















Preview text:
                Bài dịch TLTK 
Giới thiệu: Tăng cholesterol máu gia đình (FH) là một bệnh di truyền phổ biến do 
đột biến một hoặc nhiều gen quan trọng đối với sự dị hóa (LDL-C). Hội chứng lâm 
sàng (kiểu hình) được đặc trưng bởi nồng độ LDL-C quá cao và có khuynh hướng 
dẫn đến khởi phát sớm bệnh tim, xơ vữa động mạch. Người đồng hợp tử nói chung 
biểu hiện bệnh ở thời thơ ấu. (Chủ đề này sẽ ko tập trung vào phần phương pháp  điều trị) 
 Định nghĩa: Một người được xác định là bệnh FH di truyền khi có 1 trong 2 điều sau 
Đột biến gen LDLR, PCSK9 hoặc APOB 
Các đặc điểm lâm sàng thường bao gồm LDL-C cao 
Tiêu chí của Hiệp hội Tim mạch Hoa 
Kỳ để chẩn đoán lâm sàng  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
tương đối đầu tiên với LDL-C> 190 
mg / dL hoặc đã biết bệnh mạch 
vành sớm (nam 55 tuổi; nữ <60  tuổi). 
 Các xem xét về FH di truyền: là bệnh di truyền trội trên NST thường phổ biến nhất. 
Bệnh nhân FH thường có đột biến chức năng của một trong ba gen: 
 Gen thụ thể lipoprotein mật độ thấp (LDLR; đôi khi được gọi là thụ thể apoB / E) 
 Đột biến tăng chức năng của gen proprotein convertase subtilisin kexin 9  (PCSK9) 
Đột biến gen apolipoprotein B (chủ yếu là APOB3500). 
Mỗi đột biến trong số ba đột biến này làm suy yếu quá trình dị hóa hạt 
LDL qua trung gian thụ thể LDL, dẫn đến LDL-C cao hơn trong máu. Trong 
số này, đột biến LDLR cho đến nay là phổ biến nhất. Các đột biến trong 
các gen này biểu hiện tác động bổ sung liều lượng gen   như vậy các 
cá thể mang hai đột biến gây bệnh (đồng hợp tử (2 đột biến cùng gen) 
hoặc dị hợp tử phức hợp (2 đột biến trên 2 gen khác nhau)) bị ảnh 
hưởng bất lợi hơn so với những cá thể có một đột biến gây bệnh (dị hợp  tử).   
Tỷ lệ đột biến gây bệnh ở ít nhất một trong ba gen này thay đổi tùy theo mức  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
độ chắc chắn đã mắc bệnh FH, ước tính khoảng 80% là ĐB ở những bệnh nhân 
đã xác định là mắc hội chứng FH lâm sàng và 20 - 
30% ở những người có khả năng mắc hội chứng FH. Trong số những người có 
một trong ba đột biến này: 
85 - 90 % có đột biến LDLR 
2 - 4 % đột biến tăng chức năng PCSK9  1 - 12 % đột biến APOB 
Những người phù hợp với các tiêu chuẩn kiểu hình cho bệnh FH lâm sàng 
và không xác định được đột biến gen đơn gây bệnh (lên đến 20% trong tổng 
số), được coi là bị tăng cholesterol máu đa gen nặng, theo đó sự kết hợp của 
các ĐBG nhỏ, riêng rẻ tác động cùng nhau dẫn đến LDLC tăng cao đáng kể. 
 Người ta thường sử dụng 1 thang đo nguy cơ đa gen để ước tính nguy cơ di 
truyền của một người. Phương pháp ước lượng độ ảnh hưởng của các ĐB đa 
gen thường gặp đang trở nên hữu dụng đối với chứng tăng cholesterol máu. 
Hiệu ứng tích lũy của nhiều locus tác động nhỏ lên mức LDL-C cũng tương tự 
như hiệu ứng của một gen chính duy nhất liên kết với FH dị hợp tử. Ngoài ra, 
một số cá nhân có điểm số nguy cơ đa gen cao nhất (những người trên phân vị 
thứ 90 của nguy cơ di truyền) cũng mang thêm các biến thể đơn gen có hại. 
 Có khả năng là chỉ một tỷ lệ rất nhỏ bệnh nhân FH có một số đột biến gen đơn 
nguyên nhân chưa được phát hiện.   
Ảnh hưởng trên biểu hiện lâm sàng: 
 Sự phát triển của bệnh tim mạch xơ vữa động mạch (ASCVD) do LDL-C tăng cao 
liên quan nhiều hơn đến thời gian và mức độ tăng LDL-C hơn là với (các) khiếm 
khuyết di truyền cụ thể. Người trưởng thành có FH dị hợp tử (và đồng hợp tử) 
đã có mức LDL-C cao kể từ khi sinh ra, trong đó khi với người có mức LDLC cao 
không phải do FH lại có LDL-C cao trong một thời gian ngắn hơn và do đó có 
phần nào nguy cơ thấp hơn ASCVD sớm. 
 Do các tác động cộng gộp được mô tả ở trên của sự thay đổi gây bệnh đối với 
mức LDL-C, những bệnh nhân có hai biến thể gây bệnh hoặc một biến thể gây 
bệnh và điểm nguy cơ cholesterol đa nguyên cao có thể mắc ASCVD sớm trong  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
cuộc đời. Ngoài ra, ở mức LDL-C tương tự khi trưởng thành, sự hiện diện của 
FH đơn nguyên làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch sớm lên khoảng 2-4 lần 
so với những người không có biến thể gây FH. Điều này phù hợp với quan sát 
rằng bệnh nhân FH dị hợp tử thường có mức LDL-C cao ngay từ khi sinh ra và 
có nguy cơ mắc bệnh tim sớm cao hơn. Các biến thể di truyền khác với ba biến 
thể chính được mô tả ở trên gây ra tăng LDL-C nhẹ hơn và cũng có thể ảnh 
hưởng đến LDL-C ở bệnh nhân FH và góp phần vào tuổi khởi phát và mức độ 
nghiêm trọng của nguy cơ tim mạch. 
Nhìn chung, những bệnh nhân FH dị hợp tử có mức LDL-C cao ngay từ khi 
sinh ra và có nguy cơ mắc bệnh tim sớm cao hơn so với những người đa 
gen thường không có mức LDL-C rất cao trong thời kỳ đầu đời. 
Dường như không có sự liên quan giữa tăng nguy cơ CVD và FH đa gen ở những 
bệnh nhân có LDL-C tăng và không có biến thể gây FH. Tuy nhiên, sự hiện diện của 
điểm nguy cơ đa gen cao ở bệnh nhân FH đơn gen lại có khả năng rất cao. 
 ĐB mất thụ thể LDL (LDLR) 
Ở dạng phổ biến nhất, FH là một rối loạn đơn gen gây ra bởi các khiếm khuyết trong 
gen mã hóa cho thụ thể apo B / E (LDL). 
 ĐB mất gen (hoặc mất chức năng) dẫn đến giảm độ thanh thải của các LDL ra 
khỏi tuần hoàn và tăng LDL-C trong huyết tương.       
Ngoài ra còn có sự gia tăng sự hấp thu LDL đã biến đổi (bị oxy hóa hoặc các biến đổi 
khác) bởi các thụ thể của đại thực bào, dẫn đến sự tích tụ lipid của đại thực bào và 
hình thành tế bào bọt.  Có 4 loại allele ĐB: 
 Loại I - Không có protein, trong đó quá trình tổng hợp bị lỗi. 
 Loại II - Vận chuyển khiếm khuyết, trong đó vận chuyển nội bào từ lưới nội chất  thành Golgi bị suy giảm.  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
 Loại III – Liên kết khiếm khuyết, trong đó các protein được tổng hợp và được vận 
chuyển đến bề mặt TB một cách bình thường, nhưng liên kết của LDL bị lỗi. 
 Loại IV - Nội tạng bị lỗi, trong đó các protein tiếp cận bề mặt tế bào và liên kết 
LDL một cách bình thường nhưng các thụ thể không tụ lại trong các hố được 
phủ, do đó giảm thiểu nội hóa LDL. 
Về mức độ hoạt động của lượng LDLR còn lại, có thể chia thành 2 nhóm: 
ĐB còn ít hơn 2% LDLR binh thường hoạt động  ĐB còn 2 - 25%  ĐBG PCSK9 
Proprotein convertase subtilisin kexin 9 (PCSK9) là một protease serine được 
tiết ra bởi gan. Ở ngoại bào, nó liên kết với LDLR được biểu hiện chủ yếu trên các  tế bào gan. 
 Một khi phức PCSK9-LDLR được đưa vào bên trong tế bào gan một cách sinh lý 
thông qua vùng hố được phủ trên màng ngoài của nó, các receptor LDL liên kết 
với PCSK9 sẽ bị ngăn không tái chế trở lại bề mặt tế bào và bị phá hủy bên  trong tế bào gan. 
 Ít thụ thể LDL hơn dẫn đến ít thanh thải LDL-C hơn và nồng độ huyết thanh cao  hơn. 
 Đột biến tăng chức năng trong PCSK9 rất hiếm, nhưng dẫn đến giảm biểu hiện 
LDLR, giảm dị hóa LDL, mức LDL-C cao hơn, hội chứng lâm sàng FH dị hợp tử, và 
tăng nguy cơ mắc bệnh tim thiếu máu cục bộ; đột biến mất chức năng phổ biến 
hơn và có liên quan với việc giảm cả LDLC và nguy cơ mắc bệnh tim thiếu máu  cục bộ. 
ĐB di truyền khiếm khuyết APOB 100 
Apolipoprotein B-100 khiếm khuyết do di truyền là một rối loạn trội NST 
thường có liên quan đến việc suy giảm liên kết của các phần tử LDL với thụ thể 
apo B / E (LDL). Khiếm khuyết được bản địa hóa ở phối tử apo B-100 trên hạt 
LDL (đột biến ở gốc 3500), không phải thụ thể apo B / E (LDL).  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
 Hiệu quả thực là độ thanh thải của LDL bị giảm và nồng độ trong huyết tương 
tăng gấp 2-3 lần. Tần số đột biến apo B 3500 ở những bệnh nhân được phân 
loại là dị hợp tử FH cao tới 3%. 
Các yếu tố khác tạo biến thể LDL-C 
Gồm chế độ ăn uống, bệnh đi kèm (ví dụ: suy giáp, bệnh gan) hoặc các bất 
thường di truyền không liên quan đến thụ thể LDL, PCSK9 hoặc gen 
apolipoprotein B có thể làm thay đổi mức LDL-C. 
 Ngoài ra, bệnh do vi rút cấp tính hoặc trạng thái viêm hoặc trạng thái sau phẫu 
thuật có thể ức chế thoáng qua tổng hợp lipid, thường làm giảm LDL-C. 
1. Tổng quan, triệu chứng và dịch tễ  Bệnh sơ vữa ĐM 
Xơ vữa động mạch là sự hình thành các mảng được gọi là mảng xơ vữa bên 
trong động mạch. Mảng xơ vữa được hình thành bởi: lipid, chủ yếu là 
cholesterol, tế bào cơ trơn, tế bào máu, collagen và sợi đàn hồi, và đôi khi là  canxi. 
 Sự hình thành xơ vữa động mạch là một bệnh của thành mạch gây ảnh hưởng lớn 
đến tới sự lưu thông máu từ tim đến các mô trong cơ thể.   
 Tổn thương xơ vừa động mạch có thể nhìn thấy sớm nhất là vệt mỡ, đó là do sự 
tích tụ của các tế bào bọt chứa nhiều lipid trên lớp nội mạc của động mạch (lớp 
trong cùng của động mạch, tiếp xúc với dòng máu). Theo thời gian, mảng mỡ 
phát triển thành mảng xơ vữa làm hạn chế lưu lượng máu giàu oxy đến các cơ 
quan và các bộ phận khác của cơ thể. Xơ vữa động mạch có thể dẫn đến các vấn  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
đề nghiêm trọng, bao gồm đau tim, đột quỵ, bệnh động mạch vành, bệnh mạch 
máu ngoại biên hoặc thậm chí tử vong. 
 Khoảng 76% tổng số huyết khối mạch vành tử vong do vỡ mảng xơ vữa. Vỡ mảng 
bám là nguyên nhân thường xuyên gây ra huyết khối mạch vành ở nam giới 
(khoảng 80%) hơn ở nữ giới (khoảng 60%). Các mảng vỡ có đặc điểm là một lõi 
lớn giàu lipid, một nắp xơ mỏng chứa ít tế bào cơ trơn và nhiều đại thực bào, 
hình thành mạch, viêm cơ và tái tạo bề ngoài. Vỡ mảng bám là nguyên nhân phổ 
biến nhất của huyết khối mạch vành.  Triệu chứng 
Xơ vữa động mạch có các triệu chứng biểu hiện phụ thuộc vào  vị trí bị xơ vữa: 
Xơ vữa động mạch trong động mạch tim, khiến lưu lượng máu về tim không đủ 
dẫn đến đau ngực hoặc đau thắt ngực. 
 Xơ vữa động mạch trong động mạch dẫn đến não gây ra các triệu chứng như đột 
ngột tê hoặc yếu ở tay hoặc chân, khó nói hoặc nói lắp, mất thị lực tạm thời ở 
một mắt hoặc cơ mặt bị xệ. . 
 Những dấu hiệu này báo hiệu một cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA), nếu 
không được điều trị, có thể tiến triển thành đột quỵ. 
 Xơ vữa động mạch ở tay và chân dẫn đến các triệu chứng của bệnh động mạch 
ngoại vi, như đau chân khi đi bộ (đau cách hồi) hoặc giảm huyết áp ở một chi bị 
ảnh hưởng. Đau cách hồi là đau từng cơn với bất kỳ cường độ nào mà không có 
bất kỳ cơn đau nào liên tục. 
 Xơ vữa trong động mạch dẫn đến thận sẽ bị cao huyết áp hoặc suy thận.  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG      Dịch tễ học 
Bệnh này gặp nhiều hơn ở các nước 
phát triển như ở châu Âu, Mỹ, còn ở 
các nước đang phát triển như châu 
Á, Phi ít gặp hơn. Do người dân ở 
châu Âu và châu Mỹ, đặc biệt là Tây 
Âu có chế độ ăn uống, có tỷ lệ chất 
béo cao hơn các khu vực khác. 
 Tuy nhiên, các nước có thu nhập cao, 
tỷ lệ mắc bệnh xơ vữa động mạch 
dẫn đến tử vong do thiếu máu cơ 
tim và đột quỵ do thiếu máu cục bộ 
đã giảm đáng kể kể từ giữa thế kỷ 
20. Cụ thể, ở Vương quốc Anh, xác 
suất tử vong do bệnh mạch máu ở 
nam giới trung niên (35– 69 tuổi) đã 
giảm từ 22% vào năm 1950 xuống 
còn 6% vào năm 2010. Hầu hết các 
quốc gia có thu nhập thấp và trung 
bình cũng có tỷ lệ tử vong do đột 
quỵ giảm trong vài thập kỷ qua, 
nhưng xu hướng tử vong do thiếu 
máu cơ tim đa dạng hơn, với một số 
quốc gia báo cáo giảm và các quốc 
gia khác báo cáo tăng (đặc biệt là ở  Đông Âu và châu Á). 
 Những thay đổi rộng rãi trong hành vi 
sức khỏe và việc sử dụng các 
phương pháp điều trị các yếu tố  nguy cơ này là 
nguyên nhân dẫn đến một số tỷ lệ 
tử vong giảm mạnh ở các nước có 
thu nhập cao. Để các quốc gia đang 
phát triển cũng giảm tỉ lệ mắc  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
bệnh, cần phải có những nỗ lực 
tăng cường để giải quyết các yếu tố 
nguy cơ chính này, đặc biệt là hút 
thuốc lá và đại dịch béo phì đang  nổi lên. 
2. Các loại Lipoprotein  Cấu tạo 
Lipid do ko tan được trong nước nên 
được vận chuyển bằng cách kết hợp 
với protein gọi là lipoprotein 
 Protein kết hợp với lipid tạo LP được 
gọi là apoprotein (apolipoprotein) 
 Chức năng Apoprotein (hình cầu 
nhỏ) được biết như sau: 
 Ổn định cấu trúc LP, giúp LP phân tán 
và vận chuyển được trong nước 
Nhận diện thụ thể màng 
Điều hòa hoạt tính của enz tham gia  chuyển hóa LP 
 Dễ dàng trao đổi thành phần 
lipid giữa các LP với nhau 
 Ở người, có 4 loại lipoprotein, là tiểu 
phân hình cầu, có kích thước nhỏ 
hơn hồng cầu, vận chuyển lipid 
không tan trong máu. Lipoprotein 
được cấu tạo gồm 2 lớp  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
 Lớp lõi trung tâm: chứa các lipid  kị nước gồm TG và CE  (cholesterol este) 
 Lớp áo bề mặt: chứa các protein 
phân cực ở đầu bên ngoài và 
phần kị nước quay vào trong,  ngoài ra còn chứa 
phospholipid và cholesterol tự  do. 
 Dựa theo phương pháp điện di (xem 
xét tính phân cực), người ta chia 
lipoprotein thành các loại CM, β-LP,  pre-β-LP, α-LP. 
 Còn nếu dựa theo phương pháp siêu 
ly tâm (so sánh tỉ trọng), người ta 
phân lipoprotein thành các loại 
theo thứ tự tăng dần khối lượng  riêng: CM, VLDL, LDL, HDL.   
 Chylomycron (tỉ trọng thấp nhất) → TG mô ngoại sinh về gan 
 Được tổng hợp ở tế bào niêm mạc ruột, tiết vào mạch bạch huyết. Khi tổng hợp ở 
niêm mạc ruột thì chỉ có apo B-48 và apo A, apo C và apo E được thêm vào từ 
HDL trong máu suốt quá trình vận chuyển 
Giàu TG, thực hiện TĐC chủ yếu ở tế bào mỡ và cơ 
Lipoprotein lipase (LpL) có trong lớp nội mô của mao mạch ở mô mỡ, mô cơ và 
tim, không có trong gan. Apo C-II trong CM hoạt hóa LpL, xúc tác thủy phân TG 
thành AB và glycerol. Mô mỡ và mô cơ hấp thụ AB này. 
 Phần còn lại (chylomicron remnants) CR được vận chuyển đến gan để xử lí tiếp.  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
 Tóm lại, chức năng CM là vận chuyển TG từ ruột đến mô mỡ để dự trữ, và đến 
mô cơ, tim để cung cấp năng lượng. CM mất TG được gọi là hạt còn lại, được 
đưa đến gan để xử lí. 
VLDL (tỉ trọng thấp thứ 2) → TG từ gan đến mô ngoại sinh 
Tổng hợp ở gan từ glycerol, AB và cholesterol ở tb gan, apo B-100, C-II và E. Apo 
B-100 là phần chính, E và C-II được lấy từ HDL trong huyết tương. 
 Khi nó đến mô ngoại biên, apo C-II sẽ kích hoạt LpL, phóng thích ra AB và được 
hấp thụ vào mô cơ, mỡ. Phần còn lại được gọi là IDL, chứa ít TG và chức nhiều 
cholesterol hơn. Phần lớn IDL tiếp tục bị thủy phân 
TG, để chuyển thành LDL. Con đường VLDL thành IDL và tiếp tục thành 
LDL được coi như … Một phần IDL được hấp thụ bởi tb gan 
 CHỨC NĂNG: vận chuyển TG nội sinh từ gan đến mô ngoại biên cung caaos năng  lượng. 
LDL (tỉ trọng thấp) → CE về mô 
LDL vận chuyển cholesterol từ gan 
đến tế bào ngoại biên. Apoprotein 
tồn tại duy nhất trong LDL là apo 
B100. Hầu hết LDL có nguồn gốc từ 
VLDL, một phần nhỏ được sản xuất  trực tiếp từ gan. 
 Quá trình gắn LDL vào thụ thể bởi apo 
B-100 và hấp thụ cholesterol từ LDL 
được điều hòa nghiêm ngặt. Thụ thể 
LDL có trong mọi tế bào nhưng 
nhiều nhất ở tế bào gan. 
 LDL sau khi gắn với thụ thể sẽ bị thủy 
phân bởi enzym trong lysosome, tạo 
amino acids và AB tự do. Thụ thể khi 
này sẽ quay trở lại màng tế bào để 
tiếp tục chu trình. Có khoảng 70%  LDL thoái hóa ở gan  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
 Khoảng 75% cholesterol trong huyết 
tương tồn tại trong LDL. LDL vận 
chuyển cholesterol từ gan đến mô 
ngoại biên. Cholesterol này được 
phóng thích và có 3 con đường 
1. Dùng cho tổng hợp steroid như  hormone steroid. 
2. Làm nhiệm vụ cấu trúc trên màng tế  bào. 
3. Cholestrol có thể được este hóa 
thành chất béo đơn không bão hòa 
(MUFA) bởi Acyl CoA- cholesterol- 
acyl transferase (ACAT) để dự trữ. 
Hàm lượng cholesterol trong tế bào 
điều chỉnh quá trình nội sinh 
cholesterol bởi việc kiểm soát enzym  HMG CoA reductase. 
 Nồng độ LDL trong máu có liên quan 
đến tỉ lệ mắc bệnh tim mạch. Một 
lượng cholesterol bị hấp thụ bởi đại 
thực bào, đây không phải là con 
đường điều hòa. Nồng độ LDL cao 
trong thời gian dài hay những chất 
oxi hóa sẽ tăng tỉ lệ cholesterol bị 
hấp thụ bởi đại thực bào, dấu hiệu 
khởi đầu cho việc hình thành mảng  xơ vữa động mạch  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
HDL (tỉ trọng cao) → CE từ mô ngoại sinh về gan 
Được tổng hợp tại gan và ruột non, 
chứa nhiều Apo A-I. HDL như nguồn 
chứa apoprotein C và E trong huyết 
tương, có thể dùng để tạo ra VLDL và  CM 
 Các hạt tiền chất HDL được tiết ra dưới 
dạng cấu trúc hình đĩa và có thể hấp 
thụ cholesterol tự do. Apo A-I của HDL 
hoạt hóa LCAT (lecithin cholesterol acyl 
transferase) trong máu, tạo cholesterol 
ester (CE). CE kị nước sẽ di chuyển vào 
trong đĩa HDL. Qúa trình tiếp tục cho 
đến khi HDL có hình cầu, chuyển thành 
HDL-3, tiếp tục thu nhận thêm 
apolipoprotein, cholesteryl este và  triglycerid rồi chuyển 
thành HDL-2 có kích thước lớn hơn 
 Tóm lại, HDL là dạng vận chuyển của 
cholesterol từ mô ngoại biên về 
gan, thoái hóa thành mật và tiết ra 
ngoài (con đường duy nhất bài tiết 
cholesterol của cơ thể người. 
 Để đánh giá nguy cơ xơ vữa động 
mạch, thường dựa vào HDL-C, LDL- C,  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG       
3. Cơ chế gây bệnh của LDL 
Các yếu tố nguy cơ của xơ vữa động 
mạch như rối loạn lipid máu, đái tháo 
đường, hút thuốc, cao huyết áp, các tác 
động gốc oxy hóa, … vẫn chưa được giải 
thích cơ chế một cách rõ ràng. Có thể 
hiểu một cách tổng thể như sau 
 Sự tăng nồng độ cholesterol trong LDL 
trong thời gian dài sẽ gây nên những 
cặn lắng đọng ở động mạch, như động 
mạch chủ, động mạch vành, mạch 
máu não. Như đã nói ở trên, một 
phần nhỏ LDL cholesterol được hấp 
thụ bởi đại thực bào, đặc biệt với các 
tiểu phân LDL bị oxy hóa bởi các gốc 
tự do sẽ gia tăng mức độ xảy ra của 
điều này. Lâu dần, đại thực bào sẽ trở 
nên quá tải với cholesterol, tích tụ 
trên thành mạch, trở thành các tế bào 
bọt (foam cells). Các tế bào bọt dần 
dần tích tụ, cùng với việc tế bào cơ 
trơn ở lớp trung mạc động mạch phân 
chia và sản sinh lớp chất nền ngoại 
bào đặc, sẽ tạo thành một mảng xơ  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
vữa gây ảnh hưởng đến sự lưu thông  máu. 
 Tổn thương nội mạc, cytokine tiền viêm 
tiết ra bởi đại thực bào là yếu tố kích 
thích sự phân chia của tế bào cơ trơn 
ở lớp trung mạc. Sự tổn thương nội 
mạc bởi các yếu tố như rối loạn lipid 
máu, cao huyết áp, …sẽ kết tụ tiểu cầu 
tại chỗ bị viêm, phóng ra nhiều chất 
trong đó có các yếu tố tăng trưởng 
kích thích sự di chuyển của tế bào cơ 
trơn ra nội mạc và phát triển mạnh tại  đó. 
 Ngoài ra, huyết khối (thrombosis) là 
biến chứng cuối cùng của xơ vữa động 
mạch. Thể hiện là sự đứt gãy của 
mảng bám nắp xơ, cho phép các 
thành phần đông máu đi vào tiếp xúc 
với các yếu tố mô ở bên trong mảng 
bám, gây ra huyết khối kéo dài vào 
lòng mạch, nơi nó có thể cản trở lưu  lượng máu. 
4. Cơ chế bảo vệ động mạch của HDL 
Những tính năng của High density Lipoprotein (HDL) tạo nên sự 
bảo vệ động mạch trong cơ thể bao gồm: Kiểm soát sự tăng trưởng 
của các tế bào cơ trơn ở trung mạc, chống oxi hóa LDL, điều hòa sự 
đông máu, tiêu sợi huyết và kết dính tiểu cầu, ngăn chặn quá trình  viêm. 
Ức chế quá trình tạo tế bào bọt và sự tăng sinh của mô cơ trơn ở trung mạc: Sự 
suy giảm NO sinh học (có tác dụng làm giãn mạch mạnh) có sẵn trong cơ thể sẽ gây suy  CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG     
giảm chức năng nội mạc, tăng ái lực của nội mạc với bạch cầu trong giai đoạn đầu xơ 
vữa động mạch. Trong các mảng xơ vữa hình thành lâu, có thể thấy sự bào mòn của 
lớp nội mạc, là hậu quả của quá trình chết tế bào apoptosis gia tăng. Một số nghiên 
cứu in vivo cung cấp bằng chứng về tác dụng có lợi của HDL với nội mạc. So với những 
bệnh nhân ít cholesterol máu, những người bị tăng cholesterol máu có sự giảm dãn 
mạch phụ thuộc NO, và sự phục hồi được tìm thấy khi truyền thêm HDL. Việc tăng 
nồng độ HDL trong huyết tương làm giảm interleukin IL-1, giảm sự biểu hiện của các 
phân tử kết dính bạch cầu như E-selectin trong quá trình khởi đầu xơ vữa động mạch. 
 HDL làm giảm bớt quá trình oxy hóa LDL: HDL ức chế quá trình oxy hóa LDL bởi sự 
chuyển tiếp các ion kim loại, ngăn cản sự hình thành lipid hydropeoxit. Sự ức chế 
này là do HDL chứa hàm lượng chất chống oxi hóa cao, chẳng hạn như hoạt tính 
chống oxi hóa của apo A-I và sự hiện diện của các enzym như paraxonase.      CASE 9: CASE LÂM SÀNG CHUNG