Trên cơ sở lý luận phương pháp luận duy vật biện chứng , anh chị luận chứng câu nói sau của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng “Văn hóa còn thì dân tộc còn .Văn hóa mất thì dân tộc mất” | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Trong cuộc đời và sự nghiệp lãnh đạo của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một dấu ấn đặc biệt về quan điểm về văn hóa và dân tộc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN
MÔN HỌC : TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
TRÊN CƠ SỞ LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT BIỆN
CHỨNG , ANH CHỊ LUẬN CHỨNG CÂU NÓI SAU CỦA TỔNG BÍ THƯ
NGUYỄN PHÚ TRỌNG “VĂN HÓA CÒN THÌ DÂN TỘC CÒN .VĂN
HÓA MẤT THÌ DÂN TỘC MẤT”
GVHD : TRẦN TUẤN PHÁT MÃ LHP: 231LLCT130105
Tp. Hồ Chí Minh, năm 2023
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN : TRÊN CƠ SỞ LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT
BIỆN CHỨNG , ANH CHỊ LUẬN CHỨNG CÂU NÓI SAU CỦA TỔNG BÍ THƯ
NGUYỄN PHÚ TRỌNG “VĂN HÓA CÒN THÌ DÂN TỘC CÒN .VĂN HÓA MẤT THÌ DÂN TỘC MẤT” HỌ TÊN - MSSV THỨ TỰ NHIỆM VỤ KÝ TÊN ĐIỂM SỐ Hoàn thành 1 Trần Huy Khánh-23146227 Viết chương 1 tốt Hoàn thành 2 Nguyễn Linh Kha-23146267 Viết chương 2 tốt Hoàn thành 3 Nguyễn Gia Khánh-23146275 Viết chương 2 tốt
Nhận xét của giáo viên
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………… KÝ TÊN 2 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................5
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT BIỆN
CHỨNG.............................................................................................................5
1. Khái niệm duy vật biện chứng..................................................................5
2. Khái quát nguyên lý phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
.......................................................................................................................7
2.1. Nguyên tắc khách quan......................................................................7
2.2. Nguyên lý toàn diện, quá trình phát triển và lịch sử..........................8
2.2.1 Nguyên tắc toàn diện....................................................................8
2.2.2 Về nguyên tắc phát triển...............................................................9
2.2.3 Về nguyên tắc lịch sử...................................................................9
CHƯƠNG II: LUẬN CHỨNG CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ
TRỌNG:”VĂN HÓA CÒN THÌ DÂN TỘC CÒN .VĂN HÓA MẤT THÌ DÂN
TỘC MẤT”.........................................................................................................11
1. Quan Điểm Phương Pháp Luận Duy Vật Biện Chứng Trong Nghiên Cứu
Văn Hóa.......................................................................................................11
2. Phân tích quan điểm của tống bí thư Nguyễn Phú Trọng qua phương
pháp luận duy vật biện chứng......................................................................13
KẾT LUẬN.........................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................19 3 4 PHẦN MỞ ĐẦU
Trong cuộc đời và sự nghiệp lãnh đạo của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã để lại một dấu ấn đặc biệt về quan điểm về văn hóa và dân tộc. Câu nói
nổi tiếng "Văn hóa còn thì dân tộc còn. Văn hóa mất thì dân tộc mất" không chỉ
là một câu ngôn từ đơn thuần, mà là một khẳng định sâu sắc về tầm quan trọng
của văn hóa trong việc bảo tồn và phát triển của một cộng đồng dân tộc.
Chúng ta được đưa vào thế giới tư duy của triết học Mác - Lênin và phương
pháp luận duy vật biện chứng, nơi mà văn hóa không chỉ là những di sản văn
hóa, mà còn là chất xúc tác quan trọng cho sự hiểu biết và tồn tại của dân tộc.
Trong bối cảnh này, tiểu luận này sẽ khám phá chi tiết hơn về lý luận phương
pháp luận duy vật biện chứng và làm rõ hơn về quan điểm của Tổng Bí thư về
mối quan hệ tương quan giữa văn hóa và sự tồn vong của dân tộc.
Chúng ta sẽ cùng nhau đắm chìm vào triết lý, tìm hiểu về cách mà văn hóa
không chỉ là một biểu hiện bề ngoài mà còn là nền tảng cơ bản của sự đoàn kết
và bền vững dân tộc. Hãy cùng bắt đầu hành trình này để khám phá sâu hơn về
những ý nghĩa triết học mà câu nói của Tổng Bí thư mang lại và nhìn nhận về
tầm quan trọng của văn hóa trong việc giữ vững bản sắc của mỗi dân tộc. 5 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP LUẬN DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Khái niệm duy vật biện chứng
Mác đã kế thừa những tư tưởng về phương pháp biện chứng
của Georg Wilhelm Friedrich Hegel và học thuyết duy vật của
Ludwig Andreas von Feuerbach và phát triển/ phương pháp luận
này. Các nhà triết học Mác - Lênin coi phương pháp duy vật biện
chứng là cơ sở triết học của hệ tư tưởng của mình./
/Triết học Mác là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa
Mác, là trái tim của thế giới quan, phương pháp luận của hệ tư
tưởng/ giai cấp công nhân, là công cụ nhận thức đắc lực để giai
cấp công nhân nhận thức, hiểu rõ việc cải tạo thế giới, xóa bỏ
áp bức, khai thác. và sự bất công; giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn/ là xã hội
xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những đóng góp
to lớn của C. Mác trong lĩnh vực triết học/ là tạo ra sự thống
nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng; sáng tạo ra
chủ nghĩa duy vật lịch sử; làm cho triết học trở thành thế giới
quan, là phương pháp luận khoa học và cách mạng để giải
phóng giai cấp công/ nhân và những người lao động trên toàn
thế giới./ Trong lịch sử triết học duy vật trước C. Mác chứa đựng
nhiều cốt lõi duy lý. Nhưng do/ hạn chế của điều kiện lịch sử - xã
hội và trình độ phát triển của khoa học, nên tính siêu hình, tính
duy vật về tự nhiên và tính duy tâm về xã hội là nhược điểm lớn
nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mac. Trong khi đó, phép biện
chứng lại bị nhốt trong cái vỏ duy tâm thần bí của triết học cổ
điển Đức, cụ thể là hệ thống/ duy tâm bảo thủ, phản động của 6
G.V.Ph.Hegel. Để xây dựng một thế giới quan và một phương
pháp luận triết học thực sự khoa học và cách mạng, đem lại cho
loài người một công cụ nhận thức đắc lực, C.Mác đã/ cải tạo chủ
nghĩa duy vật của L. Feuerbach, phép biện chứng duy tâm của
Hegel. Công lao của C.Mác trong việc cải tạo chủ nghĩa duy vật
đã được V.I.Lênin/ khẳng định: “Trong khi nghiên cứu/ và phát
triển sâu sắc chủ nghĩa duy vật triết học, C.Mác đã đưa học
thuyết này đến mức hoàn thiện và mở rộng học thuyết này từ/
nhận thức thế giới tự nhiên sang nhận thức con người. xã hội".
Phép biện chứng là một đóng góp quan trọng và không thể phủ
nhận của C. Mác. C. Mác đã chủ tâm nghiên cứu phép biện
chứng ngay từ khi còn nhỏ. Trong khi thừa nhận những cốt lõi
duy lý, C.Mác nhấn mạnh thế giới quan duy tâm và đảo ngược,
bản chất bảo thủ, phản động và sự bất lực trước những vấn đề
lịch sử - xã hội/ trong phép biện chứng của G.V. Ph.Hegel. C.
Mác đặt ra yêu cầu phải vận dụng phép biện chứng duy vật để
phân tích các vấn đề lịch sử xã hội. Theo đó, phép biện chứng
duy vật của C. Mác khác/ với phép biện chứng duy tâm của G.V.
Ph.Hegel. Như C. Mác đã nói: “Phương pháp biện chứng của tôi
không những khác cơ bản với phương pháp của Hegel, mà còn
phản đối mạnh mẽ phương pháp đó. Tạo ra sự thống nhất giữa
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là cống hiến vĩ đại chưa
từng có của C.Mác/ trong lịch sử triết học. C. Mác đã mang đến
cho nhân loại vũ khí tối tân là lý luận sắc bén, công cụ nhận thức tuyệt vời./
/Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới
quan khoa học; là khoa học về những quy luật/ vận động và
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học
Mác-Lênin là triết học duy vật, vì triết học này coi ý thức là 7
thuộc tính/ của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não con
người, nhiệm vụ của bộ não con người là phản ánh giới tự nhiên.
Phản ánh có tính biện chứng, vì thông qua nó/ con người nhận
thức được những mối liên hệ qua lại chung nhất giữa các sự vật,
hiện tượng trong thế giới vật chất; đồng thời nhận thức được
rằng sự vận động và phát triển của thế giới là kết quả của
những mâu thuẫn/ tồn tại/ trong thế giới đó đang vận động./
/Chủ nghĩa duy vật biện chứng - đây là hình thức cao nhất/
của chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng
là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng./
//Đặc điểm của phương pháp duy vật biện chứng là xem xét
một sự vật, hiện tượng ở trạng thái luôn biến đổi và xem xét sự
vật, hiện tượng đó trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác./
2. Khái quát nguyên lý phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng
Phương pháp luận duy vật biện chứng được coi là những
nguyên tắc khởi đầu định hướng cho các chủ thể xác định
phạm vi, phương pháp, cách thức và phương tiện tác động
nhằm tạo ra sự biến đổi phù hợp, hiệu quả. Việc vận dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng để quán triệt và quản lý
mối quan hệ lớn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay góp
phần định hướng phát triển đất nước theo hướng bền vững.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã tạo ra bước ngoặt trong
triết học, một trong những biểu hiện nổi bật của cuộc cách
mạng này là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện 8
chứng. Phép biện chứng duy vật trở thành cơ sở của thế giới
quan và phương pháp luận khoa học, vì nó là hệ thống lý luận
phản ánh các mối liên hệ và quá trình biến đổi của bản thân thế
giới hiện thực, trên cơ sở các kết quả khoa học đã được đúc kết,
kết hợp với sự tổng kết, khái quát của nhân loại. các hoạt động.
Phương pháp luận của phép biện chứng là những kết luận rút ra
từ việc khảo sát những mối liên hệ của sự vật, quá trình xuất
hiện và phát triển cụ thể của chúng, “những mặt liên hệ, liên
hệ, vận động, sinh, diệt của sự vật”. Vì vậy, phương pháp luận
duy vật biện chứng được coi là những nguyên tắc khởi đầu định
hướng cho các chủ thể xác định phạm vi, phương pháp, con
đường, phương tiện tác động nhằm tạo ra sự thay đổi phù hợp, hiệu quả.
2.1. Nguyên tắc khách quan
Với nguyên tắc này, nhận thức về sự vật phải xuất phát từ
bản thân đối tượng, với những thuộc tính vốn có và những mối
liên hệ bên trong của nó.
Vì vậy, ý thức phải đạt đến bản chất, quy luật chi phối sự
vật. Đó là một quá trình khó khăn và phải trải qua nhiều giai
đoạn, bởi vì bản chất biểu hiện qua vô số hiện tượng phong phú,
đa dạng, phức tạp, luôn vận động và biến đổi.
Thông qua thực hành, thông qua thực tiễn, kết quả của
hoạt động thực tiễn giúp ta đánh giá được những tri thức này có
khách quan, đúng đắn hay không. V.I.Lê-nin đã viết: “Quan điểm
về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm đầu tiên và cơ bản
của nhận thức lý luận”.
Vì vậy, trong nhận thức cần tránh thái độ thụ động, chủ
quan, bảo thủ, trì trệ, thiếu sáng tạo mà phải chủ động, tích 9
cực, thông qua hoạt động thực tiễn của con người để nhận diện
đúng các thuộc tính của bản chất, các cấp độ của bản chất, các
hệ thống quy luật. . cai quản mọi thứ.
=> Như vậy, nguyên tắc khách quan là điều kiện cần thiết
cho mọi tri thức khoa học. Nếu nhận thức và phương thức hoạt
động của chủ thể không tuân theo quy luật khách quan, nếu
hoạt động thực tiễn không tuân theo quy luật khách quan thì
chúng ta sẽ phải gánh chịu những kết quả không mong muốn.
2.2. Nguyên lý toàn diện, quá trình phát triển và lịch sử
2.2.1 Nguyên tắc toàn diện
Theo V.I.Lê-nin đã viết rằng: “Muốn hiểu thật sự sự vật
phải nhìn cho rộng, phải nghiên cứu mọi mặt, mọi mối liên hệ
và những “mối quan hệ gián tiếp” của sự vật. mắc sai lầm,
thiếu linh hoạt Những chỉ dẫn trên đây của V.I.Lê-nin nhắc nhở
mọi người trong nhận thức, để biết được tính đúng đắn của sự
vật, phải xem xét sự vật trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ
phận, các yếu tố và các thuộc tính khác nhau của nó; phải xem
xét sự vật, điều này hiện tượng trong mối liên hệ với các sự vật
khác, còn hiện tượng kể cả khâu trung gian của nó thì phải xem
xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn để thấy được vị
trí, vai trò của nó trong mối quan hệ giữa các mặt trong một sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nhờ
đó, xác định được những mối quan hệ chủ yếu cần giải quyết
trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nguyên tắc toàn diện này
cũng chỉ ra rằng một lập luận đúng trong mối quan hệ này hóa
ra lại sai trong mối quan hệ khác, điều kiện này có thể không
phù hợp hoặc có hại trong mối quan hệ khác. 10
2.2.2 Về nguyên tắc phát triển
Phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng, mối liên hệ là quá
trình tác động qua lại - cái hợp thành “nguyên nhân cuối cùng
của mọi sự vận động và biến đổi của sự vật”. Vì vậy, mối liên hệ
phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng là nguyên nhân vận động
của chúng. Cũng chính vì mối liên hệ phổ biến mà trong thế giới
khách quan luôn có xu hướng phát triển không ngừng. Vật chất
không vận động để diệt vong mà tạo ra sự biến đổi (biến đổi)
theo nhiều hướng khác nhau, trong đó có xu hướng vận động
theo hướng đi lên, từ dưới lên trên, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn (gọi là sự phát triển).
Chủ thể phải biết và chuẩn bị những điều kiện cần thiết,
phương pháp tác động thích hợp để có được những thay đổi về
chiều hướng phát triển. Đó là một quá trình phức tạp, bởi vì sự
biến đổi phương hướng phát triển của hiện thực là một quá trình
vận động có quy luật nội tại, diễn ra ở đó, là quá trình phủ định
biện chứng, phủ định có kế hoạch, có kế hoạch.
2.2.3 Về nguyên tắc lịch sử
Xem xét hiện tượng xã hội, V.I.Lê-nin nhấn mạnh cần “xem
xét vấn đề trên quan điểm sau: một hiện tượng nhất định xuất
hiện trong lịch sử như thế nào, đã trải qua những giai đoạn
phát triển chủ yếu nào và đang ở đâu” . Từ quan điểm của sự
phát triển này để xem làm thế nào nó đã trở thành bây giờ? “.
Phép biện chứng duy vật không chỉ là một học thuyết khoa
học cho phép phản ánh chính xác các sự vật, hiện tượng mà còn
là công cụ sắc bén để mổ xẻ, phân tích các vấn đề xã hội và
tìm ra những giải pháp thích hợp trong từng giai đoạn phát triển
cụ thể của lịch sử. Chính nhờ công cụ mũi nhọn này mà chủ 11
nghĩa Mác đã phát hiện ra các quy luật vận động của xã hội,
thấy xã hội là một cơ thể sống, luôn vận động, biến đổi do các
mối quan hệ bên trong của nó; thấy được vai trò quyết định của
điều kiện vật chất và cơ sở kinh tế, mà còn thấy được vai trò to
lớn của kiến trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng, văn hóa...
Điều này đã vượt ra ngoài quan điểm duy tâm, siêu hình, biện
chứng của tư tưởng trước đây. Tóm lại, điều đó cho thấy các
nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật là
nguyên tắc cơ bản để nhận thức các mối quan hệ lớn ở nước ta hiện nay. 12
CHƯƠNG II: LUẬN CHỨNG CỦA TỔNG BÍ THƯ
NGUYỄN PHÚ TRỌNG:”VĂN HÓA CÒN THÌ DÂN
TỘC CÒN .VĂN HÓA MẤT THÌ DÂN TỘC MẤT”
1. Quan Điểm Phương Pháp Luận Duy Vật Biện Chứng
Trong Nghiên Cứu Văn Hóa
Về phương pháp luận đã có là những phương pháp luận đã
được các nhà tư tưởng, các học thuyết, các quan điểm có uy
tín… đề xướng và hoàn thiện ở mức độ nhất định. Việc nghiên
cứu và phát triển văn hóa ở nước ta trong khoảng hai chục năm
gần đây đã sử dụng hai loại phương pháp luận chủ yếu: phương
pháp luận coi văn hóa là sản phẩm của hoạt động và phương
pháp luận coi văn hóa là nhân tố bên trong của sự phát triển xã
hội. (Thực ra, khi nói văn hóa là sản phẩm của hoạt động hay
văn hóa là nhân tố bên trong của sự phát triển xã hội, người ta
có thể hiểu ở hai trình độ: trình độ thế giới quan và trình độ
phương pháp luận. Ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến trình độ thứ
hai). Mặc dù hai loại phương pháp luận này có những điểm
không tương dung với nhau, thậm chí trái ngược nhau, nhưng
trên thực tế, chúng đã cùng tồn tại bên cạnh nhau trong đời
sống hoạt động khoa học ở nước ta.
Trước đó, văn hóa được nghiên cứu chủ yếu theo thế giới
quan và phương pháp luận mácxít. Mà lý luận mácxít, như ta đã
biết, rất ít bàn đến văn hoá. (Trong các tác phẩm kinh điển, chỉ
có vài lần C.Mác và Ph.Ăngghen trực tiếp nhắc đến thuật ngữ
văn hóa. Điều này cũng dễ hiểu, bởi ở thời các ông, văn hóa học
chưa xuất hiện, còn khái niệm văn hóa thì vẫn chưa hoàn toàn
tách khỏi văn minh và thuật ngữ culture đôi khi vẫn được hiểu là 13
trồng trọt, gieo trồng. Khi đó, văn hóa chưa phải là đối tượng
cấp thiết phải bàn luận như sau này. Hơn thế nữa, các nhà kinh
điển mácxít không đặt cho mình nhiệm vụ lý luận về văn hóa).
Do vậy, văn hóa, khi được các nhà lý luận mácxít hậu thế quan
tâm (chủ yếu là các nhà nghiên cứu Xô viết, khoảng từ cuối
những năm 60 của thế kỷ XX) thì trên thực tế, nó chỉ còn được
xem là một dạng của hoạt động người và phần lớn những thành
tố của văn hóa được nghiên cứu là thuộc về cấu trúc của ý thức
xã hội, nghĩa là được quy định bởi sự tồn tại xã hội. Nên lưu ý
rằng, văn hóa trong lý luận mácxít chủ yếu được nghiên cứu và
triển khai theo cách tiếp cận hoạt động. Cách tiếp cận này chủ
trương gắn toàn bộ đời sống phức tạp của con người với hoạt
động, giải thích xã hội theo quan điểm duy vật lịch sử - nghĩa là,
nói một cách giản đơn, mọi sự biến xã hội, xét đến cùng, là từ
nguyên nhân thuộc về đời sống vật chất xã hội và nền sản xuất
xã hội. Sản xuất vật chất là cơ sở, là nền tảng của toàn bộ đời
sống xã hội - nguyên lý đầu tiên và quan trọng này của chủ
nghĩa duy vật lịch sử hiện vẫn được ghi rõ trong hầu hết các
sách giáo khoa mácxít về triết học. Như vậy, có thể thấy, văn
hóa như cách hiểu hiện nay, trước những năm 90 không được sử
dụng ở Việt Nam. Dĩ nhiên, tiếp cận hoạt động và quan điểm
duy vật lịch sử trong nghiên cứu văn hóa là rất cơ bản, có thế
mạnh của nó vì ngày nay, nó vẫn được không ít học giả đề cao.
Nhưng đó không phải là tất cả.
Bên cạnh đó, từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, khi
tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm về văn hóa của
phương Tây, đặc biệt là khi tham gia Thập kỷ quốc tế về văn
hóa trong phát triển (1987 - 1996) do UNESCO phát động, ở Việt
Nam, một quan điểm mới với phương pháp luận mới về vai trò 14
của văn hóa và nhân tố văn hóa đã được ứng dụng. Không bao
lâu sau, trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta
đã ghi rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Trên thực tế, quan điểm coi văn hóa như một cấu trúc nằm
ở tầng sâu đời sống xã hội, quy định toàn bộ hoạt động xã hội là
lý luận được đặt ra từ Max Weber với phương pháp luận riêng là
đề cao vai trò của các nhân tố văn hóa. Theo đó, văn hóa không
chỉ là sản phẩm của đời sống xã hội mà căn bản hơn, còn là nền
tảng sâu xa quy định toàn bộ sự phát triển của đời sống xã hội.
M.Weber đã dùng lý luận của mình để giải thích khá thành công
vai trò của văn hóa Tin lành đối với sự hình thành và phát triển
của chủ nghĩa tư bản châu Âu. Trước kia, M.Weber bị giới lý luận
Xô viết định kiến và do đó, tên ông, thậm chí cũng không được nhắc tới ở Việt Nam.
Trong tiến trình đổi mới, với việc hưởng ứng Thập kỷ quốc tế
về văn hóa trong phát triển của UNESCO, mà điểm cốt lõi là đề
cao nhân tố văn hóa trong phát triển, coi trọng việc bảo vệ bản
sắc dân tộc - “hạt nhân sống còn của mỗi nền văn hóa”, giới lý
luận Việt Nam đã cùng với các nhà lý luận thế giới ứng dụng
phương pháp luận do M.Weber đề xướng và giải thích tương đối
thuyết phục về sự trỗi dậy của bốn con rồng châu Á trên cơ sở
những nét đặc thù của văn hóa Nho giáo truyền thống. Các giá
trị văn hóa Nho giáo, các quan niệm truyền thống về đề cao
nhân tố con người, quả thật, đã đóng vai trò như những nhân tố
không thể thiếu làm cho các nước NICs đạt tới “nhịp điệu rồng” của sự tăng trưởng. 15
Như vậy, điều cực kỳ có ý nghĩa mà lý luận nói riêng và toàn
bộ đời sống tinh thần xã hội nói chung ở Việt Nam có được trong
những năm đầu thời kỳ đổi mới là một quan niệm mới với
phương pháp luận của nó về văn hóa. Bổ sung cho cách nhìn
văn hóa như một sản phẩm của nền sản xuất xã hội, văn hóa đã
được xem là nhân tố bên trong, quy định và tác động (có khả
năng thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây
rõ ràng là một quan điểm rộng rãi hơn, mềm dẻo hơn và hợp lý
hơn, nhất là với Việt Nam, một dân tộc có bề dày văn hóa
truyền thống. Thực ra, từ rất sớm, vào những năm 40 của thế kỷ
XX, chính lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có quan niệm mềm dẻo và hợp
lý như thế về văn hóa. Thậm chí, định nghĩa về văn hóa của Hồ
Chí Minh còn khúc chiết và tường minh không thua kém bất kỳ
một định nghĩa nổi tiếng nào khác
2. Phân tích quan điểm của tống bí thư Nguyễn Phú
Trọng qua phương pháp luận duy vật biện chứng
Để chấn hưng và phát triển nền văn hóa dân tộc, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị tập trung thực hiện tốt một số
nhiệm vụ trọng tâm, như: Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần
yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…
Ông đề cập đến việc xây dựng con người Việt Nam thời kỳ
đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù
hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá
trị văn hóa, giá trị của quốc gia – dân tộc; kết hợp nhuần
nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: “Yêu nước,
đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo”. 16
Tổng bí thư cũng nhấn mạnh “chú trọng xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức”. Ngoài ra, ông đề
cập đến việc xây dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền
kinh tế số, xã hội số và công dân số; khẩn trương phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa.
Lãnh đạo Đảng nêu bốn giải pháp lớn, cần tập trung thực
hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả thời gian tới./Trước
hết,/ông yêu cầu tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa.
“Khắc phục tư tưởng chỉ tập trung cho kinh tế mà ít quan tâm
đến văn hoá”, Tổng Bí thư nói, nhấn mạnh cần quán triệt
nghiêm túc quan điểm “văn hóa phải được đặt ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội”.
Ông nhắc lại chủ trương phát triển kinh tế là trung tâm; xây
dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Đây là quan điểm chỉ đạo rất cơ bản cần thực hiện nghiêm túc,
quyết liệt trong nhiệm vụ của các ngành, các cấp.
Theo Tổng Bí thư, phải nâng mức đầu tư “một cách hợp lý”
từ nguồn ngân sách Nhà nước, đồng thời khơi thông các nguồn
lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển
văn hoá. Trong quá trình đa dạng hóa các hoạt động văn hóa,
Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào dòng chủ lưu của văn hóa
cách mạng để làm nòng cốt và dẫn dắt, truyền cảm hứng chủ
đạo trong việc bồi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, tình cảm trong
sáng, lành mạnh, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. 17
Thứ hai,/Tổng Bí thư chỉ đạo xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá tương xứng với yêu cầu
và nhiệm vụ trong giai đoạn mới; sớm khắc phục tình trạng
chắp vá, tuỳ tiện trong bố trí cán bộ làm công tác văn hóa, ở cả
trung ương và địa phương.
Ông nói, Đảng đã nhiều lần nhấn mạnh cán bộ là cái gốc
của mọi công việc. Công tác lãnh đạo và quản lý văn hoá không
chỉ đòi hỏi có phẩm chất chính trị mà còn phải có trình độ
chuyên môn, am hiểu đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ…
Chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ và
những người làm công tác văn hóa cũng phải đổi mới; tôn vinh
tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hóa nước nhà.
Tổng bí thư nêu rõ, bên cạnh việc tập trung nâng cao đời
sống văn hóa ở cơ sở, cần chú trọng xây dựng và phát triển văn
hóa đỉnh cao, phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn
hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu
sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước.
Thứ ba,/ông yêu cầu quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn,
tôn tạo và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn
hoá vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào
các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại;
phát triển “sức mạnh mềm” của văn hoá Việt Nam, góp phần
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia trong thời gian tới.
Hiện nay, cả nước có 166 bảo tàng, trong đó có 4 bảo tàng
quốc gia với hơn 3 triệu hiện vật; gần 3.500 di tích được xếp
hạng quốc gia, trong đó hơn 1.600 di tích lịch sử; 105 di tích
quốc gia đặc biệt; 288 di sản văn hoá phi vật thể quốc gia; 27 di 18
sản văn hoá vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận là
“di sản văn hoá thế giới”. Lãnh đạo Đảng cho rằng đó là một tài
sản vô cùng quý báu do tổ tiên, cha ông mấy nghìn năm để lại,
không phải nơi nào cũng có được. Do đó, “chúng ta có trách
nhiệm phải giữ gìn, trân trọng và phát huy” và “nếu không là
chúng ta có tội với lịch sử, là vong ân bội nghĩa với tổ tiên, cha ông”.
Thứ tư,/Tổng Bí thư yêu cầu chú trọng xây dựng văn hoá
ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực
về thuần phong, mỹ tục; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái,
đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội.
Ông cũng đề cập đến việc xây dựng các quy tắc ứng xử văn
minh của cơ quan công quyền, cộng đồng, nhất là trong không
gian mạng, giới văn nghệ sĩ.
“Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng,
tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nguồn gốc của mọi sự tham
nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hoá, các cơ
quan làm công tác văn hoá”, Tổng Bí thư nói.
Câu nói "Văn hoá còn thì dân tộc còn. Văn hoá mất thì dân
tộc mất" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện sự nhận
thức sâu sắc về mối quan hệ mật thiết giữa văn hoá và dân tộc.
Bằng cách sử dụng phương pháp luận di vật biện chứng, Tổng
Bí thư đã trình bày một luận điểm mạnh mẽ về vai trò của văn
hoá trong sự tồn tại và phát triển của một dân tộc.
Phương pháp luận di vật biện chứng, được phát triển bởi
Karl Marx và Friedrich Engels, định rõ mối quan hệ giữa diện
mạo vật chất và nhận thức xã hội. Theo phương pháp này, văn 19
hoá không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là một yếu tố
quyết định trong việc xác định sự tồn tại và phát triển của một dân tộc.
Văn hoá không chỉ bao gồm các truyền thống, giá trị và hệ
thống tri thức của một dân tộc, mà còn bao gồm cả các biểu
hiện văn hóa cụ thể như ngôn ngữ, nghệ thuật, kiến trúc, âm
nhạc và tập quán. Văn hoá là một phần không thể tách rời của
con người và xã hội, và nó giúp xác định bản sắc và đặc trưng riêng của mỗi dân tộc.
Khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định "Văn hoá còn
thì dân tộc còn", ý ý muốn truyền đạt rằng nếu văn hoá của một
dân tộc vẫn được bảo tồn và phát triển, thì dân tộc đó vẫn duy
trì và tồn tại với nhận thức, nhân cách và giá trị văn hóa riêng.
Văn hoá là nền tảng vững chắc, là nguồn năng lượng tinh thần
và sức mạnh tạo động lực để dân tộc vượt qua khó khăn, phát
triển và tồn tại trong thời gian dài.
Tuy nhiên, Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh "Văn hoá mất thì
dân tộc mất". Điều này ám chỉ rằng nếu văn hoá của một dân
tộc bị tiêu tan, mất đi hoặc bị xâm phạm một cách nghiêm
trọng, thì dân tộc đó sẽ mất đi không chỉ về mặt văn hóa mà
còn về mặt tồn tại và nhận thức. Mất văn hoá đồng nghĩa với
mất đi nhận thức về bản sắc, truyền thống và giá trị của dân
tộc, dẫn đến sự suy tàn và đe dọa về sự tồn tại của dân tộc. Do
đó, câu nói của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ làmột
câu nói đơn giản mà còn là một tuyên bố mạnh mẽ về vai trò
của văn hoá trong sự tồn tại và phát triển của một dân tộc. Nó
thể hiện sự ý thức về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát
triển văn hoá trong việc duy trì và phát triển bản sắc dân tộc. 20