Top câu hỏi ôn tập môn Triết học Mác - Lênin

 Vấn đề cơ bản của triết học 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật Liên hệ với đời sống vật chất và đời sống tinh thần cùa sinh viên hiện nay:

Trường:

Đại học Thủy Lợi 221 tài liệu

Thông tin:
66 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Top câu hỏi ôn tập môn Triết học Mác - Lênin

 Vấn đề cơ bản của triết học 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật Liên hệ với đời sống vật chất và đời sống tinh thần cùa sinh viên hiện nay:

63 32 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD|49330558
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học:
Từ khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây, tại
các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc. Trước khi đi vào tìm hiểu về vấn
đề cơ bản của triết học là gì, trước tiên ta cần tìm hiểu khái niệm triết học là gì. Triết học là hệ
thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong
thế giới ấy; những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và
ngôn ngữ. Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất,
những quy luật chung nhất của chỉnh thể này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dưới dạng lý
luận. Vấn đề cơ bản của triết học là gì?
1) Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học:
Khởi điểm lý luận của bất kỳ học thuyết triết học nào đều là vấn đề về mối quan hệ giữa
duy với tồn tại; giữa cái tinh thần với cái vật chất; giữa cái chủ quan với cái khách quan.
Vấn đề cơ bản của triết học có đặc điểm:
a) Đó là vấn đề rộng nhất, chung nhất đóng vai trị nền tảng, định hướng để giải quyết những
vấn đề khác.
b) Nếu không giải quyết được vấn đề này thì không có cơ sở để giải quyết các vấn đề khác, ít
chung hơn của triết học.
c) Giải quyết vấn đề này như thế nào thể hiện thế giới quan của các nhà triết học và thế giới
quan đó là cơ sở tạo ra phương hướng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.
2) Định nghĩa:
Theo Ph.Ăngghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn
đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
3) Hai nội dung (hai mặt) vấn đề cơ bản của triết học:
a) Mặt thứ nhất(mặt bản thể luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa ý
thức với vật chất. Cái gì sinh ra và quy định cái gì-thế giới vật chất sinh ra và quy định thế giới
tinh thần; hoặc ngược lại, thế giới tinh thần sinh ra và quy định thế giới vật chất-đó là mặt thứ nhất
vấn đề cơ bản của triết học.
Giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học như thế nào là cơ sở duy nhất phân chia các
nhà triết học và các học thuyết của họ thành hai trường phái đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm triết học; phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành triết học
nhất nguyên (còn gọi là nhất nguyên luận) và triết học nhị nguyên (còn gọi là nhị nguyên luận).
b) Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa
khách thể với chủ thể nhận thức, tức trả lời câu hỏi liệu con người có khả năng nhận thức được thế
giới (hiện thực khách quan) hay không?
Các nhà triết học duy vật cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới. Nhưng do mặt thứ
nhất quy định nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất và bộ óc của con người.
Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới nhưng sự
nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy.
lOMoARcPSD|49330558
Một số nhà triết học duy tâm khác như Hium, Canto lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của
con người. Đây là những người theo “bất khả tri luận” (Thuyết không thể biết)
Giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học như thế nào là cơ sở phân chia các nhà triết học
và các học thuyết của họ thành phái khả tri (có thể biết về thế giới), bất khả tri (không thể biết về
thế giới) và hoài nghi luận (hoài nghi bản chất nhận thức của con người về thế giới).
Cách trả lời hai câu hỏi trên quy định lập trường của nhà triết học và của trường phái triết học, xác
định việc hình thành các trường phái lớn của triết học.
4) Liên hệ với đời sống vật chất và đời sống tinh thần cùa sinh viên hiện nay:
a. Đời sống vật chất:
Sinh viên có vị trí "song hành", vị trí "kép" trong xã hội. Một mặt, họ là những thanh niên
sinh viên đang dần hoàn thiện nhân cách, là lực lượng sản xuất hiện đại, người chủ của đất
nước trong tương lai. Mặt khác, họ là nguồn lực cơ bản để bổ sung vào đội ngũ trí thức
trong tương lai. Họ chính là nguồn nhân lực chất lượng cao đầy tiềm năng sáng tạo và ứng
dụng khoa học - công nghệ để góp phần thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất nước,
hội nhập quốc tế hiện nay.
Sinh viên - một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương diện thể hiện tính đặc thù trong
nhân cách của mình. Nhân cách sinh viên là trường hợp cụ thể của nhân cách, là hình thức
biểu hiện tính Người ở một tầng lớp xã hội đặc biệt. Có thể hiểu nhân cách sinh viên là
tổng thể những phẩm chất đạo đức và tài năng, thể chất và tinh thần được hình thành một
cách lịch sử - cụ thể, quy định giá trị và những hành vi xã hội của sinh viên, được thể hiện,
thực hiện trong hoạt động học tập, hoạt động giao tiếp, ứng xử, hoạt động xã hội của cá
nhân mỗi sinh viên.
Nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay, ngoài những đặc điểm chung của
nhân cách, thì còn có những biểu hiện riêng về phẩm chất đạo đức và năng lực, như sinh
viên hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế hơn. So với các thế hệ sinh viên trước đổi
mới, sinh viên hiện nay có tính thực tế cao. Chọn ngành học là biểu hiện đầu tiên của tính
thực tế. Họ tập trung nhất vào những ngành học mà ra trường có thể xin việc được ngay vì
xã hội đang cần, những nghề có thu nhập cao, chỉ số ít sinh viên chọn nghề theo mơ ước.
Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức tiếp nhận tri thức để
hoàn thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động trong quá trình tham gia vào hoạt
động xã hội: Làm thêm dưới nhiều hình thức thời gian (nửa ngày, vài ngày trong một tuần,
buổi tối), phong phú về nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc nhà...). Một số sinh viên có
tham vọng trở thành những nhà kinh doanh giỏi đã mở cửa hàng kinh doanh thể hiện tính
chủ động, sáng tạo cao trong công việc của mình.
Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở việc rất nhiều sinh viên tham gia nghiên cứu
khoa học và đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, quốc gia, giải thưởng Tài năng trẻ Việt
Nam hàng năm do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức...
Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác động mạnh mẽ đến quá
trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Sinh viên luôn có ý
thức cao việc khẳng định nhân cách bằng cách trau dồi kiến thức chuyên môn, khẳng định
vị trí của mình trước xã hội. Đồng thời, họ thể hiện rõ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân trong
hành động. Lợi ích chung và sự quan tâm, chia sẻ với những người xung quanh dường như
bị lấn át bởi việc thực hiện những lợi ích riêng, nhu cầu cá nhân ở một bộ phận sinh viên.
lOMoARcPSD|49330558
Trong thời đại hiện nay, mỗi sinh viên hiểu rằng, sống có lý tưởng trước hết phải trân trọng
và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi bằng biết bao mồ hôi và
xương máu của các thế hệ cha ông trong dựng nước và giữ nước. Thứ hai, sinh viên phải
dốc lòng học tập, rèn luyện để góp sức mình thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa
đất nước tiến những bước vững chắc trong quá trình hội nhập, phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hóa. Họ hiểu muốn củng cố và bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc chỉ có một
con đường duy nhất đúng là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng của sinh viên
được biểu hiện rõ nhất ở khát vọng học tập, nghiên cứu, ở sự nỗ lực, chuyên cần, sáng tạo
trong học tập nhằm nắm vững những tri thức vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa
học - công nghệ, nhanh chóng hội nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại.
Bởi vì, trong xu thế phát triển hiện nay, dân tộc nào vươn lên đến đỉnh cao trí tuệ thì dân
tộc đó sẽ chiến thắng. Đúng như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu"
b. Đời sống tinh thần:
Tư duy của sinh viên đã phát triển khá hoàn thiện, phong phú ở các mặt tuy nhiên vẫn cần
trau dồi thêm.
Sinh viên đc tiếp nhận những giá trị đạo đức hiện đại tự gia đình, nhà trường, xã hội.
Sinh viên xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình: Lý tưởng cao cả của sinh
viên Việt Nam hiện nay là giữ vững nền độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Trong đó, đạo đức cộng sản là yếu tố cấu thành quan trọng nên lý tưởng của sinh
viên. Khẳng định điều này vì đạo đức là thành phần đặc biệt trong nhân cách của sinh viên,
cái để phân biệt sự khác nhau giữa nhân cách này với nhân cách khác xuất phát từ điểm gốc
là "đức" trong mỗi con người.
Khi nghiên cứu tính quy luật của sự hình thành nhân cách, nhân cách sinh viên, chúng ta
thấy rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá trình giáo dục và tự
giáo dục, quá trình giao tiếp, quá trình hoạt động thực tiễn bộc lộ những "phẩm chất người"
của mỗi con người..; trong đó, giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục triết học Mác - Lênin
cho sinh viên là một yếu tố hợp thành quan trọng của nền giáo dục đại học nước ta hướng
đến việc xây dựng những thế hệ sinh viên có nhân cách trong sáng, có lập trường tư tưởng
chính trị vững vàng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá trình hội nhập và phát triển đất
nước.
Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động của giáo
dục triết học Mác - Lênin cũng chính là quá trình hình thành ở họ những phẩm chất cần
thiết, thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt xã hội, giúp sinh
viên nâng cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén với thực tiễn, xử lý tốt các tình
huống xảy ra trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có ước mơ để học tập, phấn đấu và cống
hiến. Trong cuộc sống con người không thể sống mà thiếu lý tưởng phấn đấu. Lý tưởng là
sự thôi thúc nội tâm giúp con người hành động để thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của cá
nhân và xã hội. Vì vậy, giáo dục triết học Mác - Lênin nhằm từng bước xây dựng lý tưởng
cách mạng cho sinh viên là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đó cũng chính là giá trị đạo
đức của từng cá nhân sinh viên mang nhân cách, là mục tiêu phấn đấu của mỗi sinh viên.
Đạt đến mục tiêu này, giáo dục triết học Mác - Lênin hoàn toàn khẳng định vai trò quan
trọng và quyết định của mình trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa những biểu hiện về suy thoái
đạo đức, nhân cách của sinh viên trước những tác động tiêu cực của quá trình phát triển
kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay.
lOMoARcPSD|49330558
Câu 2: Vật chất và ý thức?
Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác.
Ý thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái
đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội - lịch sử của con người.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức
không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.
a) Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc
của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người
mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá
trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã
được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng
chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách
quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản
thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người,
hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của
ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của
ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.
Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn
quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
VD:
Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não
người. Nhưng khi bộ não con người bị tổn thương thì hoạt động ý thức cũng bị rối loạn.
Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba về công nghệ thông tin còn
rất yếu. Nguyên nhân là do thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ giảng viên. Nhưng nếu
đáp ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba của
sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất như vậy thì ý thức cũng như
vậy.
Trong ĐỜI SỐNG XÃ HỘI có câu: thực túc, binh cường, có thực mới vực được đạo.
lOMoARcPSD|49330558
b) Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người.
Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực,
con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý
thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó
trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu,
đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện,
v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực,
có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có
năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới
được cải tạo - đó là sự tác động tích cực của ý thức.
Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy
luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy
luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối với
hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết định hành động
của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả
hay không hiệu quả.
VD:
Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 1000 độ C, người ta tạo ra
các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ
công cổ xưa.
Từ nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội VI, đảng ta chuyển nền
kinh tế từ tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, để sau gần 30 năm bộ mặt nước ta
đã thay đổi hẳn.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có thể
thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là điều
kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy
không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức
mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm
nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện
vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
c) Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay:
Thực trạng:
_Trước đổi mới:
lOMoARcPSD|49330558
Kinh tế(vật chất) : Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng suất
lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung
cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu công nghiệp hàng hóa cho xuất khẩu.
Chính trị (ý thức): Chúng ta chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự
trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn diện
về đổi mới. Nhất là về kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong
bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và những sai lầm trong
lĩnh vực phân phối lưu thông.
_Sau đổi mới:
Chính trị: Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý kiến rộng rãi
của cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội lần thứ VI của
Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn, trong đó: phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước
ngoặt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Và đến Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực
hiện đường lối đổi mới: công cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được những thành tựu rất quan
trọng, tình hình chính trị của đất nước ổn định.
Kinh tế: Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nguồn
lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, đời sống vật chất tinh thần của một bộ phận
nhân dân có phần được cải thiện. Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
Đảng chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
Cùng với quá trình vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước thì phát triển giáo
dục và đào tạo khoa học công nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Về
giáo dục đào tạo tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đổi mới nội dung phương pháp và
hệ thống quản lý giáo dục…Về khoa học công nghệ khoa học xã hội và nhân văn hướng vào giải
đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho
việc hoạch định đường lối chủ trương của Đảng …
Tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa la bảo vệ vững chắc độc lập tự
chủ, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp chặt chẽ kinh tế quốc phòng và an ninh và kinh
tế trong các chiến lược. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Vận dụng:
“Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” trong đánh giá tình hình, “Tôn trọng quy luật
khách quan” trong quá trình đổi mới.
+ Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến lược, sách
lược phát triển đất nước.
lOMoARcPSD|49330558
+ Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức, sử dụng những lực lượng vật chất (cá nhân-cộng đồng, kinh
tếquân sự, trong nước-ngoài nước, quá khứ-tương lai…) để phục vụ cho sự nghiệp Đổi mới.
+ Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu
phát triển đất nước.
+ Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh tế, chính trị, tinh thần: cá nhân, tập thể, xã
hội …) thành động lực thúc đẩy Đổi mới.
+ “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Khơi dậy và phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
+Coi sự thống nhất nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học là động lực tinh thần thúc đẩy công
cuộc Đổi mới
+Bồi dưỡng nhiệt tình phẩm chất cách mạng, khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường,
tài trí người Việt Nam…
+Coi trọng và đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng HCM…),
nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH và con đường đi lên CNXH…) +Phổ biến tri thức
khoa học – công nghệ cho cán bộ, nhân dân
Khắc phục chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, đầu óc bảo thủ, trì trệ trong quá trình Đổi mới
+Kiên quyết ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan duy ý chí; lối suy nghĩ, hành động giản đơn; nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng, bất chấp quy luật hiện thực khách quan
+Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ, thói thờ ơ lãnh đạm…
+Phê phán thói vô trách nhiệm hay đổ lỗi cho hoàn cảnh mà lẩn trốn trách nhiệm cá nhân…
Câu 3: 2 nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái niệm:
- Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự
vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
VD: Trồng cây xanh thì con người có không khí sạch để thở.
- Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều
sự vật và hiện tượng của thế giới.
VD: Trong tư duy con người có những mối liên hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới; cây tơ
hồng, cây tầm gửi sống nhờ; nếu chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
2. Các tính chất của mối liên hệ:
lOMoARcPSD|49330558
- Tính khách quan: Các mối liên hệ thể hiện mình trong sự tác động giữa các sự vật, hiện
tượng vật chất với nhau, giữa sự vật, hiện tượng với cái tinh thần, giữa những hiện tượng tinh thần
với nhau, như mối liên hệ và tác động giữa các hình thức của quá trình nhận thức. Các mối liên hệ,
tác động đó đều là sự phản ánh mối liên hệ lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan.
VD: Mối liên hệ cây xanh – cơ thể sống con người, “Oan gia ngõ hẹp”
- Tính phổ biến: Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở
mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt,
các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
VD: gói hút ẩm trong các gói bánh có mối liên hệ với môi trường bên ngoài; hiện tượng hô hấp của
loài ếch trên cạn và dưới nước.
- Tính đa dạng, phong phú: Có rất nhiều kiểu mối liên hệ. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng
của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó
chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ
hình thức, vai trò khác nhau.
VD: Cô A vừa là mẹ trong mối liên hệ gia đình, là giáo viên trong mối liên hệ công việc, là người
cùng câu lạc bộ trong mối liên hệ xã hội,...
3. Ý nghĩa của phương pháp luận:
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải quán triệt quan điểm toàn diện, tức là khi xem
xét các sự vật hiện tượng phải xem xét tất cả mối liên hệ của sự vật hiện tượng đó càng cho chúng
ta sự đánh giá càng chính xác và đầy đủ sự vật hiện tượng chống lại quan điểm siêu hình phiến
diện một chiều.
- Tôn trọng quan điểm lịch sử cụ thể, khi xem xét các sự vật hiện tượng phải đặt nó trong
những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể để có đánh giá đúng về sự vật hiện tượng.
4. Ứng dụng trong thực tế cuộc sống, xã hội Việt Nam:
- Đảng và Nhà nước đã vận dụng quan điểm toàn diện và kết hợp tốt giữa “chính sách dàn đều” và
“chính sách có trọng điểm” của Lênin trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đánh
dấu sự thay đổi tư duy lý luận chính trị của đất nước khi bước vào quá trình đổi mới.
lOMoARcPSD|49330558
5. Một số ví dụ về mối liên hệ phổ biến trong thực tế đời sống con người.
Trong đời sống của chúng ta, tất cả các sự vật đều có những sự liên kết với nhau:
- Sự phát triển của một cơ thể cần rất nhiều yếu tố tuy khác nhau về chức năng nhưng luôn
hỗ trợ, tác động lẫn nhau. Chẳng hạn, sự phát triển của một cơ thể chủ yếu do quá trình đồng hóa
và dị hóa trong cơ thể quyết định, môi trường dù có tốt đến mấy mà khả năng hấp thụ kém thì cơ
thể cũng không phát triển được. Nhưng, cơ thể cũng không tồn tại được nếu không có môi trường.
- Đất nước chúng ta cũng rất khó khăn trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa nếu không có
sự hội nhập với quốc tế, không tận dụng những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học công
nghệ của thế giới.
NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm:
- Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật)
* Theo quan điểm duy tâm và siêu hình:
- Những người theo quan điểm duy tâm, siêu hình đều không thừa nhận sự phát triển của sự vật,
hiện tượng; nếu có thì sự phát triển cũng chỉ là sự tăng hoặc giảm về lượng mà không có sự thay
đổi về chất; phát triển diễn ra theo chu kì và vòng tròn khép kín. Nguyên nhân của sự phát triển là
do các yếu tố bên ngoài quyết định.
* Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống nhất hữu cơ với
nguyên lý về sự phát triển, bởi liên hệ cũng là vận động, không có vận động sẽ không có sự phát
triển nào. Phát triển xuất hiện trong quá trình giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất giữa phủ định những yếu tố không còn phù hợp và kế thừa có chọn
lọc, cải tạo cho phù hợp của sự vật, hiện tượng cũ trong sự vật, hiện tượng mới.
- Phát triển là quá trình vận động theo chiều hướng đi lên, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt mà đặc trưng của nó là cái cũ mất đi, cái mới
ra đời.
- Nguồn gốc của sự phát triển nằm ở mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng; động lực
của sự phát triển là việc giải quyết mâu thuẫn đó.
lOMoARcPSD|49330558
- Nhưng cái chiều hướng đi lên không phải một sớm một chiều mà nhận ra được mà nó đòi
hỏi phải trải qua 1 quá trình biến đổi lớn, lâu dài thì cái xu hướng tiến lên mới thể hiện rõ. - Phát
triển có mối quan hệ biện chứng với vận động; phát triển là trường hợp đặc biệt của vận động. Sự
vật phát triển phải trải qua sự vận động, nhưng không đồng nhất với vận động; vận động đi xuống
thì không phải là sự phát triển.
2. Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan của sự phát triển: Mọi quá trình phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy
đều là những quá trình diễn ra theo tính tất yếu quy luật của nó: những quá trình biến đổi dần về
lượng tất yếu dẫn đến những quá trình biến đổi về chất, quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập
bên trong bản thân sự vật, hiện tượng...
VD: Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy luật
tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận thức
và làm theo quy luật đó. (Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có
con người nhưng nó vẫn phát triển.)
- Tính phổ biến của sự phát triển: Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát
triển không phải là đặc tính riêng có của một lĩnh vực nào đó của thế giới, mà trái lại nó là khuynh
hướng vận động được thể hiện ở tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Trong giới tự nhiên: đó là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ; từ vật chât chưa
có năng lực sự sống đến sự phát sinh các cơ thể sống và tiến hoá dần lên các cơ thể có cơ cấu sự
sống phức tạp hơn – sự tiến hoá của các giống loài làm phát sinh các giống loài thực vật và động
vật mới đến mức có thể làm phát sinh loài người với các hình thức tổ chức xã hội từ đơn giản đến
trình độ tổ chức cao hơn; cùng với quá trình đó cũng là quá trình không ngừng phát triển nhận thức
của con người từ thấp đến cao…
lOMoARcPSD|49330558
- Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu với khí hậu thay đổi họ sẽ khó
chịu nhưng dần họ quen và thích nghi.
- Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội trước, trình độ hiểu
biết của con người ngày càng cao so với trước đây.
- Tính kế thừa của sự phát triển: Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế
thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng
thời cũng đào thải, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ.
VD: Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử với sự phát triển qua từng thời kì. Qua
mỗi thời kì phát triển ta có thể thấy chúng ta vẫn còn lưu giữ và kế thừa những truyền thống tốt
đẹp và vẫn còn giá trị, phù hợp với thời đại ngày nay của cha ông ta ví dụ như tập tục thờ cúng tổ
tiên, uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo, v.v... nhưng đồng thời ta cũng loại bỏ những cái lỗi
thời lạc hậu trong xã hội xa xưa như quan điểm trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến hay
phong tục tảo hôn, các nghi thức man rợ như chém lợn v.v... .
- Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển: Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển
được thể hiện ở chỗ: các lĩnh vực khác nhau, sự vật khác nhau, điều kiện khác nhau,... thì cũng có
sự khác nhau ít hay nhiều về tính chất, con đường, mô thức, phương thức... của sự phát triển.
VD: không thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới tự nhiên với sự phát triển của
xã hội loài người. Sự phát triển của giới tự nhiên thuần tuý tuân theo tính tự phát, còn sự phát triển
của xã hội loài người lại có thể diễn ra một cách tự giác do có sự tham gia của nhân tố ý thức
- Ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em ở thế hệ trước
do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận lợi mà xã hội mang lại.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động; phát hiện được các xu hướng biến đổi, phát triển
của nó để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh
hướng phát triển của nó.
- Nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển có những đặc điểm,
lOMoARcPSD|49330558
tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm ra những hình thức, phương pháp tác động phù hợp để
hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
- Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm, sớm phát hiện và ủng hộ
sự vật, hiện tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; phải chống lại quan điểm bảo
thủ, trì trệ, định kiến v.v bởi nhiều khi sự vật, hiện tượng mới thất bại tạm thời, tạo nên con đường
phát triển quanh co, phức tạp.
- Trong quá trình thay thế sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới phải biết kế
thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
Phát triển là nguyên tắc chung nhất chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn;
nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng, muốn nắm được bản chất của sự vật, hiện
tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì phải xét sự vật trong sự phát triển, trong
sự tự vận động (...) trong sự biến đổi của nó.
4. Câu hỏi nguyên lý về sự phát triển:
Câu hỏi 1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành của nó?
Trả lời: Chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống lý luận khoa học thống nhất của ba bộ
phận cấu thành không thể tách rời là Triết học Mác – Lênin; Kinh tế chính trị học Mác – Lênin và
Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Câu hỏi 2. Tại sao chúng ta gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin?
Trả lời: Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người bảo vệ, bổ sung, phát
triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Lênin hình thành và phát triển trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, xét lại và giáo điều; là sự tiếp tục và là giai đoạn mới trong
lịch sử chủ nghĩa Mác để giải quyết những vấn đề cách mạng vô sản trong giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Câu hỏi 3. Mục đích và yêu cầu của việc học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin?
Trả lời: - Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
cần phải theo phương pháp gắn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn
đất nước và thời đại;
lOMoARcPSD|49330558
- Học tập, nghiên cứu môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin cần phải
hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong học tập, nghiên cứu và
vận dụng các nguyên lý đó trong thực tiễn;
- Học tập, nghiên cứu môn học mỗi nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong mối
quan hệ với các nguyên lý khác; mỗi bộ phận lý luận cấu thành này phải gắn kết với các bộ phận lý
luận cấu thành còn lại để thấy sự thống nhất của các bộ phận đó trong chủ nghĩa MácLênin; đồng
thời cũng nên nhận thức các nguyên lý đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại.
5. Liên hệ thực tiễn:
1) Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong học tập mang ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt với
sinh viên để có thể phát triển và hoàn thiện bản thân.
- Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận cuẩ quan điểm
toàn diện, để từđó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần
phải phân biệt các mối liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản
chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất của sự vật và có
phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản
thân.
- Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định
- Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ
khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã
hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai đòi
hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã
hội.
2) Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay
- Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó
khăn, nhiều thử thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung
của các nước xã hội chủ nghĩa như : bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý
chí … dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng định
“CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng
và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo
lOMoARcPSD|49330558
quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện
Đại hội IX, trang 65).
- Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát
triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như tình hình xây dựng
CNXH ở Việt Nam. Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý
chí là những căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản
trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm
trọng.
- Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê
phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “...
Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai” (trang 124) Việc Đảng ta kiên trì
đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là căn cứ vào quan điểm phát
triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa
cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái
trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các nước
XHCN.
- Vận dụng quan điểm về sự phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy
các sự vật phát triển theo đúng quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của sự vật và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn, phải thấy được sự
phát triển là quá trình khó khăn, phức tạp. Do đó vận dụng quan điểm về sự phát triển vào
thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, trong điều kiện CNXH đã thoái trào và sụp
đổ; chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng chống phá các nước XHCN còn
lại thì quan điểm của Đảng CSVN là kiên quyết chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, bệnh
giáo điều, định kiến và nhận định: Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử
thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người nhất định tiến
tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật phát triển tất yếu của lịch sử
* Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
- Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững kinh tế vĩ mô, đảm bảo an
ninh kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, nâng cao chất
lượng cuộc sống nhân dân, luôn coi trọng và bảo vệ cải thiện môi trường, giữ vững ổn định
lOMoARcPSD|49330558
chính trị xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập để đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền
vững.
- Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc
thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới
và phát triển. Ngoài ra phải mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con
người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Nâng cao năng lực
tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát
huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực
phát triển đất nước.
- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ
ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng
bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý
và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Cuối cùng là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều
thương hiệu mạnh để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước. Trong
hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm
hiệu quả và lợi ích quốc gia.
- Trong quá trình thực hiện đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, qua
mỗi giai đoạn có sự tổng kết đúc rút kinh nghiệm, từ đó đề ra những cơ chế chính sách
ngày càng hoàn thiện.
- Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội
trong từng bước và từng chính sách phát triển như tập trung giải quyết tốt chính sách lao
động, việc làm và thu nhập; Bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao chất lượng chăm sóc sức
khỏe nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đinh, bào vệ và chăm sóc sức khỏe bà
mẹ, trẻ em; Đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông.
3) Nguyên lý về sự phát triển trong đại hội Đảng lần thứ XIII
- Quan diểm phát triển với các yêu cầu cơ bản sau:
lOMoARcPSD|49330558
* Một là, khi xem xét, đánh giá, giải quyết sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái
vận động phát triển đi lên, thấy được xu hướng phát triển trong tương lai của sự vật, để họat động
thực tiễn có hiệu quả. Không được xem xét đánh giá sự vật một cách máy móc, cứng nhắc chỉ thấy
hiện tại mà không thấy tương lai.
- Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã thể hiện một cách sinh động sự vận
dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Đại hội XIII của
Đảng đã tổng kết 35 năm đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991; 10 năm thực
hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm
2011-2020. Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận những
mặt còn hạn chế, những vấn đề cần khắc phục, vượt qua cho giai đoạn 5 năm tiếp theo,
hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm
2045. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước: Lànước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung
bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển,
có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập
cao .
-> Mục tiêu trên của Đảng dựa trên nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa và bổ sung phù hợp
với những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời nghiên cứu, tham khảo
kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển chung của thế giới.
* Hai là, con đường phát triển của sự vật không phải là con đường thẳng tắp, nó quanh co
khúc khuỷu, nhưng nhìn chung theo xu hướng đi lên. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn chúng ta
phải có tinh thần lạc quan, cách mạng, không được bi quan, chán nản trước những khó khăn.
- Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, những nhân tố tác
động đến Việt Nam trong những năm sắp tới, đánh giá 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm
1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, có cả thuận lợi, thời
cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức
tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
lOMoARcPSD|49330558
đã xác định rõ mục tiêu tổng quát trong giai đoạn tới là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng
lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh toàn diện; củng cố tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước,
chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát
huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
* Ba là, trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải ủng hộ, tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến
bộ chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Phải khắc phục, phê phán bệnh bảo thủ, trì trệ, định kiến.
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển
mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc
gia, dân tộc. Để thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện thực hóa khát vọng
phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045, Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng đã xác định: “ Có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với
xu thế của thế giới và điều kiện của đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong giai đoạn mới, thích ứng với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
-> Như vậy, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra rất nhiều điểm mới trong điệu kiện cụ thể
nước ta hiện nay.
4) Vận dụng nguyên lý về sự phát triển trong công tác phòng chống dịch COVID 19 ở Việt Nam
- Công tác chống dịch của nước ta luôn được Đảng, Nhà nước và Chính phủ
quan tâm, chỉ đạo rất mạnh mẽ. Do đó Nhà nước cũng đã đưa ra những chính sách phù hợp,
linh hoạt, mạnh mẽ theo hướng đổi mới, sáng tạo vận dụng theo quan điểm lịch sử - cụ thể
như kim chỉ nam để phù hợp với từng thời điểm diễn ra trên thực tế. Công tác phòng chống
dịch COVID 19 ở nước ta đạt được những kết quả, cũng có những hạn chế trong công tác
này, cụ thể như sau:
* Những kết quả đạt được
- Thứ nhất, Việt Nam đã huy động mọi nguồn lực và cả hệ thống chính trị vào
cuộc. Ngay từ những ngày đầu khi dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát, Việt Nam đã chủ
động huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trên toàn quốc cùng phòng chống dịch.
lOMoARcPSD|49330558
Hàng loạt văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ được ban hành, nhiều phương án, biện
pháp phòng chống được triển khai nhằm nhắc nhở người dân mức độ nguy hại của dịch
bệnh, đồng thời nâng cao nhận thức và sự đồng thuận, thống nhất giữa các cấp ủy Đảng,
chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Các hoạt động phòng chống dịch không chỉ
được thực hiện bởi ngành y tế, mà còn có sự tham gia của lực lượng vũ trang, ngoại giao,
các cơ quan thông tấn, báo chí. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ được
nhân dân ủng hộ, chung tay thực hiện.
- Thứ hai, tạo ra khuôn khổ hành lang pháp lý và thể chế tương đối đầy đủ, rõ
ràng, minh bạch và hiệu quả đối phó với dịch bệnh và nhấn mạnh bảo vệ quyền con người.
Để đối phó với dịch bệnh, Việt Nam đã có khung pháp lý và thể chế tương đối đầy đủ, rõ
ràng, minh bạch và hiệu quả. Về pháp lý, có thể khẳng định, các chỉ đạo, bước đi trong
công tác lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đều dựa trên cơ sở đánh giá thực tiễn và luật
pháp (đơn cử là Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm có hiệu lực từ 1/7/2008.). Trong thời
gian đối phó với đại dịch COVID-19, Nhà nước đã đưa ra nhiều văn bản cấp thiết đối với
tình hình, trong đó có Quyết định số 447/QĐ-TTg công bố dịch bệnh trên cả nước, đồng
thời bắt buộc thực hiện các quy định trong các văn bản, chỉ thị của Thủ tướng như Chỉ thị
16/CT-TTg.
- Thứ ba, Việt Nam có những quyết sách nhanh chóng, kịp thời và quyết liệt.
Căn cứ tình hình thực tế, Chính phủ Việt Nam đưa ra những chỉ thị, nghị định, mang tính
hành động nghiêm khắc, quyết liệt. Ngày 28/1/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân
Phúc đã ký ban hành Chỉ thị số 05/CT-TTg về phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp
cấp do virus SARS-CoV-2 gây ra. Đồng thời, để đẩy lùi những khó khăn về mặt kinh tế -
xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành những chính sách, nghị định về hỗ trợ, đáp ứng
yêu cầu thực tiễn của đời sống nhân dân và phát triển doanh nghiệp; Chính phủ ban hành
Nghị quyết 42/NQ-CP về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch
COVID-19. Đến đợt dịch thứ 4 kể từ tháng 05/2021, do tình hình dịch bệnh tại Việt Nam
chuyển biến có nhiều ca lây nhiễm cộng đồng không kiểm soát được do đó các Chỉ thị 15,
Chỉ thị 16 và Chỉ thị 19 đều là những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp
phòng, chống dịch Covid-19 được ban hành để phù hợp từng địa phương trong những thời
điểm khác nhau. Không chỉ có những quyết sách kịp thời, Việt Nam còn thường xuyên cập
nhật và tuyên truyền cho người dân qua nhiều kênh thông tin.
- Thứ tư, Chính phủ Việt Nam đưa ra những quyết sách tạo sự công bằng.
Trong ứng phó với dịch bệnh, Việt Nam đã có cách tiếp cận công bằng với mọi đối tượng
lOMoARcPSD|49330558
khác nhau trong xã hội, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Các chỉ thị của Đảng và
Chính phủ đều bảo đảm để mọi người dân đều được tiếp cận với các cơ sở, dịch vụ y tế và
vật tư y tế.
-Thứ năm, trong ứng phó với dịch COVID-19, trách nhiệm giải trình được thể hiện qua
trách nhiệm trong nội bộ và trách nhiệm đối với xã hội. Trách nhiệm trong nội bộ được nêu rõ
trong các văn bản chỉ đạo của Ban Bí thư và Chính phủ. Chẳng hạn, chỉ thị 19/CT-TTg của Thủ
tướng nêu rõ: “Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương tiếp tục (...) đề cao kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm của người đứng đầu, thực
hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch”. Theo đó, các cơ quan có trách nhiệm thực hiện
nghiêm túc các chỉ đạo và chịu trách nhiệm trước Chính phủ, giải trình với Chính phủ, Thủ tướng
các vấn đề trong quá trình phòng chống dịch bệnh.
* Những vấn đề còn hạn chế
-Thứ nhất, hành lang pháp lý và thể chế đối phó với dịch bệnh còn cứng nhắc chưa phù hợp
với thực tế. Đặc biệt kể từ đợt dịch thứ 4 bùng phát, tại một số địa phương có những khung pháp lý
khi áp dụng vào thực tế còn cứng nhắc, chưa phù hợp. Điển hình là vấn đề “Giấy đi đường” tại khu
vực TP Hà Nội, theo đó từ những ngày triển khai loại giấy tờ này để kiểm soát người đi lại đã gặp
không ít khó khăn. Tại Công văn số 2562/UBND-KT của UBND TP Hà Nội thì kể từ “0h ngày
23/8/2021, người lao động tại các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh
doanh dịch vụ được phép hoạt động phải xuất trình Giấy đi đường hoặc danh sách kèm theo có xác
nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi đơn vị hoạt động”. Và thời điểm TP Hà Nội đưa ra thông
báo muộn, dẫn đến sáng hôm sau khi ban hành công văn thì ghi nhận tại UBND một số phường, số
lượng người đến “xin xác nhận” khá đông. Gần đây nhất tại TP Hà Nội đề nghị xét cấp giấy đi
đường mẫu mới từ 6/9/2021. Muốn có mẫu giấy đi đường mới cấp cho nhân viên sử dụng từ ngày
6-9, ngay trong ngày chủ nhật hôm nay, các doanh nghiệp sẽ phải "vắt chân lên cổ" triển khai các
bước đề nghị xét duyệt và cấp giấy, mà mỗi bước đều phải qua các cơ quan công quyền.
-Thứ hai, các quyết sách của chính phủ Việt Nam phát huy hiệu lực và đạt hiệu quả chưa
cao. Việc giãn cách xã hội quá nhiều ngày từ khi dịch bùng phát mạnh khiến nhiều người gặp khó
khăn do dịch đã chạy xe máy về quê vì nếu còn tiếp tục ở lại không có thu nhập mưu sinh. Trên
thực tế vẫn còn nhiều trường hợp không chứng minh được dẫn đến “không đủ điều kiện” để được
hưởng trợ cấp do dịch, dẫn đến việc người dân không chấp hành Chỉ thị, chống đối
lOMoARcPSD|49330558
-Thư ba, nguy cơ vỡ chuỗi cung ứng. Kể từ khi đại dịch COVID-19 xuất hiện tại Việt Nam
đến nay, cộng đồng doanh nghiệp vẫn nỗ lực duy trì sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, riêng về mặt
kinh tế, tác động nguy hiểm khác với những lần bùng phát dịch trước là ứng xử của các địa phương
với dịch lần này đã gây ra đổ vỡ chuỗi cung ứng. Làn sóng bùng phát Covid-19 diễn ra tại Bắc
Ninh, Bắc Giang đã khiến nhiều nhà máy hoạt động dưới công suất ở các tỉnh miền Bắc với rất
nhiều nhà cung cấp cho Apple, Samsung và các công ty công nghệ toàn cầu khác. Bốn doanh
nghiệp cho Reuters biết rằng hoạt động của họ đã bị ảnh hưởng do một số khu vực đã bị đóng cửa,
làm dấy lên lo ngại về sự gián đoạn chuỗi cung ứng. Ngoài ra, còn là khó khăn của toàn thể các
doanh nghiệp lớn, nhỏ nếu tiếp tục diễn biến phức tạp sẽ nhiều doanh nghiệp phá sản, mất khả
năng thanh toán,..
* Phương hướng khắc phục
- Một là, trong các hành lang pháp lý như chỉ thị, quyết định và hướng về
phòng, chống dịch COVID-19 của Đảng, Nhà nước ngoài nhanh chóng, kịp thời, quyết liệt
còn cần phải đặt các quy định này trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa trong
các hình thức biểu hiện với không gian và thời gian nhất định.
- Hai là, mọi thông tin liên quan đến dịch COVID-19 và hoạt động phòng,
chống dịch của chính phủ phải được công bố đầy đủ, cập nhật, rõ ràng, dễ truy cập và dễ
hiểu đối với mọi người dân. Mọi người dân đều phải được tiếp cận để có thể nhận thức
được vấn đề nghiêm trọng trong việc phòng chống dịch COVID 19 để có thể tạo được sự
đồng thuận trong xã hội.
- Ba là, các quyết sách của Nhà nước cần đi vào thực tế triển khai. Bổ sung
thêm nguồn ngân sách hỗ trợ các Doanh nghiệp, người dân thất nghiệp do đại dịch COVID
19, cũng như kêu gọi các tỉnh thành chung tay quyên góp hỗ trợ những khu vực còn khó
khăn, và thực tế đến tận tay các hoàn cảnh, không để xảy ra các vấn đề trung gian. Triển
khai các chính sách hỗ trợ tới từng người dân bị ảnh hưởng Covid để người dân sớm ổn
định đời sống trong và sau dịch bệnh. Đồng thời, các tổ chức doanh nghiệp cần có chính
sách hỗ trợ trong thời gian dịch sớm ổn định sản xuất và phát triển kinh tế.
- Bốn là, Nhà nước cần đẩy mạnh việc tiếp cận nguồn vắc xin ngoài nước và
đẩy nhanh quátrình nghiên cứu vắc xin trong nước để chủ động hơn nữa trong công tác đẩy
lùi dịch bệnh.
- Năm là, hài hòa giữ việc chống dịch COVID 19 và tạo một nền kinh tế có
sức chịu đựng và ứng biến linh hoạt, một nền văn hóa nhân văn, một đất nước tươi đẹp, an
| 1/66