







































Preview text:
CHƯƠNG 1
MƯỜI NGUYÊN LÝ CỦA KINH TẾ HỌC KHÁI QUÁT CHƯƠNG
Chương này trình bày mười nguyên lý của kinh tế học. Suốt cả cuốn sách sẽ liên quan đến những nguyên
lý này. Mười nguyên lý được chia làm ba phần: con người ra quyết định như thế nào, con người tác động
lẫn nhau ra sao và cách thức vận hành của tổng thể nền kinh tế.
Con người ra quyết định như thế nào
Con người đối mặt với sự đánh đổi: Các nhà kinh tế thường nói "chẳng có gì là cho không". Điều đó
có nghĩa luôn có sự đánh đổi - để có được một thứ ưa thích ta phải từ bỏ một thứ khác mà ta cũng thích.
Ví dụ nếu bạn muốn tiêu tiền cho bữa tối hay đi xem phim thì bạn sẽ không thể dùng số tiền đó mua
quần áo mới. Trên phương diện xã hội, chúng ta đối mặt với sự đánh đổi theo nhóm. Ví dụ, sự đánh đổi
kinh điển là giữa "súng” và “bơ". Nghĩa là nếu chúng ta quyết định tăng chi tiêu cho quốc phòng (súng),
chúng ta sẽ phải chi ít hơn cho các chương trình xã hội (bơ). Cũng có sự đánh đổi giữa hiệu quả (nhận
được tối đa từ nguồn lực khan hiếm) và công bằng (lợi ích được phân phối công bằng giữa các thành
viên trong xã hội). Các chính sách như thuế hay trợ cấp làm cho thu nhập được phân phối đồng đều hơn
lại làm giảm động lực làm việc và vì vậy, nền kinh tế không sản xuất được nhiều như trước. Kết quả là,
khi chính phủ cố gắng cắt chiếc bánh thành những phần đều nhau hơn, thì chiếc bánh ngày càng nhỏ lại.
Chi phí của một thứ là cái mà bạn phải từ bỏ để có được nó: c
hi phí cơ hội của một thứ là những gì
bạn phải từ bỏ để có được nó. Đây là chi phí thực của nó. Chi phí của việc học đại học rõ ràng bao gồm
học phí của bạn. Nó cũng bao gồm giá trị thời gian đáng lẽ bạn có thể sử dụng để đi làm, được tính bằng
khoản lương tiềm năng. Chi phí này không bao gồm tiền thuê nhà, tiền ăn hàng tháng vì dù đi học hay
không bạn vẫn phải ăn và ngủ.
Người duy lý suy nghĩ tại điểm cận biên: những thay đổi cận biên là những thay đổi nhỏ so với kế
hoạch hành động hiện tại. Người ra quyết định duy lý sẽ chỉ hành động khi lợi ích cận biên vượt quá chi
phí cận biên. Ví dụ, bạn chỉ nên tiếp tục học thêm một năm đại học nếu lợi ích nhận được từ một năm
học thêm đó vượt quá chi phí bạn bỏ ra. Một người nông dân chỉ nên trồng thêm một giạ lúa nếu lợi ích
(giá bán) vượt quá chi phí sản xuất.
Con người phản ứng với các kích khích: vì người duy lý cân nhắc giữa lợi ích cận biên và chi phí
cận biên của các hoạt động, họ sẽ điều chỉnh hành động khi những chi phí và lợi ích này thay đổi. Ví dụ,
khi giá ôtô tăng, người mua có động lực mua ít ôtô hơn trong khi người bán có động lực thuê thêm nhân
công và sản xuất thêm ôtô. Các chính sách công có thể làm thay đổi lợi ích và chi phí của các hoạt động.
Ví dụ, thuế đánh vào hàng xa xỉ như du thuyền đắt tiền làm tăng giá và ngăn cản việc mua chúng. Một
số chính sách có những hệ quả ngoài dự định của các nhà hoạch định chính sách vì chúng làm thay đổi
hành vi theo những cách không dự đoán trước được.
Con người tác động qua lại với nhau như thế nào
Mọi người có thể cùng được lợi từ thương mại: Thương mại không phải là một trận đấu (thương
trường là chiến trường) trong đó luôn có người chiến thắng và người thất bại. Thương mại cho phép mỗi
người tham gia trao đổi chuyên môn hoá sản xuất những gì họ có thể làm tốt nhất, dù đó là trồng trọt,
xây dựng hay chế biến, và trao đổi những sản phẩm tạo ra để lấy những sản phẩm mà những người khác
sản xuất hiệu quả. Điều này đúng đối với các quốc gia cũng như đối với các cá nhân.
Thị trường thường là cách tổ chức tốt các hoạt động kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, các quyết
định sản xuất loại hàng hoá dịch vụ nào, sản xuất bao nhiêu và ai sẽ mua chúng được quyết định bởi
hàng triệu doanh nghiệp và hộ gia đình. Các doanh nghiệp và hộ gia đình, theo đuổi lợi ích cá nhân, tác
động qua lại lẫn nhau trên thị trường, tại đó giá cả và lượng trao đổi được quyết định. Mặc dù điều này
có vẻ như là một mớ hỗn loạn, nhưng Adam Smith đã đưa ra nhận định nổi tiếng trong tác phẩm Của
cải của các dân tộc vào năm 1776, rằng các doanh nghiệp và các hộ gia đình chỉ quan tâm đến lợi ích cá
nhân tác động qua lại lẫn nhau trên thị trường và tạo ra những kết quả mà xã hội mong đợi như thể được
dẫn dắt bởi một "bàn tay vô hình". Những kết quả tối ưu này đối với xã hội vốn không phải là ý định của
họ. Giá cả hình thành do hoạt động cạnh tranh phản ánh giá trị của chi phí và lợi ích đối với người sản
xuất và người tiêu dùng mà những hành động của họ vô tình tối đa hoá lợi ích xã hội. Theo cách thức tổ
chức khác, giá cả được quyết định bởi mệnh lệnh của các nhà hoạch định ở trung ương không chứa đựng
thông tin về chi phí và lợi ích, vì vậy giá cả như vậy không thể tạo ra các hoạt động kinh tế một cách
hiệu quả. Giá cả cũng thất bại trong viêc dẫn dắt các hoạt động kinh tế một cách có hiệu quả khi chính
phủ bóp méo giá cả thông qua thuế hay hạn chế giá cả biến động thông qua kiểm soát giá.
Chính phủ đôi khi có thể làm cho thị trường vận hành tốt hơn: Đôi khi chính phủ can thiệp vào thị
trường để nâng cao hiệu quả (nền kinh tế vận hành hiệu quả hơn) và tính công bằng (kết quả tạo ra được
phân phối công bằng hơn). Khi thị trường không thể phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả, xuất
hiện cái gọi là thất bại thị trường. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thất bại thị trường. Ngoại ứng xuất hiện
khi hành động của một người có ảnh hưởng đến lợi ích của người ngoài cuộc. Hiện tượng ô nhiễm là
một ví dụ điển hình. Sức mạnh thị trường xuất hiện khi có một cá nhân hay một nhóm người có thể gây
ảnh hưởng đến giá cả. Trong những tình huống này, chính phủ có thể can thiệp để nâng cao hiệu quả
kinh tế. Chính phủ cũng có thể can thiệp để cải thiện tính công bằng thông qua thuế thu nhập và trợ cấp
xã hội. Đôi khi các chính sách can thiệp với ý định tốt lại tạo ra những hệ quả không mong muốn.
Nền kinh tế với tư cách một tổng thể vận hành như thế nào
Mức sống của một quốc gia phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đó:
Có sự khác nhau rất lớn trong thu nhập bình quân giữa các quốc gia tại một thời điểm và trong cùng một
quốc gia giữa các thời kì. Sự khác nhau trong thu nhập và mức sống này phần lớn là do năng suất lao
động khác nhau. Năng suất lao động là lượng hàng hoá, dịch vụ mà một công nhân tạo ra trong một đơn
vị thời gian. Do vậy, các chính sách công nhằm nâng cao mức sống cần hướng tới nâng cao trình độ cho
người dân, tạo ra nhiều công cụ sản xuất tốt hơn, và mở rộng khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại. Thâm
hụt ngân sách chính phủ kìm hãm sự phát triển bởi vì nó hấp thu nguồn tiết kiệm cá nhân và do đó làm
giảm đầu tư xã hội cho vốn nhân lực (giáo dục) và tư bản hiện vật (nhà máy).
Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền: Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung trong nền
kinh tế. Lạm phát cao gây tổn thất lớn cho nền kinh tế. Lạm phát cao và kéo dài là do lượng tiền tăng
trưởng quá nhanh. Nếu các nhà hoạch định chính sách muốn giữ lạm phát ở mức thấp thì cần phải duy
trì mức tăng trưởng lượng tiền thấp.
Xã hội đối mặt với sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp: Lạm phát giảm có chiều hướng làm
tăng thất nghiệp. Sự đánh đổi trong ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp được biểu diễn bằng đường
Philíp. Khi chính phủ giảm lượng tiền nhằm giảm mức giá, giá của nhiều hàng hóa vẫn giữ nguyên chứ
không giảm ngay. Lượng tiền ít hơn làm giảm chi tiêu mua hàng hóa, do đó doanh số bán ra giảm và các
doanh nghiệp sa thải công nhân. Kết quả này được coi là tạm thời. Trong ngắn hạn, các nhà hoạch định
chính sách có thể tác động đến hỗn hợp của lạm phát và thất nghiệp bằng cách điều chỉnh chi tiêu chính
phủ, thuế và lượng tiền cung ứng.
CHƯƠNG 2. ĐO LƯỜNG THU NHẬP QUỐC DÂN
Thu nhập và Chi tiêu của nền kinh tế Trong nền kinh tế vĩ mô của một quốc gia, thu nhập phải bằng
với chi tiêu. Điều này luôn đúng bởi vì, trong mọi giao dịch, thu nhập của người bán phải bằng với chi
tiêu của người mua. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là thước đô tổng thu nhập hay tổng sản lượng
của nền kinh tế. Do thu nhập bằng với chi tiêu, nên GDP có thể được đo lường bằng cộng tất cả các
khoản thu nhập kiếm được trong nền kinh tế (tiền lương, tiền thuê, và lợi nhuận) hoặc tất cả các khoản
chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Tức là, thu nhập bằng với chi tiêu và bằng với GDP.
Đo lường Tổng Sản phẩn Quốc nội GDP được định nghĩa là tổng giá trị thị trường của mọi hàng hoá
và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một nước trong một thời kỳ nhất định.
- "Giá trị thị trường" có nghĩa là sản lượng được định giá theo mức giá mà thị trường trả cho chúng.
Do vậy, các mặt hàng được bán với mức giá cao hơn sẽ được đánh giá cao hơn trong GDP.
- "Mọi hàng hoá và dịch vụ" có nghĩa là GDP cố gắng đo lường mọi sản phẩm được sản xuất trong
nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị trường. Ví dụ, GDP không tính đến qúa trình sản xuất
và bán các chất ma túy bất hợp pháp, và các hoạt động sản xuất và tiêu dùng tại hộ gia đình ví dụ
như hoạt động lau nhà của các chủ sở hữu. Tuy nhiên, để có được một thước đo hoàn hảo, GDP cố
gắng ước tính giá trị thuê nhà của các chủ sở hữu sử dụng nhà của chính mình.
- "Cuối cùng" ở đây có nghĩa là GDP chỉ tính những hàng hoá và dịch vụ được bán cho người sử dụng
cuối cùng. Do vậy, GDP sẽ bao gồm giá trị của một chiếc xe Ford hiệu Taurus khi nó được bán lẻ,
nhưng không bao gồm giá trị của các hàng hoá trung gian được sử dụng trong quá trình sản xuất ra
chiếc xe Ford đó ví dụ như kính, thép, và lốp xe. Hàng hoá trung gian là những hàng hoá được sản
xuất ra bởi doanh nghiệp này và được sử dụng trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp khác. Việc
chỉ tính những hàng hoá và dịch vụ cuối cùng có thể tránh được việc tính hai lần giá trị của các hoạt
động sản xuất trung gian.
- "Hàng hoá và dịch vụ" có nghĩa là, trong khi GDP rõ ràng là có tính đến các hàng hoá hữu hình ví
dụ như xe hơi và xe tải, thì nó cũng tính đến những hàng hoá vô hình ví dụ như dịch vụ của các luật sư và bác sỹ.
- "Được sản xuất ra" có nghĩa là chúng ta loại trừ giá trị của các giao dịch hàng hoá đã qua sử dụng,
những hàng hoá này đã được sản xuất (và được tính) trong một thời kỳ nào đó trước đây. Một lần
nữa, việc làm này có thể tránh được khả năng tính trùng.
- "Trong phạm vi một nước" có nghĩa là GDP đo lường giá trị của quá trình sản xuất trong phạm vi
biên giới địa lý của một nước.
- "Trong một thời kỳ nhất định" có nghĩa là chúng ta đo lường GDP theo năm hoặc theo quý.
Các số liệu dùng để tính GDP được "điều chỉnh theo tính mùa vụ" nhằm loại bỏ sự biến thiên mang tính
hệ thống của số liệu do những sự kiện mang tính mùa vụ ví dụ như lễ Giáng sinh và mùa thu hoạch.
Bên cạnh GDP còn có các thước đo thu nhập khác, sau đây chúng ta liệt kê theo thứ tự từ lớn nhất đến nhỏ nhất.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): GNP đo lường thu nhập hay giá trị sản xuất của các công dân một
quốc gia (bao gồm cả con người và các nhà máy của họ) bất kể các hoạt động sản xuất diễn ra ở đâu.
- Sản phẩm quốc dân ròng (NNP): NNP bằng tổng thu nhập của các công dân một quốc gia (GNP)
trừ đi khấu hao. Khấu hao là giá trị hao mòn của lượng tư bản trong nền kinh tế.
- Thu nhập quốc dân: Thu nhập quốc dân là tổng thu nhập kiếm được bởi các công dân một nước. Nó
bằng với NNP trừ đi thuế gián thu kinh doanh và cộng với trợ cấp kinh doanh.
- Thu nhập cá nhân: Thu nhập cá nhân là thu nhập của các hộ gia đình và các đơn vị kinh doanh không
phải công ty. Nó khấu trừ các khoản lợi nhuận để lại (thu nhập công ty không được trả dưới dạng
cổ tức) tuy nhiên nó có tính đến thu nhập tiền lãi mà các hộ gia đình nhận được từ các khoản vay nợ
của chính phủ và các khoản chuyển giao thu nhập (phúc lợi và an sinh xã hội).
- Thu nhập cá nhân khả dụng: đây là thu nhập của các hộ gia đình và các đơn vị kinh doanh không
phải công ty sau khi họ đã thanh toán các khoản nghĩa vụ đối với chính phủ (thuế, bảo hiểm).
Các thành phần của GDP GDP có thể được đo lường bằng cách cộng tất cả giá trị các khoản chi tiêu
về hàng hoá và dịch vụ cuối cùng. Các nhà kinh tế chia các khoản chi tiêu thành bốn thành phần: tiêu
dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu chính phủ (G), và xuất khẩu ròng (NX).
- Tiêu dùng là các khoản chi tiêu của các hộ gia đình về hàng hoá và dịch vụ.
- Đầu tư là các khoản chi tiêu về trang thiết bị tư bản, hàng tồn kho, và cơ sở hạ tầng ví dụ như xây
dựng nhà ở mới. Đầu tư không bao gồm các khoản chi tiêu về cổ phiếu và trái phiếu.
- Chi tiêu chính phủ là các khoản chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ của chính quyền các cấp (trung
ương, tỉnh, thành phố và địa phương). Chi tiêu chính phủ không bao gồm các khoản chuyển giao
thu nhập ví dụ như chi tiêu của chính phủ cho các dịch vụ an sinh xã hội, phúc lợi, và trợ cấp thất
nghiệp, bởi vì trong các khoản chi tiêu đó chính phủ không hề nhận được một hàng hoá hay dịch vụ nào.
- Xuất khẩu ròng là giá trị các khoản chi tiêu của người nước ngoài đối với hàng hoá trong nước (xuất
khẩu) trừ đi các khoản chi tiêu của dân cư trong nước đối với hàng hoá của người nước ngoài (nhập
khẩu). Giá trị hàng nhập khẩu phải được khấu trừ khỏi GDP bởi vì tiêu dùng, đầu tư, và chi tiêu
chính phủ đã bao gồm những khoản chi tiêu về mọi hàng hoá, cả trong nước và nước ngoài, và thành
phần nước ngoài phải được khấu từ để chỉ có những khoản chi tiêu cho hàng hoá trong nước mới được tính vào GDP.
Ký hiệu GDP là Y, chúng ta có thể viết Y = C + I + G + NX. Các biến được xác định theo định nghĩa
và phương trình này được gọi là một đồng nhất thức.
GDP danh nghĩa và thực GDP danh nghĩa là giá trị sản lượng tính theo mức giá trong năm sản lượng
đó được sản xuất ra (giá hiện hành). GDP thực là giá trị sản lượng tính theo mức giá thịnh hành trong
năm cơ sở tuỳ chọn nào đó (giá cố định). Nếu quan sát thấy GDP danh nghĩa tăng từ năm này qua năm
khác, thì chúng ta không thể kết luận liệu sản lượng hàng hoá và dịch vụ hoặc liệu mức giá có tăng hay
không. Tuy nhiên nếu quan sát thấy GDP thực tăng, thì chúng ta có thể khẳng định rằng sản lượng hàng
hoá và dịch vụ đã tăng, bởi vì sản lượng trong mỗi năm được định giá theo cùng mức giá của năm cơ
sở. Do vậy, GDP thực là thước đo tốt hơn về kết quả sản xuất của nền kinh tế.
Chỉ số hiệu chỉnh GDP = (GDP danh nghĩa/GDP thực) 100. Đây là một thước đo phản ánh mức giá
trong năm hiện hành so với mức giá trong năm cơ sở.
Ở Mỹ, GDP thực có xu hướng tăng trưởng khoảng 3% một năm. Những thời kỳ có sự giảm sút của GDP
thực được gọi là thời kỳ suy thoái.
GDP và Phúc lợi kinh tế GDP thực là một chỉ số quan trọng về phúc lợi kinh tế của một xã hội, bởi vì
những nước có GDP thực bình quân đầu người lớn thường có hệ thống giáo dục tốt hơn, hệ thống y tế
tốt hơn, trình độ học vấn của dân cư cao hơn, nhà ở tốt hơn, khẩu phần ăn đầy đủ hơn, tuổi thọ cao hơn...
Tức là, GDP thực bình quân đầu người càng lớn thì nói chung tiêu dùng bình quân đầu người cũng càng
lớn. Tuy nhiên, GDP không phải là một thước đo hoàn hảo về phúc lợi kinh tế bởi vì nó bỏ qua giá trị
của thời gian nghỉ ngơi, chất lượng môi trường, và các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất tại nhà và
không được bán trên các thị trường ví dụ như dịch vụ chăm sóc nuôi dậy con cái, nội trợ và các công
việc tình nguyện. Ngoài ra, GDP cũng không phản ánh vấn đề phân phối thu nhập. GDP còn thất bại
trong việc tính đến các hoạt động kinh tế ngầm. Ví dụ, GDP không tính được những hoạt động mua bán
ma tuý bất hợp pháp hoặc không tính được những khoản thu nhập không được báo cáo nhằm mục đích trốn thuế.
ĐO LƯỜNG CHI PHÍ SINH HOẠT
Chỉ số giá tiêu dùng Chỉ số giá tiêu dùng là một thước đo chi phí chung của các hàng hoá và dịch vụ
được một người tiêu dùng điển hình mua. Nó được tính toán bởi Cục Thống kê Lao động.
Việc tính CPI bao gồm năm bước:
- Cố định giỏ hàng. Ước tính khối lượng các sản phẩm được người tiêu dùng điển hình mua (tức là
giỏ hàng hoá và dịch vụ).
- Xác định giá cả. Xác định giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại mỗi thời điểm (hàng năm khi tính CPI hàng năm).
- Tính chi phí giỏ hàng. Sử dụng các mức giá và lượng để tính chi phí của giỏ hàng trong mỗi năm.
- Lựa chọn một năm cơ sở và tính chỉ số giá. Lựa chọn một năm làm năm chuẩn để các năm khác có
thể so sánh với nó (tức là năm cơ sở). (Đây phải là năm bạn điều tra người tiêu dùng và cố định
lượng của mỗi hàng hoá trong giỏ hàng tiêu dùng.) Tính tỷ lệ giữa chi phí của giỏ hàng trong mỗi
năm so với năm cơ sở. Nhân mỗi tỷ lệ này với 100. Mỗi giá trị kết quả chính là chỉ số giá của năm đó.
- Tính lạm phát. Lạm phát là phần trăm thay đổi của chỉ số giá so với năm trước. Ví dụ CPI n¨m 2001 - CPI n¨m 2000 û l l Ö ¹m ph¸t trong n¨m 2001 100 CPI n¨m 2000
CPI trong thực tế được tính cả theo tháng và theo năm. Ngoài ra, Cục Thống kê Lao động còn tính chỉ
số giá sản xuất (PPI), chỉ số này đo lường chi phí của một giỏ hàng hoá và dịch vụ được các doanh
nghiệp mua. Sự thay đổi của PPI luôn là dấu hiệu đi trước của sự thay đổi CPI, bởi vì các doanh nghiệp
thường chuyển chi phí cao hơn vào giá hàng tiêu dùng cao hơn.
Các thành phần chính trong giỏ hàng của CPI bao gồm dịch vụ nhà ở (40%), giao thông (17%), thực
phẩm và nước uống (16%), chăm sóc y tế (6%), giải trí (6%), quần áo (5%), và giáo dục và liên lạc (5%).
Chi phí sinh hoạt là lượng thu nhập phải tăng nhằm duy trì mức sống không đổi. Có ba vấn đề nảy sinh
khi sử dụng CPI để đo lường sự thay đổi của chi phí sinh hoạt:
- Lệch thay thế: Theo thời gian, giá cả của một số mặt hàng này tăng nhanh hơn giá cả của một số
mặt hàng khác. Người tiêu dùng sẽ thay thế bằng cách sử dụng nhiều hơn những hàng hoá trở trở
lên rẻ một cách tương đối. Tuy nhiên, CPI lại dựa trên một giỏ hàng hoá cố định. Do CPI thất bại
trong việc tính đến phản ứng thay thế những sản phẩm đắt hơn bằng những sản phẩm rẻ hơn của
người tiêu dùng, nên nó thường phóng đại sự gia tăng của chi phí sinh hoạt.
- Sự xuất hiện của những hàng hoá mới: Khi những hàng hoá mới xuất hiện, tiền sẽ tăng giá trị bởi
vì một đơn vị tiền tệ bây giờ có thể mua được nhiều loại sản phẩm hơn. Do CPI dựa trên một giỏ
hàng hoá tiêu dùng cố định, nên nó không phản ánh được sự gia tăng sức mua này của một đơn vị
tiền tệ (tương đương với sự giảm sút của giá cả). Do vậy, một lần nữa, CPI lại phóng đại sự gia tăng của chi phí sinh hoạt.
- Sự thay đổi không đo lường được về chất lượng: Nếu chất lượng của một hàng hoá nào đó tăng từ
năm này qua năm khác, ví dụ như lốp xe và máy tính, thì giá trị của một đơn vị tiền tệ sẽ tăng ngay
cả khi giá cả thực tế không thay đổi. Điều này tương đương với sự giảm sút của giá cả. Mức độ
phóng đại chi phí sinh hoạt của CPI phụ thuộc vào mức độ gia tăng của chất lượng nhưng không
được Cục Thống kê Lao động tính đến. Khi chất lượng giảm, điều ngược lại sẽ xảy ra.
Các nhà kinh tế tin rằng đây là ba nhân tố khiến cho CPI phóng đại mức độ lạm phát vào khoảng 1%
mỗi năm. Sự phóng đại này có thể khiến cho việc chi trả trợ cấp an sinh xã hội là quá lớn, bởi vì khoản
trợ cấp này gắn chặt với CPI. Mặt khác, những người nhận trợ cấp an sinh xã hội có thể nhận được quá
ít, bởi vì chi phí của giỏ hàng hoá mà những người già ở Mỹ thực sự mua, giỏ hàng này có chi phí chăm
sóc y tế lớn hơn so với giỏ hàng hoá của CPI, thường tăng nhanh hơn CPI.
Nhớ lại rằng chỉ số hiệu chỉnh GDP là tỷ lệ giữa GDP danh nghĩa (sản lượng hiện tại được định giá theo
giá cả hiện hành) chia cho GDP thực (sản lượng hiện tại được định giá theo giá cả của năm cơ sở). Do
vậy, chỉ số hiệu chỉnh GDP cũng là một chỉ số giá. Nó khác với CPI ở hai điểm sau:
- Thứ nhất, giỏ hàng hoá được dùng để tính hai chỉ số là khác nhau. Chỉ số hiệu chỉnh GDP sử dụng
giá cả của mọi hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước. CPI sử dụng giá cả của hàng hoá và dịch
vụ được mua bởi người tiêu dùng, bất kể những hàng hoá này được sản xuất ở đâu. Do vậy, sự thay
đổi giá dầu mỏ ở nước ngoài có thể làm tăng giá xăng trong CPI nhưng không ảnh hưởng gì đến chỉ
số hiệu chỉnh GDP, trong khi đó sự thay đổi giá cả của một chiếc tên lửa hạt nhân sản xuất trong
nước có thể ảnh hưởng đến chỉ số hiệu chỉnh GDP nhưng không ảnh hưởng đến CPI.
- Thứ hai, chỉ số hiệu chỉnh GDP sử dụng lượng hàng hoá và dịch vụ trong mức sản lượng hiện hành,
do vậy "giỏ hàng hoá" thay đổi mỗi năm. CPI sử dụng lượng hàng hoá và dịch vụ trong một giỏ
hàng cố định, do vậy giỏ hàng hoá này chỉ thay đổi khi Cục Thống kê Lao động thay đổi lựa chọn.
Mặc dù CPI và chỉ số hiệu chỉnh GDP biến động tương đối chặt chẽ với nhau, nhưng CPI có xu
hướng tăng nhanh hơn một chút do độ chệch thay thế cố hữu và độ chệch liên quan đến sự xuất hiện
của những hàng hoá mới.
Điều chỉnh các biến kinh tế theo các hiệu ứng của lạm phát Các nhà kinh tế sử dụng CPI để điều
chỉnh thu nhập và lãi suất theo các hiệu ứng của lạm phát.
Việc điều chỉnh thu nhập theo lạm phát cho phép chúng ta so sánh thu nhập của các năm khác nhau.
Công thức chung khi so sánh các giá trị tiền tệ từ các năm khác nhau là: CPI trong n¨m X i¸ tr Þ trong n¨m X Gi¸ tr Þ trong n¨m Y CPI trong n¨m Y
Nói cách khác, để thực hiện việc chuyển đổi trên, chúng ta phải nhân giá trị mà bạn muốn điều chỉnh
với tỷ số giữa mức giá kết thúc và mức giá khởi đầu. Giá trị mà bạn muốn điều chỉnh bây giờ sẽ được
đo lường theo đơn vị tiền tệ thống nhất với mức giá kết thúc.
Ví dụ, giả sử cô của bạn có mức thu nhập là 17.000$ trong năm 1969 và 55.000$ trong năm 1994. Trong
25 năm này, mức sống của bà có tăng hay không? CPI năm 1969 = 36,7 CPI năm 1994 = 148,2 148 2 , 17 0 . 0 $ 0 68 6 . 4 $ 9 55 0 . 0 $ 0 36 7 ,
Mức lương 17.000$ trong năm 1969 có sức mua bằng với mức lương 68.649$ trong năm 1994. Do cô
của bạn chỉ kiếm được 50.000$ trong năm 1994, nên thu nhập thực tế và mức sống của bà đã giảm.
Khi một giá trị bằng tiền, ví dụ khoản thanh toán an sinh xã hội, được điều chỉnh một cách tự động theo
lạm phát, thì chúng ta nói rằng nó đã được chỉ số hoá theo lạm phát. Một hợp đồng có điều khoản này
được gọi là có một COLA hay trợ cấp chi phí sinh hoạt.
Chúng ta cũng điều chỉnh lãi suất theo lạm phát. Sự điều chỉnh này là cần thiết bởi vì , nếu giá cả tăng
trong thời hạn của khoản vay, thì số tiền thanh toán sẽ không có giá trị bằng số tiền ban đầu cho vay.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất chưa được điều chỉnh theo các hiệu ứng của lạm phát. Lãi suất thực là lãi
suất đã được điều chỉnh theo các hiệu ứng của lạm phát. Công thức điều chỉnh lãi suất danh nghĩa theo lạm phát là:
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát
Ví dụ, nếu ngân hàng trả cho tài khoản của bạn một mức lãi suất danh nghĩa là 4%, và tỷ lệ lạm phát là
3%, thì lãi suất thực của tài khoản của bạn sẽ chỉ là 1% bởi vì 4% - 3% = 1%.
CHƯƠNG 4. SẢN XUẤT VÀ TĂNG TRƯỞNG
Sau nhiều năm, một khác biệt nhỏ trong tốc độ tăng trưởng cũng dẫn đến khác biệt đáng kể trong tổng
sản lượng của các nước. Nguyên nhân là do có sự tăng trưởng kép. Nghĩa là tăng trưởng của năm nay
dựa trên tăng trưởng tích luỹ của năm trước. Khái niệm này được thể hiện qua quy tắc 70 cho rằng nếu
một biến tăng trưởng với tỷ lệ x% mỗi năm thì giá trị của nó sẽ gấp đôi sau 70/x năm. Ví dụ, nếu GDP
thực bình quân đầu người tăng 1% mỗi năm thì 70 năm sau nó sẽ gấp đôi. Nếu GDP thực bình quân đầu
người tăng 4% mỗi năm thì nó sẽ tăng gấp đôi sau 17 năm.
Năng suất: Vai trò và các nhân tố quyết định. Mức sống của một nước phụ thuộc trực tiếp vào năng
suất của công dân nước đó vì thu nhập của nền kinh tế đúng bằng sản lượng của nó. Năng suất phản ánh
khối lượng hàng hóa và dịch vụ một người công nhân sản xuất ra trong một giờ. Năng suất của một công
nhân bị chi phối bởi lượng vốn vật chất, vốn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công nghệ hiện
có. Các đầu vào hay yếu tố của quá trình sản xuất nêu trên được diễn giải như sau:
Vốn vật chất (hay viết gọn là tư bản): là số lượng trang thiết bị và nhà xưởng được sử dụng để sản
xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Chú ý rằng bản thân các thiết bị và nhà xưởng lại là đầu ra của những
quá trình sản xuất trước đó.
Vốn nhân lực: là tri thức và kỹ năng mà người lao động có được thông qua giáo dục, đào tạo và kinh
nghiệm công tác. Chú ý rằng vốn nhân lực, giống như vốn vật chất, là nhân tố sản xuất nhân tạo hay
nhân tố được tạo ra bởi quá trình sản xuất.
Tài nguyên thiên nhiên: là đầu vào do thiên nhiên ban tặng, ví dụ đất đai, sông ngòi hay khoáng sản.
Tài nguyên thiên nhiên có hai loại: có thể tái tạo và không thể tái tạo.
Tri thức công nghệ: là sự hiểu biết về cách thức tối ưu sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ về sự
tiến bộ trong công nghệ là việc phát minh và ứng dụng thuốc diệt cỏ và trừ sâu trong lĩnh vực nông
nghiệp hay kỹ thuật sản xuất dây chuyền trong lĩnh vực công nghiệp.
Tri thức công nghệ khác vốn nhân lực ở chỗ tri thức công nghệ là sự hiểu biết của xã hội về phương
pháp sản xuất tối ưu còn vốn nhân lực là mức độ sự hiểu biết về các phương pháp ấy đã được chuyển
hoá vào lực lượng lao động.
Hàm sản xuất đề cập đến mối quan hệ giữa lượng đầu vào sử dụng trong quá trình sản xuất và sản lượng
tạo ra từ quá trình sản xuất đó. Nếu hàm sản xuất biểu thị hiệu suất không thay đổi theo quy mô thì tăng
gấp đôi số lượng tất cả các loại đầu vào sẽ làm cho sản lượng tăng gấp đôi.
Nói tóm lại, sản lượng bình quân trên mỗi lao động phụ thuộc vào lượng vốn vật chất trên mỗi lao động,
lượng vốn nhân lực trên mỗi lao động, lượng tài nguyên thiên nhiên trên mỗi lao động và trình độ công nghệ.
Nhân tố sản xuất duy nhất không phải là sản phẩm của quá trình sản xuất là tài nguyên thiên nhiên. Vì
lượng cung ứng tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo là cố định nên nhiều người cho rằng sự tăng
trưởng của kinh tế thế giới sẽ phải có một giới hạn nhất định. Tuy nhiên, cho tới nay thì tiến bộ công
nghệ đã tìm ra những phương pháp khắc phục hạn chế này. Việc giá của tài nguyên thiên nhiên ổn định
hoặc giảm xuống là một bằng chứng cho thấy chúng ta vẫn liên tục thành công trong việc sử dụng có
hiệu quả những nguồn lực có hạn của mình. (khai thác hiệu quả hơn, sử dụng hiệu quảt hơn và nguyên
liệu thay thế: nhân tạo hay tái chế)
Tăng trưởng kinh tế và chính sách công. Vốn vật chất, vốn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và tri
thức công nghệ quyết định năng suất. Năng suất quyết định mức sống. Nếu muốn nâng cao năng suất
và mức sống cho người dân, thì chính phủ nên theo đuổi những chính sách sau:
Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Nếu xã hội tiêu dùng ít và tiết kiệm nhiều, nó sẽ có nhiều nguồn
lực hơn để dành cho sản xuất tư bản. Tư bản tăng thêm thúc đẩy sản xuất và nâng cao mức sống. Sự
tăng trưởng thêm này có một chi phí cơ hội: xã hội phải từ bỏ mức tiêu dùng hiện tại để có được tăng
trưởng cao hơn trong tương lai. Đầu tư mở rộng tư bản có thể làm giảm hiệu quả: khi lượng tư bản tăng,
đầu ra tăng thêm do mỗi đơn vị tư bản bổ sung sẽ giảm. Vì thế cùng một sự bổ sung tư bản giúp cho
tăng trưởng nhiều hơn vào một nước nghèo so với vào một nước giàu. Điều này được biết đến như là
hiệu ứng bắt kịp vì một nước nghèo dễ tăng trưởng nhanh hơn các nước giàu. Tuy nhiên, vì sự suy giảm
hiệu quả của tư bản, mức tiết kiệm và đầu tư cao hơn ở một nước nghèo sẽ chỉ tạo ra mức tăng trưởng
cao hơn trong một thời gian nhất định, sau đó mức tăng trưởng sẽ giảm dần, bất chấp nền kinh tế thu
hút được nhiều tư bản hơn.
Khuyến khích đầu tư nước ngoài, thông qua dỡ bỏ những hạn chế về sở hữu tư bản nội địa và tạo ra
một môi trường chính trị ổn định (tính minh bạch và có thể tiên liệu được của CS). Bên cạnh việc sử
dụng tiết kiệm trong nước để đầu tư tư bản, các nước có thể thu hút đầu tư của người nước ngoài. Có
hai loại đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài trực tiếp là sự đầu tư vào tư bản do các chủ thể nước
ngoài sở hữu và vận hành. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là sự đầu tư vào tư bản được trang trải bằng
nguồn vốn nước ngoài nhưng vận hành bởi người trong nước. Đầu tư nước ngoài giúp tăng GDP nhiều
hơn GNP vì người nước ngoài được hưởng lợi từ đầu tư. Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF) hỗ trợ việc đầu tư nước ngoài tới các nước nghèo.
Khuyến khích giáo dục. Giáo dục là đầu tư vào vốn nhân lực. Giáo dục không chỉ giúp nâng cao
năng suất của những người thụ hưởng mà còn tạo ra ngoại ứng tích cực. Một ngoại ứng xuất hiện khi
hành động của một người ảnh hưởng đến phúc lợi của người ngoài cuộc. Người được đào tạo có thể
nghĩa ra những ý tưởng có ích cho người khác. Đó là lý lẽ ủng hộ giáo dục công lập. Các nước nghèo
có thể phải đối mặt với tình trạng chảy máu chất xám khi những lao động có trình độ di cư sang các nước giàu.
Bảo vệ quyền sở hữu và duy trì ổn định chính trị. Quyền sở hữu là khả năng của con người trong
việc kiểm soát nguồn lực của họ. Để các cá nhân sẵn sàng làm việc, tiết kiệm, đầu tư và trao đổi với cá
nhân khác theo hợp đồng, họ nhất định phải tin tưởng rằng quá trình sản xuất và tư bản của họ không bị
người khác chiếm đoạt và những điều đã thoả thuận phải có hiệu lực. Ngay cả khả năng xảy ra bất ổn
chính trị trong tương lai xa cũng tạo nên những bất định về quyền sở hữu vì các chính phủ cách mạng
có thể trưng dụng tài sản, đặc biệt là tư bản.
Khuyến khích thương mại tự do. Thương mại tự do giống như tiến bộ công nghệ. Nó cho phép một
nước sử dụng các sản phẩm mà các nước khác sản xuất hiệu quả hơn. Lập luận về ngành non trẻ cho
rằng các nước đang phát triển nên theo đuổi chính sách hướng nội bằng cách ngăn cản thương mại quốc
tế nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa trước sức cạnh tranh của nước ngoài cho đến khi nào các
ngành này trở nên vững vàng. Đa số các nhà kinh tế đều phản đối ý kiến về việc bảo hộ như thế và ủng
hộ chính sách hướng ngoại với sự cắt giảm hoặc xoá bỏ các hàng rào thương mại.
Kiểm soát tăng trưởng dân số. Tăng trưởng dân số nhanh có khuynh hướng dàn mỏng các yếu tố
sản xuất (giảm mức tư bản trên mỗi lao động chẳng hạn). Những phụ nữ có trình độ thường sinh đẻ ít
hơn vì chi phí cơ hội của việc sinh con thường tăng lên khi họ có nhiều cơ hội trong xã hội hơn.
Khuyến khích nghiên cứu và triển khai. Phần lớn sự tăng trưởng về mức sống bắt nguồn từ sự gia
tăng tri thức công nghệ, vốn là kết quả của quá trình nghiên cứu và triển khai. Sau một thời gian, tri thức
trở thành hàng hóa công cộng, nghĩa là chúng ta có thể đồng thời sử dụng nó mà không làm giảm phúc
lợi của người khác. Nghiên cứu và triển khai có thể được khuyến khích nhờ tài trợ, ưu đãi qua thuế và
cấp bằng sáng chế để khẳng định quyền sở hữu tạm thời đối với một sáng chế. Bên cạnh đó, duy trì
quyền sở hữu và ổn định chính trị cũng là một cách khuyến khích nghiên cứu và triển khai.
Một số nhà kinh tế đổ lỗi cho sự tăng trưởng chậm của năng suất trong 25 năm qua bắt nguồn từ sự suy
giảm trong tốc độ cải tiến công nghệ. Một số khác lập luận rằng trong giai đoạn 1950-1970 công nghệ
đã tiến bộ nhanh một cách bất thường và việc tốc độ tiến bộ chững lại sau đó thực ra chỉ là sự trở lại tốc bộ bình thường. CHƯƠNG 5
TIẾT KIỆM, ĐẦU TƯ VÀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Các thiết chế tài chính của Mỹ. Hệ thống tài chính bao gồm các thiết chế tài chính kết hợp người cho
vay với người đi vay. Các thiết chế tài chính có thể được chia thành hai nhóm: thị trường tài chính và trung gian tài chính.
Thị trường tài chính cho phép các công ty vay vốn trực tiếp từ những người muốn cho vay. Hai thị
trường tài chính quan trọng nhất là thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu.
Thị trường trái phiếu cho phép những người đi vay quy mô lớn có thể vay trực tiếp từ công
chúng. Người đi vay bán trái phiếu (chứng chỉ nợ hay IOU), đó là một chứng chỉ xác nhận ngày
đáo hạn (ngày khoản vay được hoàn trả), số tiền lãi sẽ được trả định kỳ, và khoản nợ gốc (khoản
vay ban đầu và sẽ được hoàn trả vào ngày đáo hạn). Người mua trái phiếu là người cho vay.
Trái phiếu khác nhau ở ba điểm căn bản: (1) khác nhau về thời hạn (thời gian đến ngày đáo
hạn). Các trái phiếu thời hạn dài hơn thì rủi ro nhiều hơn và vì vậy thường được trả lãi suất cao
hơn vì người sở hữu trái phiếu có thể cần phải bán trái phiếu trước ngày đáo hạn với giá thấp
hơn. (2) khác nhau về rủi ro tín dụng (khả năng vỡ nợ). Trái phiếu có rủi ro cao hơn được trả
lãi suất cao hơn. (3) khác nhau về phương thức tính thuế. Lãi suất nhận được từ việc sở hữu trái
phiếu địa phương (trái phiếu do chính quyền địa phương hay chính quyền bang phát hành) được
miễn trừ thuế. Vì vậy, các trái phiếu địa phương trả lãi suất thấp hơn.
Thị trường cổ phiếu cho phép các công ty lớn có thể tăng vốn bằng cách nhận thêm “người đồng
sở hữu” công ty. Việc bán cổ phiếu được gọi là tài trợ cổ phần trong khi việc bán trái phiếu
được gọi là tài trợ nợ. Những người sở hữu cổ phiếu (cổ đông của công ty) cùng chia sẻ lợi
nhuận hay khoản lỗ của công ty trong khi những người sở hữu trái phiếu nhận tiền lãi cố định
như một chủ nợ. Cổ đông chấp nhận nhiều rủi ro hơn người nắm giữ trái phiếu nhưng lại mong
đợi khoản lợi nhuận tiềm tàng cao hơn. Các cổ phiếu không có ngày đáo hạn hay hết hạn. Chúng
được giao dịch trên các sàn giao dịch như Sở Giao Dịch New York và NASDAQ. Giá cổ phiếu
được quyết định bởi cung, cầu cổ phiếu, mà bản thân chúng phản ánh kỳ vọng về khả năng sinh
lời của công ty. Chỉ số cổ phiếu, như Chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones là chỉ số trung
bình của một nhóm các cổ phiếu quan trọng trong ngành công nghiệp.
Một số nhà kinh tế học lập luận rằng trong dài hạn, cổ phiếu không rủi ro hơn trái phiếu. Theo
họ, lợi tức hiện thời của cổ phiếu cao có thể bắt nguồn từ sự gia tăng cầu cổ phiếu khi các nhà
đầu tư giảm khoản bù đắp rủi ro liên quan đến cổ phiếu.
Trung gian tài chính là các thiết chế tài chính mà qua đó, những người tiết kiệm (người cho vay) có thể
gián tiếp cung cấp vốn cho người vay tiền. Nói cách khác, các trung gian tài chính là tổ chức đứng giữa
người đi vay và người cho vay. Hai trung gian tài chính quan trọng là các ngân hàng và các quỹ tương hỗ.
Ngân hàng huy động tiền gửi từ dân chúng và các doanh nghiệp (những người tiết kiệm) và
dùng tiền đó để cho vay. Ngân hàng trả lãi cho tiền gửi và tính lãi cao hơn đối với các khoản
cho vay. Các doanh nghiệp nhỏ thường vay tiền của ngân hàng vì với quy mô nhỏ doanh nghiệp
không thể phát hành trái phiếu hay cổ phiếu. Ngân hàng tạo ra một phương tiện trao đổi khi
nhận tiền gửi bởi vì các cá nhân có thể viết séc trên tài khoản tiền gửi để thực hiện giao dịch.
Các trung gian tài chính khác chỉ cung cấp một phương tiện bảo tồn giá trị bởi vì chúng ta không
thể viết séc trên tài khoản tiết kiệm của họ.
Quỹ tương hỗ là các thể chế bán cổ phiếu ra công chúng và sử dụng số tiền đó để mua một số
trái phiếu hay cổ phiếu. Điều này cho phép những người tiết kiệm nhỏ có thể đa dạng hóa danh
mục đầu tư của họ (sở hữu các loại tài sản khác nhau). Nó cũng cho phép những nhà đầu tư nhỏ
tiếp cận được với những nhà quản trị tiền tệ chuyên nghiệp. Tuy nhiên, một số nhà quản trị tiền
tệ có thể lập quỹ chỉ số và mua tất cả cổ phiếu của một loại chỉ số mà không cần sự trợ giúp của
hoạt động quản trị quản trị chủ động. Có hai lý do tại sao quỹ chỉ số lại là các quỹ được quản trị
tốt. Trước hết, khó có thể lựa chọn cổ phiếu nào mà giá của nó sẽ tăng vì giá thị trường của cổ
phiếu là sự phản ánh tốt về giá trị thực của công ty. Thứ hai, quỹ chỉ số duy trì mức chi phí thấp
do mua bán ít lần hơn, và do không phải trả lương cho các nhà quản trị chuyên nghiệp.
Mặc dù có nhiều sự khác biệt giữa các thiết chế tài chính, giữa chúng vẫn có một sự tương đồng, đó là
chúng đều chuyển nguồn lực từ người cho vay sang người đi vay.
Tiết kiệm và đầu tư trong tài khoản thu nhập quốc dân. Để đánh giá đúng tầm quan trọng của hệ
thống tài chính trong việc kết nối tiết kiệm vào đầu tư, chúng ta phải bắt đầu từ việc hiểu thế nào là tiết
kiệm và đầu tư trên giác độ kinh tế vĩ mô. Các tài khoản thu nhập quốc dân cho ta mối quan hệ giữa thu
nhập, sản lượng, đầu tư, chi tiêu, thuế, v.v và v.v... Có nhiều đồng nhất thức thu nhập quốc dân (các
phương trình đúng về mặt định nghĩa) biểu thị mối quan hệ giữa các biến số này.
Nhớ lại rằng, GDP là giá trị sản lượng, hay giá trị của thu nhập nhận được từ việc sản xuất ra sản lượng
đó, và cũng là giá trị chi tiêu cho sản lượng đó. Vì vậy: Y = C + I + G + NX
Trong đó, Y = GDP, C = chi tiêu cho tiêu dùng, I = chi tiêu đầu tư, G = chi tiêu chính phủ cho hàng hóa
và dịch vụ, và NX = xuất khẩu ròng. Để đơn giản hóa, chúng ta giả định không có khu vực nước ngoài,
nghĩa là ở đây, chúng ta đang xét một nền kinh tế đóng. (Nền kinh tế mở thì bao gồm cả khu vực nước
ngoài). Vì vậy, trong ví dụ của ta, Y = C + I + G
Tiết kiệm quốc dân hay tiết kiệm là phần thu nhập còn lại sau khi đã trừ chi tiêu tiêu dùng và chi tiêu
chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ. Để tìm tiết kiệm, trừ C và G từ cả hai vế Y - C - G = I Hay S = I
Nghĩa là, tiết kiệm = đầu tư
Để tính ảnh hưởng của chi tiêu chính phủ và thuế lên tiết kiệm, chúng ta định nghĩa tiết kiệm như sau: S = Y- C - G
Ta lại có, tiết kiệm là phần thu nhập còn lại sau khi trừ đi các khoản chi tiêu tiêu dùng và chi tiêu chính
phủ. Bây giờ, lại thêm và bớt T (thuế) ở vế phải: S = (Y- T- C) + (T- G )
Từ đó suy ra, tiết kiệm bằng tiết kiệm tư nhân (Y- T- C), phần thu nhập còn lại sau khi đóng thuế và tiêu
dùng, cộng với tiết kiệm công (T- G), phần thặng dư ngân sách của chính phủ. Thường thì G > T, và
chính phủ có thâm hụt ngân sách.
Tóm lại, S = I đối với tổng thể nền kinh tế và lượng tiết kiệm sẵn có cho đầu tư bao gồm tiết kiệm tư
nhân và tiết kiệm công. Mặc dù S = I đối với toàn bộ nền kinh tế, nhưng nó không đúng đối với mỗi cá
nhân. Bởi vì một số người đầu tư ít hơn phần họ tiết kiệm, họ có thể dùng tiền đó để cho vay, trong khi
một số người lại đầu tư nhiều hơn phần họ tiết kiệm được, khiến họ có nhu cầu đi vay. Những nhóm
người này gặp nhau trên thị trường tài chính. Chú ý rằng tiết kiệm là thu nhập còn lại sau khi tiêu dùng
và chi tiêu chính phủ, trong khi đầu tư là hoạt động mua sắm thiết bị tư bản mới.
Thị trường vốn. Để đơn giản, hãy tưởng tượng đang tồn tại một thị trường vốn vay trong đó tất cả
những người tiết kiệm dùng vốn của họ để cho vay và đồng thời tất cả các nhà đầu tư đều đi vay vốn.
Cung vốn xuất phát từ tiết kiệm quốc dân. Lãi suất thực cao sẽ khuyến khích tiết kiệm và tăng lượng cung vốn.
Cầu về vốn xuất phát từ nhu cầu các hộ gia đình và công ty muốn vay vốn đầu tư. Lãi suất thực
cao hơn làm tăng chi phí vay tiền và làm giảm lượng cầu vốn.
Cung và cầu vốn kết hợp với nhau tạo nên thị trường vốn. Thị trường này quyết định mức lãi suất thực
cân bằng và lượng vốn cân bằng được cho vay và đi vay. Vì vốn cho vay là tiết kiệm quốc dân và vốn
đi vay được dùng để đầu tư, nên thị trường vốn cũng quyết định mức tiết kiệm và đầu tư cân bằng.
Ba chính sách sau đây có tác dụng khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, và tích luỹ tư bản. Vì vậy, chúng
cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giảm thuế đánh vào tiền lãi và cổ tức làm tăng lợi tức từ tiết kiệm tại bất kỳ mức lãi suất nào, vì vậy,
làm tăng mong muốn tiết kiệm và cho vay tại mọi mức lãi suất. Về mặt đồ thị, chính sách này làm dịch
chuyển đường cung vốn sang bên phải, làm giảm lãi suất thực và làm tăng lượng cầu về vốn cho đầu tư.
Lãi suất thực giảm trong khi tiết kiệm và đầu tư lại tăng.
Giảm thuế cho các nhà đầu tư, ví dụ như một khoản miễn thuế đầu tư, làm tăng lợi tức đầu tư vào tư
bản tại bất kỳ mức lãi suất nào và vì vậy làm tăng mong muốn vay tiền và đầu tư tại bất kỳ mức lãi suất
nào. Về mặt đồ thị, chính sách này làm dịch chuyển đường cầu vốn sang phải, làm tăng lãi suất thực và
lượng cung vốn. Lãi suất thực, tiết kiệm và đầu tư sẽ tăng.
Giảm nợ và thâm hụt ngân sách chính phủ làm tăng tiết kiệm công (T - G), vì vậy, tiết kiệm quốc dân
tăng ở mọi mức lãi suất thực. Về mặt đồ thị, chính sách này dịch chuyển đường cung vốn sang phải, làm
giảm mức lãi suất thực, và tăng lượng cầu vốn cho đầu tư. Lãi suất thực giảm, trong khi đó tiết kiệm và đầu tư tăng.
Thâm hụt ngân sách tăng làm giảm tiết kiệm quốc dân, dịch chuyển đường cung vốn sang trái, làm tăng
lãi suất thực và giảm lượng cầu về vốn. Khi vay mượn và đầu tư tư nhân bị giảm do chính phủ phải vay
mượn nhiều, chúng ta nói chính phủ đang lấn át đầu tư. Thặng dư ngân sách tạo ra hiệu ứng ngược lại.
Vào cuối những năm 1990, chính phủ Mỹ đã có được chút ít thặng dư. Một số nhà chính trị muốn duy
trì thặng dư này để thanh toán hết nợ tồn đọng của chính phủ trước đây, trong khi một số nhà chính trị
khác lại muốn cắt giảm thuế hay tăng chi tiêu chính phủ.
Tỷ lệ nợ/GDP thường tăng trong thời kỳ chiến tranh và điều này được coi là hợp lý. Tuy nhiên, tỷ lệ này
đã tăng trong thập niên 1980. Những nhà lập chính sách từ cả hai đảng đã coi vấn đề này như là tình
trạng đáng báo động và thâm hụt đã giảm trong những năm 1990 và xuất hiện chút thặng dư. Tỷ lệ
nợ/GDP hiện giờ đang giảm xuống.
Giá trị hiện tại của bất kỳ giá trị tương lai nào là lượng tiền ngày hôm nay cần có để tạo ra số tiền đó
trong tương lai với mức lãi suất hiện tại. Gọi r = lãi suất, n = số năm đáo hạn, PV = giá trị hiện tại, và
FV = giá trị tương lai, ta có PV(1 + r)n = FV và PV = FV/(1 +r)n. Vì vậy, nhận một khoản tiền nhất định
ở hiện tại sẽ có lợi hơn là cũng nhận khoản đó trong tương lai. Lãi suất càng lớn thì kết quả này càng rõ ràng. CHƯƠNG 6
THẤT NGHIỆP VÀ TỶ LỆ THẤT NGHIỆP TỰ NHIÊN
Xác định thất nghiệp. Văn phòng thống kê lao động (BLS) sử dụng các cuộc điều tra dân số hiện hành
để phân loại tất cả những người trưởng thành được điều tra (16 và lớn hơn) thành các nhóm người có
việc làm, thất nghiệp, hoặc không nằm trong lực lượng lao động.
Người có việc làm: làm việc được trả công trong hầu hết tuần trước đó.
Người thất nghiệp: nghỉ việc tạm thời, hoặc đang tìm kiếm việc làm, hoặc đợi bắt đầu công việc mới.
Người không nằm trong lực lượng lao động: không nằm trong hai loại trên (sinh viên, nội trợ, người nghỉ hưu) Sau đó, BLS tính toán:
Lực lượng lao động = số có việc làm + số thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp = (số thất nghiệp/lực lượng lao động) x 100
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động = (lực lượng lao động/ số người trưởng thành) x 100
Lực lượng lao động bao gồm tất cả những người có khả năng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm
lực lượng lao động không có việc làm. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là phần trăm toàn bộ số người
lớn nằm trong lực lượng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động biến động lớn
theo nhóm dân cư - nam giới, nữ giới, da den, da trắng, thanh niên, người lớn. Phụ nữ có tỷ lệ tham gia
lực lượng lao động thấp hơn nam giới, nhưng trong lực lượng lao động có cùng tỷ lệ thất nghiệp, người
da đen và thanh niên có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn người da trắng và công nhân lớn tuổi.
Tỷ lệ thất nghiệp bình thường mà tỷ lệ thất nghiệp trong thực tế biến động xung quanh nó được gọi là
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Độ lệch của thất nghiệp so với tỷ lệ tự nhiên được gọi là thất nghiệp chu kỳ.
Lịch sử mới đây nhất cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên ở nước Mỹ vào khoảng 5,5%. Chương này liên
quan đến việc giải thích các đặc trưng và nguyên nhân của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Bởi vì người ta gia nhập và rời khỏi lực lượng lao động một cách rất thường xuyên, thất nghiệp là khó
đo lường và diễn giải. Ví dụ, hơn một phần ba những người thất nghiệp mới gia nhập lực lượng lao động
và một nửa của toàn bộ khoảng thời gian thất nghiệp chấm dứt khi cá nhân thất nghiệp rời khỏi lực
lượng lao động. Thêm vào đó, thất nghiệp có thể được tính một cách không chính xác, bởi vì:
Một số người được tính vào lực lượng lao động nhưng bị thất nghiệp, thậm chí ngay cả khi họ
chỉ mới dự định tìm việc và vì vậy họ nhận được trợ cấp của chính phủ hoặc bởi vì họ đang
được trả công mà "không khai báo". Hành vi này làm cho con số thống kê thất nghiệp bị thổi phồng.
Một số người tìm việc không thành công và chấm dứt tìm việc nên họ không được tính vào lực
lượng lao động. Những cá nhân này được gọi là công nhân thất vọng. Hành vi này làm giảm
con số thống kê thất nghiệp khoảng một nửa phần trăm.
Hiểu biết về độ dài thời gian thất nghiệp có thể giúp chúng ta thiết kế các chính sách phù hợp để xử
lí vấn đề thất nghiệp. Chứng cớ cho thấy hầu hết số phiên thất nghiệp là ngắn hạn, nhưng đa số thất
nghiệp vào bất kỳ thời gian nào cũng là dài hạn. Điều này có nghĩa rằng nhiều người bị thất nghiệp một
giai đoạn ngắn, nhưng một số người thất nghiệp lâu dài. Các nhà kinh tế cho rằng thất nghiệp ngắn hạn
có ít vấn đề đối với xã hội hơn nhiều so với thất nghiệp dài hạn.
Trong hầu hết các thị trường, giá điều chỉnh để cân bằng cung cầu. Trong thị trường lao động lý tưởng,
tiền lương sẽ điều chỉnh sao cho không có thất nghiệp. Tuy nhiên, thậm chí khi nền kinh tế đang vận
hành tốt, tỷ lệ thất nghiệp không khi nào giảm xuống con số không. Các phần tiếp sau hướng vào bốn
nguyên nhân vì sao thị trường lao động bị sai lệch so với thị trường lý tưởng. Nguồn gốc đầu tiên của
thất nghiệp mà chúng ta bàn luận là quá trình tìm kiếm việc làm. Thất nghiệp tạm thời là thất nghiệp có
nguyên nhân ở thời gian cần thiết cho công nhân tìm được việc làm phù hợp nhất với kỹ năng và sở
thích của họ. Ba nguồn gốc tiếp theo của thất nghiệp nằm trong phạm trù của thất nghiệp cơ cấu. Thất
nghiệp cơ cấu là thất nghiệp xảy ra bởi số công việc sẵn có trong một số thị trường lao động không đủ
cho tất cả những người muốn có việc làm. Thất nghiệp cơ cấu xảy ra do tiền lương được giữ cao hơn
mức cân bằng. Ba nguồn gốc có khả năng để tiền lương quá cao là luật tiền lương tối thiểu, công đoàn,
và tiền lương hiệu quả. Thất nghiệp tạm thời có xu hướng lý giải số phiên thất nghiệp ngắn, trong khi
thất nghiệp cơ cấu có xu hướng lý giải số phiên thất nghiệp dài hơn.
Tìm kiếm việc làm. Tìm kiếm việc làm là quá trình làm cho công nhân và công việc phù hợp với nhau.
Chính bởi vì công nhân khác nhau theo kỹ năng và sở thích, công việc phân biệt bởi đặc tính của nó.
Hơn nữa, thông tin về công việc được quảng bá chậm. Do đó cần có thời gian để người xin việc và
doanh nghiệp tuyển dụng tiếp cận nhau. Thất nghiệp tạm thời có nguyên nhân ở thời gian tìm việc đó.
Thất nghiệp tạm thời là không thể tránh khỏi trong nền kinh tế năng động. Vì cầu về sản phẩm thay đổi,
một số ngành và vùng sẽ trải qua sự tăng trưởng, trong khi một số khác bị thu hẹp. Sự thay đổi trong cơ
cấu về cầu đối với sản phẩm của các ngành và vùng được gọi là chuyển dịch khu vực. Chuyển dịch khu
vực gây ra thất nghiệp tạm thời vì công nhân trong khu vực đang thu hẹp mất việc và tìm kiếm việc
trong khu vực đang mở rộng.
Thất nghiệp tạm thời có thể giảm bớt bởi việc cải thiện thông tin về chỗ việc còn trống trên internet.
Chính phủ có khả năng cắt giảm thấp thất nghiệp tạm thời bằng việc tham gia các hoạt động làm rút
ngắn thời gian tìm việc. Hai chương trình như vậy là (1) cơ quan gợi ý hữu ích việc làm để trợ giúp tiếp
cận công nhân và công việc, và (2) chương trình đào tạo công nhân để đào tạo lại công nhân đã mất việc
từ khu vực đang bị thu hẹp. Những người phản bác lập luận rằng chính phủ không thích hợp với công
việc này và thị trường làm công việc tiếp cận và đào tạo lại hiệu quả hơn.
Bảo hiểm thất nghiệp trả cho công nhân mất việc một phần tiền lương gốc của họ trong một thời gian.
Bảo hiểm thất nghiệp làm tăng thất nghiệp tạm thời bởi vì công nhân thất nghiệp dường như (1) kém nỗ
lực tìm việc, (2) không chấp nhận công việc kém hấp dẫn, và (3) ít quan tâm đến sự đảm bảo việc làm
khi thoả thuận với doanh nghiệp. Điều đó không có nghĩa bảo hiểm thất nghiệp là không tốt. Bảo hiểm
thất nghiệp cung cấp cho công nhân sự bảo vệ phần nào đó chống đỡ lại sự mất việc và nó có thể cải
thiện hiệu quả của thị trường việc làm bằng việc cho phép công nhân tìm hiểu kỹ hơn cho việc tiếp cận công việc tốt nhất.
Trợ cấp thất nghiệp ở Đức có thể quá hào phóng, làm cho nhiều người thất nghiệp có ít động cơ tìm việc.
Luật tiền lương tối thiểu. Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi số việc làm không đủ cho số công nhân. Luật
tiền lương tối thiểu là một nguồn gốc của thất nghiệp cơ cấu. Luật tiền lương tối thiểu buộc tiền lương
giữ ở trên mức tiền lương cân bằng. Điều đó gây ra lượng cung lao động vượt lượng cầu lao động. Có
một sự dư cung lao động hay thất nghiệp. Do tiền lương cân bằng đối với hầu hết công nhân vượt trên
mức tiền lương tối thiểu, luật tiền lương tối thiểu có khuynh hướng gây ra thất nghiệp chỉ đối với những
người kém kỹ năng và kinh nghiệm nhất, chẳng hạn thanh niên.
Mặc dù, chỉ một phần nhỏ tổng số thất nghiệp chịu ảnh hưởng bởi tiền lương tối thiểu, một phân tích
tiền lương tối thiểu nhấn mạnh quy tắc chung: Nếu tiền lương được giữ trên mức cân bằng, thất nghiệp
sẽ xảy ra. Hai phần tiếp sau phát triển hai nguyên nhân bổ sung khác vì sao tiền lương có thể giữ cao
hơn mức cân bằng, Đó là, hai phần tiếp theo cung cấp hai nguồn gốc bổ sung đối với thất nghiệp cơ cấu.
Chú ý rằng với thất nghiệp tạm thời, công nhân vẫn đang tìm việc cần tìm, thậm chí nếu tiền lương ở
mức cân bằng cạnh tranh. Ngược lại, thất nghiệp cơ cấu tồn tại bởi vì tiền lương vượt qua mức tiền
lương cân bằng cạnh tranh và công nhân đang chờ đợi công việc.
Công đoàn và thương lượng tập thể. Công đoàn là một hiệp hội ràng buộc trong thương lượng tập thể
với giới chủ về vấn đề tiền lương và điều kiện làm việc. Công đoàn là một cácten bởi vì nó là một nhóm
những người bán tổ chức để áp đặt sức mạnh thị trường. Nếu công đoàn và doanh nghiệp thất bại trong
việc đi tới đồng thuận, công đoàn có thể đình công - đó là việc rút dịch vụ lao động khỏi doanh nghiệp.
Do mối đe doạ đình công, công nhân trong công đoàn nhận được khoảng 10 đến 20 phần trăm tiền lương
cao hơn so với công nhân không phải là đoàn viên công đoàn. Công nhân trình độ kém giành được lợi
thế tài chính từ các đoàn viên công đoàn hơn so với công nhân có trình độ cao hơn.
Công đoàn đem lại lợi ích cho người trong cuộc (đoàn viên công đoàn) bằng cái giá của người ngoài
cuộc (không phải đoàn viên công đoàn). Khi công đoàn làm tăng tiền lương cao hơn mức cân bằng, thất
nghiệp xảy ra. Người trong cuộc nhận được tiền lương cao hơn và người ngoài cuộc bị thất nghiệp hoặc
phải nhận việc với doanh nghiệp không có công đoàn. Điều đó làm tăng cung lao động trong khu vực
không có công đoàn và làm tiền lương giảm thêm nữa đối với công nhân không tham gia công đoàn.
Hầu hết các-ten là bất hợp pháp, nhưng công đoàn được miễn trừ khỏi luật chống độc quyền. Thực vậy,
luật pháp, chẳng hạn như luật Wagner 1935 xúc tiến việc thành lập các công đoàn lao động. Ngược lại,
luật quyền làm việc làm nản chí đoàn viên công đoàn bởi tạo cho nó tính không hợp pháp đòi hỏi đoàn
viên công đoàn về vấn đề việc làm.
Có rất ít sự nhất trí về liệu công đoàn là tốt hay xấu đối với nền kinh tế. Những người phản bác lập luận
rằng Công đoàn là các-ten làm tăng giá lao động cao hơn mức cân bằng cạnh tranh. Điều đó là không
hiệu quả (gây ra thất nghiệp) và không công bằng (người trong cuộc giành mất chi tiêu của người ngoài
cuộc). Những người ủng hộ công đoàn lập luận rằng doanh nghiệp có sức mạnh thị trường và có khả
năng ép lương, nên công đoàn chính là đối trọng đối với quyền lực của doanh nghiệp. Điều này hầu như
là đúng trong thành phố công ty nơi doanh nghiệp thuê hầu hết công nhân của một vùng. Những người
ủng hộ cũng lập luận rằng công đoàn là hiệu quả bởi doanh nghiệp không thể thoả thuận với các công
nhân riêng biệt về tiền công và trợ cấp. Đó là công đoàn có thể giảm bớt chi phí giao dịch này.
Lý thuyết tiền lương hiệu quả. Lý thuyết tiền lương hiệu quả gợi ý rằng doanh nghiệp có thể chủ động
giữ cho tiền lương cao hơn mức cân bằng cạnh tranh, bởi vì có hiệu quả khi làm việc đó. Tiền lương
hiệu quả tương tự như luật tiền lương tối thiểu và công đoàn bởi vì trong cả ba trường hợp, thất nghiệp
đều phát sinh từ việc tiền lương cao hơn mức cân bằng. Tuy nhiên, tiền lương hiệu quả khác ở chỗ được
doanh nghiệp trả một cách tự nguyện. Dưới đây, chúng ta xác định bốn nguyên nhân vì sao doanh nghiệp
nhận thấy có lợi khi trả lương cao hơn mức cân bằng cạnh tranh:
Sức khoẻ công nhân có thể được cải thiện bởi việc trả lương cao hơn. Công nhân được trả lương
cao hơn ăn uống tốt hơn và có năng suất cao hơn. Lập luận này phù hợp hơn với các nước đang
phát triển và có thể không có ý nghĩa nhiều đối với các doanh nghiệp ở Mỹ.
Sự luân chuyển công nhân có thể giảm bớt bằng việc trả lương cao hơn, bởi vì công nhân sẽ
thấy khó có thể tìm việc khác có mức lương cao hơn. Doanh nghiệp có thể nhận thấy có lợi từ
việc giảm sự luân chuyển công nhân bởi vì có chi phí tuyển dụng và đào tạo công nhân mới và
bởi vì công nhân mới là những người không có kinh nghiệm.
Nỗ lực của công nhân có thể nâng cao bởi việc trả lương cao hơn. Khi nỗ lực của công nhân
không dễ dàng giám sát, họ có thể thiếu trách nhiệm. Nếu bị phát giác và sa thải, công nhân
nhận mức lương cân bằng cạnh tranh có thể dễ dàng tìm được việc khác với cùng mức lương.
Tiền lương cao hơn tạo cho công nhân chăm lo tới công việc và làm việc nỗ lực.
Chất lượng công nhân có thể cải thiện bởi việc trả lương cao hơn. Doanh nghiệp không có thể
đánh giá hoàn hảo được chất lượng của những người xin việc. Công nhân chất lượng cao hơn
có mức lương lựa chọn cao hơn - tức mức lương tối thiểu mà họ sẵn sàng chấp nhận. Bằng việc
trả lương cao hơn mức cân bằng cạnh tranh, doanh nghiệp có lợi nhuận cao hơn thu hút được
những người xin việc chất lượng cao cho những việc mới.
Các hình thức khác nhau như “nỗ lực công nhân” và “chất lượng công nhân” của lý thuyết tiền lương
hiệu quả minh chứng cho vấn đề kinh tế về thông tin bất đối xứng. Công nhân (tác nhân) biết nỗ lực và
chất lượng của bản thân họ, nhưng doanh nghiệp (người chủ) thì không biết. Việc trả tiền lương thấp có
thể làm cho công nhân ít nỗ lực - hiện tượng được gọi là rủi ro về đạo đức. Việc trả cho công nhân tiền
lương thấp có thể làm tăng số lượng người xin việc chất lượng thấp, hiện tượng minh hoạ cho sự lựa chọn tiêu cực. CHƯƠNG 27 HỆ THỐNG TIỀN TỆ TÓM TẮT CHƯƠNG BỐI CẢNH VÀ MỤC ĐÍCH
Chương 27 là chương đầu tiên trong phần gồm 2 chương đề cập đến tiền tệ và giá cả trong dài hạn.
Chương này xem xét tiền là gì và cho biết Quỹ Dự trữ Liên bang kiểm soát lượng tiền như thế nào. Vì
lượng tiền ảnh hưởng tới tỷ lệ lạm phát trong dài hạn, nên chương sau chúng ta sẽ tập trung xem xét
nguyên nhân và chi phí của lạm phát.
Mục đích của chương 27 là giúp cho người đọc nâng cao hiểu biết về tiền, những hình thái của tiền, hệ
thống ngân hàng tạo tiền như thế nào, và Quỹ Dự trữ Liên bang kiểm soát lượng tiền như thế nào. Sự
hiểu biết thấu đáo về tiền là rất quan trọng vì lượng tiền trong nền kinh tế ảnh hưởng tới lạm phát và lãi
suất trong dài hạn, và sản xuất, thất nghiệp trong ngắn hạn. Tóm tắt chương
Giới thiệu. Nếu không có tiền, con người phải trao đổi dưới hình thái hiện vật. Hình thức trao đổi hiện
vật xảy ra khi mọi người trảo đổi trực tiếp hàng hoá và dịch vụ này để lấy hàng hoá và dịch vụ khác.
Trao đổi hiện vật cần có sự trùng khớp về nhu cầu. Để một hoạt động trao đổi có thể diễn ra, mỗi bên
trao đổi phải có cái mà bên kia muốn - một hiện tượng khó xảy ra. Sự tồn tại của tiền tạo thuận lợi cho
sản xuất và trao đổi, cái giúp cho con người chuyên môn hoá vào cái mà chúng ta có thể làm tốt nhất và nâng cao mức sống.
Ý nghĩa của tiền tệ: Tiền là một tập hợp các tài sản được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ. Nghĩa
là tiền là phần tài sản của mỗi người có thể chi tiêu và trao đổi trực tiếp. Tiền có ba chức năng:
Tiền là một phương tiện trao đổi vì tiền là loại tài sản được chấp nhận rộng rãi nhất để người mua
mua hàng hoá và dịch vụ từ người bán.
Tiền là đơn vị tính toán vì tiền là một thước đo mà mọi người sử dụng để tính giá và ghi các khoản nợ.
Tiền là phương tiện cất trữ giá trị vì mọi người có thể sử dụng tiền để chuyển sức mua từ hiện tại
tới tương lai. Các loại tài sản khác như cổ phiếu, trái phiếu, tác phẩm nghệ thuật quý hiếm có thể
cất giữ giá trị tốt hơn so với tiền, nhưng lại có khả năng thanh khoản thấp hơn so với tiền. Khả năng
thanh khoản là mức độ dễ dàng của việc chuyển một tài sản thành phương tiện trao đổi. Tiền có khả
năng thanh khoản một trăm phần trăm, nhưng bị mất giá khi giá cả tăng. Ngược lại, giá trị của các
tác phẩm nghệ thuật quý hiếm tăng cùng với lạm phát, nhưng khả năng thanh khoản của chúng lại thấp hơn rất nhiều.
Tiền có thể chia thành hai loại cơ bản là tiền hàng hoá và tiền pháp định.
Tiền hàng hoá là tiền có giá trị cố hữu. Nghĩa là, bản thân nó mang giá trị ngay cả khi nó không
được sử dụng làm tiền. Vàng, bạc và thuốc lá trong trại tù binh, tất cả đều là những ví dụ về tiền
hàng hoá. Khi một nước sử dụng vàng làm tiền, chúng ta nói nó đang áp dụng chế độ bản vị vàng.
Tiền pháp định là tiền không có giá trị cố hữu. Nó là tiền nhờ một nghị định của chính phủ. Ví dụ,
đô la là tiền pháp định.
Khi tính lượng tiền - hay đôi khi còn được gọi là khối lượng tiền tệ - rõ ràng chúng ta phải tính cả tiền
mặt (tiền giấy và tiền xu nằm trong tay công chúng) và tài khoản tiền gửi không kỳ hạn (số dư trong tài
khoản ngân hàng có thể sử dụng bằng séc) bởi vì các tài sản này là phương tiên trao đổi. Tuy nhiên, số
dư trong tài khoản tiền gửi tiết kiệm cũng có thể dễ dàng chuyển đổi thành tài khoản viết séc; các tài
khoản viết séc khác bị hạn chế hơn như quỹ hỗ tương của thị trường tiền tệ, cho phép người có tài khoản
chi tiêu ở một mức nhất định. Trong một nền kinh tế với hệ thống tài chính phức tạp, người ta khó có
thể đưa ra một ranh giới rõ rệt giữa các tài sản là tiền và tài sản không phải là tiền. Vì lý do này mà ở
Mỹ chúng ta phải tính nhiều thước đo khác nhau về khối lượng tiền tệ, hai trong các loại đó là:
M1: bao gồm có tiền mặt, tiền gửi không kỳ hạn, séc du lịch, và các tài khoản có thể viết séc khác.
M2 gồm có M1, các khoản tiền gửi tiết kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn nhỏ, quỹ hỗ tương của
thị trường tiền tệ và một số khoản nhỏ khác.
Để phục vụ cho mục đích của mình, chúng ta hãy xem xét khối lượng tiền tệ của Mỹ, bao gồm cả tiền
mặt và tiền gửi có thể chi tiêu.
Thẻ tín dụng không được tính vào khối lượng tiền tệ bởi vì chúng không phải là một công cụ thanh toán,
mà là một công cụ trả tiền sau. Thẻ ghi nợ giống như một cái séc điện tử mà qua đó tiền được chuyển
trực tiếp từ tài khoản của người mua sang tài khoản của người bán. Vì vậy, giá trị của chúng đã được
tính vào số dư trong các tài khoản tiền gửi.
Có một khối lượng tiền mặt cực kỳ lớn trong lưu thông nếu so với qui mô dân số Mỹ. Có khả năng nó
còn lưu thông ở nước ngoài hoặc được các tổ chức tội phạm nắm giữ.
Hệ thống Dự trữ Liên bang. Quỹ Dự trữ Liên bang (Fed) là ngân hàng trung ương của Mỹ. Nó được
thành lập để quản lý hoạt động hệ thống ngân hàng và điều tiết khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
Fed được thành lập vào 1914 để khắc phục một loạt vụ phá sản ngân hàng vào năm 1907. Fed được điều
hành bởi hội đồng thống đốc. Hội đồng này gồm có 7 thành viên và các thành viên đều được tổng thống
bổ nhiệm và thượng viện thông qua. Các thành viên của hội đồng thống đốc có nhiệm kỳ 14 năm để bảo
đảm rằng họ không phải chịu sức ép chính trị. Một trong 7 thành viên của hội đồng thống đốc được tổng
thống bổ nhiệm làm chủ tịch trong nhiệm kỳ 4 năm. Hệ thống dự trữ liên bang bao gồm Hội đồng Dự
trữ Liên bang ở Washington D.C và 12 Ngân hàng Dự trữ Liên bang khu vực.
Fed có hai nhiệm vụ chính:
Quản lý các ngân hàng và đảm bảo sự lành mạnh trong hệ thống ngân hàng. Fed giám sát tình hình
tài chính của từng ngân hàng và hỗ trợ việc thanh toán séc. Khi có khủng hoảng, tức khi các ngân
hàng thiếu tiền mặt, Fed có thể đóng vai trò người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng.
Kiểm soát khối lượng tiền tệ, tức cung tiền, trong nền kinh tế. Các quyết của Fed về cung tiền được
gọi là chính sách tiền tệ.
Một trong những cơ quan đưa ra chính sách tiền tệ của Fed là uỷ ban thị trường mở liên bang (FOMC).
FOMC có 12 thành viên gồm: 7 thành viên của hội đồng thống đốc và 5 thành viên khác được lấy từ 12
chủ tịch của các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. 12 chủ tịch của các ngân hàng dự trữ liên bang
khu vực sẽ lần lượt được quyền bỏ phiếu trong FOMC. FOMC họp sáu tuần 1 lần để thảo luận về bối
cảnh kinh tế quốc dân và bỏ phiếu cho những thay đổi của chính sách tiền tệ.
Để thay đổi cung tiền, Fed chủ yếu dựa vào nghiệp vụ thị trường mở, tức việc Fed mua và bán trái phiếu
chính phủ trên thị trường mở (chính vì vậy nó được gọi là Uỷ ban thị trường mở liên bang).
Để tăng cung tiền, Fed phát hành tiền để mua trái phiếu chính phủ. Sau khi có hoạt động này, công
chúng sẽ có thêm những đồng đô la mới và vì vậy cung tiền tăng lên và ngược lại.
Việc thay đổi khối lượng tiền tệ làm thay đổi lạm phát trong dài hạn và có thể thay đổi việc làm và sản lượng trong ngắn hạn.
Hoạt động ngân hàng và khối lượng tiền tệ. Hãy nhớ rằng công chúng có thể nắm giữ tiền dưới dạng
tiền mặt hoặc tiền gửi không kỳ hạn. Vì các khoản tiền gửi này nằm tại các ngân hàng, nên hành vi của
các ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ. Điều này gây ra rất nhiều rắc rối cho nhiệm vụ kiểm soát cung tiền của Fed.
Ảnh hưởng của các ngân hàng đến cung tiền có thể thấy được thông qua 3 trường hợp dưới đây:
Giả sử không có ngân hàng. Khi đó tiền trong nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt. Nếu nền kinh tế có
1000 đô la tiền mặt, thì cung tiền bằng 1000 đô la.
Giả sử các ngân hàng dự trữ 100%. Các khoản tiền gửi mà ngân hàng nhận được sẽ không cho vay
và được giữ lại dưới dạng dự trữ. Với nghiệp vụ dự trữ 100%, ngân hàng chỉ là nơi an toàn để giữ
tiền mà không phải là người cho vay. Nếu công chúng gửi toàn bộ số tiền mặt là 1000 đô la vào
ngân hàng thứ nhất, thì tài khoản chữ T (ghi chép những thay đổi trong tài sản có và tài sản nợ) của
ngân hàng thứ nhất như sau: Ngân hàng thứ nhất Tài sản có Tài sản nợ Dự trữ $1000 Tiền gửi $1000
Ngân hàng này có tài sản nợ là 1000 đô la vì nó nắm giữ 1000 đô la của khách hàng. Tài sản có của
ngân hàng là 1000 đô la bởi vì ngân hàng có 1000 đô la dự trữ trong két sắt. Vì tiền mặt công chúng
nắm giữ giảm đi 1000 đô la và tiền gửi trong các ngân hàng của công chúng tăng thêm 1000 đô la, nên
cung tiền không thay đổi. Nếu ngân hàng giữ toàn bộ số tiền gửi dưới dạng dự trữ thì hoạt động ngân
hàng không ảnh hưởng gì đến cung tiền.
Giả sử các ngân hàng dự trữ một phần. Vì có rất ít người cùng một lúc rút tiền gửi của họ ra, nên
ngân hàng thứ nhất không cần giữ lại toàn bộ 1000 đô la dưới dạng dự trữ. Nó có thể cho vay một
phần khối lượng tiền huy động được. Hoạt động này được gọi là nghiệp vụ ngân hàng dự trữ một
phần. Tỷ lệ tiền gửi được giữ dưới dạng dự trữ gọi là tỉ lệ dự trữ. Fed quy định tỉ lệ dự trữ tối thiểu.
Giả sử ngân hàng 1 có tỉ lệ dự trữ là 10% hay nói cách khác ngân hàng này giữ 10% tiền gửi dưới
dạng dự trữ và cho vay 90%. Tài khoản chữ T bây giờ sẽ là: Ngân hàng thứ nhất Tài sản có Tài sản nợ Dự trữ $100 Tiền gửi $1000 Cho vay $900
Ngân hàng 1 đã tạo ra tiền bởi vì nó vẫn nắm giữ 1000 đô la tiền gửi và người đi vay có 900 đô la tiền
mặt. Khi chỉ giữ một phần dưới dạng dự trữ, ngân hàng đã tạo tiền.
Qua trình này chưa kết thúc ở đây. Giả sử người đi vay lại chi tiêu hết 900 đô la và người nhận được
khoản tiền 900 đô la này lại gửi tiếp vào ngân hàng thứ hai. Nếu ngân hàng thứ hai cũng có tỉ lệ dự trữ
là 10, thì tài khoản chữ T của ngân hàng hai là: Ngân hàng thứ hai Tài sản có Tài sản nợ Dự trữ $90 Tiền gửi $900 Cho vay $810
Ngân hàng thứ hai tạo ra 810 đô la nữa thông qua hoạt động cho vay của nó. Mỗi lần tiền được gửi vào
ngân hàng và một phần tiền gửi được cho vay, tiền sẽ được tạo thêm.
Nếu quá trình này cứ tiếp tục mãi, thì tổng số tiền được tạo ra thông qua hoạt động của hệ thống ngân
hàng từ khoản tiền gửi ban đầu là 1000 đô la sẽ bằng 1000 đô la + 900 đô la + 810 đô la + 72,9 đô la +
... = 10.000 đô la (trong trường hợp này, mỗi khoản cho vay mới bằng 90% của khoản cho vay trước đó)
Số lượng tiền mà hệ thống ngân hàng tạo ra từ mỗi đô la dự trữ được gọi là số nhân tiền. Số nhân tiền
tiền là số tỉ lệ nghịch với tỉ lệ dự trữ. Nếu R là tỉ lệ dự trữ thì số nhân tiền sẽ là 1/R. trong trường hợp
trên số nhân tiền là bằng 1/0.10 hay bằng 10. Chính vì vậy, 1000 đô la tiền dự trữ mới có được từ 1000
đô la tiền gửi ban đầu có thể tạo ra tổng khối lượng tiền gửi là 10.000 đô la. Như vậy tỉ lệ dự trữ càng
nhỏ, khối lượng tiền cho vay ra càng lớn với cùng một số lượng dự trữ và vì vậy số nhân tiền cũng càng
lớn. Tỉ lệ dự trữ càng lớn số nhân tiền càng nhỏ.
Ngoài ra, số nhân tiền còn phụ thuộc vào tỉ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng (cr). Tỷ lệ tiền mặt ngoài ngân
hàng càng cao thì tiền gửi tại các ngân hàng càng ít và do đó các ngân hàng thương mại sẽ cho vay ít
hơn và số nhân tiền nhở hơn. Công thức tổng quát tính số nhân tiền (nM) cụ thể như sau: cr 1 m M cr rr
Hoạt động hệ thống ngân hàng dự trữ một phần không làm tăng thêm tài sản ròng cho nền kinh tế bởi
vì khi một ngân hàng cho vay thì sẽ tạo ra tiền (tài sản có của một số người), nó cũng tạo ra cùng một
lượng giá trị nợ (tài sản nợ của một số người).
Fed có ba công cụ chính dùng để điều chỉnh mức cung tiền
Nghiệop vụ thị trường mở: Khi Fed mua trái phiếu từ công chúng, thì mỗi đô la Fed sử dụng để
thanh toán sẽ làm tăng số lượng đô la trong lưu thông. Mỗi đô la mới được giữ dưới dạng tiền mặt
làm tăng cung tiền thêm một đô la. Và mỗi đô la được gửi vào ngân hàng làm tăng dự trữ và nó làm
tăng cung tiền bằng số nhân và ngược lại, khi Fed bán trái phiếu chính phủ, thì một số lượng đô la
sẽ được rút khỏi lưu thông và dự trữ trong các ngân hàng giảm xuống. Chính điều này đã làm giảm
khối lượng cho vay và hơn nữa làm giảm cung tiền. Hoạt động thị trường mở có thể làm được sử
dụng dễ dàng để làm thay đổi khối lượng tiền tệ. Vì vậy, nó là công cụ được Fed sử dụng thường xuyên.
Dự trữ bắt buộc là tỉ lệ dự trữ tối thiểu cho một ngân hàng. Dự trữ bắt buộc tăng sẽ làm giảm số
nhân tiền và làm giảm mức cung tiền và ngược lại. Fed hiếm khi thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc bởi
vì những thay đổi trong dự trữ bắt buộc sẽ phá vỡ kế hoạch kinh doanh của các ngân hàng. Ví dụ
khi dự trữ bắt buộc tăng, ngay lập tức nó sẽ hạn chế các khoản cho vay.
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà Fed áp dụng khi cho các ngân hàng thương mại vay tiền. Khi Fed
tăng lãi suất chiết khấu, các ngân hàng có xu hướng vay từ Fed ít hơn và vì vậy cung tiền sẽ giảm.
Khi Fed giảm lãi suất chiết khấu, các ngân hàng vay từ Fed nhiều hơn và điều này đã làm cung tiền
tăng. Trong thời kỳ khủng hoảng, đối với các ngân hàng thương mại Fed chính là người cho vay
cuối cùng khi những người gửi tiền rút một khối lượng lớn tiền gửi của họ khỏi các ngân hàng một cách bất thường. Chương 28 TIỀN TỆ VÀ LẠM PHÁT
Lý thuyết cổ điển về Lạm phát
Phần này sẽ sử dụng phương trình số lượng tiền tệ và phát triển nó để giải thích mối quan hệ giữa tăng cung tiền và lạm phát.
Khi giá cả tăng thì rất hiếm khi là do nguyên nhân hàng hoá và dịch vụ có chất lượng hơn mà bởi vì
những đồng tiền dùng để mua chúng có giá trị thấp hơn. Vì vậy, lạm phát đề cập nhiều đến giá trị của
tiền hơn là giá trị của hàng hoá. Một sự tăng lên trong mức giá chung đồng nghĩa với sự giảm đi tương
đương về giá trị của tiền. Nếu P là mức giá (giá trị của hàng hoá và dịch vụ tính theo tiền) thì 1/P là giá
trị của tiền được tính theo hàng hoá và dịch vụ. Nếu giá cả tăng gấp đôi, thì giá trị của tiền sẽ giảm đi
một nửa so với trước.
Giả sử, Fed tăng gấp đôi lượng cung tiền của nền kinh tế. Bây giờ với mức giá như trước, sẽ có sự dư
cung về tiền. Vì mọi người nắm giữ lượng tiền nhiều hơn mức họ muốn, nên họ sẽ tự mình loại bỏ lượng
tiền dôi ra bằng cách mua hàng hoá và dịch vụ hoặc trái phiếu. Thậm chí, nếu mọi người mua trái phiếu
(cho vay tiền), người phát hành trái phiếu, tức người đi vay, cũng sử dụng số lượng tiền này để mua
hàng hoá và dịch vụ. Do vậy, dù mua hàng hoá và dịch vụ hay trái phiếu, thì lượng cung tiền cũng tăng
và nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Do năng lực sản xuất hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế chưa
thay đổi, nên sự tăng lên của cầu về hàng hoá và dịch vụ sẽ làm tăng mức giá. Mức giá tăng tiếp (và giá
trị của tiền tiếp tục giảm) cho đến khi lượng cầu tiền tăng bằng lượng tăng cung tiền (điểm B). Nghĩa là
mức giá sẽ điều chỉnh để cung và cầu về tiền bằng nhau. Do vậy, chúng ta có thể kết luận về lý thuyết
lượng tiền là: (1) lượng tiền trong nền kinh tế xác định mức giá (và giá trị của tiền) và (2) sự gia tăng
trong cung tiền sẽ làm tăng mức giá, hay nói cách khác, lạm phát có nguyên nhân từ sự gia tăng cung tiền.
Sự phân đôi cổ điển cho chúng ta biết các biến số kinh tế có thể chia làm hai nhóm: biến danh nghĩa
(được đo được bằng số đơn vị tiền tệ) và biến thực (được đo bằng số đơn vị hiện vật). Mặc dù giá cả là
biến danh nghĩa, nhưng giá tương đối lại là biến thực. Ví dụ tỷ số giữa tiền lương nhận được trong một
giờ và giá cả của thanh kẹo là biến thực đo lường bằng số thanh kẹo kiếm được trong một giờ lao động.
Cung tiền thay đổi thì chỉ ảnh hưởng tới biến danh nghĩa còn biến thực thì không bị ảnh hưởng. Sản
lượng thực phụ thuộc vào năng suất và việc cung ứng các nhân tố sản suất không phụ thuộc vào lượng
tiền. Tuy nhiên, giá trị của biến danh nghĩa thì lại được xác định và theo một tỷ lệ nào đó với lượng tiền.
Ví dụ, nếu lượng cung tiền tăng gấp hai, thì giá cả, tiền lương, và các biến danh nghĩa khác tăng gấp
đôi, nhưng sản lượng thực, thất nghiệp, lãi suất thực, và tiền lương thực tế thì không thay đổi. Kết quả
này phản ánh tính trung lập của tiền. Tiền không trung lập trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn nó có tính trung lập.
Sự phân đôi cổ điển và tính trung lập của tiền tệ có thể được giải thích bằng phương trình số lượng tiền
tệ. Trước tiên, chúng ta định nghĩa vòng chu chuyển của tiền là tốc độ của tiền trong lưu thông. Ta có
V=(P.Y)/M trong đó V là tốc độ chu chuyển của tiền, P là giá cả của sản phẩm và Y là sản lượng thực
(và P.Y= GDP danh nghĩa), và M là lượng tiền. Nếu sản lượng danh nghĩa là 500 đô la (500 đơn vị sản
lượng có giá bằng 1 đô la) và M là 100 do vậy V=5. Nghĩa là để chỉ với 100 đô la ta có thể tiêu dùng
500 đô la giá trị hàng hoá được mua và bán thì mỗi đô la trung bình phải được tiêu 5 lần.
Viết lại phương trình số lượng trên ta có: M.V=P.Y. Nếu lượng tiền tăng thì P hoặc Y phải tăng, hoặc
V giảm. Lý thuyết lạm phát của chúng ta gồm có 5 bước:
V tương đối ổn định trong thời gian dài
Do vậy, M thay đổi kéo theo một sự thay đổi tương đối trong giá trị sản lượng danh nghĩa (PxY)
Sản lượng thực (Y) trong dài hạn được xác định bởi năng suất và việc cung cấp các nhân tố sản xuất
và không chịu tác động của sự thay đổi của M
Vì Y cố định nên M tăng sẽ gây ra sự thay đổi tương ứng trong P
Do vậy, lạm phát là kết quả của việc tăng quá nhanh lượng cung tiền
Siêu lạm phát đôi khi được định nghĩa là lạm phát ở mức vượt quá 50% tháng. Trong những trường hợp
đó, thì thực tế cho thấy giữa việc tăng lượng tiền và lạm phát có quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó ủng
hộ cho những kết luận của lý thuyết số lượng tiền.
Tại sao các nước lại in quá nhiều tiền trong khi họ biết nó sẽ gây ra lạm phát? Chính phủ in tiền để chi
tiêu. Chính phủ tài trợ cho các khoản chi tiêu của mình bằng cách đánh thuế, vay nợ, hoặc in thêm tiền.
Những quốc gia phải chi tiêu lớn trong khi nguồn thu về thuế không đủ và vấp phải giới hạn về khả năng
vay nợ, thì họ chỉ có thể thực hiện được bằng cách in tiền. Khi tăng nguồn thu bằng cách in tiền, thì
chính phủ đó phải chấp nhận thuế lạm phát. Chính phủ in tiền làm cho giá cả tăng, giá trị của những
đồng tiền mà dân chúng đang nắm giữ sẽ giảm đi. Thuế lạm phát là thuế đánh vào những người nắm giữ
tiền. Vào những năm 1990, nước Nga đã phải chấp nhận thuế lạm phát.
Nếu tiền có tính trung lập, thì lượng tiền thay đổi không ảnh hưởng gì đến lãi suất thực. Hãy nhớ lại mối
quan hệ giữa lãi suất thực, lãi suất danh nghĩa và tỉ lệ lạm phát:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỉ lệ lạm phát Do vậy:
Lãi suất danh nghĩa= Lãi suất thực + Tỉ lệ lạm phát
Lãi suất thực phụ thuộc vào cung cầu vốn vay. Trong dài hạn vì tiền có tính trung lập nên nó chỉ có thể
ảnh hưởng đến các biến danh nghĩa mà không có tác động gì đến các biến thực. Do vậy, khi Fed tăng tỷ
lệ tăng cung tiền, lạm phát và lãi suất danh nghĩa tăng lên theo tỷ lệ một - một trong khi lãi suất thực
không thay đổi. Sự điều chỉnh một-một của lãi suất danh nghĩa theo lạm phát được gọi là hiệu ứng Fisher.
Tác hại của lạm phát
Mọi người thường cho rằng lạm phát là một vấn đề kinh tế nghiêm trọng vì khi giá cả tăng, họ không
thể mua được lượng hàng hoá và dịch vụ như cũ với mức thu nhập hiện tại của họ. Do vậy, họ tin rằng
lạm phát trực tiếp làm giảm mức sống. Tuy nhiên, ý kiến đó không đúng vì mọi người kiếm được thu
nhập nhờ việc bán các dịch vụ, chẳng hạn lao động. Khi lạm phát tác động vào thu nhập danh nghĩa, thì
nó cũng đồng thời tác động vào giá cả. Vì vậy, nói chung lạm phát không ảnh hưởng trực tiếp đến sức
mua thực của mọi người.
Tuy vậy, có một số cho tác hại không dễ phát hiện của lạm phát:
Chi phí mòn giày: Nhớ rằng lạm phát là một loại thuế đánh vào những người giữ tiền. Để tránh loại
thuế này, mọi người nắm giữ ít tiền hơn và giữ nhiều tài sản có lãi suất hơn khi lạm phát cao và
ngược lại. Kết quả là mọi người phải đi đến ngân hàng nhiều lần hơn bình thường khi không có lạm
phát để rút tiền. Đôi khi những chi phí ẩn đó được gọi là chi phí mòn giày (vì giày của bạn bị mòn
khi bạn đi đến ngân hàng). Chi phí thực tế của việc nắm giữ ít tiền hơn là sự lãng phí thời gian khi
đi đến ngân hàng rứt tiền và sự bất tiện.
Chi phí thực đơn: Có những khoản chi phí đáng kể khi giá cả thay đổi. Đó là chi phí để in những
bảng thực đơn, bảng giá và catalog mới, chi phí gửi thư, chí phí quảng cáo giá mới và chi phí quyết định giá mới.
Giá cả tương đối thay đổi và phân bổ sai nguồn lực: Vì thay đổi giá cả rất tốn kém, nên các doanh
nghiệp hạn chế sự thay đổi giá cả đến mức cho phép. Khi có lạm phát, giá cả tương đối của những
hàng hoá có giá cố định trong một thời gian sẽ giảm đi so với mức giá trung bình. Điều này làm
phân bổ sai nguồn lực bởi vì các quyết định kinh tế dựa trên giá cả tương đối. Một hàng hoá mà giá
cả chỉ thay đổi 1 lần một năm thì vào đầu năm giá cả sẽ đắt một cách giả tạo và rẻ một cách giả tạo vào cuối năm.
Những biến dạng của thuế do lạm phát gây ra: Lạm phát làm tăng gánh nặng về thuế đánh vào thu
nhập từ tiết kiệm và do vậy không khuyến khích tiết kiệm và tăng trưởng. Lạm phát ảnh hưởng đến
hai loại thuế đánh vào tiết kiệm:
Lãi vốn là những khoản thu nhập có được từ việc bán một tài sản cao hơn giá mua nó. Lãi vốn
danh nghĩa là đối tượng chịu thuế. Giả sử bạn mua một cổ phiếu giá 20 đô la và bán nó với giá
50 đô la. Và cũng giả định rằng mức giá tăng gấp đôi trong thời gian bạn sở hữu cổ phiếu đó.
Như vậy bạn chỉ có một khoản lãi vốn thực là 10 đô la (bởi vì bạn phải bán cổ phiếu với giá 40
đô la thì mới hoà vốn) nhưng bạn phải đóng thuế trên khoản lãi vốn danh nghĩa là 30 đô la bởi
vì luật thuế không tính đến lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa cũng bị đánh thuế, cho dù thậm chí một phần lãi suất danh nghĩa là để bù
đắp cho lạm phát. Khi chính phủ đánh thuế với tỉ lệ phần trăm cố định của lãi suất danh nghĩa,
thì tiền lãi thực tế sau thuế tăng ít hơn sự gia tăng của lạm phát. Đó là bởi vì lãi suất danh nghĩa
tăng lên bằng với sự tăng lên của lạm phát và thuế thì tăng lên cùng với lãi suất danh nghĩa, do
vậy tiền lãi thực tế trước thuế không bị tác động bởi lạm phát. Do đó số tiền lãi thực tế sau thuế giảm.
Bởi vì có các khoản thuế đánh trên lãi về vốn danh nghĩa và lãi suất danh nghĩa, cho nên lạm phát đã
làm cho tiền lãi thực tế sau thuế trên các khoản tiết kiệm nhỏ hơn và vì vậy lạm phát đã kìm hãm tiết
kiệm và tăng trưởng kinh tế. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng việc loại bỏ lạm phát ra khỏi hệ
thống thuế hoặc bằng việc áp dụng chỉ số trượt giá trong hệ thống thuế sao cho thuế chỉ còn được đánh
trên các khoản thu nhập thực tế.
Sự nhầm lẫn & bất tiện: tiền với tư cách là đơn vị tính toán hàm ý nó là một thước đo giá trị, bởi
vậy chúng ta sử dụng nó để đo lường các giá trị kinh tế. Khi Fed tăng mức cung tiền và gây ra lạm
phát, giá trị của tiền giảm và làm cho qui mô của thước đo kinh tế co lại. Do vậy, việc tính toán lợi
nhuận của các doanh nghiệp trở lên khó khăn hơn và làm cho việc lựa chọn đầu tư của các doạnh
nghiệp trở nên phức tạp hơn. Lạm phát cũng làm cho các giao dịch hàng ngày trở lên dễ nhầm lẫn hơn.
Chi phí đặc biệt của lạm phát không dự kiến - tái phân phối của cải một cách ngẫu nhiên: những tác
hại của lạm phát như mô tả ở trên xảy ra ngay cả trong trường hợp lạm phát dự kiến hoặc không dự
kiến. Tuy nhiên, lạm phát có thể gây ra cho nền kinh tế một chi phí nữa khi nó không được dự kiến
trước bởi vì nó tái phân phối của cải một cách ngẫu nhiên. Ví dụ các khoản vay nói chung được xác
định bằng giá trị danh nghĩa dựa trên một tỷ lệ lạm phát dự kiến (theo phương trình hiệu ứng Fisher).
Tuy nhiên, nếu lạm phát cao hơn so với dự kiến sẽ cho phép người đi vay trả khoản vay bằng những
đồng đôla có sức mua thấp hơn hơn dự kiến. Cái lợi của người đi vạy chính là tổn thất của người
cho vay. Và ngược lại, nếu lạm phát thấp hơn dự kiến, thì người cho vay sẽ có lợi hơn người đi vay
vì người đi vay phải trả tiền vay bằng những đồng đôla có sức mua cao hơn dự kiến. Nếu lạm phát
được dự kiến một cách chính xác, bỏ qua quy mô của lạm phát, thì việc phân phối lại sẽ không xảy
ra. Tuy nhiên, lạm phát cao không bao giờ ổn định. Lạm phát thấp bao giờ cũng tốt hơn, bởi vì nó
ổn định hơn và có thể được dự kiến chính xác hơn. Chương 9
KINH TẾ VĨ MÔ CỦA NỀN KINH TẾ MỞ
Tóm tắt chương
C c qu c gia đều được lợi từ thương mại qu c t vì m i qu c gia có thể chuyên môn hoá sản
xuất những sản ph m có lợi th so s nh và đổi lấy sản ph m mà c c qu c gia kh c sản xuất hiệu
quả hơn. Cho đ n nay, phần lớn nghiên cứu của chúng ta về kinh t vĩ mô mới dừng lại xem
xét một nền kinh t đóng, tức nền kinh t không có tương t c với c c nền kinh t kh c. Chương
này ph t triển c c kh i niệm và mô h n
h gắn với kinh t học vĩ mô trong một nền kinh t m nh ư
xuất kh u ròng, dòng v n ra ròng, tỷ gi h i đo i, ngang b ng sức mua và th trư ng ngoại h i.
D ng chu chuyển hàng hoá và dịch vụ quốc tế: Xuất kh u là những hàng ho và d ch vụ sản
xuất trong nước được b n nước ngoài, còn nhập kh u là những hàng ho và d ch vụ được sản
xuất nước ngoài và b n trong nước. Xuất kh u ròng (NX) của một nước b ng gi tr của
hàng xuất kh u trừ đi gi tr của hàng nhập kh u. Xuất kh u ròng còn được gọi là cán cân
thương mại. N u xuất kh u lớn hơn nhập kh u, xuất kh u ròng dương và nền kinh t có thặng
dư thương mại. Ngược lại, n u nhập kh u lớn hơn xuất kh u, xuất kh u ròng âm và nền kinh t
có thâm hụt thương mại. Khi nhập kh u b ng xuất kh u, xuất kh u ròng b ng không và nền
kinh t có cân b ng thương mại.
Xuất kh u ròng phụ thuộc s thích của ngư i tiêu dùng đ i với h
àng nội và hàng ngoại, gi
hàng hóa trong nước và nước ngoài, tỷ gi h i đo i, thu nhập của ngư i tiêu dùng
trong nước và nước ngoài, chi phí vận chuyển hàng hóa giữa c c nước và các chính sách
của chính phủ đ i với thương mại qu c t .
D ng chu chuyển vốn quốc tế: Dòng v n ra ròng (NCO) b n c
g hênh lệch giữa gi tr tài sản
ngoại do ngư i dân trong nước mua và gi tr tài sản nội do ngư i nước ngoài mua. Việc một
ngư i dân trong nước mua và trực ti p quản lý một công ty nước ngoài gọi là đầu tư trực ti p
ra nước ngoài. Việc một ngư i dân mua cổ phi u của công ty nước ngoài nhưng không trực ti p
quản lý công ty đó hoặc cho ngư i nước ngoài vay tiền được gọi là đầu tư gi n ti p ra nước ngoài.
Dòng v n ra ròng phụ thuộc vào l i suất thực trả cho tài sản ngoại và tài sản nội, nhận thức về
rủi ro kinh t và chính tr liên quan đ n việc nắm giữ tài sản ngoại và chính s ch của chính phủ
ảnh hư ng đ n việc s hữu tài sản nội đ i với ngư i nước ngoài.
Xuất kh u ròng và dòng v n ra ròng phải bù trừ nhau. Nghĩa là, dòng v n ra ròng b ng xuất kh u ròng: NCO = NX
Tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế mở: Ti t kiệm và đầu tư có vai trò quan trọng đ i với
tăng trư ng. Ti t kiệm qu c dân (S) là phần thu nhập còn lại của một qu c gia sau khi đ chi
cho tiêu dùng và mua hàng của chính phủ. Trong một nền kinh t m , ti t kiệm qu c dân có thể
s dụng để đầu tư vào v n vật chất trong nước (I) hay chuyển v n ra nước ngoài đầu tư vào tài sản ngoại (NCO). S = I + NCO
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực.
Tỷ gi h i đo i danh nghĩa (E) là tỷ lệ trao đổi giữa tiền của hai qu c gia. Trong học phần này
tỷ gi h i đo i được qui ước là s đơn v nội tệ đ i lấy một đơn v ngoại tệ. Khi một đơn v
ngoại tệ mua được nhiều nội tệ hơn, đồng nội tệ được coi là giảm giá. Ngược lại, khi một đơn
v ngọai tệ mua được ít nội tệ hơn, đồng nội tệ được coi là tăng giá.
Tỷ gi h i đo i thực (Er) l à tỷ lệ trao đổi giữa hàng ho và d ch vụ của hai qu c gia. Tỷ gi h i
đo i thực phụ thuộc vào 2 nhân t
: tỷ gi h i đo i danh nghĩa (E) và tỷ lệ giữa mức gi nước
ngoài (P*) và mức gi trong nước (P). Er = (E P*)/P
Khi đồng nội tệ tăng gi thực (Er giảm), hàng ho trong nước tr nên đắt hơn tương đ i so với
hàng ngoại, làm tăng nhập kh u và giảm xuất kh u và do đó làm giảm xuất kh u ròng. Cán cân thanh toán
C n cân thanh to n có h nh thức như một tài khoản bao gồm bên có và bên nợ. Khoản mục có
(+) tương ứng với dòng ngoại tệ chảy vào hay nhận ngoại tệ từ nước ngoài. Còn khoản nợ (-)
tương ứng với dòng ngoại tệ chảy ra hay chi ngoại tệ cho th giới bên ngoài.
Tài khoản v ng lai ghi chép các giao d ch về hàng ho và d ch vụ cũng như thu nhập với nước
ngoài. Tài khoản v n ghi chép dòng chu chuyển v n giữa trong nước với th giới bên ngoài.
C n cân thanh to n là tổng của c n cân tài khoản v ng lai và cán cân tài khoản v n. Trong ch
độ tỷ gi h i đo i thả nổi, c n cân thanh to n luôn cân b ng. Trong hệ th ng tỷ gi h i đo i c
đ nh, c n cân thanh to n qu c t có thể không cân b ng. Thâm hụt (-) hoặc thặng dư (+) trong
cán cân thanh to n cần phải được cân đ i b ng khoản muc k t to n chính thức phản nh sự can
thiệp của ngân hàng trung ương vào th trư ng ngoại h i.
Xác định tỷ giá hối đoái trong dài h n: L thuyết ngang bằng sức mua (PPP). Theo PPP
một s tiền nhất đ nh cần mua được lượng hàng ho như nhau tất cả c c nước. Cơ s của lý
thuy t này là quy luật một gi theo đó một hàng hoá cần được b n với mức gi gi ng nhau mọi nơi trên th giới.
Theo lý thuy t ngang b ng sức mua, tỷ gi h i đo i danh nghĩa giữa hai đồng tiền b ng tỷ s
giữa mức gi trong nước chia cho mức gi nước ngoài. E = P/P*
Lý thuy t ngang b ng sức mua chỉ có ý nghĩa trong dài hạn. Tuy nhiên, ngay cả trong dài hạn,
lý thuy t này cũng không hoàn toàn chính x c v (i) một s hàng ho không thể trao đổi giữa
c c nước (hàng ho phi thương mại) ; và (ii) các hàng hoá có thể trao đổi được (hàng ho thương
mại) không phải lúc nào cũng thay th hoàn hảo cho nhau.
Xác định tỷ giá tr n
o g ngắn h n: Thị trường ngo i hối Xét th trư ng trao i đổ giữa ng đồ
Việt Nam (VND) và đô la M (USD). Cung USD phát sinh
từ xuất kh u và việc ngư i nước ngoài mua tài sản nội. Còn cầu USD ph t sinh từ nhập kh u
và việc ngư i Việt Nam mua tài sản ngoại. Tỷ gi h i đo i sẽ điều chỉnh để cân b ng cung và
cầu USD. Tăng xuất kh u hoặc dòng v n chảy vào sẽ làm tăng cung ngoại tệ và do đó làm giảm
tỷ gi h i đo i Ngược lại, tăng .
nhập kh u hoặc tăng dòng v n chảy ra sẽ làm tăng cầu USD và
do đó làm tăng tỷ gi h i đo i.
Các hệ thống tỷ giá hối đoái
Có 3 hệ th ng tỷ gi h i đo i quan trọng: (i) Hệ th ng tỷ gi c đ nh: Ngân hàng trung ương
thư ng xuyên can thiệp vào th trư ng ngoại h i nh m duy tr tỷ gi mức c đ nh đ được
công b trước; (ii) Hệ th ng tỷ gi h i đo i thả nổi: Tỷ gi h i đo i thư ng xuyên bi n động
theo c c lực lượng cung và cầu trên th trư ;
ng và (iii) Hệ th ng tỷ gi thả nổi có quản lý: sự
can thiệp của ngân hàng trung ương và c c lực lượng th trư ng tương t c với nhau để cùng quy t đ nh tỷ giá. CHƯƠNG 10 TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG
Ba thực tế chính về biến động kinh tế
Biến động kinh tế diễn ra bất thường và không biết trước: Mặc dù các biến động kinh tế được gọi là chu
kỳ kinh doanh, thuật ngữ “chu kỳ kinh doanh” có phần không chính xác vì nó gợi ra rằng các biến động
kinh tế diễn ra theo một hình mẫu có thể đoán biết trước. Trong thực tế, các chu kỳ kinh doanh diễn ra
một cách bất thường và không dự đoán trước được.
Phần lớn các tổng lượng vĩ mô biến động cùng với nhau: Mặc dù GDP thực thường xuyên được dùng
để theo dõi những thay đổi trong ngắn hạn của nền kinh tế, việc sử dụng thước đo nào được để đo các
hoạt động kinh tế lại không thành vấn đề vì phần lớn các biến số kinh tế vĩ mô đo lường thu nhập, chi
tiêu, hay sản xuất đều biến động cùng với nhau, tuy với quy mô khác nhau. Đầu tư là một loại chi tiêu
có biến động rất lớn trong chu kỳ kinh doanh.
Khi sản lượng sụt giảm, thất nghiệp tăng lên: Khi GDP giảm, mức thất nghiệp tăng lên bởi vì khi các
hãng sản xuất ít hơn hàng hoá và dịch vụ, họ cho công nhân nghỉ việc.
Giải thích về các biến động kinh tế trong ngắn hạn
Lý thuyết cổ điển dựa trên sự phân đôi cổ điển và sự trung tính của tiền. Hãy nhớ lại rằng sự phân đôi
cổ điển là sự phân biệt giữa các biến số danh nghĩa và các biến số thực tế, và sự trung tính của tiền là
tính chất phản ánh sự thay đổi trong cung tiền chỉ ảnh hưởng đến các biến số danh nghĩa chứ không phải
các biến số thực tế. Phần lớn các nhà kinh tế đều tin rằng những giả định cổ điển này mô tả chính xác
nền kinh tế trong dài hạn chứ không phải trong ngắn hạn. Có nghĩa là, qua một số năm, thay đổi trong
cung tiền ảnh hưởng đến giá cả chứ không ảnh hưởng đến các biến số thực tế như GDP thực, thất nghiệp
và tiền công thực tế, v...v. Tuy nhiên qua từng năm, sự thay đổi trong cung tiền và giá cả lại có khả năng
ảnh hưởng đến các biến số thực tế. Tức là, trong ngắn hạn, các biến số danh nghĩa và biến số thực không độc lập với nhau.
Chúng ta sử dụng mô hình tổng cung và tổng cầu để giải thích các biến động kinh tế. Mô hình này có
thể được biểu diễn với mức giá đo bằng CPI hay hệ số giảm phát GDP trên trục tung và GDP thực trên
trục hoành. Đường tổng cầu cho biết lượng hàng hoá dịch vụ mà các hộ gia đình, các hãng và chính phủ
muốn mua tại mỗi mức giá. Đường này dốc xuống. Đường tổng cung cho biết lượng hàng hoá dụch vụ
mà các hãng muốn bán tại mỗi mức giá. Đường này dốc lên trong ngắn hạn. Mức giá và sản lượng sẽ
điều chỉnh để cân bằng tổng cung và tổng cầu. Mô hình này trông giống như một mô hình cung cầu kinh
tế vi mô thông thường. Tuy nhiên nguyên nhân của các độ dốc và sự dịch chuyển trong đường tổng cung
và tổng cầu lại khác so với trong mô hình kinh tế học vi mô. Đường tổng cầu
Hình 1 minh hoạ mô hình tổng cung và tổng cầu. Tổng cung dài hạn Mức giá Tổng cung ngắn hạn Giá cân bằng Tổng cầu Sản lượng Sản lượng thực tự nhiên Hình 1
Đường tổng cầu cho biết lượng cầu về hàng hoá dịch vụ tại mỗi mức giá. Hãy nhớ lại rằng, GDP = C +
I + G + NX. Để hiểu tại sao đường tổng cầu lại dốc xuống, chúng ta xem xét ảnh hưởng của mức giá
lên tiêu dùng (C), đầu tư (I), và xuất khẩu ròng (NX). (Chúng ta bỏ qua chi tiêu chính phủ (G) vì nó là
biến chính sách). Một sự giảm giá sẽ làm tăng tiêu dùng, đầu tư, và xuất khẩu ròng do các nguyên nhân sau:
Mức giá và tiêu dùng: hiệu ứng của cải. Với mức giá thấp hơn, lượng tiền danh nghĩa cố định trong
túi người tiêu dùng tăng lên về giá trị. Người tiêu dùng cảm thấy giàu có hơn và chi tiêu nhiều hơn,
làm tăng cấu phần tiêu dùng trong tổng cầu.
Mức giá và đầu tư: hiệu ứng lãi suất. Với một mức giá thấp hơn, các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn
cho việc mua cùng một lượng sản phẩm. Họ cho vay khoản dư thừa bằng cách mua trái khoán hoặc
gửi vào ngân hàng, khiến cho lãi suất giảm và kích thích cấu phần đầu tư trong tổng cầu.
Mức giá và xuất khẩu ròng: hiệu ứng tỷ giá hối đoái. Như đã trình bày ở trên, do giá cả thấp hơn
làm giảm lãi suất, một số nhà đầu tư Mỹ sẽ đầu tư ra nước ngoài, làm tăng cung đô la trên thị trường
ngoại hối. Điều này khiến cho tỷ giá hối đoái thực của đồng đô la giảm xuống, làm giảm giá so sánh
giữa hàng nội và hàng ngoại, và làm tăng cấu phần xuất khẩu ròng trong tổng cầu.
Cả ba cách lý giải về độ dốc âm của đường tổng cầu đều giả định rằng cung tiền là cố định.
Khi có một yếu tố nào đó làm thay đổi tổng cầu tại mỗi mức giá thì nó làm cho đường tổng cầu dịch
chuyển. Các sự kiện và chính sác sau gây ra sự dịch chuyển trong đường tổng cầu:
Dịch chuyển xuất phát từ thay đổi trong tiêu dùng: Nếu người tiêu dùng tiết kiệm nhiều hơn, nếu
giá trái khoán giảm làm người tiêu dùng cảm thấy nghèo đi, hay là thuế tăng lên, người tiêu dùng
chi tiêu ít đi và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái.
Dịch chuyển xuất phát từ thay đổi trong đầu tư: Nếu các hãng trở nên lạc quan hơn về tương lai và
quyết định mua sắm thiết bị mới, nếu chính phủ giảm thuế để kích thích đầu tư, nếu Cục dự trữ liên
bang Mỹ tăng cung tiền làm giảm lãi suất và tăng đầu tư, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
Dịch chuyển xuất phát từ thay đổi trong chi tiêu chính phủ: Nếu các chính phủ địa phương, bang
và liên bang tăng chi tiêu, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải.
Dịch chuyển xuất phát từ thay đổi trong xuất khẩu ròng: Nếu nước ngoài đang có suy thoái và mua
ít hàng hoá Mỹ hơn, hay giá trị của đồng đô la trên thị trường ngoại hối tăng, xuất khẩu ròng giảm
và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Đường tổng cung
Đường tổng cung cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hãng sản xuất và bán ra tại mỗi mức giá.
Trong dài hạn, đường tổng cung nằm thẳng đứng và trong ngắn hạn đường tổng cung dốc lên. Cả hai
đường này được biểu diễn trong Hình 1.
Đường tổng cung dài hạn nằm thẳng đứng bởi vì trong dài hạn, cung về hàng hoá dịch vụ phụ thuộc vào
cung về tư bản, nhân công, tài nguyên thiên nhiên, và công nghệ sản xuất. Trong dài hạn, cung về hàng
hoá và dịch vụ không phụ thuộc vào mức giá. Đây là một biểu hiện của sự phân đôi cổ điển và sự trung
tính của tiền. Tức là, nếu mức giá tăng và các loại giá tăng lên cùng nhau, sản lượng và các biến số thực
tế khác sẽ không bị ảnh hưởng.
Đường tổng cung dài hạn cho biết mức sản xuất thường được gọi là sản lượng tiềm năng hay sản lượng
toàn dụng nhân công. Do trong ngắn hạn, sản lượng có thể tạm thời nằm trên hoặc dưới mức này, một
cái tên hay hơn là mức sản lượng tự nhiên, bởi vì đó là lượng sản phẩm tạo ra khi thất nghiệp ở mức tự
nhiên hay bình thường. Bất kỳ yếu tố nào làm thay đổi mức sản lượng tự nhiên đều làm dịch chuyển
đường tổng cung sang bên trái hoặc bên phải. Do trong dài hạn sản lượng phụ thuộc vào lao động, tư
bản, tài nguyên thiên nhiên, tri thức công nghệ, chúng ta nhóm các nguyên nhân gây ra sự dịch chuyển
của tổng cung trong dài hạn thành các nhóm là:
Dịch chuyển xuất phát từ lao động: Nếu có sự di dân từ nước ngoài hay sự giảm đi trong tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên do lương tối thiểu giảm xuống, đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải.
Dịch chuyển xuất phát từ tư bản: Nếu có sự tăng trưởng trong tư bản và vốn nhân lực, năng suất
tăng lên và đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang bên phải.
Dịch chuyển xuất phát từ tri thức công nghệ: Nếu các phát minh mới được áp dụng, hay thương
mại quốc tế được mở cửa, đường tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải.
Tăng trưởng và lạm phát trong dài hạn có thể được mô tả là sự dịch chuyển sang phải của đường tổng
cung dài hạn (từ các sự kiện mô tả ở trên) và một sự dịch chuyển sang phải thậm chí còn lớn hơn của
đường tổng cầu do cung tiền tăng lên. Do vậy, theo thời gian sản lượng tăng trưởng và mức giá cũng tăng.
Đường tổng cung ngắn hạn dốc lên bởi vì một sự thay đổi trong mức giá làm cho sản lượng chệch đi so
với mức sản lượng dài hạn trong một thời gian ngắn, thường là một hay hai năm. Có ba lý thuyết khác
nhau giải thích tại sao đường tổng cung ngắn hạn dốc lên và đều có chung một nội dung là: sản lượng
tăng lên trên mức sản lượng tự nhiên khi giá thực tế cao hơn mức giá kỳ vọng. Ba lý thuyết đó là:
Lý thuyết nhận thức sai lầm: Khi mức giá giảm không được dự tính trước, các nhà cung cấp chỉ nhận
thức được rằng giá sản phẩm của họ đã giảm. Do vậy, họ đã tin một cách nhầm lẫn rằng giá tương đối
của sản phẩm họ sản xuất giảm, khiến họ giảm cung hàng hoá và dịch vụ.
Lý thuyết tiền công cứng nhắc: Giả sử các hãng và công nhân đã thoả thuận về hợp đồng lao động với
mức lương danh nghĩa dựa trên mức giá kỳ vọng. Nếu giá giảm so với mức giá kỳ vọng, tiền công thực
W/P tăng lên, làm tăng chi phí sản xuất và làm giảm lợi nhuận, khiến hãng thuê ít nhân công hơn và làm
giảm cung về hàng hoá và dịch vụ.
Lý thuyết giá cả cứng nhắc: Do các hãng sẽ phải chịu chi phí khi thay đổi giá cả, gọi là chi phí thực đơn,
một số hãng sẽ không giảm giá bán khi mức giá giảm không được dự tính trước. Do vậy giá bán của họ
là “quá cao” và doanh số giảm đi, khiến cho lượng cung hàng hoá dịch vụ giảm.
Hãy chú ý tới hai điểm trong các cách giải thích ở trên: (1) trong mỗi trường hợp, sản lượng cung ứng
thay đổi vì giá cả thực tế chệch đi so với mức giá dự kiến và (2) hiệu ứng này chỉ mang tính tạm thời vì
mọi người sẽ điều chỉnh kỳ vọng theo thời gian. Chúng ta có thể biểu diễn tổng cung bằng công thức toán học sau:
Sản lượng cung ứng = Mức sản lượng tiềm năng + a(Mức giá thực tế - Mức giá kỳ vọng)
trong đó a là hệ số xác định mức độ ảnh hưởng của sự thay đổi không được dự kiến trong mức giá.
Các sự kiện làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn có xu hướng làm dịch chuyển đường tổng cung
ngắn hạn theo cùng một hướng. Tuy nhiên đường tổng cung ngắn hạn có thể dịch chuyển trong khi
đường tổng cung dài hạn đứng yên. Trong ngắn hạn, cung về hàng hoá dịch vụ phụ thuộc vào nhận thức,
tiền công, giá cả và tất cả đều dựa trên mức giá dự tính. Ví dụ như khi mọi người và các hãng kỳ vọng
rằng giá cả sẽ cao hơn và đặt mức lương cao hơn, lợi nhuận sản xuất giảm, khiến lượng cung về hàng
hoá dịch vụ giảm tại mỗi mức giá. Như vậy đường tổng cung trong ngắn hạn dịch chuyển sang trái. Một
kỳ vọng về giá thấp hơn sẽ dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn sang bên trái. Nói chung, các yếu tố
làm tăng chi phí sản xuất (tăng lên trong tiền công và giá dầu) làm cho đường tổng cung ngắn hạn dịch
chuyển sang bên trái trong khi chi phí sản xuất giảm làm cho đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang phải.
Hai nguyên nhân gây ra biến động kinh tế
Hình 1 cho thấy mô hình tổng cung và tổng cầu trong trạng thái cân bằng dài hạn. Đó là sản lượng nằm
ở mức mức tự nhiên dài hạn nơi các đường tổng cầu và tổng cung dài hạn cắt nhau, và nhận thức, tiền
công, và giá cả đã điều chỉnh hoàn toàn theo giá cả thực tế được biểu hiện bởi việc đường tổng cung
ngắn hạn cắt ở cùng một điểm.
Suy thoái kinh tế có hai nguyên nhân chính là: sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cầu và sự dịch
chuyển sang trái của đường tổng cung.
Sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cầu: Giả sử rằng các hộ gia đình cắt giảm chi tiêu vì họ bi
quan hay bối rối về tương lai. Người tiêu dùng chi tiêu ít đi tại mỗi mức giá làm cho đường tổng cầu
dịch chuyển sang trái như trong Hình 2. Trong ngắn hạn, nền kinh tế dịch chuyển đến điểm B vì sự sụt
xuống trong giá là không được dự kiến trước, khiến cho một số mức lương và giá cả hiện hành là quá
cao. Chúng ta có thể thấy nền kinh tế đang bị suy thoái ở P2, Y2 vì sản lượng nhỏ hơn mức sản lượng tự
nhiên. Các nhà hoạch định chính sách có thể tìm cách khắc phục suy thoái bằng cách tăng tổng cầu
thông qua tăng chi tiêu chính phủ hoặc tăng cung tiền. Nếu thực hiện tốt thì chính phủ sẽ đưa được nền
kinh tế trở về điểm A. Nếu chính phủ không can thiệp thì suy thoái tự nó sẽ chấm dứt theo thời gian. Do
giá cả thực tế nhỏ hơn mức dự tính, kỳ vọng về giá cả giảm theo thời gian và các mức lương và giá cả
sẽ giảm xuống phù hợp với mức giá P3. Đường tổng cung sẽ dịch sang phải và nền kinh tế chuyển đến
điểm C. Tóm lại, trong ngắn hạn, sự thay đổi tổng cầu gây ra các biến động trong sản lượng. Trong dài
hạn, sự thay đổi tổng cầu chỉ ảnh hưởng đến mức giá.
Hai cú sốc lớn nhất trong tổng cầu là sự dịch chuyển sang trái trong Đại khủng hoảng và sự dịch chuyển
sang phải trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai. AS dài hạn AS1 Mức giá AS2 P 1 A P2 B P3 C AD1 AD2 Y2 Y1 Sản lượng thực Hình 2
Sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cung: Giả sử rằng OPEC nâng giá dầu và làm tăng chi phí sản
xuất của nhiều hãng. Điều này làm giảm lợi nhuận và khiến các hãng cắt giảm sản lượng tại mỗi mức
giá, làm đường tổng cung dịch sang trái như trong Hình 3. Giá tăng lên làm giảm lượng cầu theo đường
tổng cầu và nền kinh tế chuyển đến điểm B. Do sản lượng giảm xuống (đình trệ) và mức giá lại tăng lên
(lạm phát), nền kinh tế rơi vào đình lạm. Nếu các nhà hoạch định chính sách không làm gì cả thì thất
nghiệp tại Y2 sẽ gây một áp lực đẩy tiền công xuống, tăng lợi nhuận và dịch chuyển đường tổng cung
về vị trí ban đầu, khiến nền kinh tế quay lại điểm A. Theo một cách khác, các nhà hoạch định chính sách
có thể làm tăng tổng cầu và đưa nền kinh tế đến điểm C. ở đây, các nhà hoạch định chính sách đã thích
nghi với sự dịch trong tổng cung bằng cách cho phép tăng chi phí sản xuất làm cho giá cả tăng lên trong
dài hạn. Sản lượng trở về mức cân bằng dài hạn trong khi giá cả lại tăng lên. Nhìn chung, một sự sụt
giảm trong tổng cung ngắn hạn gây ra hiện tượng đình lạm. Các nhà hoạch định chính sách không thể
dịch chuyển đường tổng cầu theo hướng có thể triệt tiêu cả sự tăng lên trong mức giá và sự sụt giảm
trong sản lượng cùng một lúc. AS dài hạn AS2 ngắn hạn Mức giá AS1 ngắn hạn P 3 C P2 B A AD2 P1 AD1 Y2 Y1 Sản lượng thực Hình 3 CHƯƠNG 11
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN TỔNG CẦU TÓM TẮT CHƯƠNG
Chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tổng cầu như thế nào Đường tổng cầu phản ánh lượng hàng hóa và
dịch vụ được cầu ở mỗi mức giá. Nhớ lại chương 31, đường tổng cầu đi xuống do ảnh hưởng của hiệu
ứng tài sản, hiệu ứng lãi suất, và hiệu ứng tỷ giá. Vì tiền là một phần nhỏ trong tổng tài sản và khu vực
quốc tế là một phần nhỏ trong nền kinh tế Hoa Kỳ nên lý do quan trọng nhất làm đường tổng cầu của
nền kinh tế Mỹ đi xuống là do hiệu ứng lãi suất. lãi suấ cung tiền r1 lãi suất cầu r2 tiền Md lượng tiền 1 Md2 lượng cố định tiền Hình 1
Lãi suất là nhân tố quyết định đối với tổng cầu. Để xem xét chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tổng cầu
như thế nào chúng tôi trình bày lý thuyết của Keynes về xác định lãi suất có tên là lý thuyết ưa thích
thanh khoản. Lý thuyết này chỉ ra lãi suất do cung và cầu về tiền quyết định. Lưu ý rằng lãi suất ở đây
là cả lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực vì trong ngắn hạn, lạm phát kỳ vọng là không đổi nên những
thay đổi trong lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực là như nhau.
Cần ghi nhớ rằng cung về tiền là do Cục dự trữ liên bang (Fed) quyết định và có thể cố định ở bất cứ
mức cung nào mà Fed lựa chọn. Vì vậy, cung tiền không chịu ảnh hưởng của lãi suất và là đường thẳng
đứng như trong Hình 1. Mọi người có nhu cầu về tiền vì tiền, với tính cách là tài sản có khả năng thanh
khoản cao nhất trong nền kinh tế, là một phương tiện trao đổi. Bởi vậy, mọi người đều có nhu cầu giữ
tiền mặc dù nó không đem lại lợi tức vì người ta có thể dùng tiền để mua hàng hóa. Lãi suất là chi phí
cơ hội của việc giữ tiền. Khi lãi suất cao mọi người tăng việc giữ của cải dưới dạng trái phiếu mang lãi
và giảm lượng tiền nắm giữ. Vì vậy lượng cầu tiền giảm. Điều này được minh hoạ trong Hình 1. Lãi
suất cân bằng được quyết định bởi giao điểm của cung tiền và cầu tiền.
Lưu ý rằng, trong dài hạn, lãi suất được quyết định bởi cung và cầu vốn. Trong ngắn hạn, lãi suất do
cung và cầu tiền quyết định. Điều này không tạo ra mâu thuẫn nào.
Trong dài hạn, sản lượng được ấn định bởi cung về các nhân tố và công nghệ, lãi suất điều chỉnh để cân bằng cung cầu vốn.
Trong ngắn hạn, mức giá là cố định và không thể điều chỉnh. ở bất kỳ mức giá đưa ra nào, lãi suất
điều chỉnh để cân bằng cung tiền và cầu tiền, và sản lượng phản ứng theo những thay đổi trong tổng
cầu và tổng cung ngắn hạn.
Mỗi lý thuyết nêu bật những biến đổi của lãi suất trong những khoảng thời gian khác nhau.
Chúng ta có thể sử dụng lý thuyết ưa thích thanh khoản để làm tăng thêm tính chính xác trong những
giải thích cho chiều dốc xuống của đường tổng cầu. Nhớ lại các chương trước, cầu tiền có tương quan
dương đối với mức giá vì ở các mức giá cao hơn người ta cần nhiều tiền hơn để mua được lượng hàng
hóa như cũ. Vì vậy, một mức giá cao hơn làm dịch chuyển cầu tiền sang bên phải như trong Hình 2,
phần (a). Với mức cung tiền cố định, cầu tiền lớn làm tăng lãi suất. Lãi suất cao hơn làm giảm chi tiêu
đầu tư và làm lượng cầu hàng hoá và dịch vụ giảm như trong Hình 2, phần (b). Hình 2 Cung tiền Lãi ấ Mứ iá Tổng cầu P2 r2 P1 r1 Md2(P) Md1(P) Lượng cố định Y2 Y1 bởi ngân hàng trung ương
Trở lại mục đích của phần này: chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tổng cầu như thế nào? Giả sử Fed mua
trái phiếu chính phủ làm cho cung tiền dịch chuyển sang bên phải như trong Hình 3, phần (a). Lãi suất
giảm, làm chi phí vay vốn để đầu tư giảm. Do đó, lượng cầu hàng hoá dịch vụ ở mỗi mức giá tăng, làm
dịch chuyển đường tổng cầu sang phải như trong Hình 3, phần (b). Hình 3 Lãi suất Ms1 Ms Mức giá 2 Tổng cầu r 1 r 2 AD2 AD1 Md( ) Lượng tiền Y1 Y2 ượng thực tế Hình Hình (a) (b)
Fed có thể thực hiện các chính sách tiền tệ bằng cách đặt mục tiêu cho mức cung tiền hay lãi suất. Trong
những năm gần đây, Fed đã đề mục tiêu lãi suất vỉnất khó đo lường cung tiền. Đặc biệt, Fed đã đặt mức
lãi suất liên bang - lãi suất giữa các ngân hàng về các khoản nợ ngắn hạn. Việc Fed đặt mục tiêu về mức
cung tiền hay lãi suất hầu như không ảnh hưởng đến phân tích của chúng ta bởi vì mọi chính sách tiền
tệ đều có thể được miêu tả theo cung tiền hay lãi suất. Ví dụ, chính sách tiền tệ mở rộng, được áp dụng
để tăng tổng cầu trong ví dụ trên có thể được diễn tả như một sự gia tăng trong mục tiêu cung tiền hay
một sự cắt giảm trong lãi suất được đặt mục tiêu.
Chính sách tài khoá ảnh hưởng đến tổng cầu như thế nào Chính sách tài khoá liên quan đến sự lựa chọn
mức thuế và mức chi tiêu của chính phủ. Trong khi các chính sách tài khoá có thể tác động đến sự tăng
trưởng trong dài hạn, ảnh hưởng trước tiên trong ngắn hạn của nó là lên tổng cầu.
Việc chính phủ tăng chi tiêu 20 tỉ đô la mua máy bay quân sự được phản ánh ở sự dịch chuyển sang phải
của đường tổng cầu. Có hai lý do giải thích cho việc đường tổng cầu có thể dịch sang phải ít hơn hoặc nhiều hơn 20 tỉ đôla:
Hiệu ứng số nhân: Khi chính phủ dùng 20 tỉ đô la mua máy bay quân sự, thu nhập dưới dạng tiền
công và lợi nhuận của người sản xuất tăng. Những người nhận được mức thu nhập mới này tăng chi
tiêu mua hàng tiêu dùng, điều này làm làm tăng thu nhập cho những người làm việc trong các doanh
nghiệp khác, do đó làm tăng tiêu dùng của họ, và cứ như vậy cho nhiều vòng nữa. Vì tổng cầu có
thể tăng nhiều hơn mức tăng của chi tiêu chính phủ mua hàng hoá, chi tiêu chính phủ mua hàng hoá
được coi là có ảnh hưởng theo số nhân đến tổng cầu. Có một công thức để tính quy mô của hiệu ứng
số nhân. Công thức này chỉ ra rằng cứ mỗi đôla chính phủ sử dụng, đường tổng cầu dịch chuyển
sang phải là 1/(1 - MPC), trong đó MPC là xu tiêu dùng cận biên - phần thu nhập tăng thêm mà một
hộ gia đình sử dụng mua hàng tiêu dùng. Ví dụ, nếu MPC là 0,75, số nhân là 1/(1 - 0,75) = 1/0,25 =
4 điều đó có nghĩa mỗi đôla chính phủ tiêu dùng tăng thêm làm dịch chuyển đường tổng cầu sang
phải là 4$. MPC tăng làm số nhân tăng.
Bên cạnh số nhân, sự gia tăng tiêu dùng có thể làm các doanh nghiệp tăng chi tiêu cho đầu tư vào
thiết bị mới, làm tăng hơn nữa ảnh hưởng của tổng cầu đối với sự gia tăng ban đầu trong chi tiêu
mua hàng hoá của chính phủ. Điều này được biết đến như là gia tốc đầu tư.
Bởi vậy đường tổng cầu có thể dịch chuyển nhiều hơn mức thay đổi trong chi tiêu chính phủ.
Lôgíc của hiệu ứng số nhân được áp dụng đối với những thay đổi khác trong chi tiêu bên cạnh chi
tiêu chính phủ. Ví dụ, những cú sốc tiêu dùng, đầu tư, và xuất khẩu ròng có thể gây hiệu ứng số nhân cho tổng cầu.
Hiệu ứng lấn át: Hiệu ứng này hoạt động ngược chiều số nhân. Sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ
(như trường hợp trên) làm tăng thu nhập, do đó đường cầu tiền dịch chuyển sang phải. Điều này làm
lãi suất tăng, dẫn đến đầu tư giảm. Bởi vậy, sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ làm tăng lãi suất,
dẫn đến làm giảm, hoặc lấn át đầu tư tư nhân. Do sự lấn át, đường tổng cầu có thể dịch chuyển sang
phải ít hơn mức tăng của chi tiêu chính phủ.
Sự dịch chuyển cuối cùng của đường tổng cầu là lớn hơn hay nhỏ hơn mức thay đổi ban đầu của chi tiêu
chính phủ phụ thuộc vào mối tương quan về độ lớn giữa hiệu ứng số nhân và hiệu ứng lấn át.
Một nửa khác của chính sách tài khoá là thuế. Một sự giảm thuế làm tăng thu nhập giành cho tiêu dùng
của các hộ gia đình, do đó làm tăng tiêu dùng của họ. Bởi vậy một mức thuế giảm làm dịch chuyển
đường tổng cầu sang phải còn mức thuế tăng làm dịch đường tổng cầu sang trái. Mức độ dịch chuyển
của tổng cầu phụ thuộc vào độ lớn tương đối của hiệu ứng số nhân và hiệu ứng lấn át như chỉ ra ở trên.
Một mức thuế giảm được các hộ gia đình nhận thức là lâu dài có tác dụng cải thiện lớn tình hình tài
chính của các hộ gia đình và làm tăng tổng cầu đáng kể. Một thay đổi trong các mức thuế được coi là
tạm thời có ít ảnh hưởng hơn lên tổng cầu.
Cuối cùng, chính sách tài khoá có thể có tác động lên tổng cung vì hai lý do. Thứ nhất, một mức thuế
giảm làm tăng động lực làm việc và làm đường tổng cung dịch chuyển sang phải. Các nhà kinh tế học
trọng cung tin rằng ảnh hưởng này là lớn. Thứ hai, đầu tư tư bản của chính phủ như xây cầu, đường có
thể làm tăng lượng hàng hoá được cung ở mỗi mức giá và làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải.
Hệ quả này có thể quan trọng hơn trong tương lai.
Sử dụng chính sách để bình ổn nền kinh tế. Keynes (và những người theo ông) cho rằng chính phủ nên
chủ động áp dụng các chính sách tiền tệ và tài khoá để ổn định tổng cầu và, kết quả là ổn định sản lượng và việc làm.
Một số nhà kinh tế cho rằng chính phủ không nên sử dụng các chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ
để cố gắng bình ổn những dao động ngắn hạn của nền kinh tế. Trong khi họ đồng ý rằng, trên lý thuyết,
những chính sách chủ động có thể bình ổn nền kinh tế, họ cảm thấy là trên thực tế, các chính sách tài
khoá và chính sách tiền tệ tác động lên nền kinh tế với độ trễ lớn. Độ trễ của chính sách tiền tệ ít nhất
cũng là sáu tháng, bởi vậy Fed rất khó có thể "hoà hợp tốt" với nền kinh tế. Chính sách tài khoá có độ
trễ chính trị lớn bởi vì việc thông qua các luật thuế và tiêu dùng phải mất hàng tháng hay hàng năm.
Những độ trễ như vậy có nghĩa là chính sách chủ động có thể gây bất ổn định vì chính sách mở rộng có
thể vô tình làm tăng tổng cầu trong thời kỳ tổng cầu của khu vực tư nhân đã quá lớn, và chính sách thắt
chặt có thể vô tình làm giảm tổng cầu trong thời kỳ tổng cầu của khu vực tư nhân đã quá thấp.
Cơ chế tự bình ổn là những thay đổi trong chính sách tài khoá, tự động kích cầu trong một cuộc suy
thoái, do đó các nhà hoạch định chính sách không phải hành động một cách chủ động. Hệ thống thuế tự
động làm giảm thuế thu trong thời kỳ suy thoái, khi thu nhập và lợi nhuận giảm. Chi tiêu chính phủ tự
động tăng trong thời kỳ khủng hoảng vì trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp xã hội tăng. Bởi vậy cả hệ thống
thuế và chi tiêu chính phủ làm tăng tổng cầu trong giai đoạn suy thoái. Một quy tắc cân bằng ngân sách
cứng nhắc sẽ xoá bỏ cơ chế tự ổn định này bởi vì chính phủ phải tăng thuế hoặc giảm chi tiêu trong thời kỳ suy thoái.
Nếu cần thiết phải sử dụng chính sách tiền tệ chủ động, hầu hết các nhà kinh tế cho rằng Cục dự trữ liên
bang sẽ đưa ra quyết định tốt hơn nếu nó vẫn độc lập về chính trị. Điều này là do việc tăng lãi suất và
giảm tổng cầu khi nền kinh tế quá nóng (tạm thời vượt quá mức tự nhiên) là rất khó về mặt chính trị
nhưng lại cần thiết để tránh được lạm phát trong tương lai. CHƯƠNG 12
SỰ ĐÁNH ĐỔI NGẮN HẠN GIỮA LẠM PHÁT VÀ THẤT NGHIỆP
Đường Phillips. Vào năm 1958, nhà kinh tế học người Anh tên là A.W.Phillips đã tìm ra mối quan hệ
tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp. Nghĩa là, những năm lạm phát cao đi kèm với thất nghiệp
thấp. Mối quan hệ nghịch này cũng xuất hiện ở các nước khác, kể cả Mỹ, và nó được gọi là đường
Phillips. Đường Phillips có vẻ như đã đưa ra cho các nhà hoạch định chính sách một thực đơn về cách
lựa chọn giữa lạm phát và thất nghiệp. Để có tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn, điều cần thiết chỉ là chọn tỷ lệ lạm phát cao hơn.
Mô hình tổng cầu và tổng cung có thể giải thích mối quan hệ được mô tả bởi đường Phillips. Đường
Phillips chỉ ra các kết hợp lạm phát và thất nghiệp nảy sinh trong ngắn hạn bởi sự dich chuyển trong
đường tổng cầu dọc theo đường tổng cung ngắn hạn. Ví dụ, sự gia tăng trong tổng cầu chuyển nền kinh
tế dọc theo đường tổng cung ngắn hạn đến mức giá cao hơn, sản lượng cao hơn và một thất nghiệp thấp
hơn. Do giá trong giai đoạn trước bây giờ được cố định, mức giá cao hơn trong giai đoạn hiện tại hàm
ý tỷ lệ lạm phát cao hơn, mà hiện tại được kết hợp với tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn. Điều này có thể thấy
trong hình 1. Sự gia tăng trong tổng cầu chuyển nền kinh tế từ điểm A tới điểm B trong phần (a) kết hợp
với một sự di chuyển dọc theo đường Phillips ngắn hạn từ điểm A tới điểm B.
Đường Phillips thiết lập mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, nhưng nó không thiết lập mối
quan hệ nhân quả. Nếu đọc đường Phillips từ trục thất nghiệp đến trục lạm phát, chúng ta thấy rằng khi
thất nghiệp thấp một cách bất thường, thị trường lao động căng thẳng và tiền công cùng giá cả bắt đầu tăng nhanh hơn.
Sự dịch chuyển của đường Phillips: Vai trò của kỳ vọng. Vào năm 1968, các nhà kinh tế Mỹ Friedman
và Phelps lập luận rằng đường Phillips không phải là thực đơn để các nhà hoạch định chính sách có thể
khai thác. Điều đó là vì trong dài hạn tiền tệ có tính trung lập và không có hiệu ứng thực tế nào cả. Chính
sự gia tăng tiền tệ gây ra sự thay đổi theo tỷ lệ trong giá cả, thu nhập và nó không ảnh hưởng đến thất
nghiệp. Do đó, đường Phillips dài hạn phải thẳng đứng ở tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên - tỷ lệ thất nghiệp
mà nền kinh tế tự nhiên bị hút vào đó.
Đường Phillips dài hạn thẳng đứng tương ứng với đường tổng cung dài hạn thẳng đứng. Như hình
1 cho thấy, trong dài hạn sự gia tăng cung tiền làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải và chuyển
nền kinh tế từ điểm A tới điểm C trong phần (a). Đường Phillips tương ứng tìm trong phần (b), nơi mà
sự gia tăng tiền tệ làm tăng lạm phát, nhưng bởi vì tiền là có tính trung lập trong dài hạn, giá cả và thu
nhập vận động cùng nhau và lạm phát thất bại trong việc tác động đến thất nghiệp. Như vậy, nền kinh
tế chuyển từ điểm A tới diểm C trong phần (b) và phác hoạ ra đường Phillips dài hạn.
Friedman và Phelps dùng khái niệm tỷ lệ thất nghiệp "tự nhiên" không phải bởi nó đáng mong muốn
hoặc không đổi, mà bởi vì nó nằm ngoài ảnh hưởng của chính sách tiền tệ. Khi sự thay đổi chính sách
trong thị trường lao động, chẳng hạn thay đổi trong luật tiền công tối thiểu và bảo hiểm thất nghiệp, làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, nó sẽ làm dịch chuyển đường Phillips dài hạn sang bên trái và đường
tổng cung dài hạn sang phải.
Mặc dù Friedman và Phelps lập luận rằng đường Phillips dài hạn là thẳng đứng, nhưng họ cho rằng
trong ngắn hạn, lạm phát có thể có tác động thực chất đến thất nghiệp. Lập luận của họ tương tự như
điều đã nói đến trong đường tổng cung ngắn hạn, trong đó mọi người đã giả định rằng trong ngắn hạn
kỳ vọng về giá được cố định. Chính vì với tổng cung ngắn hạn, nếu kỳ vọng về giá cả cố định trong
ngắn hạn, sự tăng của lạm phát có thể tạm thời làm tăng sản lượng và giảm thấp thất nghiệp xuống dưới
tỷ lệ tự nhiên. Trong hình 2, đó là một sự di chuyển từ điểm A tới điểm B. Tuy nhiên trong dài hạn, mọi
người điều chỉnh đến tỷ lệ lạm phát cao hơn bởi việc tăng các kỳ vọng của họ về lạm phát và đường
Phillips ngắn hạn dịch ngược lên. Nền kinh tế chuyển từ điểm B đến điểm C có lạm phát cao hơn nhưng
không có sự thay đổi trong thất nghiệp. Như vậy, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với đánh
đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp, nhưng nếu họ mưu toan khai thác nó, mối quan hệ sẽ biến
mất và họ dẫn ngược tới đường Phillips dài hạn thẳng đứng. Các phân tích của Friedman và Phelps có
thể tổng kết bởi đồng nhất thức sau:
Tỷ lệ thất nghiệp = Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên - (lạm phát thực tế - lạm phát dự kiến)
Điều này nói lên rằng đối với tỷ lệ lạm phát bất kỳ đã cho, nếu lạm phát thực sự vượt lạm phát dự
kiến , thất nghiệp sẽ giảm xuống dưới tỷ lệ tự nhiên bởi một lượng phụ thuộc vào tham số . Tuy nhiên,
trong dài hạn mọi người hiểu được lạm phát nào tồn tại và tỷ lệ thất nghiệp sẽ bằng tỷ lệ tự nhiên.
Friedman và Phelps đã soạn thảo các giả thiết tỷ lệ tự nhiên, nó công bố rằng thất nghiệp rồi đến
cuối cùng lại trở lại tỷ lệ tự nhiên của nó, bất chấp lạm phát thế nào. Trong quá trinh tranh luận, nó đã
được cho là đúng. Trong những năm 1960, chính sách tiền tệ và tài chính mở rộng đã làm tăng mạnh tỷ
lệ lạm phát và thất nghiệp giảm xuống. Tuy nhiên, Đầu những năm 1970, mọi người tăng kỳ vọng của
họ về lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp trở lại tỷ lệ tự nhiên - khoảng 5 hoặc 6%.
Sự dịch chuyển của đường Phillips: Vai trò của các cú sốc cung. Đường Phillips ngắn hạn cũng có thể
bị các cú sốc cung làm dịch chuyển. Cú sốc cung là một sự kiện trực tiếp tác động đến chi phí và giá cả
của các doanh nghiệp, làm dịch chuyển đường tổng cung của nền kinh tế và đường Phillips. Cú sốc cung
đã xảy ra vào năm 1974 khi OPEC tăng giá dầu. Hành động này làm tăng chi phí sản xuất và dịch chuyển
đường tổng cung ngắn hạn của Mỹ sang trái, làm cho giá tăng lên và sản lượng giảm xuống, tức tình
trạng lạm phát đi kèm suy thoái. Do lạm phát tăng và thất nghiệp tăng, tình trạng này tương ứng với sự
dịch chuyển sang phải (lên trên) của đường Phillips ngắn hạn. Bây giờ, các nhà hoạch định chính sách
phải đối mặt với sự đánh đổi ít mong muốn nhất giữa lạm phát và thất nghiệp. Đó là, các nhà hoạch định
chính sách phải chấp nhận tỷ lệ lạm phát cao hơn đối với mỗi tỷ lệ thất nghiệp, hoặc tỷ lệ thất nghiệp
cao hơn đối với mỗi tỷ lệ lạm phát. Giờ đây họ cũng có sự lựa chọn khó khăn hơn, bởi vì nếu cắt giảm
tổng cầu để chống lạm phát, họ sẽ làm tăng thất nghiệp thêm nữa. Nếu tăng tổng cầu để cắt giảm thất
nghiệp, họ lại tiếp tục làm tăng lạm phát.
Nếu cú sốc cung làm tăng lạm phát dự kiến, thì sự dich chuyển của đường Phillips sẽ có tính chất
"lâu dài". Nếu nó không làm tăng lạm phát dự kiến , sự dịch chuyển chỉ mang tính chất tạm thời. Trong
những năm 1970, Fed đã thích ứng với hai cú sốc cung bất lợi bằng cách làm tăng tổng cầu. Cách làm
này đã dẫn đến sự gia tăng lạm phát dự kiến và sự dịch chuyển sang phải (lên trên) của đường Phillips
mang tính "lâu dài". Vào năm 1980, lạm phát là 9% và thất nghiệp là 7%.
Cái giá của việc cắt giảm lạm phát. Tháng mười 1979, Chủ tịch của Fed Paul Volcker theo đuổi một
chính sách cắt giảm lạm phát - tức làm giảm tỷ lệ lạm phát. Chính sách cắt giảm cung tiền làm giảm
tổng cầu, làm giảm sản lượng và tăng thất nghiệp. Điều này được chỉ ra trong hình 3 bằng sự di chuyển
từ điểm A tới điểm B. Theo thời gian, lạm phát dự kiến giảm xuống và đường Phillips ngắn hạn dịch
xuống dưới, chuyển nền kinh tế từ điểm B tới điểm C.
Cái giá phải trả cho việc cắt giảm lạm phát là một thời kỳ thất nghiệp và sản lượng giảm. Tỷ lệ hy
sinh là số phần trăm sản lượng hàng năm bị mất đi do việc cắt giảm lạm phát một phần trăm gây ra.
Lượng sản lượng mất đi phụ thuộc vào độ dốc của đường Phillips và mọi người tìm cách cắt giảm kỳ
vọng về lạm phát nhanh chóng đến mức nào.
Một số nhà kinh tế ước lượng tỷ lệ hy sinh là vào khoảng 5, tức rất lớn. Những người ủng hộ lý
thuyết được gọi là kỳ vọng hợp lý đã gợi ý rằng cái giá phải trả cho việc cắt giảm lạm phát có thể nhỏ
hơn nhiều và có thể là zêrô. Kỳ vọng hợp lý gợi ý rằng mọi người sử dụng một cách tối ưu tất cả những
thông tin sẵn có, bao gồm cả các chính sách của chính phủ, khi dự báo về tương lai. Như vậy, một khi
chính sách chống lạm phát đã được loan báo và được mọi người tin tưởng có thể chuyển nền kinh tế từ
điểm A tới điểm C, không cần phải thông qua điểm B. Volcker đã loan báo chính sách chống lạm phát
vào cuối năm 1979 và giảm được lạm phát từ 10% xuống 4% vào năm 1984, nhưng cái giá phải trả là
sự gia tăng đáng kể của thất nghiệp. Tuy nhiên, cần chú ý rằng sự gia tăng trong thất nghiệp thấp hơn
mức dự tính trước đó dựa vào tỷ lệ hy sinh ước lượng được. Lý thuyết kỳ vọng hợp lý có thể không
chính xác, hoặc mọi người không có thể tin vào các thông báo chính sách.
CHƢƠNG 14: ĐO LƢỜNG SẢN LƢỢNG VÀ MỨC GIÁ
1. Các khái niệm:
*/ Tổng sản phẩm trong nƣớc GDP
- Là giá trị thị trƣờn
g của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong 1 quốc gia trong 1 thời kỳ nhất định.
- GDP phản ánh năng lực sản xuất của một nước (tiềm lực của một nền kinh tế), phản ánh thu nhập của quốc gia.
(Giá trị thị trƣờng: Mọi hàng hóa và dịch vụ tạo ra trong nền kinh tế đều được quy về giá trị bằng tiền; Hàng hóa và
dịch vụ cuối cùng: Là những sản phảm cuối cùng của quá trình sản xuất và chúng được người mua sử dụng dưới dạng
hoàn chỉnh ↔ Hàng hóa trung gian: Là những hàng hóa như vật liệu và các bộ phận được dùng trong quá trình sản xuất ra những hàng hóa khác).
- Phân loại: GDPn (GDP danh nghĩa) là tổng giá trị sản phẩm tính theo giá năm hiện hành, GPDr(GDP thực) là tổng
giá trị sản phẩm tính theo giá năm cơ sở (năm gốc)
*/ Chỉ số giá tiêu dùng CPI: Đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hóa và dịch vụ mà một ngƣời tiêu dùng điển hình mua.
Những phát sinh khi đo lƣờng CPI: lệch do hàng hóa mới, lệch do chất lượng thay đổi, lệch do thay thế.
*/ Khác biệt giữa chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) và Chỉ số giá tiêu dùng CPI:
- Giống: Đều đo lường mức giá chung của nền kinh tế - Khác: + D ả ị
ụ đƣợc tính vào GDP
GDP đo lường mức giá trung bình của tất c các hàng hóa và d ch v .
+ CPI đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hóa và dịch vụ mà một ngƣời tiêu dùng điển hình mua.
2. Các phƣơng pháp đo lƣờng GDP: 03 phương pháp
- Phương pháp chi tiêu: GDP = Y = C + I + G + NX
(=X – IM: Cán cân thương mại, NX > 0→Xuất siêu(thặng dư)
NX < 0→Nhập siêu(thâm hụt)
- Phương pháp thu nhập: GDP = W + R + i + Pr + Te + Dep
Trong đó: W(Thù lao lao động), R(Thu nhập từ tiền cho thuê tài sản), i(Tiền lãi ròng), Pr(Lợi nhuận doanh nghiệp),
Te(Thuế gián thu ròng) = Thuế gián thu – Trợ cấp cho người sản xuất
(Thuế gián thu là khoản thuế mà người tiêu dùng thanh toán khi mua hàng. Thuế trực thu là thuế đánh vào thu nhập) Dep(Khấu hao)
- Phương pháp sản xuất: GDP = = giá trị đầu ra – giá trị hàng hóa trung gian
3. Một số thƣớc đo khác G: Tổng D: Quốc nội P: Sản phẩm N: Ròng N: Quốc d ân I: Thu nhập ậ ừ nước G – N = Dep: Khấ
D – N = NFA: thu nh p ròng t u hao
P – I = Te: Thuế gián thu ròng ngoài
4. Một số công thức cần nhớ: GDP danh nghĩa: (1)
Tăng trƣởng kinh tế: GDP thực: (2)
Chỉ số giá tiêu dùng:
Năm cơ sở (năm gốc): CPI = 100 Năm t:
Chỉ số điều chỉnh GDP: Lạm phát:
Tính theo chỉ số điều chỉnh GDP:
Tính theo chỉ số giá tiêu dùng CPI:
Tính theo mức giá P:
Thu nhập thực tế:
Lãi suất thực: =
▲Một số mẹo khi làm trắc nghiệm:
Mẹo 1: X = Y. Z. Nếu Y↑a%, Z↑b% thì X↑ (a + b)% Mẹo 2:
X = . Nếu Y↑a%, Z↑b% thì X↑ (a – b)%
Mẹo 3 (Quy tắc 70): Nếu X tăng a%/ năm thì sẽ tăng gấp lần sau (năm). 1
CHƢƠNG 18: TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG
TỔNG CẦU (AD)
TỔNG CUNG (AS)
Là lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
Là lượng hàng hóa và dịch vụ mà các doanh nghiệp Khái niệm
trong nước mà các tác nhân kinh tế sẵn sàng và
sẵn sàng và có khả năng sản xuất trong nước tại mỗi
có khả năng mua tại mỗi mức giá mức giá
Các yếu tố cấu thành: AD = Y = C + I + G + NX
NX = X – IM: Cán cân thương mại
Luật cầu: Khi mức giá chung giảm thì lượng
tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ được sản xuất
trong nước tăng lên và ngược lại
→Đường tổng cầu (AD) là một đường dốc xuống
Đƣờng tổng cung trong dài hạn(ASL ) R : Là một
Hiệu ứng của cải (P và C)
đường thẳng đứng thể hiện tính chất của sản lượng
P giảm→Lượng tiền trong ví hay trong tài
chỉ do cung quyết định, bất kể đường tổng cầu có
khoản ngân hàng trở nên có giá trị hơn vì chúng
dịch chuyển như thế nào thì nền kinh tế sẽ di chuyển
có thể mua được nhiều hàng hóa và dịch vụ
dọc trên đường tổng cung thẳng đứng và do đó chỉ có
hơn→Người dân sẵn sàng và có khả năng mua
mức giá thay đổi còn sản lượng vẫn giữ nguyên tại Đặc điểm
nhiều hàng hóa dịch vụ hơn→Y tăng
mức tiềm năng hay còn gọi là mức sản lượng tự
Hiệu ứng lãi suất (P và I) nhiên
P giảm→Cần giữ ít tiền mặt hơn để mua hàng
Đƣờng tổng cung trong ngắn hạn (ASSR): Là một
hóa và dịch vụ→Cắt giảm lượng tiền nắm giữ
đường dốc lên và được giải thích dựa trên 04 mô
bằng cách mua trái phiếu hay tiền gửi ngân hàng
hình: Mô hình tiền lương cứng nhắc, mô hình nhận
có kì hạn→Lãi suất giảm→Khuyến khích doanh
thức sai lầm của công nhân, mô hình thông tin không nghiệp đầu tư→Y tăng
hoàn hảo và mô hình giá cả cứng nhắc
Hiệu ứng thay thế quốc tế (P và NX)
P giảm→Hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam trở
nên rẻ hơn một cách tương đối so với hàng hóa
và dịch vụ sản xuất ở nước ngoài tại một mức tỷ
giá hối đoái cho trước→Người nước ngoài có xu
hướng mua hàng hóa và dịch vụ tại Việt
Nam→Xuất khẩu được khuyến khích, nhập khẩu bị hạn chế→Y tăng
Các nhân tố làm dịch chuyển đƣờng tổng cung dài
hạn: Khi L(Lao động), K(Tư bản), T(Công nghệ),
N(Tài nguyên) tăng, tổng cung dịch chuyển sang bên
phải và ngược lại
Các nhân tố làm dịch chuyển đƣờng tổng cung
Các yếu tố
ngắn hạn: Tương tự ạ ổ làm DỊCH
Khi C(tiêu dùng), I(đầu tƣ), G(chi tiêu chính
trong dài h n và b sung thêm:
phủ), NX(xuất khẩu ròng) ả ất tăng→Chi phí CHUYỂN tăng, tổng cầu dịch
Giá cả các đầu vào s n xu
sản xuất tăng→Cung giảm→AS dịch chuyển AD - AS
chuyển sang bên phải và ngược lại. sang trái
Kỳ vọng về mức giá: nếu mọi người dự báo
mức giá tăng→Mức tiền lương sẽ tăng→Chi
phí sản xuất tăng→Cung giảm→AS dịch chuyển sang trái
XÁC ĐỊNH SẢN LƢỢNG VÀ MỨC GIÁ CÂN BẰN G
Khi AS = AD Giải phương trình => Mức giá (P ản lượ ằ E) và s ng cân b ng (YE)
▲Trạng thái cân bằng không nhất thiết là trạng thái tối ưu.
YCB > YTƯ : Dư thừa nguồn lực→Nền kinh tế đang tăng trưởng nóng Y ế ụ ồ ực→Nề ế
CB < YTƯ : Thi u h t ngu n l
n kinh t đang rơi vào suy thoái
lạm phát hoặc suy thoái Yc b < Ytư
CÁC BIẾN ĐỘNG TRONG KINH TẾ NGẮN HẠN VÀ DÀI HẠN
Ngắn hạn Tiền lương cứng nhắc
Sản lượng trong ngắn hạn có thể khác mức sản lượng tiềm năng ế ự ỉ ớ ạ ằ ạ ứ Dài hạn
Nền kinh t luôn t điều ch nh t i tr ng thái cân b ng t i m c sản lượng tiềm Tiền lương linh hoạt năng 2
▲ CÚ SỐC CẦU – CUNG: Ngắn
AD dịch sang phải, Giá và lƣợng cân bằng mới đều tăng hạn Có lợi
Nền kinh tế tự điều chỉnh: (AD tăng) Dài Cơ chế Y ụ ồ ự
ạn →Tiền lương danh nghĩa
cb > Ytư→Thiếu h t ngu n l c trong dài h hạn
tăng→Chi phí sản xuất tăng→AS ằ ới CÚ SỐC
SR giảm, dịch sang trái→Giá cân b ng m CẦU (AD
tăng, lƣợng cân bằng không đổi. Ng thay đổi) ắn
AD dịch sang trái, Giá và lƣợng cân bằng mới đều giảm hạn
Bất lợi ế ự ỉ (AD Nền kinh t t điều ch nh: gi Dài ảm) Cơ chế Y ồ ự
ạn →Tiền lương danh nghĩa
cb < Ytư→Dư thừa ngu n l c trong dài h hạn
giảm→Chi phí sản xuất giảm→AS ằ ới
SR tăng, dịch sang phải→Giá cân b ng m
giảm, lƣợng cân bằng không đổi. Ngắn
AS dịch sang phải, Giá cân bằng mới giảm, lƣợng cân bằng mới tăng hạn Có lợi
Nền kinh tế tự điều chỉnh: (AS tăng) Dài Cơ chế Y ụ ồ ự
ạn →Tiền lương danh nghĩa
cb > Ytư→Thiếu h t ngu n l c trong dài h
tăng→Chi phí sản xuất tăng→AS ị ở ề CÚ S h ỐC ạn
SR giảm, d ch sang trái tr v trạng thái ban
đầu→Giá và lƣợng cân bằng không đổi. CUNG (AS Ng ị
Giá cân bằng mới tằng, lƣợng cân bằng mới giảm thay đổi) ắn AS d ch sang trái, hạn
Bất lợi
Nền kinh tế tự điều chỉnh: (AS giảm ) Dài Cơ chế Y ồ ự
ạn →Tiền lương danh nghĩa
cb < Ytư→Dư thừa ngu n l c trong dài h hạn
giảm→Chi phí sản xuất giảm→AS ả ề
SR tăng, dịch sang ph i v trạng thái ban
đầu→ Giá và lƣợng cân bằng không đổi.
CHƢƠNG 19: TỔNG CẦU VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
1. Tổng cầu (Y-Thu nhập quốc dân) và tổng chi tiêu (AE): Hàm tiêu dùng
: tiêu dùng tự định (cố định)
: xu hướng tiêu dùng cận biên (Khi thu nhập khả
dụng thay đổi 1 đơn vị thì tiêu dùng sẽ thay đổi MPC
đơn vị) = Độ dốc của hàm tiêu dùng, càng lớn thì đường C tiêu dùng càng dốc T: Thuế
: thuế cố định, t: Thuế suất
▲ Người nghèo: nhỏ, MPC lớn
Người giầu: lớn, MPC nhỏ
→Chính sách kích cầu hiệu quả với xã hội nhiều
người nghèo, ít người giàu
Hàm tiết kiệm
Quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm : S
: tiết kiệm tự định
: xu hướng tiết kiệm cận biên I Đầu tƣ G
Chi tiêu chính phủ
Xuất khẩu ròng = Xuất khẩu – Nhập khẩu
MPM: xu hướng nhập khẩu cận biên = X – I M NX
Hay còn gọi là Cán cân thƣơng mại Nhập khẩu IM = MPM.Y
NX > 0→Xuất siêu(thặng dư)
NX < 0→Nhập siêu(thâm hụt)
Hàm tổng chi tiêu
▲Trạng thái cân bằng: => Y hoặc tăng E tăng khi
=> cho biết hiệu quả của Chính sách tài khóa, càng lớn thì chính sách tài khóa càng hiệu quả và ngược lại
▲ Đặc điểm của đƣờng Tổng chi tiêu AE:
Là đường dốc lên phản ánh thu nhập quốc dân tăng thì tổng chi tiêu cũng tăng
Khi thu nhập quốc dân tăng thêm 1 đơn vị thì tổng chi tiêu cũng tăng nhưng nhỏ hơn 1 đơn vị→Đường AE thoải
Nếu thu nhập quốc dân bằng 0 thì tổng chi tiêu vẫn mang giá trị dương (Đường AE cắt trục tung tại 1 giá trị >0) 3
Công thức xác định sản lƣợng cân bằng chung cho các nền kinh tế
▲Nếu không có thuế suất t, chỉ có thuế cố định thì công thức là:
( : Tổng Chi tiêu tự định)
Số nhân chi tiêu:
Số nhân thuế:
▲Phân loại các nền kinh tế:
Nền kinh tế giản đơn: Không có G, t, NX, X, MPM
Nền kinh tế đóng: Không có NX, X, MPM
Nền kinh tế mở: Đầy đủ ▲T: Thuế . Trong đó:
: thuế cố định, t: Thuế suất cái nào không có thì cho bằng 0
▲Thay đổi sản lƣợng cân bằng:
2. Chính sách tài khóa: Là việc Chính phủ can thiệp làm thay đổi Tổng cầu AD thông qua việc thay đổi T (thuế) hoặc G(chi tiêu)
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA MỞ RỘNG
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA THẮT CHẶT
(NỚI LỎNG)
GIẢM AD THÔNG QUA VIỆC GIẢM G
TĂNG AD THÔNG QUA VIỆC TĂNG G HOẶC TĂNG T
HOẶC GIẢM T
Hiệu quả khi
lớn => lớn => MPC lớn, t nhỏ hoặc MPM nhỏ Đặc điểm
AD tăng→Y tăng, P tăng
AD giảm→Y giảm, P giảm
Hiệu ứng lấn át của
AD tăng→MD↑→Lãi suất i tăng, đầu tƣ I
AD tăng→MD↓→Lãi suất i giảm, đầu tƣ I CSTK giảm tăng BB = T – G BB = T – G Cán cân ngân sách T↓, G↑→BB↓ T↑, G↓→BB↑
Nếu BB < 0: Thâm hụt ngân sách
Nếu BB > 0: Thặng dƣ ngân sách
CHƢƠNG 20: TIỀN TỆ VÀ CƠ CHẾ TRUYỀN DẪN TIỀN TỆ
1. Tiền tệ:
Là bất cứ thứ gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả các món nợ
Là tài sản có tính thanh khoản cao
03 Thƣớc đo tiền tệ:
M0: Tiền mặt trong lưu thông
M1 = M0 + Tiền gửi không kỳ hạn tại NHTM
M2 = M1 + Tiền gửi có kỳ hạn tại NHTM = Tiền mặt + Tiền gửi tại các NHTM = Tổng phương tiện thanh toán (M2 > M1 > M0)
CUNG TIỀN (MS)
CẦU TIỀN (MD)
Cung tiền MS = Cu (tiền mặt) + D(tiền gửi tại các NHTM)
Động cơ của việc giữ tiền: Động cơ giao dịch; Động
Cơ sở tiền MB = Cu (tiền mặt) + R(dự trữ thực tế của NHTM)
cơ dự phòng; Động cơ đầu cơ.
Tác động của lãi suất danh nghĩa (i) đến cầu tiền :
Số nhân tiền
- Lãi suất danh nghĩa là thước đo chi phí cơ hội của Trong đó: ữ
Khi lãi suất danh nghĩa tăng→Chi phí
cr là Tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi hay Tỷ lệ tiền mặt việc gi tiền.
cơ hội của việc giữ tiền tăng→Lƣợng cầu tiền giảm ngoài hệ thống NHTM và ngượ Đườ ầ ền là đườ ố ố
rr: Tỷ lệ dự trữ thực tế của NHTM = rrr(tỷ lệ dữ trữ bắt c lại => ng c u ti ng d c xu ng, ủ ất danh nghĩa (i) sẽ ự ậ
buộc) + rr*(tỷ lệ dự trữ dôi ra) sự thay đổi c a lãi su gây ra s v n
03 công cụ điều tiết Cung tiền (MS) của NHTW:
động dọc trên đường cầu tiền
Các nhân tố làm dịch chuyển đƣờng cầu tiền: Thu
Nghiệp vụ thị trƣờng mở: NHTW mua hoặc bán trái ức giá (P) tăng→ Đườ ầ ề
phiếu chính phủ→Thay đổi cơ sở tiền MB→Thay đổi nhập (Y) và M ng c u ti n MD
dịch chuyển sang bên phải và ngược lại. MS
Phƣơng trình hàm cầu tiền:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: rrr giảm→rr↓→m ↑→ M MS
tăng và ngược lại rrr tăng→MS giảm
b > 0: phản ánh mức tăng thêm của cầu tiền khi sản
Lãi suất chiết khấu: Là mức lãi suất mà NHTW cho lượng (Y) tăng thêm 1 đơn vị NHTM vay tiền c < 0: ảm đi của lượ ầ ề
NHTW giảm LSCK→rr↓→ phản ánh mức gi ng c u ti n khi lãi m ↑→ M MS tăng và ngược lại
suất thực tế (r) tăng thêm 1%.
NHTW tăng LSCK→MS giảm ▲Ngoài ra: MD = Với b, d >0 và c < 0 4
CÂN BẰNG THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ
Khi MS = MD Giải phương trình => Lãi suất danh nghĩa (i) và lượng tiền cân bằng (M)
Giả định: MS được kiểm soát bởi NHTW, không phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa (i) => Đường MS thằng đứng
2. Cơ chế truyền dẫn tiền tệ: Thay đổi MS→Thay đổi i→Thay đổi nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp→Thay đổi tổng
cầu→Giá (P) và Sản lượng cân bằng (Y) thay đổi
3. Chính sách tiền tệ: Là việc NHTW can thiệp làm thay đổi cung tiền MS
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ MỞ RỘNG
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THẮT CHẶT
(NỚI LỎNG) - TĂNG MS GIẢM MS Ƣu điểm
Kích thích tăng trưởng kinh tế Kiềm chế lạm phát Nhƣợc điểm Lạm phát cao
Sản lượng giảm (suy thoái kinh tế)
MD dốc (cầu tiền không co giãn)
MD dốc (cầu tiền không co giãn) I thoải I thoải
Hiệu quả khi
(cầu đầu tư co giãn)
(cầu đầu tư co giãn)
Số nhân chi tiêu lớn (MPC lớn. t nhỏ, MPM nhỏ)
Số nhân chi tiêu lớn (MPC lớn. t nhỏ, MPM nhỏ)
AS thoải (tổng cung co giãn)
AS dốc (tổng cung không co giãn)
MS tăng→i↓, M↑→I↑→AD↑→ MS gi Đặc điểm
ảm→i↑, M↓→I↓→AD↓→ Y tăng, P tăng
Y giảm, P giảm
CHƢƠNG 22: LẠM PHÁT + CHƢƠNG 17: THẤT NGHIỆP
1. Lạm phát :
Là sự gia tăng liên tục của mức giá chung (hay nói cách khác lạm phát là sự mất giá của tiền)
Công thức tính:
Tính theo chỉ số điều chỉnh GDP:
Tính theo chỉ số giá tiêu dùng CPI:
Tính theo mức giá P:
▲Nếu => Chủ doanh nghiệp được lợi, Người lao động bị thiệt
Nếu => Người lao động được lợi, Chủ doanh nghiệp bị thiệt
Tính theo lãi suất: = lãi suất danh nghĩa – Lãi suất thực tế
▲Nếu => Người cho vay bị thiệt, Người đi vay được lợi
Nếu => Người đi vay bị thiệt, Người cho vay được lợi
Nguyên nhân gây ra lạm phát:
- Lạm phát do cầu kéo: AD tăng
- Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí sản xuất tăng → AS giảm
- Lạm phát ì hay còn gọi là lạm phát dự kiến: Do tâm lý kỳ vọng của người dân
Chi phí của lạm phát:
- Lạm phát được dự tính trước: Chi phí mòn giày; Chi phí thực đơn; Sự thay đổi giá tương đối giữa các hàng hóa; Méo mó
do hệ thống thuế; Tạo sự nhầm lẫn và bất tiện.
- Lạm phát không dự tính trước: Phân bổ nguồn lực không theo nhu cầu, mong muốn của các tác nhân kinh tế
2. Thất nghiệp (U):
Là trạng thái có nhu cầu làm việc nhưng không tìm được việc
Thất nghiệp thực tế = Thất nghiệp tự nhiên + Thất nghiệp chu kỳ
Thất nghiệp tự nhiên là thất nghiệp tồn tại ngay cả khi nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng nhân công
Thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp khi nền kinh tế rơi vào suy thoái. Công việc của mỗi Chính phủ là đưa thất
nghiệp chu kỳ về 0 (Có thể bằng kích cầu).
3. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp – Mô hình đƣờng Phillips:
- Đƣờng Phillips trong ngắn hạn:
Trong ngắn hạn mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát ngược chiều
Đƣờng AD dịch chuyển => Gây ra sự vận động trên đường Phillips ngắn hạn
o AD tăng => Đường AD dịch chuyển sang phải => Đường Phillips ngắn hạn vận động dọc lên phía trên về
phía bên trái (Lạm phát tăng, thất nghiệp giảm )
o AD giảm => Đường AD dịch chuyển sang trái => Đường Phillips ngắn hạn vận động dọc xuống dưới về
phía bên phải (Lạm phát giảm, thất nghiệp tăng)
Đƣờng AS dịch chuyển => Gây ra sự dịch chuyển đường Phillips ngắn hạn
o AS tăng => Đường AS dịch chuyển sang phải => Đường Phillips ngắn hạn dịch trái (Lạm phát, thất nghiệp đều giảm)
o AS giảm => Đường AS dịch chuyển sang trái => Đường Phillips ngắn hạn dịch phải (Lạm phát, thất nghiệp tăng) 5
- Đƣờng Phillips trong dài hạn:
Đường Phillips và đường tổng cung trong dài hạn thẳng đứng hàm ý rằng trong dài hạn chính sách tiền tệ và tài khóa chỉ
tác động đến giá (P) và lạm phát mà không tác động đến sản lượng (Y) và thất nghiệp (U)
CHƢƠNG 27: CÁN CÂN THANH TOÁN VÀ TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI
1. Cán cân thanh toán: Là bản cân đối ghi chép giữa giao dịch trong nước và nước ngoài
= Cán cân tài khoản vãng lai + Cán cân tài khoản vốn
- Cán cân tài khoản vãng lai: Dùng để ghi chép liên quan đến hàng hóa và thu nhập
- Cán cân tài khoản vốn: Dùng để ghi chép liên quan đến sự luân chuyển dòng vốn trong nước và nước ngoài
2. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa: E ỷ ệ ữa đồ ề ủa các nướ ỷ ối đoái là giá củ t là t l trao đổi gi ng ti n c
c (hay nói cách khác t giá h a
đồng tiền này theo đồng tiền khác)
02 cách niêm yết tỉ giá:
+ Số nội tệ đổi một ngoại tệ: EVND/USD
+ Số ngoại tệ đổi một nội tệ: eUSD/VND
Tỷ giá hối đoái thực tế:
Ý nghĩa: Phản ánh năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong nước so với hàng hóa nước ngoài trên phương diện giá cả ▲
Nội tệ giảm giá so với ngoại tệ => En tăng
Lạm phát ở nước ngoài cao hơn lạm phát trong nước => tăng => Er tăng => NX tăng
Quản lý tỷ giá hối đoái:
- Chế độ tỉ giá hối đoái thả nổi: NHTW không can thiệp, tỷ giá biến động hoàn toàn theo cung cầu thị trường
- Chế độ tỉ giá hối đoái cố định: NHTW sẽ can thiệp vào việc xác định tỷ giá thông qua mua bán ngoại tệ để ổn định tỷ giá.
3. Thị trƣờng ngoại hối: Nơi diễn ra hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ (Ngầm định thị trường ngoại hối là thị trường USD)
- Sự dịch chuyển của đƣờng cung USD: Khi xuất khẩu, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, kiều hối, vay/ viện trợ tăng => S ể ả USD dịch chuy n sang ph i
- Sự dịch chuyển của đƣờng cầu USD: Khi nhập khẩu, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, chuyển tiền ra nước ngoài, cho
vay và viện trợ ra nước ngoài, tích trữ ngoại tệ của người dân tăng => D ể ả USD dịch chuy n sang ph i
- Cân bằng thị trƣờng ngoại hối khi SUSD = DUSD Giải phương trình => Tỷ giá hối đoái cân bằng (E) và lượng USD cân bằng (Q)
4. Can thiệp của chính phủ:
- NHTW mua USD trên thị trƣờng ngoại hối: D ể ả
Tỷ giá hối đoái
USD tăng => Đường cầu USD dịch chuy n sang ph i => danh nghĩa En tăng
- NHTW bán USD trên thị trƣờng ngoại hối: S ị ể ả
Tỷ giá hối
USD tăng => Đường cung USD d ch chuy n sang ph i =>
đoái danh nghĩa En giảm
5. Chính sách tỉ giá:
- NHTW can thiệp làm tăng tỷ giá hối đoái danh nghĩa En => E ạ ủa hàng hóa trong nướ
r tăng => Năng lực c nh tranh c c
so với hàng hóa nước ngoài xét trên phương diện giá cả tăng => X tăng, IM giảm => NX tăng => AD tăng
- NHTW can thiệp làm giảm tỷ giá hối đoái danh nghĩa En => E ả Năng lự r gi m =>
c cạnh tranh của hàng hóa trong
nước so với hàng hóa nước ngoài xét trên phương diện giá cả tăng => X giảm, IM tăng => NX giảm => AD giảm 6