có tính bản chất. Hiện tượng chuyển hóa thành bản chất là sự
chuyển hóa trong quá trình nhận thức.
+ Ý nghĩa phương pháp luận
Vì bản chất và hiện tượng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ ràng buộc, không tách rời nhau, bản
chất thì ẩn dấu sâu kín bên trong sự vật còn hiện tượng thì lại là cái biểu hiện ra bên ngoài của bản
chất, cho nên, muốn nhận thức được bản chất của sự vật thì phải xuất phát từ hiện tượng. Do một
bản chất có thể biểu hiện ra bằng nhiều hiện tượng khác nhau và mỗi hiện tượng chỉ phản ánh một
khía cạnh của bản chất, cho nên muốn nhận thức bản chất sự vật chúng ta không nên chỉ dừng lại ở
một hoặc một số hiện tượng mà phải thông qua phân tích, tổng hợp rất nhiều hiện tượng.
Vì bản chất là cái tất nhiên tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của
sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, cái không quyết định sự vận động và phát triển của sự
vật, hơn nữa hiện tượng nhiều khi còn xuyên tạc bản chất, cho nên, nhận thức không chỉ dừng lại ở
hiện tượng mà phải tiến tới nhận thức bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của một sự vật là một
quá trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Trong hoạt động thực tiễn, không được dựa vào hiện tượng mà phải dựa vào bản chất của sự vật để
xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật.
6. Cặp phạm trù khả năng và thực hiện
Khả năng là cái xuất phát từ bản chất bên trong sự vật, nó là cái chưa tới, chưa biểu hiện, nhưng
sẽ tới, sẽ biểu hiện ra khi có các điều kiện thích hợp. 50
Hiện thực là những cái hiện đang có, hiện đang tồn tại thực sự.
Khái niệm hiện thực ở đây khác với khái niệm hiện thực khách quan. Hiện thực là khái niệm chỉ tất
cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn
tại một cách chủ quan trong ý thức của con người. Còn hiện thực khách quan là khái niệm chỉ các sự
vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại trong thực tế và độc lập với ý thức của con người.
Khả năng là cái xuất phát từ bản chất bên trong sự vật, nó là “cái hiện chưa có”và “sẽ có”, tức là các
sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng với tư cách là “cái chưa
có”và “sẽ có”, là cái để xuất hiện sự vật đó thì lại tồn tại. Như vậy, dấu hiệu căn bản để phân biệt
giữa khả năng với hiện thực là ở chỗ khả năng là cái hiện chưa có và sẽ có, còn hiện thực là cái hiện đang có, đang tồn tại.
Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại khả năng. Có khả năng được hình thành do quy luật vận động
nội tại của sự vật quy định gọi là khả năng tất nhiên. Nhưng có khả năng được hình thành cho các
tương tác ngẫu nhiên quy định gọi là khả năng ngẫu nhiên. Khả năng tất nhiên lại bao gồm khả năng
gần là khả năng đã có đủ hoặc gần đủ các điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực, và khả năng xa
là khả năng chưa đủ các điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực, nó còn phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ nữa.
Ý nghĩa phương pháp luận
Vì hiện thực là cái đang có,đang tồn tại thực sự,nên mọi hoạt động của con người trước hết
phải xuất phát từ hiện thực. Nếu chỉ xuất phát từ khả năng (cái chưa có) mà tách rời hiện thực là ảo tưởng.
Vì khả năng và hiện thực tồn tại không tách rời nhau, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau, cho nên, trong
hoạt động thực tiễn nếu chúng ta tách rời khả năng và hiện thực sẽ không thấy được tiềm năng vận
động, phát triển của sự vật, sẽ không tranh thủ thúc đẩy các điều kiện thích hợp cho những khả năng
gần trở thành hiện thực.
Trong cùng một sự vật, cùng một điều kiện không chỉ tồn tại một mà là tồn tại nhiều khả năng. Vì
vậy, chúng ta phải tìm được khả năng tốt nhất, khả năng tối ưu nhất, tạo các điều kiện thích hợp để
khả năng đó trở thành hiện thực.
Khả năng là cái chưa có, chưa tồn tại thực sự nhưng nó biểu hiện khuynh hướng vận động, phát triển
của sự vật trong tương lai. Trong hoạt động thực tiễn, nếu chỉ dựa vào cái mới còn ở dạng khả năng,
chưa phải là hiện thực thì sẽ rơi vào ảo tưởng, tuy vậy chúng ta vẫn phải tính đến khả năng để đề ra
chủ trương, kế hoạch hoạt động sát hợp hơn. Phải phân loại các khả năng như khả năng tất nhiên,
khả năng ngẫu nhiên, khả năng gần, khả năng xa v.v.. Từ đó, mới tạo ra được các điều kiện thích
hợp để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển.
Trong tự nhiên, quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực diễn ra một cách tự phát. Còn trong xã
hội, quá trình khả năng biến đổi thành hiện thực được diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con
người. Điều đó đòi hỏi trong các hoạt động xã hội cần phải phát huy nguồn lực con người, phát huy
tính năng động sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy xã hội phát triển.
Liên hệ thực tiễn ở công ty A
Ở công ty A, tư duy và hành động quản lý luôn đi từ triết lý của sự việc: thúc đẩy cái riêng phát triển
đến tối ưu để phục vụ cái chung. Đó là triết lý mà các nhà quản trị của công ty thưc hiện. Để cái
riêng phát triển tột bậc, thì mục tiêu chung của công ty mới đạt kết quả. Vì không ai bỏ hết công sức
của mình để làm lợi cho cái chung, mà mình không có quyền lợi gì
Trong quá trình sản xuất công ty A luôn vận dụng phạm trù nguyên nhân và kết quả vào vấn đề môi
trường. Làm tổn hại đến mội trường không những mang lại hậu quả nghiệm trọng cho công ty mà còn cho toàn xã hội.
Sau khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì nhãn hàng hoá, tên giao dịch
thương hiệu trở thành một sự nhận biết của người kinh doanh, của khách hàng. Rồi khi đầu tư nước 51
ngoài vào Việt Nam thì nhãn hiệu đẹp, hấp dẫn sẽ gây ấn tượng và thu hút người mua hàng. Công ty
A phải liên tục cho ra mẫu mã sản phẩm mới. Khi thay đổi hình thức của sản phẩm thì công ty cũng
cần quan tâm đến nội dung của nó bởi nội dung ý thức phải luôn đi kèm với nhau, không thể tách rời
nhau, trong đó nội dung có vai trò quyết định còn hình thức thúc đẩy nội dung phát triển. Đó chính
là vấn đề mà cặp phạm trù "Nội dung - hình thức" của Triết học Mác đề cập tới.
CHƯƠNG VII. THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG TRONG KINH TẾ
Câu 35. Phân tích sự khác nhau cơ bản giữa thực tiễn và nhận thức. Vì sao hoạt động sản
xuất vật chất là dạng hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng nhất
Câu 36. Trình bày sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính.Liên hệ với hoạt động chuyên môn của anh/ chị
Nhận thức la một qua trinh biện chứng bao gồm nhiều giai đoạn, cấp độ đối lập nhưng thống nhất lẫn nhau.
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên của quá trình
nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự
vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau:
Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện
tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi
sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý
thức. Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Nếu dừng lại ở cảm giác
thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn
hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức
phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang
tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm
giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả
những thuộc tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức
đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính không đặc trưng và phải
nhận thức sự vật ngay cả khi nó không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do
vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn.
Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình
dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng
vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự
phối hợp, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích, tổng hợp.
Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi trội của các sự vật.
Giai đoạn này có các đặc điểm:
Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và không bản chất.
Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất, tất yếu bên
trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu
tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính bản chất của sự
vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc
tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, 52
vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Khái niệm
có vai trò rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay
phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng. Thí dụ: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh
hùng" là một phán đoán vì có sự liên kết khái niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng".
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đoán đơn nhất
(ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ:
mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát
rộng lớn nhất về đối tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ giữa cái đơn nhất với cái
phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán
kia và chưa biết được mối quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua
các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng với
các kim loại khác còn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận
thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận.
Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra một phán
đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ, nếu liên kết phán đoán "đồng dẫn điện" với
phán đoán "đồng là kim loại" ta rút ra được tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự
kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta có
được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.
Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không có nhận thức lý tính thì không
nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.
Nhận thức trở về thực tiễn, ở đây tri thức được kiểm nghiệm là đúng hay sai. Nói cách khác,
thực tiễn có vai trò kiểm nghiệm tri thức đã nhận thức được. Do đó, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân
lý, là cơ sở động lực, mục đích của nhận thức. Mục đích cuối cùng của nhận thức không chỉ để giải
thích thế giới mà để cải tạo thế giới. Do đó, sự nhận thức ở giai đoạn này có chức năng định hướng thực tiễn.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Khi khắc phục tinh phiến diện của chủ nghĩa duy cảm (đề cao vai trò nhận thức cảm tính , hạ
thấp vai trò nhận thức lý tính ) và của
(đề cao vai trò nhận thức chủ nghĩa duy ý lý tính , hạ thấp vai
trò nhận thức cảm tính ) chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính là hai giai đoạn nhận thức đối lập nhau có đặc điểm, vai trò khác nhau, nhưng liên hệ mật
thiết va hỗ trợ, thống nhất lẫn nhau: Nhận thức cảm tinh là cơ sở, tiền đề của nhận thức lý tính .
Nhận thức lý tính giúp định hướng và nâng cao độ chính xác của nhận thức cảm tính. Nếu nhận
thức chỉ dừng lại ở cảm tính thi không thể khám phá được bản chất, quy luật của đối tượng, còn nếu
nhận thức chỉ xảy ra trong lĩnh vực lý tính thì có thể sa vào chủ nghĩa giáo điều, ảo tưởng viển vông;
trong thực tế, chúng đan xen thống nhất lẫn nhau. Một trong những hình thức thức thể hiện sự đan xen, thống nhất đó là -
trực giác năng lực trực tiếp nắm bắt chân lý mà không cần trải qua những lập luận logich.
một hinh thức nhận thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi trực giác là có tính bỗng
nhiên (bất ngờ), trực tiếp va không ý thức được. 53 Nắm vững sẽ giúp khắc
quan điểm thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
phục chủ nghĩa duy cảm, chủ nghĩa duy lý, giúp loại bỏ chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều
để đẩy mạnh hoạt động thực tiễn hiệu quả va nhận thức đúng đắn
Câu 37. Phân biệt tri thức kinh nghiêm và tri thức lý luận. Vì sao kinh nghiệm phải được bổ
sung bằng lý luận
Câu 38. Vì sao thống nhất giữa lý luận thực tiễn và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mac Lê Nin? Phê phán bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
CHƯƠNG VIII LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Câu 39. Phân tích vai trò sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội
Sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, là hoạt động
nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó là cơ sở của sự hình
thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là toàn bộ
các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất, tức là tạo ra năng lực
thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động (như năng lực, kỹ năng, tri thức...) và các tư liệu
sản xuất (gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động) trong đó nhân tố người lao động giữ vai trò
quyết định. Sở dĩ như vậy là vì suy đến cùng các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con
người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào trình độ sử dụng
của người lao động. Trong tư liệu sản xuất, nhân tố công cụ lao động do con người sáng tạo ra phản
ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng
nhanh chóng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất
làm cho các tri thức khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển
và chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản
lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn
nhau, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữa vaitrò quyết định.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng
trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực
lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản
xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là
hình thức kinh tế của quá trình đó.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên tắc khách
quan: quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai 54
đoạn lịch sử nhất định. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ:
- Lực lượng sản xuất thế nào thì quan hệ sản xuất phải thế ấy tức là quan hệ sản xuất
phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Khi lực lượng sản xuất biến đổi
quan hệ sản xuất sớm muộn cũng phải biến đổi theo. - Lực lượng sản xuất quyết định cả ba
mặt của quan hệ sản xuất tức là quyết định cả về chế độ sở hữu, cơ chế tổ chức quản lý và
phương thức phân phối sản phẩm.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất luôn có tác
động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động này diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu
cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng của lực lượng sản xuất.
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ tạo ra tác động tích cực, thúc
đẩy và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Nếu không phù hợp sẽ tạo ra tác động tiêu cực, tức là kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung,
quan hệ sản xuất sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì không giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt
động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm
khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất với nhau trong một phương thức sản xuất,
tạo nên sự ổn định tương đối, đảm bảo sự tương thích giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
tạo điều kiện cho sản xuất phát triển.
Lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi, phát triển, tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất giữa
lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm xuất hiện nhu cầu khách quan phải tái thiết lập quan hệ
thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển của lực
Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguồn
gốc và động lực cơ bản của sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất. Nó là cơ sở để giải
thích một cách khoa học vềnguồn gốc sâu xa của toàn bộ hiện tượng xã hội và sự biến động trong
đời sống chính trị, văn hóa của xã hội.
Ý nghĩa phương pháp luận :
- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển lịch
sử nhân loại từ chế độ nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư
bản và chế độ cộng sản chủ nghĩa trong tương lai là do sự tác động của một hệ thống các quy
luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Câu 40. Vì sao trong nghiên cứu về xã hội xuất phát từ sản xuất vật chất, từ phương thức
sản xuất chứ không thể xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của người cẩm quyền 55
Câu 41. Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật đó? Liên hệ với quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta
Câu 42. Con người có thể tự do lựa chọn quan hệ sản xuất theo ý muốn của mình được
không? Vì sao? Liên hệ với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nước ta
Câu 43. Trình bày mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế
với chính trị. Liên hệ với công cuộc đổi mới ở nước ta
Câu 44. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội . ý nghĩa phương pháp
luận của phạm trù đó. Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta hiện nay
Câu 45. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử - tự
nhiên. Chúng ta tiến lên Xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có phù hợp với quá
trình lịch sử - tự nhiên hay không? Vì sao
1. Phân tích sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
* Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội: HTKT-XH là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ
xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu qhsx đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với
một trình độ nhất định của llsx, và với một kttt tương ứng được xây dựng trên những qhsx ấy.
HTKT-XH là một hệ thống hoàn chỉnh và có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là
llsx, qhsx, kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của htkt-xh có vai trò, vị trí riêng, tác động qua lại lẫn
nhau, thống nhất với nhau.
+ LLSX: là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi htkt-xh. Sự hình thành và phát triển của mỗi
htkt-xh xét đến cùng do llsx quyết định. Llsx phát triển qua các htkt-xh nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
+ QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là những quan hệ cơ bản
ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi htkt-xh lại có một kiểu qhsx của nó
tương ứng với trình độ nhất định của llsx. Qhsx là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể
này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử
+ KTTT: được hình thành và phát triển phù hợp với CSHT, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ,
duy trì và phát triển CSHT đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản nêu trên, các htkt-xh còn có quan hệ về gia đình, dân tộc, và các quan hệ
xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với qhsx, biến đổi cùng với sự biến đổi của qhsx.
* Sự phát triển của các htkt-xh là một quá trình lịch sử tự nhiên:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao,
tương ứng với mỗi giai đoạn là một htkt-xh. Sự vận động thay thế nhau của các htkt-xh trong lịch sử
đều do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Trên cơ sở
phát hiện ra các quy luật phát triển khách quan của xã hội, Mac đã đi đến kết luận: “sự phát triển của
những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên”.
Các mặt cơ bản hợp thành một htkt-xh không tách rời nhau mà liên hệ biện chứng với nhau hình
thành nên những qui luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của qhsx với tính chất
và trình độ phát triển của llsx; quy luật csht quyết định kttt và các quy luật xã hội khác. Chính tác
động của các quy luật khách quan đó mà các htkt-xh vận động phát triển thay thế nhau từ thấp đến 56
cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của llsx.
Chính tính chất và trình độ phát triển của llsx đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ
của qhsx. Do đó xét đến cùng llsx quyết định quá trình vận động và phát triển của htkt-xh như quá
trình lịch sử tự nhiên
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các htkt-xh thì quy luật
về sự phù hợp của qhsx với tính chất và trình độ phát triển của llsx có vai trò quyết định nhất. Llsx
bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển từ
thấp đến cao. Qhsx là mặt thứ hai của ptsx biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.
Những qhsx lỗi thời được xóa bỏ và được thay thế bằng những kiểu qhsx mới cao hơn. Đến lượt nó,
sự thay đổi qhsx sẽ kéo theo sự thay đổi về kttt, và do đó mà htkt-xh cũ được thay thế bằng htkt-xh
mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra theo quy luật khách quan chứ không phải theo ý
muốn chủ quan của con người.
Sự thay thế một htkt-xh này bằng một htkt-xh mới cao hơn thường được thực hiện thông qua
cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu sa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa llsx và qhsx, khi
qhsx trở thành xiềng xích của llsx. Trong thời kỳ cách mạng xã hội khi cơ sở kinh tế thay đổi thì
sớm hay muộn toàn bộ kttt đồ sộ cũng thay đổi theo
Quá trình kế thừa của lịch sử loài người luôn luôn cho phép cộng đồng nào đó, trong điều kiện
nhất định do tác động của các nhân tố, các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, có thể bỏ qua các giai
đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại. Trong thời đại ngày nay chủ
chương rút ngắn để đi lên CNXH ở một số quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa chẳng những không mâu
thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử- tự nhiên mà còn là biểu hiện sinh động của
quá trình lịch sử- tự nhiên ấy. Chỉ khi ta “rút ngắn ”một cách duy ý chí, bấp chấp quy luật thì lúc đó
sự phát triển rút ngắn mới trở nên đối lập với quá trình lịch sử- tự nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con
đường tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử nhất định, một hoặc một
vài htkt-xh nhất định. Sự khác nhau về trật tự phát triển vẫn là quá trình lịch sử- tự nhiên.
ý nghĩa pp luận:
Học thuyết HTKTXH của CN mác- Lênin có một ý nghĩa hết sức to lớn. Nó chỉ ra rằng, động
lực của lsử ko phải là 1 lực lượng thần bí nào mà chính là hoạt động thực tế của con người dưới tác
động của các ql kquan . Học thuyết HTKTXH đó khắc phục mọi quan điểm duy tâm về lịch sử.
Học thuyết này cung cấp cho cta csở ll & những ppháp khoa học để n/cứu XH; giúp cta có csở
vững chắc để xdựng đường lối CMạng trong chặng đường đầu tiên của thờI kỳ quá độ lên CNXH.
Đồng thờI, nó đòi hỏi chúng ta phải quan tâm ko chỉ triển llsx, hthiện qhsx XHCN mà cũng phải
chú ý tới phong tục, tập quán, truyền thống, văn hoá của dân tộc. 57
2. Chúng ta tiến lên Xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có phù hợp với quá
trình lịch sử - tự nhiên hay không? Vì sao
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế giới suốt
thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc nêu
trên, đồng thời chứng minh rằng, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch
sử - cụ thể của Việt Nam.
Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN:
- Dự báo của C. Mác: Phân tích tính chất và đặc điểm của CNTB trong thời kỳ tự do cạnh tranh
Mác và Ăngghen đã rút ra kết luận: cách mạng cộng sản chủ nghĩa không thể xảy ra ở riêng một
nước TBCN mà sẽ đồng loạt xảy ra trong tất cả các nước tư bản văn minh. Những dự báo trên là
xuất phát từ điều kiện của CNTB đang ở thời kỳ tự do cạnh tranh, thời kỳ mà CNTB tương đối ổn
định, các mâu thuẫn giữa các nước tư bản chưa đến mức gay gắt quyết liệt.
- Luận điểm của Lênin: Phát triển học thuyết của C. Mác trong thời kỳ mới, thời kỳ đế quốc chủ
nghĩa Lênin đã xây dựng lý luận về chủ nghĩa đế quốc và đã phát hiện ra quy luật phát triển không
đều về kinh tế và chính trị của CNTB và người đã rút ra kết luận quan trọng về khả năng thắng lợi
của CNXH trước tiên ở một số nước hoặc ở một nước riêng lẻ, chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả các nước.
Khi CNXH thắng lợi ở một nước thì nhân loại bắt đầu bước vào một thòi đại mới - thời đại qua
độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều kiện đo các nước lạc hậu có thể qúa độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN, nhưng phải các điều kiện bên trong và bên ngoài.
+ Điều kiện bên trong: Có ĐCS lãnh đạo và giành chính quyền và sử dụng chính quyền nhà nước
công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây dựng CNXH.
+ Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã giành thắng lợi
trong cách mạng vô sản. (CMVS)
Tuy các nướclạc hậu có khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nhưng không phải là
quá độ trực tiếp mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp thông
qua chính sách "kinh tế mới"
Áp dụng vào thực tiễn trong nước, Đảng ta đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng chính sách kinh tế
mới của Lênin phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ ở nước ta. Tại Việt
Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền bắc và từ năm 1975 trên
phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành thắng lợi, đất
nước đã hòan thành thắng lợi, đất nước đã hòa bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc
điểm bao trùm thời kỳ đó là:
+ Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong
kiến, lực lượng sản xuất rất thấp.
+ Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh hậu quả để lại còn nặng nề.
+ Những tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều.
+ Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền độc lập của nhân dân ta
+ có sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức trong quá trình quá độ lên CNXH
+ có sự giúp đỡ tích cực từ phía Liên Xô và các nước khác trong khu vực
Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” theo kiểu phủ định
sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, bỏ qua cả những cái “không thể bỏ
qua” như đã từng xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, báo cáo chính trị tại Đại hội
Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nói rõ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập 58
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Do vậy bỏ qua chế độ TBCN thưc chất là phát triển theo con đường " rút ngắn" quá trình đi lên
CNXH. Nhưng rút ngắn không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí coi thường quy luật. Trái lại,
phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận
dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thức, bước đi thích hợp; Phải biết kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được ở CNTB không chỉ về LLSX, mà cả về QHSX, cơ
sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng ( KTTT) .
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường rút ngắn để xây dựng
đất nước văn minh, hiện đại. Nhưng khả năng tiền đề để thực hiện con đường đó như thế nào? Phân
tích tình hình đất nước và thời đại cho thấy mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có khả năng và
tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và điều đó phù hợp với tiến trình của lịch sử.
CHƯƠNG IX . VẤN ĐỀ GIAI CẤP, DÂN TỘC,NHÂN LOẠI VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
Câu 46. Giai cấp là gì/ Cở sở phân định giai cấp? Nguồn gốc trực tiếp và sâu xa của sự phân
hóa giai cấp trong xã hội là gì?
Câu 47. Tại sao nói đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử trong điều kiện xã
hội phân hóa thành giai cấp đối kháng. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản có vị trí gì đối với sự
phát triển lịch sử nhân loại trong thời đại hiện nay
a) Đấu tranh giai cấp là gì?
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh
giai cấp là "cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có
đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê
hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản".
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa
quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc
lợi, những kẻ đi áp bức và bóc lột.
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hóa ngày
càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện
của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ,
đại diện cho phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho
những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
b) Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có sự phân hóa các giai cấp đối kháng.
Thứ nhất, đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế
phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới
ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực
thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách
mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội. 59
Thứ hai đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả
bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh
đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất,
cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội... không tách rời cuộc đấu
tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Thứ ba, đấu tranh giai cấp không chỉ có vai trò cải tạo xã hội mà còn có tác động cải tạo bản
thân giai cấp cách mạng, thông qua đấu tranh giai cấp, giai cấp cách mạng được tôi luyện và trưởng
thành về lý tưởng, lý luận, tổ chức.
c, Vai trò của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản đối với lịch sử nhân loại.
Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong
lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộcđấu tranh trước đó trong
lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản được tiến hành bởi giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản là phương tiện để giải phóng toàn xã hội
khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Một số cuộc đấu tranh
giai cấp vô sản tiêu biểu như Cách mạng tháng 10 Nga đã khẳng định giai cấp công nhân và nông
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng thông qua cách mạng vô sản không những đã đánh đổ chính quyền
vô sản, xây dựng chính quyền công-nông, xóa bỏ chế độ tư hữu và mở ra thời kì mới, thời kì phấn
đấu không ngừng để biến những lý tưởng XHCN thành hiện thực. Sự lan tỏa của lý tưởng cách
mạng Tháng Mười đã thức tỉnh và thúc đẩy các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng mình. Và
kết quả là hàng loạt nước đã xác định đi theo con đường của cách mạng Tháng Mười. Cuộc đấu
tranh giai cấp vô sản trở thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, là kim chỉ nam cho con đường đấu
tranh của những dân tộc bị áp bức, giúp họ tìm lại được độc lập cho dân tộc mình, mở ra cho họ
một thời kì phát triển mới_ thời kì tự do, tự quyết và tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Câu 48. Dân tộc là cộng đồng lịch sử có những đặc trưng cơ bản nào? Phân tích các đặc
trưng đó và liên hệ với quá trình hình thành, phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Làm rõ sự
khác nhau vê nguồn gốc hình thành dân tộc Việt Nam so với lịch sử hình thành các dân tộc Châu Âu
Vì sao trong thời đại ngày nay đối với các dân tộc thường là các quốc gia – dân tộc? ý nghĩa
của vấn đề này đối vấn đề giữ vững độc lập dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo đảm
chủ quyền an ninh quốc gia của nước ta hiện nay
Câu 49. Giai cấp và dân tộc luôn có mối quan hệ thống nhất biện chứng. hãy Phân tích mối
quan hệ đó và liên hệ với thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước đây và công
cuộc đổi mới hiện nay 1.
Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc :
Dân tộc là một cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên kết của tất
cả các bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ có tính thống nhất cao, ổn định và tương đối
bền vững dựa trên những nguyên tắc pháp lý cao.
“Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của
tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong chế độ kinh tế xã hội nhất
định”. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp: Luôn có quan hệ hữu cơ với nhau, mỗi
nhân tố có vai trò lịch sử của nó trong sự phát triển xã hội.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được chỉ đạo bởi một quan điểm của một giai
cấp nhất định. Cho nên việc giải quyết vấn đề Giai cấp quyết định việc giải quyết vấn đề Dân tộc. 60
Quan hệ giai cấp là nhân tố quyết định sự hình thành Dân tộc, tính chất dân tộc, xu
hướng dân tộc và quan hệ giữa các Dân tộc.
Hình thành Dân tộc mang tính chất điển hình hiện nay do Chủ nghĩa Tư bản
và giai cấp tư sản quyết định
Tính chất dân tộc bị quy định bởi phương thức sản xuất thống trị.
Phương thức sản xuất tư bản mất đi → phương thức sản xuất cộng sản thay
thế → chuyển hoá xu hướng dân tộc xã hội chủ nghĩa
.Tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ của các dân tộc
Lợi ích dân tộc là lợi ích chung của các giai cấp, các lực lượng xã hội sống trong cộng đồng ấy .
2. Sự vận dụng của Đảng ta vào Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Nhân tố quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi vẻ vang đó là ĐCSVN
đứng đầu là HCM đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại
trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. Nét đặc biệt nhất của việc giải quyết mối quan hệ đó là
gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Mối liên hệ này xuyên suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam, chi phối các mặt khác của cuộc cách mạng.
Để tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên,
vấn đế quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại ở Việt Nam cần đảm bảo những nội dung sau:
Giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với đoàn kết dân tộc.
Giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với đoàn kết dân tộc
Giải quyết mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của thời đại.
Câu 50. Nhân loại là gì? Phân tích cơ sở thống nhất của cộng đồng dân tộc, nhân loaj và
giai cấp có quan hệ với nhau như thế nào? Giải phóng giai cấp có ý nghĩa như thế nào đối với sự
nghiệp giải phóng nhân loại?
Nhân loại là khái niệm chỉ toàn thể công đồng người sống trên trái đất từ hàng triệu năm nay
không phân biệt dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, giai cấp.
Nhân loại mặc dù phân chia thành các bộ phận khác nhau như giai cấp, tầng lớp xã hội, các
cộng đồng dân tộc, tộc người nhưng vẫn là một thể thống nhất.
Mối quan hệ giữa cộng đồng dân tộc, nhân loại và giai cấp:
- Quan hệ giữa cộng đồng dân tộc và giai cấp:
Cộng đồng dân tộc và giai cấp có quan hệ mật thiết , biện chứng với nhau, không thể tách
rời và thay thế. Sự tồn tại của cộng đồng dân tộc gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. 61
Một dân tộc bao giờ cũng gồm các giai cấp khách nhau.Giai cấp cơ bản giữ địa vị thống trị
quyết định tính chất, xu hướng phát triển của cộng đồng dân tộc.
Theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin:
Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản , sâu xa của áp bức dân tộc. Muốn xoá bỏ
tình trạng dân tộc này áp bức dân tộc khác phải xoá bỏ tình trạng áp bức giai cấp.
Các vấn đề giai cấp lãnh đạo, liên minh giai cấp, quan hệ giai cấp là những vấn đề
trọng yếu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Ngược lại cách mạng giải phóng dân tộc có vai trò vô cùng quan trọng đối với cách mạng giải
phóng giai cấp:Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có vai trò to
lớn đối với sự nghiệp cách mạng giai cấp công nhân toàn thế giới. Cách mạng giải phóng
dân tộc của các dân tộc bị áp bức là một bộ phận của cuộc cách mạng giai cấp vô sản trên toàn thế giới.
- Mối quan hệ giữa giai cấp với nhân loại:
Trong xã hội có giai cấp, giữa nhân loại và giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau:
Lợi ích nhân loại bị chi phối bởi lợi ích giai cấp, mỗi giai cấp do địa vị xã hội khác
nhau sẽ nhìn nhận và giải quyết vấn đề nhân loại theo cách thức khác nhau. Các nhà tư tưởng
trước Mác còn trừu tượng và phiến diện, họ chưa thấy được tính lịch sửcủa khái niệm nhân
loại, mà chỉ thấy mặt tự nhiên, mặt sinh vật của tính thống nhất nhân loại.
Chủ nghĩa Mác cho rằng con người là sinh vật có bản chất xã hội, do đó nhân loại là
cộng đồng của những thực thể xã hội.
Trong XH có g/c, vấn đề g/c không phải vấn đề riêng của 1 g/c, 1 tầng lớp nào đó,
mà là vấn đề của toàn nhân loại. Đấu tranh giải phóng g/c, giải phóng dân tộc bị áp bứcmlà
nội dung cơ bản của quá trình giả phóng con người, đưa nhân loại tiến lên. Do vây, không
thể tách rời vấn đề g/c với vấn đề nhân loại.
Giai cấp công nhân - sản phẩm của phương thức SX TBCN, đại diện cho llsx tiên
tiến, có tính chất xã hội hoá cao-do vậy GCCN có bản chất cách mạng và có tính chất quốc
tế. Lợi ích của GCCN phù hợp với lợi ích nhân loại.
Vai trò của giải phóng giai cấp đối với giải phóng nhân loại
Câu 51. Thế nào là xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ? Bản chất của nền kinh tế độc
lập tự chủ trong thời đại hiện nay?
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác, người
khác hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai
dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ,… để áp đặt, khống chế, làm tổn hại
chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Bản chất của nền kinh tế độc lập tự chủ trong thời đại hiện nay?
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường, trước sự khủng
hoảng kinh tế tài chính ở bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản duy trì sự ổn định và phát triển;
trước sự bao vậy, cô lập và chống phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững,
không bị sụp đổ, không bị rối loạn.
Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định hướng xã hội chủ
nghĩa và giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc trong công cuộc phát triển kinh tế, tiến hành 62
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không phải chờ đến khi có trình độ phát triển cao mới đặt
vấn đề giữ vững độc lập tự chủ, mà ngay từ đầu, ngay từ bây giờ đó phải đảm bảo yêu cầu cơ bản về
độc lập tự chủ, trước hết là về đường lối chính trị, các nguyên tắc cơ bản về phát triển kinh tế.
Đương nhiên, xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là một quá trình lâu dài, đi từ thấp đến cao, ngày càng
hoàn chỉnh, ngày càng bền vững.
Trong thời đại ngày nay, nói độc lập tự chủ về kinh tế không ai hiểu đó là một nền kinh tế khép
kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối quan hệ biện chứng với mở cửa, hội nhập, chủ động tham, gia
giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nooiuj lực và lợi thế so sánh của
quốc gia, từng bước xây dựng một cơ cấu sản xuất đáp ứng được cơ bản nhyu cầu thiết yếu về đời
sống của nhân dân và có khả năng trang bị lại ở mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, củng
cố quốc phòng – an ninh.
Câu 52. Hội nhập kinh tế quốc tế là thế nào? Phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản nào?
Đảng ta quan niệm như thế nào về hội nhập kinh tế quốc tế?
52.1 Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tiến trình gắn kết các nền kinh tế quốc gia với nhau trong sản xuất,
trao đổi hàng hóa, chuyển khoản tự do giữa các ngân hàng hay các công ty hầu hình thành một thị trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền
kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất từ và được chấp nhận thập niên 1960
chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động
thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân;
và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.
Hội nhập kinh tế thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu
vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và
hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn.
Hội nhập kinh tế có thể là song phương - tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực - tức là giữa một
nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương - tức là có quy mô toàn thế giới giống như những gì màTổ chức
Thương mại Thế giới đang hướng tới.
Thỏa thuận thương mại ưu đãi
Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, theo đó các quốc thủ tướng tham gia hiệp định dành các
ưu đãi về thuế quan và cho phi thuế quan
của nhau, tạo thành các khu vực thương mại ưu hàng hóa
đãi vùng (Preferential Trade Area). Trong các thỏa thuận này, thuế quan và hàng rào phi thuế quan
có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc gia không tham gia hiệp định. Một ví
dụ về thỏa thuận thương mại ưu đãi là Hiệp định về Thỏa thuận Thương mại Ưu đãi ASEAN được ký kết tại Manila năm
và được sửa đổi năm 1977
1995; hay Khu vực Thương mại Ưu đãi Đông và
Nam Phi tồn tại từ năm 1981 đến năm 1994; hay như các hiệp định dành ưu đãi thương mại (hay tối
huệ quốc) mà một số nước phát triển có thể dành cho các nước đang phát triển.
Hiệp định thương mại tự do
Là hiệp định theo đó các nước ký kết cam kết bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan cho tất cả
hoặc gần như tất cả hàng hóa của nhau. Có thể có những dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn; và
người ta thường đưa các dòng thuế này vào "danh sách nhạy cảm". Chỉ một số ít dòng thuế sẽ không
được bãi bỏ và được liệt kê trong "danh sách loại trừ".
là một phần quan trọng của Quy tắc xuất xứ
các hiệp định thương mại tự do nhằm đảm bảo chỉ những hàng hóa được sản xuất toàn bộ hoặc tối
thiểu ở một tỷ lệ nhất định tại các nước thành viên hiệp định mới được buôn bán tự do nhằm tránh
tình trạng nước không tham gia hiệp định sử dụng cách tái xuất hoặc chỉ lắp ráp tại một nước tham
gia hiệp định mà có thể xuất khẩu sang nước còn lại của hiệp định không phải chịu thuế. 63
Một hiệp định thương mại tự do nổi tiếng được thành lập từ năm 1960, đó là Hiệp hội Thương mại
Tự do Châu Âu. Sau những bế tác của đàm phán tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn
khổ GATT, các hiệp định thương mại tự do song phương (giữa hai nước) và khu vực xuất hiện ngày càng nhiều từ giữa
. Và trong số những quốc gia hăng hái nhất trong việc ký kế thập niên 1990 t các
hiệp định thương mại tự do song phương phải kể đến Mexico, Singapore. Những khu vực thương
mại tự do nổi tiếng mới thành lập từ thập niên 1990 điển hình là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc
Mỹ (thành lập năm 1994),
(hiệp định được ký kết vào năm 1992).
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
Ngoài ra, còn có những hiệp định thương mại tự do giữa một nước với cả một khối, như Hiệp định
Khung về Hợp tác Kinh tế ASEAN-Trung Quốc (ký kết vào năm 2002).
Do xóa bỏ gần như hoàn toàn thuế quan và hàng rào phi thuế quan, nên việc đàm phán để thành lập
một hiệp định thương mại tự do rất mất thời gian và qua nhiều vòng thương thảo. Những nước hăng
hái với tự do hóa thương mại có thể thỏa thuận tiến hành chương trình giảm thuế quan sớm (còn gọi
là chương trình thu hoạch sớm) đối với một số dòng thuế trước khi đàm phán kết thúc và hiệp định được thành lập.
Hiệp định đối tác kinh tế
Hiệp định đối tác kinh tế là cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định thương mại tự do, theo nghĩa
là ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan
lại còn bao gồm cả tự do hóa dịch vụ, bảo hộ , thúc đẩy đầu tư
thương mại điện tử giữa các nước ký kết hiệp định.
Nhật Bản là quốc gia có xu hướng thích các hiệp định đối tác kinh tế vì nó cho phép quốc gia này
thâm nhập toàn diện vào các thị trường của nước đối tác. Hiện Nhật Bản đã ký kết 8 hiệp định đối
tác kinh tế song phương và một hiệp định đối với ASEAN, đang đàm phán để đi tới ký kết 5 hiệp định khác ( ,
Hàn Quốc Ấn Độ, Việt Nam, ,
Úc Thụy Sĩ), có 15 quốc gia, lãnh thổ và khu vực đang có
nguyện vọng đàm phán và ký kết hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản.[4] Thị trường chung
Thị trường chung có đầy đủ các yếu tố của hiệp định đối tác kinh tế và liên minh thuế quan, cộng
thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, lao động) giữa các nước thành viên.
Một thị trường chung như vậy đã từng được thành lập ở châu Âu vào năm theo 1957 Hiệp ước
Rome và mất một thời gian dài mời hoàn thành mục tiêu. Khối ASEAN cũng đã thỏa thuận sẽ thực
hiện được mục tiêu một thị trường chung và một cơ sở sản xuất thống nhất trong toàn khối vào
năm 2020 trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Liên minh thuế quan
Đây có thể hiểu là một khu vực thương mại tự do giữa các nước thành viên cộng với thuế quan
thống nhất của các nước thành viên đối với hàng hóa từ ngoài khu vực. Việc thành lập liên minh
thuế quan cho phép tránh được những phức tạp liên quan đến quy tắc xuất xứ, nhưng lại làm nảy
sinh những khó khăn trong phối hợp chính sách giữa các nước thành viên.
Liên minh kinh tế và tiền tệ
Hội nhập kinh tế đến cấp độ này tạo ra một thị trường chung giữa các nền kinh tế (không còn hàng
rào kinh tế nào nữa) với một đơn vị tiền tệ chung. Ví dụ rõ nhất về cấp độ liên minh này là Khu vực
đồng Euro. Các khu vực được thành lập với mục tiêu trở thành liên minh kinh tế tiền tệ nhưng chưa
hoàn thành được mục tiêu này gồm: ,
Cộng đồng Kinh tế Tây Phi Cộng đồng Caribe (tiền thân là
Cộng đồng và Thị trường Chung Caribe). Trong các liên minh từng tồn tại nhưng nay không còn
có Liên minh Bỉ-Luxembourg.
Trong lịch sử đã từng có những khu vực dùng một đơn vị tiền tệ chung, như Liên minh Tiền tệ Latinh hồi
, nhưng họ chưa xây dựng được một thị trường chung nên không gọi đó l thế kỷ 19 à liên
minh kinh tế và tiền tệ. Lại có một số nước chấp nhận đồng tiền của nước hay khu vực khác làm đơn
vị tiền tệ chính thức của mình, nhưng giữa họ không có một thị trường chung, nên không gọi là liên minh kinh tế - tiền tệ. 64
Hiện nay, tuy Anh đã tham gia
, nhưng vì Anh vẫn giữ đ Liên minh châu Âu
ơn vị tiền tệ riêng là
đồng Bảng Anh, nên Anh không tham gia liên minh kinh tế tiền tệ ở châu Âu.
Với một đơn vị tiền tệ chung, các nước thành viên sẽ phải từ bỏ quyền thực thi chính sách tiền
tệ riêng của mình, mà thay vào đó là một chính sách tiền tệ chung của toàn khối do một ngân hàng
trung ương chung của khối đó thực hiện, như trường hợp của Ngân hàng Trung ương Châu Âu.
Khi mà ngay cả chính sách tài chính cũng được thực hiện chung, hội nhập kinh tế đạt đến độ hoàn toàn.
52.2 Những nguyên tắc cơ bản để hội nhập kinh tế quốc tế Bình đẳng
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong
quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước.
Nguyên tắc bình đẳng này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là
một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển
của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. Với tư cách là thành viên, mỗi quốc gia phải
được đảm bảo có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ như mọi quốc gia khác. Nói cách khác, đảm
bảo tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước luật pháp quốc tế và cộng đồng quốc tế. Kiên trì đấu
tranh để thực hiện nguyên tắc này là nhiệm vụ chung của mọi quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển khi thực hiện mở cửa và hội nhập ở thế bất lợi so với các nước phát triển. Cùng có lợi
Nếu nguyên tắc thứ nhất giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ đối ngoại, thì
nguyên tắc này lại giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc cùng có lợi bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật
kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tế dân tộc khác
nhau. Cùng có lợi kinh tế là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại
và luật đầu tư nước ngoài, nguyên tắc này được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để ký
kết trong các nghị định thư giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các tổ chức kinh tế các nước với nhau.
Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai bên hoặc nhiều bên phải thực hiện đúng các yêu cầu :
Tôn trọng các điều khoản đã được ký kết trong các nghị định giữa các chính phủ và trong các hợp
đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích của nhau.
Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có quan hệ,
nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và kích động để can thiệp vào đường lối thể chế chính trị của các quốc gia đó.
Giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn
Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ
đối ngoại, vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần phải xử lý tốt mối quan hệ
về lợi ích kinh tế, mà còn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. Mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng
trưởng kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện từng bước những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Do
vậy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều
nguồn lực bên ngoài, vừa phát huy được nguồn lực bên trong bảo đảm phát triển kinh tế, trả được
nợ, phụ thuộc nhưng không lệ thuộc vào nước ngoài và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 65
Bốn nguyên tắc nói trên có quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế
đối ngoại giữa các nước trong đó có nước ta. Vì vậy, không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết
lập duy trì và mở rộng kinh tế đối ngoại.
52.3 Quan niệm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay quốc gia nào tách ra khỏi dòng thác của lịch sử là tự huỷ diệt mình. Tất cả các quốc gia,
dù lớn, dù nhỏ, mạnh hay yếu đều tìm cách để hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả nhất. Việt
Nam đã và đang bước vào nền kinh tế hội nhập với những lợi thế và thách thức, chúng ta hội nhập
theo những quan điểm riêng của mình. Do đó nắm vững các quan điểm của Đảng ta về hội nhập
kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết…
Để tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế, trước tiên chúng ta phải nắm vững
đường lối, quan điểm chung của Đảng ta về đổi mới đất nước và phát triển kinh tế. Đặc biệt phải
nắm vững quan điểm về đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là:
Một là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá các quan hệ quốc tế; Việt Nam muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Hai là: Tiếp tục tạo môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là: Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và
khu vực theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ vũ lực; bình
đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; chống
mọi hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Trên nền tảng phân tích các quan điểm đối ngoại trên, chúng ta có thể thấy rõ quan điểm hội nhập
kinh tế quốc tế của Đảng ta là:
Một là: Hội nhập kinh tế quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền đất
nước. Ở đây chúng ta cần hiểu rõ, cần có tư duy mới về kinh tế độc lập tự chủ. Kinh tế độc lập tự
chủ khác với kinh tế tự cung tự cấp. Độc lập tự chủ về kinh tế trong hội nhập là khẳng định mở cửa
hội nhập để khai thác các mặt có lợi cho sự phát triển kinh tế của ta từ nền kinh tế thế giới. Do đó
muốn bảo đảm độc lập tự chủ phải mở cả về cơ cấu kinh tế và cả về cơ chế kinh tế, phải đa phương
hoá không để cho một nước nào, một nền kinh tế nào, một tập đoàn nào giữ vị trí độc quyền, chi
phối bất cứ một lĩnh vực, một sản phẩm thiết yếu nào của nền kinh tế chúng ta. Phải tìm mọi cách
tạo ra sự cạnh tranh giữa các đối tác và cũng đề phòng sự lợi dụng cạnh tranh của các tổ chức kinh
tế quốc tế với chúng ta. Muốn giữ được độc lập tự chủ trong hội nhập phải giữ vững ổn định kinh tế,
đối phó kịp thời với những tác động bất lợi từ bên ngoài. Bởi vậy cần xây dựng những sợi dây an
toàn cho nền kinh tế quốc gia: chẳng hạn như xây dựng và thực hiện các mối quan hệ hợp lý trong tỷ
lệ tích luỹ tối thiểu trong GDP, tỷ lệ vốn vay, tỷ lệ trả nợ hàng năm, tỷ lệ vay ngắn hạn và trung hạn,
dài hạn, mức thâm hụt tối đa trong cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, tỷ lệ đầu tư
trực tiếp của nước ngoài và đầu tư gián tiếp của nước ngoài qua cổ phiếu và trái phiếu, bảo đảm an
toàn lương thực. Muốn giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập còn phải ra sức nâng cao năng lực
làm chủ khoa học kỹ thuật, phải nhanh chóng đào tạo đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi và đội ngũ
cán bộ hành chính thạo việc. Và điều cốt lõi là phải phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và cải thiện
đời sống cho toàn dân, thực hiện công bằng, xã hội... Đây chính là nền tảng vững chắc nhất bảo đảm
cho chúng ta vừa hội nhập kinh tế quốc tế vừa giữ được quyền độc lập tự chủ. 66
Ba là: Chúng ta chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối
đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về
xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Ở
đây chúng ta cần nắm vững mối quan hệ biện chứng tuy hai nhưng là một của nội lực và ngoại lực.
Nội lực là chính, là quyết định. Nhưng muốn phát huy tốt nội lực thì phải có sự tham gia của ngoại
lực. Ngoại lực tham gia càng nhiều, càng mạnh thì càng xuất hiện nhiều và nhanh các khả năng tối
đa để phát huy “nội lực”. Và ngược lại để tranh thủ được ngoại lực nhất thiết phải biết động viên tối đa nội lực.
Bốn là: Chúng ta phải nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng đồng bộ thị trường trong
nước (thị trường hàng hoá, thị trường nhân lực, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản), để đủ sức
hội nhập với khu vực và hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác.
Năm là: Song song với việc xây dựng sự phát triển đồng bộ thị trường, chúng ta phải nhanh chóng
xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh. Doanh nghiệp là đội quân xung kích vô cùng quan trọng
trong quá trình hội nhập kinh tế. Doanh nghiệp được nói tới ở đây là bao gồm các doanh nghiệp, các
công ty, tổng công ty của tất cả các thành phần kinh tế ở tất cả các lĩnh vực sản xuất hàng hoá thiết
bị, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, tiếp thị và nhân lực.
Sáu là: Chúng ta phải chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, tích cực tham gia đàm
phán thương mại, tham gia các diễn đàn, các tổ chức, các hiệp định định chế quốc tế một cách chọn
lọc với những bước đi tỉnh táo và thích hợp.
CHƯƠNG X. LÝ LUẬN NHẬN THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI KINH TẾ
Câu 53. Phân tích bản chất và những đặc trưng của Nhà nước.? Vì sao nói nhà nước
không phải cơ quan điều hòa mâu thuẫn giai cấp? Chứng minh rằng sự ra đời của nhà nước là
một tất yếu khách quan của quá trình phát triển kinh tế- xã hội?
Câu 54. Nhà nước có những chức năng cơ bản nào? Quan hệ giữa các chức năng đó? Tại
sao chức năng chính trị là chức năng cơ bản nhất. Vì sao chức năng kinh tế là chức năng riêng
có của kiểu Nhà nước chuyên chính vô sản
1. Nhà nước có những chức năng cơ bản:
Mỗi nhà nước đều có những chức năng cụ thể của nó nhưng bất cứ nhà nước nào cũng đều có
các chức năng chính trị, chức năng xã hội và chức năng đối nội, đối ngoại.
2. Quan hệ giữa các chức năng:
- Chức năng chính trị và chức năng xã hội của nhà nước. Mối quan hệ giữa chúng
+ Chức năng chính trị của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích chung của cộng đồng
quốc gia, trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị
+ Mối quan hệ giữa hai chức năng chính trị và xã hội của nhà nước là mối quan hệ biện chứng.
Chức năng chính trị quy định tính chất, phạm vi, hiệu quả việc thực hiện chức năng xã hội. Chức
năng xã hội giữ vai trò là cơ sở cho việc thực hiện chức năng chính trị; đảm bảo cho việc thực hiện
chức năng chính trị có hiệu quả.
- Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước. Mối quan hệ giữa chúng.
+ Chức năng đối nội của nhà nước là chức năng xây dựng, củng cố, phát triển và bảo vệ chế độ
kinh tế - xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước là chức năng bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực
hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác. Thực chất của chức năng này
là thực hiện lợi ích giữa các giai cấp thống trị trong các quốc gia khác nhau 67
+ Mối quan hệ giữa hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước thể hiện ở chỗ chúng
thống nhất với nhau, trong đó chức năng đối nội quy định chức năng đối ngoại; ngược lại chức năng
đối ngoại có tác động mạnh lên chức năng đối nội.
3. Chức năng chính trị là chức năng cơ bản nhất vì: chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất,
chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị. Trong các xã hội có
giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước trong tay giai cấp mình, giai cấp thống trị nào cũng
buộc phải nhân danh xã hội mà quản lý những công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những
vấn đề chung của xã hội sẽ tạo ra điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm và lợi
ích của giai cấp cầm quyền. Nói cách khác, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới
hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức, điều kiện để nhà nước đó thực hiện được vai trò giai
cấp thống trị của mình. Điều đó đã được Ph.Ăngghen giải thích rõ rằng: nhà nước là đại biểu chính
thức của toàn xã hội chỉ trong chừng mực nó là nhà nước của bản thân giai cấp đại diện cho toàn xã
hội trong thời đại tương ứng.
4. Chức năng kinh tế là chức năng riêng có của kiểu Nhà nước chuyên chính vô sản vì:
Nhà nước vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước không theo nghĩa đen, là “Nhà nước nửa
nhà nước”. Là kiểu nhà nước có chức năng trấn áp và chức năng tổ chức xây dựng nền kinh tế mới, xã hội mới.
Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản thể hiện ở chỗ:
- Chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nhà nước vô sản không phải là chức năng giai cấp (bạo
lực) mà là chức năng tổ chức xây dựng kinh tế - xã hội. Nhà nước chuyên chính vô sản mang bản
chất của giai cấp vô sản, được xây dựng và hoàn thiện theo mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế- xã
hội .Nhà nước vô sản dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu; về
chính trị dựa trên liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp nhân dân lao động khác.
Tính giai cấp và tính nhân dân và tính dân tộc thống nhất trong nhà nước vô sản. Nhà nước vô sản là
tổ chức, thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn
xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp
công nhân của mình. Vì vậy Chức năng kinh tế là chức năng riêng có của kiểu Nhà nước chuyên chính vô sản
Câu 55. Nhà nước có những vai trò gì đối với quá trình phát triển kinh tế của xã hội? Vì sao
sự phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can thiệp của vai trò nhà nước? Lấy
một số ví dụ về vai trò của nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường ở các nước tư bản
1. Vai trò của nhà nước đối với qúa trình phát triển kinh tế, xã hội.
a. Vai trò của nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định nền kinh tế vĩ mô
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể "cất cánh" trừ phi nó có được nền tảng là một cơ sở
hạ tầng vững chắc. Vì thế, nhà nước phải đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định nền kinh tế vĩ mô của đất
nước. Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để điều tiết nền kinh tế, sử dụng
ngân sách để tiến hành đầu tư công cho các công trình; xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng dựa trên
căn cứ và tiêu chí kinh tế thích. Với tư cách chủ đầu tư, nhà nước hướng các chương trình đầu tư của
mình vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích của quốc gia.
b. Vai trò của nhà nước đối với việc điều tiết các yếu tố ngoại vi
Yếu tố ngoại vi là ảnh hưởng do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt động của các doanh
nghiệp hay cho xã hội. Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống
xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch
nguồn nước bị ô nhiễm mà mình sử dụng trong sản xuất. Bằng sự can thiệp, nhà nước buộc tất cả 68
những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.
Đối với các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới văn hóa, giáo dục bởi đây là lĩnh vực cần có sự quan
tâm và hỗ trợ của nhà nước. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích sản xuất, tiêu
dùng loại sản phẩm này sao cho giá trị đích thực các lợi ích ngoại vi được tính đến trong hệ thống giá thị trường.
c. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm công bằng, trật tự xã hội
Nhà nước phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và quyền được hưởng các lợi ích kinh
tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu đó. Nhà nước trong vai trò bảo đảm tính công bằng trong
các hoạt động xã hội thông qua sự bảo hộ của mình đối với sở hữu tư nhân như nhà máy, công
xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác... đồng thời áp dụng đối với cả các sở hữu liên
quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh, sáng chế, nhãn hiệu,
thương hiệu, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình phần mềm...
d. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm cạnh tranh và chống độc quyền
Vai trò này của nhà nước thể hiện ở những biện pháp kiểm soát thông qua điều tiết đối với
những hãng có khả năng chi phối, kiểm soát các vụ việc sáp nhập công ty nhằm ngăn ngừa khả năng
độc quyền hoá các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống cạnh tranh, khuyến khích cạnh
tranh lành mạnh giữa các nhà cung ứng, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình trạng độc quyền.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, để bảo đảm năng lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp, nhà nước phải tạo lập "sân chơi" bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp trong toàn bộ nền
kinh tế, không thiên vị với bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào, tránh tình trạng bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước.
e. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm phúc lợi lợi xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, có một số người thu nhập còn hạn chế, trong khi đó, số khác lại có
nguồn thu nhập cao. Trên thực tế, chính phủ của nhiều quốc gia thực hiện điều này thông qua chính
sách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập nhằm tạo sự công bằng hơn trong phân phối.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao phúc lợi
công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ
cấp khó khăn… luôn là những vấn đề cần đến sự quan tâm của nhà nước, để khích lệ được mọi
thành phần lao động trong việc tạo ra của cải và tiết kiệm chi dùng những của cải ấy
g. Vai trò của nhà nước đối với chính sách tài chính và tiền tệ
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đóng vai trò rất lớn trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Một trong những chính sách quan trọng trong việc bình ổn giá cả, giảm lạm phát chính là chính sách
tài chính và chính sách tiền tệ. Các chính sách này đúng sẽ tạo ra một thị trường tiền tệ ổn định,
được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và hạn
chế được lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt.
2. Vì sao Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đỏi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước.
Nhà nước có tác động trực tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường.
Pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước chỉ đúng, khi chúng phản
ánh chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở.
Trên lĩnh vực sở hữu: Nhà nước thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, đòn bẩy kinh tế để
định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước
cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách… tạo điều kiện thuận lợi cho
người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham gia quá trình hoạch định,
tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp. 69
Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do mình hoạch
định, vừa sử dụng các nguồn lực – trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước – để định hướng, can thiệp
vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi
xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa
đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa.
Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội góp phần thực
hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Nhà nước chủ động tham gia kinh tế thị trường nhằm bảo hộ các hình thức kinh tế có sức mạnh
giải phóng con người, ngăn chặn các xu hướng phát triển không có lợi cho quảng đại người lao động
như như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân công lao
động theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo
lợi thế từng vùng, ngành và nhu cầu chung của xã hội…
Câu 56. Hãy nên quan điểm của Đảng công sản Việt Nam về việc tăng cường vai trò quản lý
kinh tế của nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa nhằm xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
CHƯƠNG XI .QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MAC LÊ NIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA
Câu 57. Phân tích những giá trị trong quan niệm về con người của các nền triết học trước
Mác. Triết học Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý nào trong các quan điểm đó?
Câu 58. Cách tiếp cận của triết học Mác đối với con người khác với các tiếp cận của các nền triết
học trước Mác ở chỗ nào? Ý nghĩa của cách tiếp cận đó?
Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử
Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Đó là
những vấn đề: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế
giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?.... Đây cũng chính là nội dung cơ
bản của nhân sinh quan – một nội dung cấu thành thế giới quan triết học.
Tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ
theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có
những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết
những vấn đề trên, mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế
giới quan, phương pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu hình...
Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản
tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho
gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết
luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng
của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ
khác và đi tới kết luận bản tính Tự Nhiên của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với
những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác
nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo
đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tư tưởng của các trường phái triết học ấn độ mà tiêu
biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở
tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu hình học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết lụân về 70
bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ
là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy Lạp trải qua giai đoạn Trung cổ,
Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề triết học về con người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt.
Thực tế lịch sử đã cho thấy giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về con nngười trong nền
triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Nhìn chung, các nhà triết
học theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất
con người và các vấn đề khác có liên quan. Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng
đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong
giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của
Đêmôcrit về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người. Đây cũng là
tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo đường lối Êpiquya... Những quan niệm duy
vật như vậy đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là
các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỷ XVIII; nó cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ
nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những
tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Mác.
Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm trong lịch sử triết học phương Tây
lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu cho giác độ tiếp cận này là quan
điểm của Platôn thời Cổ đại Hy Lạp, Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời Cận đại và Hêghen trong
nền triết học Cổ điển Đức. Do không đứng trên lập trường duy vật, các nhà triết học này đã lý giải
bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là bản chất bất tử của linh
hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối, với Đêcáctơ, đó là bản tính phi kinh nghiệm (apriori) của lý
tính, còn đối với Hêghen, thì đó chính là bản chất lý tính tuyệt đối...
Trong nền triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học vẫn coi những vấn đề triết học về
con người là vấn đề trung tâm của những suy tư triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơrớt.
Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít còn có một hạn chế cơ bản là phiến
diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế
lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực
tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con
người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của
triết học Mác-Lênin về con người.
Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con
người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên
của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con
người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là
"thân thể vô cơ của con người"; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát
triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất
con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã
hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như
con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người 71
động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó
trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện,
cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật
chất. "Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái
gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt
đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản
xuất ra chính đời sống vật chất của mình"1.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật
chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên"2.
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất
biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con
người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển
ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản
chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn
bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật
tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di
truyền, biến dị, tiến hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm
lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm,
khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con
người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình
thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn,
mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã
hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học
là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người
với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người, và đến
lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất
với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên
cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản
thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội
giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động
trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác
phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"1.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất
định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. 72
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính
trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên
trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã
hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan
niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng
đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người
là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là,
con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật
chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy
quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải
được giáo dục"1. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật
cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng
cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng
mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp
của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu"2.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải
biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật
dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn
của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm
của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao
động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời
sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt
động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu
cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội,
và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định
của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn
vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống
đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà
các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng
tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự
vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động
và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng
mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động
đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý
nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác
động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành
vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng 73
con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh
trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
Câu 59. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa phương diện sinh học và phương tiện xã
hội trong con người? vận dụng vào lĩnh vực công tác của anh/ chị
Câu 60. Phân tích bản chất của con người. Hiểu thế nào là luận điểm “con người vừa là chủ
thể, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh?”
Trước khi TH Mác ra đời đã có nhiều cách giải thích khác nhau về bản chất con
người. Các tôn giáo nói chung đều cho con người là sản phẩm của thần thánh, của thượng đế.
Chủ nghĩa tâm giải thích bản chất con người ở ngoài con người hoặc từ một lực lượng thần bí nào đó.
Các nhà duy vật siêu hình lại chỉ thấy được bản chất sinh học , bản chất của con
người & tuyệt đối hoá bản chất này.
TH Mác- Lênnin xuất phát từ con người & nhằm giải phóng con người. Vì vậy, con
người vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích cuối cùng của TH Mác – Lênin nói riêng & CN
M- LN nói chung. Chủ nghĩa M- LN là chủ nghĩa nhân đạo nhất, triệt để nhất vì mục đích
của nó là giảI phóng hoàn toàn triệt để mỗI người & cả loài người.
TH Mác- Lênin cọi “Bản chất con người ko phải là một cái trừu tượng cố hữu của các nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ XH”.
a. Con người là một thực thể sinh vật – xã hội
- Khoa học và thực tiễn đã chứng tỏ rằng, tiền đề đầu tiên của sự tồn tại người là sự sống của thể xác
Thể xác sống của con người chính là sản phẩm tiến hóa lâu dài của tự nhiên, là sự tiếp tục phát
triển của tự nhiên. Ph.Aêngghen viết : “Bản thân chúng ta với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc
chúng ta là thuộc về giới tự nhiên”. Do vậy, trước hết nó bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên sinh
học như : quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, quy luật biến dị và di truyền, quy luật tiến hóa …
- Sự tồn tại của con người còn gắn liền trực tiếp với sự tồn tại của xã hội
Để thỏa mãn các nhu cầu của mình, con người phải tiến hành lao động sản xuất, qua đó tạo
thành các mối quan hệ xã hội và xã hội; trong đó “ xã hội sản sinh ra con người với tính cách là con
người như thế nào thì con người cũng sản sinh ra xã hội như thế”. Sự tồn tại xã hội của con người
gắn liền với sự tồn tại của ý thức.
- Con người là một thực thể sinh vật – xã hội, trong đó có sự tác động đan xen của ba hệ thống
nhu cầu (nhu cầu sinh học, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần) và ba hệ thống quy luật (quy luật sinh
học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần)
Mỗi hệ thống nhu cầu và quy luật này đều có vị trí, vai trò và tác dụng của mình trong sự tồn tại
và phát triển của con người đồng thời chúng tham gia vào việc quy định bản chất của nó; trong đó
hệ thống nhu cầu và quy luật xã hội luôn giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định.
Các nhu cầu của con người, dù là nhu cầu vật chất hay tinh thần, mang tính tự nhiên và xã hội,
đều được quy định bởi lịch sử, nhưng con người hoàn toàn có thể tự điều chỉnh, tự kiểm tra các nhu
cầu và hoạt động của mình.
Con người tồn tại trong thế giới không phải như các sinh vật khác, mà tồn tại với tư cách là chủ
thể của quá trình nhận thức và hành động cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người.
b. Con người là chủ thể của lịch sử 74
- Triết học Mac-Lênin cho rằng, con người là sản phẩm của lịch sử (sản phẩm của điều kiện tự
nhiên và điều kiện xã hội) đồng thời chính là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử ấy-lịch sử của con
người. Đó là quá trình hoạt động có ý thức của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên, cải tạo xã
hội và cải tạo chính bản thân con người.
- Trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật, C.Mác đã khảo sát bản chất con người bắt đầu
từ hoạt động thực tiễn, từ trong hoàn cảnh xã hội lịch sử cụ thể.
- “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, luận điểm này cho thấy, con người là
một thực thể có tính loài. Đặc tính “loài” của con người hiện thực tức là tính người. Tính người bao
gồm toàn bộ các thuộc tính vốn có của con người, trong đó có ba thuộc tính cơ bản nhất đó là :
thuộc tính tự nhiên, thuộc tính xã hội và thuộc tính tư duy.
- “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, quan hệ xã hội ở đây được hiểu là
tổng thể các quan hệ mà con người đã có, đang có và trong chừng mực nào đó còn bao hàm cả
những quan hệ trong tương lai.
- Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, nhưng con người bao giờ cũng là con
người riêng biệt, con người cụ thể, ứng với những thời đại, những giai đoạn lịch sử nhất định, với
từng tập đoàn người, đồng thời nó cũng mang bản chất chung của nhân loại, phát triển trong toàn bộ lịch sử loài người.
c. Luận điểm “ Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của hoàn cảnh”
với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến
giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào
những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình
để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản
phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh của chính bản thân con người. Hoạt
động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm
biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông
qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu
và nhu cầu do con người đặt ra . Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật
xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người .
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định
của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận
động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ
thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng
hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể
sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng,
mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng ( mặc dù không trùng khắp) với sự
vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày
càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác
động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác,
có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và
tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử,
hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức
hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn
cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội 75
Câu 61: Vì sao phát triển nguồn nhân lực con người Việt Nam là yếu tố quyết định thành
công của sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa?
Con người là chủ thể của hoạt động sản xuất, là yếu tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong
lực lượngsản xuất của xã hội, con người còn là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua
hoạt động sản xuất vật chất, sáng tạo ra lịch sử của chính mình, sáng tạo ra lịch sử của xã hội loài
người. Kết quả là xã hội loài người đã bước từ thời đại văn minh này sang thời đại văn minh khác
cao hơn, trong quá trình lịch sử tự nhiên.
Mặt khác khi sản xuất ngày càng phát triển, tính chất xã hội hóa của sản xuất ngày càng
gia tăng, việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền
sản xuất do việc đó mang lại sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới. Các Mác đã khẳng định:
sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trước hết có ý nghĩa là “sự phát triển phong phú của bản
chất con người, coi như là một mục đích tự thân”. Bởi vậy theo Các Mác, ý nghĩa lịch sử, mục đích
cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá của
con người, giải phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự tha hoá để con người
sống với cuộc sống đích thực của mình.
Thực tế đã chứng minh, trong công cuộc đổi mới đất nước, chỉ có con người-yếu tố quan
trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội mới là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết
định sự thành công hay thất bại. Nhưng con người cũng là mục tiêu, là cái đích của sự phát triển, sự
đổi mới này. Hay nói cách khác, công cuộc đổi mới đất nước mà cụ thể là công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là do con người, phụ thuộc vào con người và vì con người.
Có thể nói rằng xã hội loài người tồn tại và phát triển dựa vào hai nguồn tài nguyên là: thiên nhiên và con người.
Tuy nhiên các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên…. tự nó chỉ tồn tại dưới dạng
tiềm năng.Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn
lực con người thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất
biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn chúng kết lại với nhau, tạo
thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các
nguồn lực khác là những khách thể chịu sự cải tạo, khai thác của con người, hết thảy chúng đều
phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người, nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế
trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là “lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại”.
Ngày nay trước xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự hợp tác đầu tư nước ngoài
cũng là nguồn lực quan trọng, nó tạo ra “cái hích” kinh tế, nhất là với các nước có điểm xuất phát
thấp, nhưng sức mạnh của “cái hích” này đến đâu, tác động tích cực của nó như thế nào còn tuỳ
thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó.
Xét đến cùng nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn
lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý do gì để tồn tại.
Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội, là điều kiện
quan trọng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. …….THE END.….