



Preview text:
Chương 3: Khái quát pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam
3.1. Sự cần thiết ban hành Luật bảo vệ người tiêu dùng
Thực trạng vi phạm quyền hạn người tiêu dùng ngày càng phổ biến và phức
tạp trong khi đó các quy định của Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn
nhiều bất cập, chưa tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ
người tiêu dùng. Do vậy Luật bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ người tiêu dùng 2010
đã được ban hành để thay thế cho Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng 1999
Tuy nhiên hơn mười năm thi hành, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
2010 đã bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập. Do vậy, ngày 20/6/2023, Quốc hội đã biểu
quyết thông qua Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đây là một dự án Luật quan
trọng, có ảnh hưởng rộng đến nhiều ngành, lĩnh vực. Dự án Luật được xây dựng trên
nguyên tắc kế thừa, phát huy và hoàn thiện những quy định còn phù hợp với thực
tiễn tại Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ban hành năm 2010; đồng thời sửa
đổi, bổ sung những quy định chưa rõ, còn bất cập, chưa thống nhất trên nguyên tắc
hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất đồng bộ trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật... Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ 01/7/2024.
3.2. Phạm vi điều chỉnh của Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010
Căn cứ theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010
(sửa đổi, bổ sung 2018): “Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiêu
dùng; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người
tiêu dùng; trách nhiệm của tổ chức xã hội trong việc tham gia bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.”
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2013 áp dụng cho: Người tiêu dùng.
Tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tổ chức chính trị - xã hội.
Tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức xã hội) tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có liên quan đến bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng
3.3. Thực trạng pháp luật Luật bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam
3.3.1. Thực trạng tuân thủ pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Dưới tác động của mặt trái nền kinh tế thi trường, nhiều tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vì mục đích lợi nhuận đã không tuân thủ các quy định
của pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Nạn hàng giả, hàng nhái, hàng
kém chất lượng, hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đang có xu hướng gia tăng.
3.3.2. Thực trạng thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Pháp luật bảo vệ quyền lợi của ngưởi tiêu dùng quy định tổ chức, cá nhân
sản xất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải ghi nhãn hàng hóa theo quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này trên thực tiễn vẫn còn rất nhiều
bất cập. Tình hình thi hành các quy định pháp luật về niếm yết giá và bán theo giá
niêm yết trong kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên thị trường cũng chưa được thực
hiện tốt. Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng quy định người tiêu dùng
có quyền lựa chọn hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu và điều kiện thực tế của mình.
Tuy nhiên trên thực tiễn ở nước ta còn tồn tại một số dịch vụ mang tính chất “độc
quyền” như dịch vụ cung cấp điện, nước. Trong những trường hợp như vậy người
tiêu dùng không có quyền lựa chọn và chỉ còn cách ký hợp đồng sử dụng dịch vụ
theo ý chí của bên cung cấp dịch vụ. Không thi hành đúng các quy định pháp luật
bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nhiều tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ còn sử dụng hợp đồng mẫu có nội dung bất lợi với người tiêu dùng.
3.2.3. Thực trạng sử dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng qui định các chủ thể pháp luật có
quyền sử dụng các quyền chủ thể để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình
trong lĩnh vực tiêu dùng. Tuy nhiên trên thực tiễn cuộc sống, người tiêu dùng Việt
Nam chưa tích cực sử dụng các quyền năng mà pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng đã qui định.
3.2.4. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
Trong thời gian qua các cơ quan nhà nước chức năng đã có một số hoạt động áp dụng
pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng như tuyên truyền, phổ biến pháp luật;
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; giải quyết khiếu nại, tố cáo; xét xử, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ và hợp tác quốc tế. Tuy nhiên các hoạt động đó chưa thực sự phát huy
hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
3.2.5. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng ở Việt Nam cho thấy quá trình tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng đã bước đầu định hướng cho hành vi của các chủ thể trong xã
hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình tổ chức thực hiện, triển
khai các qui định của pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng vào thực tiễn
cuộc sống đã bộc lộ nhiều mặt hạn chế.
Nguyên nhân của hạn chế
Về nguyên nhân chủ quan: ý thức tuân thủ pháp luật bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội chưa cao.
Về nguyên nhân khách quan
Một là, nhiều qui định pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng còn bất
cập nên các chủ thể pháp luật gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện trên thực tiễn cuộc sống.
Hai là, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu của công tác bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng.