Tranh biện môn Hiến pháp - chủ đề Có nên thành lập Tòa án hiến pháp ở Việt Nam không?
Hiến pháp là văn bản đặt nền móng cho một quốc gia hiện đại, giữ vai tròlà đạo luật tối cao trong hệ thống pháp luật. Luật hiến pháp điều chỉnh các mốiquan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa –xã hội, địa vị pháp lí của con người và công dân và đặc biệt là tổ chức, hoạtđộng của Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45764710 BÀI TRANH BIỆN MỤC LỤC A. PHẦN THÔNG TIN
B. PHẦN NỘI DUNG TRANH BIỆN MỞ ĐẦU NỘI DUNG I. Khái quát chung
II. Việc thành lập tòa án Hiến pháp ở Việt Nam 1. Lập luận 1 2. Lập luận 2 3. Lập luận 3 KẾT THÚC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC A. PHẦN THÔNG TIN
Chủ đề tranh biện: Có nên thành lập Tòa án hiến pháp ở Việt Nam không?
Quan điểm bảo vệ: Ủng hộ
Nhóm tranh biện: Nhóm 1. Lớp: 11
Thành viên nhóm/ vai trò: 1. 2. 3. 4. 5. 6.
B. PHẦN NỘI DUNG TRANH BIỆN lOMoAR cPSD| 45764710 MỞ ĐẦU
Hiến pháp là văn bản đặt nền móng cho một quốc gia hiện đại, giữ vai trò
là đạo luật tối cao trong hệ thống pháp luật. Luật hiến pháp điều chỉnh các mối
quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa –
xã hội, địa vị pháp lí của con người và công dân và đặc biệt là tổ chức, hoạt
động của Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên,
song song với quá trình phát triển đó, suốt một thời gian dài và cho đến nay vẫn
còn một số quy định của Hiến pháp chưa thực sự đi vào đời sống. Do thiếu hành
lang pháp lý cụ thể nên không ít quyền hiến định đã không được bảo đảm thực
thi hoặc thực thi một cách rất hạn chế. Bảo hiến ở nước ta không được giao cho
một cơ quan chuyên trách có chức năng cụ thể bảo vệ Hiếp pháp nên dễ dẫn đến
tình trạng “cha chung không ai khóc”, không rõ trách nhiệm. Trên thực tế đã có
một số đạo luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp. Chính vì những lí do đó nên việc
thành lập Tòa án Hiến pháp ở Việt Nam là điều cần thiết để có một trật tự xã hội
ổn định. Và nhóm chúng em chọn đề tài: “Ủng hộ thành lập Tòa án Hiến pháp ở
Việt Nam” để đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ và hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề. NỘI DUNG I. Khái quát chung:
Hiến pháp là hệ thống các quy phạm pháp luật có hiểu lực pháp lý cao nhất
về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ
chức quyền lực nhà nước, địa vị pháp lý của con người và công dân. Hiến pháp
là văn bản pháp lý tối cao, là cơ sở để xây dựng cả một hệ thống pháp luật quốc
gia, quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và bao vệ quyền con người và công dân. [6]
Tòa án là hệ thống cơ quan riêng biệt trong tổ chức bộ máy nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được giao quyền lực nhà nước thực hiện chức
năng xét xử các tranh chấp trong xã hội, hay còn gọi là chức năng thực hiện quyền lOMoAR cPSD| 45764710
tư pháp. Vị trí của Tòa án là hệ thống các cơ quan riêng biệt thực hiện chức năng
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tòa án Hiến pháp hay còn gọi là tòa bảo hiến là cơ quan đặc biệt ở một số
quốc gia phương Tây, do Quốc hội thành lập, có chức năng chủ yếu là xem xét,
bảo vệ các nguyên tắc của Hiếp pháp, kiểm tra tính hợp hiến của các luật hay các
văn bản quản lý như chúng có xung đột với các quyền và quyền tự do mà hiến
pháp thiết lập hay không. Mọi hành vi vi hiến đều bị tòa án hiến pháp bãi bỉ nhằm
bảo vệ sự tối cao của Hiến pháp. Trên thế giới hiện này có một số quốc gia có tòa
bảo hiến độc lập, một số khác thì không có nhưng thay vào đó là phân bổ quyền
tư pháp về hiến pháp cho tòa án tối cao.
Ở mỗi nước Tòa án Hiến pháp được tổ chức dưới những hình thức khác
nhau và thẩm quyền cũng có những điểm đặc thù riêng. Ví dụ:
Ở Indonesia, thẩm quyền của Tòa án Hiến pháp được pháp luật quy định
gồm: Xem xét theo thủ tục tư pháp tính hợp hiến của các đạo luật; Giải quyết
xung đột giữa các cơ quan nhà nước liên quan đến thẩm quyền được Hiến pháp
quy định; Quyết định giải tán các đảng phái chính trị và giải quyết các vấn đề liên
quan đến kết quả bầu cử phổ thông. Ngoài ra, tòa án hiến pháp còn có thẩm quyền
quyết định các vấn đề được đưa ra bởi cơ quan lập pháp Indonesia khi các cơ quan
này cho rằng Tổng thống hoặc phó Tổng thống vi phạm các luật và quy định về
phản bội tổ quốc, tham nhũng, nhận hối lộ, hoặc các hành vi phạm tội nghiêm
trọng khác, xử sự không trung thực hoặc không thể thích hợp với những yêu cầu
của vị trí Tổng thống hoặc phó Tổng thống.
Ở Pháp, Tòa án hiến pháp được gọi là Hội đồng bảo hiến. Có chức năng là
kiểm soát tính hợp hiến của luật, tuy nhiên Hội đồng chỉ xem xét vụ việc khi có
đơn đề nghị của Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Thượng viện, Chủ tịch Hạ viện,
60 thượng nghị sĩ hoặc 60 hạ nghị sĩ. Bên cạnh đó Hội đồng cũng tham gia ý kiến
về các đề nghị sửa đổi Hiến Pháp do Ủy ban Quốc hội chuyển giao; Giải quyết
các tranh chấp liên quan đến việc bầu cử Quốc hội và Tổng thống cũng như các
cuộc trưng cầu dân ý, kiểm tra tính hợp pháp của sự kiêm nhiệm chức vụ củ các lOMoAR cPSD| 45764710
nghị sĩ. Ở Đức thì Tòa án hiến pháp có thêm quyền giải thích hiến pháp khi có
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của liên bang và địa phương.
II. Việc thành lập Tòa án Hiến pháp ở Việt Nam:
1. Lập luận 1: Ban hành ra Hiến pháp thì phải có cơ chế để bảo vệ Hiến pháp
Nếu đã xem Hiến pháp là hình thức pháp lý cao nhất thể hiện chủ quyền
của nhân dân, là nền tảng pháp lý của một quốc gia thì việc hình thành cơ chế để
bảo vệ nó là điều cần thiết. Luật Hiến pháp là tổng thể các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành, điều chỉnh những quan hệ xã hội nền tảng, cơ bản và quan
trọng nhất trong xã hội gắn với việc xác định chế độ chính trị, chính sách cơ bản
trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, quốc phòng
và an ninh, đối ngoại; quyền và nghĩa vụ cơ bản của người dân; tổ chức hoạt động
của bộ máy nhà nước và các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Xét ở góc độ
phạm vi của cơ chế bảo hiến, Hiến pháp hiện hành đã giao cho nhiều cơ quan từ
trung ương đến địa phương có thẩm quyền bảo đảm thực thi Hiến pháp, kiểm tra,
giám sát và xử lý các văn bản pháp luật trái với Hiến pháp. Tuy nhiên, hiệu quả
của cơ chế này chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Biểu hiện rõ nhất là từ trước đến
nay chưa có cơ quan nhà nước nào ở trung ương cũng như địa phương, kể cả
Quốc hội, đưa ra phán quyết với các văn bản pháp luật vi hiến, bởi đây không
phải là chức năng chủ yếu của những cơ quan này. Mặc dù Quốc hội có thể thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước, nhưng thực
tế vẫn không thể giám sát hết hoạt động của đối tượng và chính mình. Với phương
án trao quyền phán quyết về các hành vi vi hiến cho Tòa án Tối cao, thì nhìn
chung sẽ không đạt hiệu quả cao bởi sự quá tải và chất lượng xét xử ở cơ quan
này hiện nay, khi mà chức năng xét xử trong lĩnh vực tư pháp còn chưa được hoàn
thiện thì việc đảm nhận thêm chức năng bảo hiến là không hợp lý.
Để bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp cần phải có cơ chế phán quyết các vi
phạm hiến pháp của các cơ quan quyền lực nhà nước. Tòa án hiến pháp chuyên
trách phán quyết về các vi phạm hiến pháp sẽ đảm bảo tính cân bằng trong quan lOMoAR cPSD| 45764710
hệ quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Vi hiến là hình thức vi phạm khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
một văn bản quy phạm pháp luật thuộc trách nhiệm, quyền hạn của mình đã đặt
ra những quy định trái với những quy định của Hiến pháp hoặc là trái với tinh
thần của Hiến pháp. Dạng vi phạm này trong thời gian qua xảy ra khá phổ biến
và chủ yếu tập trung ở các các văn bản dưới luật. Nguyên nhân phát sinh ra những
vi phạm chủ yếu do các cơ quan này hầu hết là các cơ quan thực hiện chức năng
quản lý, nên khi đưa ra các quy định để thực hiện việc quản lý thì luôn đưa ra
những quy định tạo nhiều thuận lợi cho công việc của mình mà vô hình chung đã
đẩy những bất lợi về phía người dân và vì thế mà đồng thời vi phạm các quyền
của người dân được Hiến pháp quy định. Hoặc các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ
đã không ban hành những văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa việc thực
hiện các quy định của Hiến pháp hoặc không ban hành những văn bản quy phạm
pháp luật mà theo quy định là phải ban hành. Ví dụ:
Điều 7 Hiến pháp 1992 thì cử tri có quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc
hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân khi đại biểu đó không còn xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân [4]. Nhưng nếu chỉ căn cứ vào quy định
trên thì cử tri không thể thực hiện được quyền bãi nhiệm các đại biểu dân
cử của mình, mà nhất thiết phải có một văn bản quy phạm pháp luật quy
định một cách cụ thể và chi tiết hơn. Và đến thời điểm hiện nay, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa ban hành bất kỳ văn bản nào quy
định về vấn đề này.
Điều 70 Hiến pháp 1992 quy định công dân có quyền tự do biểu
tình theo quy định của pháp luật [4]. Theo nội dung điều luật này thì công dân có
quyền tự do biểu tình và muốn biểu tình thì phải tuân thủ theo các quy định của
pháp luật. Và muốn người dân tuân thủ các quy định của pháp luật thì phải có
pháp luật để người dân tuân theo. Nhưng đến thời điểm hiện nay chúng ta chưa
có bất kỳ văn bản nào quy định chi tiết về việc tự do biểu tình của người dân. Do
đó, quyền biểu tình của người dân không thể thực hiện được trên thực tế. Như lOMoAR cPSD| 45764710
vậy, chứng tỏ các cơ quan nhà nước có trách nhiệm đã không ban hành một văn
bản quy phạm pháp luật thì cũng đồng nghĩa với việc vi phạm Hiến pháp.
Việc bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền thực hiện dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, đùn đẩy trách
nhiệm, làm cho hoạt động bảo vệ Hiến pháp chưa mang lại kết quả tối đa, vì vậy
việc thành lập Tòa án Hiến pháp sẽ là một thiết chế bảo vệ nhân dân, tránh sự cẩu
thả và suy diễn, cũng như thói quen làm việc mà không cần nghĩ đến luật của các cơ quan nhà nước.
2. Lập luận 2: Thành lập Tòa án Hiến pháp có ý nghĩa vai trò quan trọng
trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền của Việt Nam hiện nay
Khi Đảng đã đặt mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp quyền nghĩa là đã
định hướng mọi tổ chức đều phải tuân theo pháp luật. Từ sự phán quyết của
Tòa án Hiến pháp dựa trên cơ sở hiến pháp sẽ là tiền đề cho một nhà nước pháp
quyền mới được xây dựng. Bởi nếu chỉ có công dân tuân theo pháp luật thôi
chưa đủ. Xét về bản chất thì nhà nước không thể tự cải cách chính mình, giống
một người ốm không thể tự chẩn đoán bệnh và điều trị cho bản thân mà phải có
sự giám sát, kiểm tra. Xoay quanh vấn đề đó thì có rất nhiều công việc phải làm
như phát huy quyền giám sát của người dân, tăng cường vai trò của các hiệp
hội, nhưng liên quan đến các cơ quan chức năng có quyền lực thì cần phải có
quyền phán quyết dựa trên Hiến pháp.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền lực
thuộc về nhân dân; tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, đảm
bảo cho Hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan
hệ xã hội và trở thành công lý của thời đại; luôn được vận hành theo nguyên tắc
quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện lập pháp, hành pháp, tư pháp; luôn tôn trọng và
bảo đảm quyền con người quyền công dân. Trong một đất nước mà dân chủ
được coi là mục tiêu thì các cơ quan quyền lực đều phải bị giám sát, như Chính
phủ được giám sát bởi Quốc Hội. Nhưng cơ quan, chủ thể nào giám sát Quốc
hội? Câu trả lời là chưa có, và nếu có, thì Tòa án hiến pháp sẽ làm điều đó. Khi lOMoAR cPSD| 45764710
tòa án hiến pháp được thành lập, để tránh ảnh hưởng đến những phán quyết của
nó thì các thành viên của tòa này nên do Quốc hội bầu, họ sẽ đảm nhiệm vị trí
đó đến hết đời và cơ quan này có chức năng độc lập, không ai có quyền tước
quyền của họ như cách làm của hầu hết các nước khác trên thế giới. Về công
việc, tòa này sẽ có quyền xem xét, phán quyết, tuyên vô hiệu tất cả văn bản vi
phạm hiến pháp, kể cả của Quốc hội. Điều này sẽ giúp hoàn thiện vòng tròn
giám sát, đưa pháp luật lên vị trí tối thượng, tạo một nhà nước pháp quyền,
không có bất cứ cá nhân, tổ chức nào đứng trên pháp luật.
Ví dụ: Ủy ban Pháp luật có chức năng, nhiệm vụ bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp của các văn bản luật. Tức là khi trình luật ra trước Quốc
hội thì phải hỏi ý kiến của Ủy ban Pháp luật về tính hợp hiến, hợp pháp
của văn bản. Nếu bây giờ có cơ quan bảo hiến, Quốc hội khi làm luật phải
hỏi ý kiến cơ quan này.
Nhìn chung người Việt Nam chưa quen tuân thủ pháp luật một cách triệt
để, chưa quen có một tổ chức độc lập. Bộ máy nhà nước của chúng ta vẫn đang
ở dạng nhân trị chứ chưa phải pháp trị. Như cán bộ địa phương thì vẫn rất ngại
đụng đến quyết định của lãnh đạo địa phương mình, dù biết ý kiến chỉ đạo của
vị ấy sai luật. Ở nước ta hiện nay chưa có một cơ quan độc lập và chuyên trách
để thực hiện chức năng bảo vệ tính tối thượng của Hiến pháp. Mà chức năng
bảo hiến này hiện được thực hiện thông qua chức năng giám sát tối cao của
Quốc hội và nó được lồng ghép vào với nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan
khác nhau. Trong tiến trình xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, cùng với yêu cầu hội nhập sâu rộng về nhiều mặt trong các quan hệ quốc
tế, thì việc chúng ta có được một cơ quan bảo hiến độc lập và chuyên trách để
đảm bảo những quy định của Hiến pháp luôn được tôn trọng và thực thi là vô
cùng cấp bách. Nhiều người có thể cho rằng đặc thù ở nước ta chưa phù hợp cho
Tòa án hiến pháp. Nhưng nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã định hướng rất rõ, giờ đến lúc phải hành động chứ không thể tiếp tục trì hoãn.
3. Lập luận 3: Sự cần thiết thành lập Tòa án Hiến pháp: lOMoAR cPSD| 45764710
Thứ nhất, Tòa án Hiến pháp có tính chuyên nghiệp cao thể hiện rõ nét
trong việc thực hiện chức năng chuyên môn và chức năng tài phán. Dựa trên sự
hiểu biết sâu rộng về các nguyên tắc và quy phạm hiến định, cơ quan này tiến
hành các hoạt động kiểm tra, giám sát trong phạm vi thẩm quyền được giao để
thẩm định, đánh giá tính hợp hiến và mức độ vi hiến của các văn bản quy phạm
pháp luật, các quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm
quyền. Từ đó đưa ra ý kiến, quyết định, kiến nghị với cơ quan và cá nhân có
thẩm quyền để có biện pháp giải quyết theo đúng quy định của hiến pháp. Bên
cạnh đó, Tòa án hiến pháp sẽ xem xét và đưa ra các phán quyết có tính bắt buộc
phải thực hiện đối với các cơ quan và cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, tài phán
bảo hiến khác với tài phán tư pháp và tài phán hành chính cả về tính chất, nội
dung, thủ tục và giá trị của các phán quyết. Ngoài ra, tính chuyên nghiệp cũng là
yếu tố cần thiết để Tòa án hiến pháp thực hiện các hoạt động có tính chế ước,
điều hoà các quan hệ quyền lực và chính trị.
Thứ hai, về tính chất, Tòa án hiến pháp có chức năng và thẩm quyền
riêng, không giống với các cơ quan thuộc ba hệ thống lập pháp, hành pháp và tư
pháp, mà là một thiết chế có tính độc lập cao, có thể xem là một thiết chế quyền
lực bổ sung nhằm bảo đảm cho quyền lập hiến. Về mặt lí thuyết, quyền lập hiến
là quyền gốc, đứng ở vị trí cao hơn quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chủ
thể của quyền lập hiến thuộc về nhân dân. Vì vậy, mặc dù trong các quốc gia
hiện đại, quyền lập hiến thường được giao cho quốc hội nhưng nguyên tắc trưng
cầu dân ý về những vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là vấn đề thay đổi các
nguyên tắc và quy định của hiến pháp luôn giữ vai trò trọng yếu và được ghi
nhận trong hiến pháp (Ví dụ điển hình nhất ở Anh).
Cơ chế bảo hiến của nước ta còn nhiều khiếm khuyết và hiệu quả hoạt
động còn rất thấp: Cơ sở pháp lí còn chưa đầy đủ; Cơ cấu tổ chức còn chưa rõ
ràng, phân tán, còn thiếu những yếu tố thiết yếu và việc xác định chức năng,
nhiệm vụ còn chưa phù hợp; Nội dung của các hoạt động bảo hiến còn hạn hẹp,
chưa toàn diện; Trình tự, thủ tục, phương thức hoạt động bảo hiến còn chưa rõ
ràng, đầy đủ và cụ thể. Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của lOMoAR cPSD| 45764710
dân, do dân, vì dân và chủ động hội nhập quốc tế, nhu cầu thành lập Tòa án
Hiến pháp là rất cần thiết. KẾT THÚC
Qua đó, chúng ta thấy được sự tồn tại của Hiến pháp cùng với cơ chế bảo
hiến có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp
luật. Tòa án Hiến pháp có vai trò quan trọng là thế, tuy nhiên ở Việt Nam thì
nhận thức của người dân về Hiến pháp còn chưa cao, vẫn chưa hiểu tường tận
vai trò của Hiến pháp cũng như cơ chế bảo hiến trong cuộc sống. Vì vậy mà
Đảng và Nhà nước ta cần đưa ra những gỉải pháp, phương thức giải quyết giúp
cho người dân có thể tiếp cận với Hiến pháp một cách tốt hơn.
Trong một xã hội hiện đại, mỗi Quốc gia đều chuyển mình phát triển, tiến
bộ hơn, nhưng cũng vì thế mà tồn tại không ít những tiêu cực đi kèm theo nó. Vì
vậy, với tư cách là những người làm chủ đất nước- nhân dân nên có một công cụ
hữu hiệu để có thể ngăn chặn, kiềm chế những tiêu cực đó. Và Tòa án Hiến pháp
chính là công cụ giúp cho đất nước, xã hội ngày càng tiến bộ, trật tự, văn minh hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản quy phạm pháp luật:
1. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946.
2. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm năm 1959.
3. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980.
4. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
5. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. II.
Giáo trình, sách tham khảo, đề tài khoa học, tạp chí, luận văn, luận án, internet:
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình “Luật Hiến pháp Việt Nam”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2019. lOMoAR cPSD| 45764710
7. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình “Lí luận chung về nhà nước và
pháp luật”, Nxb. Công an nhân dân, Hà nội, 2018.
8. Trường Đại học Luật Hà Nội, giáo trình “Luật so sánh”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018.
9. Nguyễn Đăng Dung, “ Hiến pháp - văn bản đảm bảo quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”, Tạp chí Luật học số 03/2012.
10. Vũ Hồng Anh, “Các mô hình bảo vệ hiến pháp trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho việc xây dựng mô hình bảo vệ Hiến pháp của Việt Nam”.