















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61431571 CÂU 1. -
Triết học được coi là hạt nhân lý luận của thế giới quan vì nó tập trung vào
các câu hỏi cơ bản nhất về cuộc sống và thế giới mà chúng ta sống trong đó. Triết
học đưa ra các lý thuyết về bản chất của sự tồn tại, sự thật và giúp chúng ta có được
một cái nhìn toàn diện hơn về cuộc sống, con người và vũ trụ. -
Những câu hỏi về cuộc sống và thế giới như: "Ai tôi?", "Tại sao tôi tồn tại?",
"Thế giới xung quanh tôi là gì?", "Chúng ta có thể hiểu vũ trụ như thế nào?" là những
câu hỏi mà triết học đặt ra và cố gắng trả lời. Triết học cũng cung cấp cho chúng ta
những công cụ tư duy để xác định những giá trị cơ bản của cuộc sống, đưa ra lời
khuyên đúng đắn và hướng dẫn chúng ta sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn. -
Ngoài ra, triết học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn
đề lớn, như những vấn đề về tính chất và giá trị của chính trị, xã hội, đạo đức và
pháp luật. Chính vì vậy, triết học được coi là hạt nhân của thế giới quan, là nền tảng
cơ bản của các lĩnh vực khoa học xã hội, văn hóa, chính trị và pháp luật. -
Tóm lại, triết học là nhân tố quan trọng để hiểu và định hình thế giới quan của
chúng ta. Nó có vai trò quan trọng trong việc trả lời các câu hỏi cơ bản về cuộc sống
và đưa ra lời khuyên đúng đắn để chúng ta sống một cuộc đời có ý nghĩa. CÂU 2.
1. Bản chất của nhận thức là gì? Trình bày mối quan hệ giữa 2 giai đoạn của nhận thức.
Nhận thức là một quá trình phức tạp, nó được bắt đầu từ việc xem xét hiện tượng
một cách trực tiếp, tích cực, sáng tạo và dựa trên cơ sở thực tiễn1.
Trong Bút ký triết học, V.I. Lênin đã khắc họa một cách cô đọng bản chất của
nhận thức. Ông cho rằng, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự
nhận thức thực tại khách quan đi “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”2.
1 Bản chất của nhận thức và vai trò của nó trong việc sáng tạo khái niệm, phạm trù,
2 V.I. Lênin. Toàn tập, t. 29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 179. lOMoAR cPSD| 61431571
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết về nhận thức. Học thuyết này
ra đời dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người.
Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Coi nhận thức
là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động
tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ
có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác
và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết
ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực,
mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Dựa trên những nguyên
tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:
Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.3
Về mối quan hệ giữa 2 giai đoạn nhận thức:
Nhận thức bao gồm 02 giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:, mối
quan hệ giai đoạn này cụ thể như sau:
- Giai đoạn nhận thức cảm tính là cơ sở cho nhận thức lý tính: Nhận thức cảm
tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con nguời sử dụng
các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy, còn
nhận thức lý tính là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách
ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Có thể thấy
3 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Mác – Lenin (Dùng trong các trừơng Đại học, Cao Đẳng), Nxb Chính trị Quốc Gia và sự thật, tr.136 lOMoAR cPSD| 61431571
nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động của khách thể
cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát
cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của
sự vật; giúp cho nhận thức cảm tính có định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.4
- Nhờ có sự nhận thức lý tính thì nhận thức cảm tính mới nắm bắt được bản
chất và quy luật của sự vật. , nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ
có được những tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức ấy có chân thực
hay không thì con người chưa biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác
định xem những tri thức ấy có chân thực hay không. Để thực hiện điều đó, nhận thức
nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính
chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức.5
2.Chân lý là gì? Chân lý và sai lầm có thể chuyển hóa được cho nhau không? Vì sao? Ví Dụ?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, chân lý là những tri thức phù hợp với
hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Quan niệm như vậy về chân
lý cũng có nghĩa xác định chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức. Nó được hình
thành, phát triển dần dần từng bước và phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào
hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người. V.I.Lênin đã nhận xét
"Sự phù hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng (con người) không
nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình
ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động".
Chân lý và sai lầm có thể chuyển hóa cho nhau, bởi vì chân lý có tính tuơng đối
thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý đúng nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ, nó mới
phản ánh đúng một mặt, một bộ phận nào đó của hiện thực khách quan trong những
4 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Mác – Lenin (Dùng trong các trừơng Đại học, Cao Đẳng), Nxb Chính trị Quốc Gia và sự thật, tr.136 5 Gia và sự thật, tr.141 lOMoAR cPSD| 61431571
điều kiện giới hạn xác định. Chân lý và sai lầm, cũng giống như tất cả những tính
quy định của tư duy[1] đang vận động trong những mặt đối lập hoàn toàn, chỉ có giá
trị tuyệt đối trong một phạm vi cực kỳ hạn chế; như chúng ta vừa thấy điều đó và
như ông Đuy-rinh cũng có thể biết được nếu ông ta làm quen chút ít với những yếu
tố sơ đẳng nhất của phép biện chứng, những yếu tố này chính là nói đến tính không
đầy đủ của tất cả những đối lập hoàn toàn. Một khi chúng ta đem ứng dụng sự đối
lập giữa chân lý và sai lầm ra ngoài phạm vi chật hẹp mà chúng ta đã chỉ ra ở trên,
thì sự đối lập ấy trở thành tương đối và do đó không thích hợp với phương thức biểu
hiện khoa học chính xác; nhưng nếu chúng ta có ứng dụng sự đối lập ấy ra ngoài lĩnh
vực nói trên như là sự đối lập tuyệt đối thì chúng ta sẽ hoàn toàn thất bại; một cực
trong hai cực của mặt đối lập ấy sẽ biến thành cái đối lập với nó, chân lý sẽ trở thành
sai lầm và sai lầm sẽ trở thành chân lý. Chúng ta hãy lấy định luật nổi tiếng của Boyle
làm ví dụ, theo định luật này thì dưới một nhiệt độ không thay đổi, thể tích của những
chất khí tỷ lệ nghịch với áp lực mà những chất khí đó phải chịu. Regnault đã phát
hiện ra rằng định luật này không đúng đối với một số trường hợp. Nếu Regnalult là
một nhà triết học hiện thực thì hẳn ông ta đã phải nói rằng: định luật Boyle là có thể
biến đổi, vậy nó quyết không phải là một chân lý thật sự, vậy nói chung nó không
phải là một chân lý, vậy nó là một sai lầm. Nhưng nói như vậy thì ông sẽ phạm vào
một sai lầm còn lớn hơn nhiều so với cái sai lầm nằm trong định luật Boyle; cái hạt
chân lý của ông sẽ biến mất trong một đống cát sai lầm; do đó ông ta sẽ biến cái kết
quả đúng đắn ban đầu của ông thành một sai lầm mà so với nó thì định luật Boyle,
với chút sai lầm vốn có của nó, lại hoá ra là một chân lý. Nhưng là một nhà khoa
học, Regnault đã không để cho mình rơi vào những trò trẻ con như vậy, ông đã tiếp
tục nghiên cứu và thấy rằng nói chung, định luật Boyle chỉ là gần đúng; đặc biệt nó
mất hiệu lực của nó đối với những chất khí do áp lực mà có thể biến thành chất lỏng,
hơn nữa là khi áp lực lên tới gần điểm ở đó bắt đầu diễn ra bước chuyển sang trạng
thái lỏng. Như vậy tức là định luật Boyle chỉ đúng trong những giới hạn nhất định.
Nhưng trong những giới hạn ấy, nó có tuyệt đối, vĩnh viễn đúng không? Không một lOMoAR cPSD| 61431571
nhà vật lý học nào dám khẳng định như vậy cả. Họ sẽ nói rằng định luật Boyle có
hiệu lực đối với một số khí nào đó, trong những giới hạn nhất định về áp lực và nhiệt
độ: và trong phạm vi những giới hạn đã thu hẹp lại đó, họ vẫn sẽ không loại trừ khả
năng thu hẹp hơn nữa hoặc sẽ phải nêu quy luật ấy một cách khác đi do có những sự nghiên cứu về sau này"6
3. Thực tiễn là gì? Thực tiễn có vai trò như thế nào với nhận thức?
Thực tiễn là toàn bộ những họat động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử
- xã hội của con ngừơi nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. 7
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở chỗ:
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm
xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh
hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu
khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực
tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó
làm cho các sự vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan
hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức
nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở
đó mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu thực
tiễn của con người cần phải "đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những cái
bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí" mà
6 Ăngghen chống Duyhring, Đạo Đức và Pháp quyền chân lý vĩnh cực, link
https://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1870s/chongduhring/phan_10.htm. 7 Gia và sự thật, tr.137 lOMoAR cPSD| 61431571
toán học đã ra đời và phát triển hoặc trên cơ sở nhu cầu tự động hóa các công việc
phức tạp, tìm hiểu tri thức của nhân loại, kết nối toàn cầu mà khoa học máy tính ra
đời Có thể nói, suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất
phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu
thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực
nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, chủ thể nhận thức
không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới. 8
Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt
động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực
tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức
ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của con người trong việc
nhận thức thế giới. VD: Hiện nay, trên cơ sở thực tiễn về sự phát triển của công nghệ
thông tin và các phuơng tiện thông tin đại chúng về sự tiện ích của công nghệ thông
tin mà giúp con người nhận thức được các ứng dụng mới của khoa học công nghệ
qua đó làm cơ sở cho những ý tửơng phát minh ra những sáng chế mới phục vụ cho nhu cầu thực tiễn.9
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn
đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước
đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không
ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã
viết: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý".10Như vậy, thực tiễn chẳng
8 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Mác – Lenin (Dùng trong các trừơng Đại học, Cao Đẳng), Nxb Chính trị Quốc Gia và sự thật, tr.138
9 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Mác – Lenin (Dùng trong các trừơng Đại học, Cao Đẳng), Nxb Chính trị Quốc Gia và sự thật, tr.139
10 Gia và sự thật, tr.139 lOMoAR cPSD| 61431571
những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự
hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng
tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn,
V.I.Lênin đã viết: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận về nhận thức" .Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi
chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc
nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn,
phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ
quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò
của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.11
11 Gia và sự thật, tr.139 lOMoAR cPSD| 61431571
4. Trình bày mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận
Về khái niệm: Tồn tại xã hội (TTXH) là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Ý thức xã hội (YTXH) là mặt tinh thần của
đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm,
tâm trạng,... của những cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Một là, Vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH
- Tồn tại xã hội là cơ sở, là nguồn gốc khách quan và là nguồn gốc duy nhất
của ý thức xã hội, nó làm hình thành và phát triển ý thức xã hội. Còn ý thức xã hội
chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi thì sớm hay muộn ý thức
xã hội cũng phải thay đổi theo. Tất cả các bộ phận của tồn tại xã hội đều có ảnh
hưởng đến sự thay đổi của ý thức xã hội. Nhưng trong đó phương thức sản xuất là
yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất, trực tiếp nhất đến sự thay đổi của ý thức xã hội.
Có nghĩa là muốn thay đổi ý thức xã hội, muốn xây dựng ý thức xã hội mới thì dứt
khoát sự thay đổi và xây dựng đó phải dựa trên sự thay đổi của đời sống vật chất và
những điều kiện, quan hệ vật chất của xã hội.
Hai là, Tính độc lập tương đối của YTXH so với TTXH
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở những điểm sau đây:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Lịch sử xã hội loài người đã cho thấy, nhiều khi chế độ xã hội đã mất đi, thậm
chí mất đi rất lâu nhưng ý thức xã hội do TTXH xã hội của xã hội ấy sinh ra lOMoAR cPSD| 61431571
vẫn tồn tại dai dẳng (lưu giữ và thể hiện trong truyền thống, tập quán, thói quen...). 12
- Ý thức xã hội có thể “vượt trước” tồn tại xã hội
YTXH nếu phản ánh đúng quy luật vận động của TTXH thì nó có thể phản
ánh vượt trước TTXH: trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, ý thức của con
người nếu phản ánh đúng quy luật vận động và phát triển của TTXH thì nó sẽ chỉ ra
khuynh hướng vận động và phát triển của TTXH trên cơ sở đó nó sẽ dự báo tương
lai góp phần chỉ đạo tổ chức thực tiễn đạt hiệu quả cao nhất. Phản ánh vượt trước
của YTXH diễn ra với 2 khả năng: phản ánh vượt trước có cơ sở và phản ánh vượt trước không có cơ sở.
- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
YTXH của mỗi thời đại không xuất hiện trên mãnh đất trống không mà được
xuất hiện trên cơ sở kế thừa những yếu tố của YTXH thời trước. Trong xã hội có giai
cấp thì sự kế thừa của ý thức xã hội mang tính giai cấp.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH trong sự phát triển của chúng
Mỗi hình thái YTXH phản ánh TTXH theo những phương thức riêng nên làm
cho các hình thái YTXH không thể thay thế lẫn nhau, nhưng lại cần đến nhau, bổ
sung cho nhau . . . cùng nhau tác động đến TTXH. Do điều kiện lịch sử cụ thể mà
trong mỗi giai đoạn lịch sử một hình thái YTXH nào đó nổi trội và đóng vai trò chi
phối các hình thái YTXH khác.
Sự tác động trở lại của YTXH đối với TTXH
12 tìm hiểu tính độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội trong đời sống nhân dân phường lái hiếu, thị
xã ngã bảy, tỉnh hậu giang hiện nay, link:
https://www.google.com/url?esrc=s&q=&rct=j&sa=U&url=https://truongchinhtri.haugiang.gov.vn/documents/
561001/1186973/T%25C3%2593M%2520T%25E1%25BA%25AET%2520N%25E1%25BB%2598I%2520DUNG
%2520C%25E1%25BB%25A6A%2520%25C4%2590%25E1%25BB%2580%2520T lOMoAR cPSD| 61431571
%25C3%2580I.doc_20210730154123.doc/2bd0a941-623c-dacd-4b4a-
2dcd906172f0&ved=2ahUKEwjrp8eleT7AhWWBd4KHblOCtIQFnoECAIQAg&usg=AOvVaw2GG1fuE1J9YVXI F8MNwNGK.
Tác động tích cực của YTXH đối với TTXH: Nếu YTXH phản ánh đúng quy
luật vận động và phát triển của TTXH và thông qua hoạt động thực tiễn của con
người nó có thể tác động tích cực đến TTXH.
Tác động tiêu cực của YTXH đối với TTXH: Nếu YTXH phản ánh không
đúng quy luật vận động và phát triển của TTXH; hoặc ý thức phản tiến bộ nhất là ý
thức chính trị . . . thì sẽ tác động tiêu cực đến TTXH.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của
đời sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được
tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng,
thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội; mặt khác,
cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn
đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những
tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo
ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.12
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ này đã được thể hiện rất rõ trong
giai đoạn đổi mới và mở cửa kinh tế của nước ta, cụ thể trong công cuộc chuyển đổi
số của đất nước ta, nhằm hiện thực hóa việc giao dịch điện tử hạn chế giao dịch tiền
mặt nhà nước đã ban hành những quy định nhằm tang cường cơ sở vật chất phục vụ
cho việc thanh tóan online nhanh chóng song cũng có những biện pháp truyền thông
và khuyến khích nhằm thay đổi ý thức dùng tiền mặt để thanh tóan theo thói quan
thừơng ngày của người dân. Và điều này đã phát huy tác dụng trên thực tế, đến tháng
4-2022, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 69,7% về số lượng, 27,5%
12 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Mác – Lenin (Dùng trong các trừơng Đại học, Cao Đẳng), Nxb Chính trị Quốc Gia và sự thật, tr.194 lOMoAR cPSD| 61431571
về giá trị. Trong đó, giao dịch qua QR code tăng tương ứng 56,52% và 111,62% so với cùng kỳ năm 202113. CÂU 3. -
Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển chính là nguyên lý về sự phát triển của
cácsvat, htg trong TG kquan. Ngly đó nói rằng phát triển là khuynh hướng tất yếu kquan cảu all các svhtg. -
Quan điểm phát triển là quan niệm về sự tiến bộ và phát triển của bản thân và
xã hội. Hiểu rõ và quán triệt quan điểm phát triển có tác dụng hỗ trợ trong cả hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đối với hoạt động nhận thức, quan điểm phát
triển sẽ giúp chúng ta luôn tìm cách học hỏi, nâng cao kiến thức và kỹ năng của
mình. Như vậy, người ta sẽ không ngừng hoàn thiện, nâng cao trình độ và áp dụng
kiến thức vào thực tiễn để đạt được kết quả tốt hơn. -
Ví dụ về hoạt động thực tiễn, những người làm việc y tế cần phải quán triệt
quan điểm phát triển để có thể hiểu sâu hơn về cơ chế bệnh tật và phương pháp chữa
trị tốt hơn. Chỉ khi tìm hiểu sâu hơn, áp dụng tốt hơn mới giúp cho các bệnh nhân
điều trị được tốt hơn, giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh và nâng cao sức khỏe của toàn xã hội. -
Tóm lại, quán triệt quan điểm phát triển giúp cho chúng ta có tầm nhìn xa hơn
và hoàn thiện không ngừng, không chỉ trong khía cạnh nhận thức mà còn trong thực tế cuộc sống. CÂU 4. 1. -
Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng là một trong những khái niệm cơ bản
trong triết học và logic học. Cái chung được hiểu là các đặc điểm, tính chất, hay
thuộc tính được chia sẻ chung giữa nhiều thực thể, còn cái riêng là các đặc điểm,
tính chất, hay thuộc tính đặc biệt chỉ có ở một thực thể duy nhất.
13 T.D.V, Thanh toán không tiền mặt đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp, Tuổi trẻ online, link:
https://tuoitre.vn/thanh-toan-khong-tien-mat-dong-gop-tich-cuc-cho-su-tang-truong-cua-doanh-nghiep- lOMoAR cPSD| 61431571 -
Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng có thể hiểu được như sau: Mỗi thực
thể riêng lẻ đều có những đặc điểm riêng biệt, nhưng đồng thời cũng có những đặc
điểm được chia sẻ chung với những thực thể khác. Chính những đặc điểm này 20220919172317664.htm.
được chia sẻ chung giữa nhiều thực thể tạo nên những khái niệm chung, các loại, nhóm, đối tượng, v.v. -
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng là giúp
ta phân biệt được những đặc điểm, tính chất đặc trưng của một thực thể riêng biệt và
những đặc tính chung của nhiều thực thể. Qua đó, ta có thể dựa trên những đặc điểm
chung đó để phân loại, so sánh, điều tra và hiểu được sự đa dạng và tương quan giữa
các thực thể trong tự nhiên và xã hội. Nó giúp cho việc nghiên cứu sâu hơn và hiểu
rõ hơn bản chất và đặc tính của một vấn đề, một sự việc hoặc một hiện tượng cụ thể. 2. -
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức là khái niệm cơ bản trong nghệ thuật
và văn học. Nội dung là ý nghĩa, thông điệp, cảm xúc hay suy tư mà tác phẩm muốn
truyền tải đến người đọc hoặc người xem, còn hình thức là cách thức, kỹ thuật, cách
bố trí, cách thể hiện, hay ngôn ngữ mà tác phẩm sử dụng để truyền tải nội dung đó
đến với người thưởng thức. -
Một tác phẩm có nội dung mạch lạc, sâu sắc nhưng thiếu hình thức sẽ dẫn đến
cảm giác rời rạc, khó hiểu và khiến người đọc hoặc xem không có cảm giác thích
thú. Ngược lại, một tác phẩm có hình thức đẹp mắt, tuyệt vời nhưng thiếu nội dung
sẽ khiến tác phẩm trở nên nhàm chán và thiếu ý nghĩa. -
Điều đó cho thấy, nội dung và hình thức đều là hai yếu tố không thể thiếu nhau
trong một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Chúng cùng nhau tạo nên tác phẩm hoàn
chỉnh, đầy đủ ý nghĩa, đồng thời cũng làm tác phẩm trở nên hấp dẫn, gợi cảm xúc
và thu hút thính giả, độc giả hoặc người xem. -
Ý nghĩa của mối quan hệ giữa nội dung và hình thức đó là sự tương quan chặt
chẽgiữa các yếu tố trong nghệ thuật và văn học. Đó là việc đưa ra thông điệp ý nghĩa
thông qua cách thức táo bạo, đổi mới, kết hợp mới lạ của ngôn ngữ và hình ảnh để
thu hút, gợi cảm hứng cho độc giả hoặc người xem. Tạo nên sự khác biệt và sự độc
đáo của tác phẩm, mang lại trải nghiệm tuyệt vời cho người thưởng thức. lOMoAR cPSD| 61431571 3. -
Theo lý thuyết khoa học, không thể khẳng định một hiện tượng nào hoàn toàn
có thể biết đến bản chất của nó. Điều này bởi vì mỗi hiện tượng đều được xác định
thông qua các đặc tính, tính chất và quan hệ với các hiện tượng khác, trong một ngữ cảnh cụ thể. -
Ví dụ, ta có thể quan sát các hiện tượng như nước sôi hay đèn bật lên. Tuy
nhiên, để khẳng định được bản chất của chúng, ta cần xem xét các yếu tố bên trong
như cấu trúc phân tử của nước và cấu tạo bên trong của bóng đèn. Điều này cho thấy
rằng, chỉ khi xem xét từng yếu tố và quan hệ giữa chúng, ta mới có thể áp dụng các
lý thuyết khoa học để xác định được bản chất của một hiện tượng. -
Tóm lại, bản chất của một hiện tượng không thể được xác định hoàn toàn bằng
cách quan sát bề ngoài. Việc xác định bản chất của một hiện tượng yêu cầu sự suy
luận logic cẩn thận dựa trên các quan sát và thử nghiệm thực tế. CÂU 5. -
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ tương
tácgiữa các yếu tố kinh tế, xã hội và văn hóa. Cơ sở hạ tầng bao gồm các yếu tố vật
chất như đường xá, năng lượng, cảng v.v, trong khi kiến trúc thượng tầng là những
yếu tố về văn hóa, xã hội và chính trị. Mối quan hệ giữa hai yếu tố này là khi cơ sở
hạ tầng phát triển thì kiến trúc thượng tầng cũng phát triển theo. -
Trong quá trình đổi mới tại Việt Nam, Đảng đã xác định đổi mới kinh tế là
trọng tâm vì những lý do sau:
Về mặt lý thuyết, trong quá trình đổi mới, Đảng đã áp dụng kinh tế thị trường và đổi
mới kinh tế, tuy nhiên, nếu xét mức độ ảnh hưởng của các yếu tố hạ tầng và thượng
tầng, cơ sở hạ tầng và các yếu tố kinh tế vật chất là quan trọng hơn nhiều so với yếu
tố văn hóa và chính trị.
Về mặt thực tiễn, khi thực hiện đổi mới kinh tế, Việt Nam đã có chính sách cải cách
giá nhà nước, nâng cao năng suất lao động, tăng cường và đầu tư cho các ngành sản
xuất chủ đạo. Những đóng góp này giúp cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh, những thành công đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước. lOMoAR cPSD| 61431571 -
Hơn nữa, trong quá trình đổi mới, những cải cách cơ bản trong kinh tế như bãi
bỏ hệ thống kế toán chi phí hoạt động do nhà nước quản lý, tạo điều kiện đẩy mạnh
hình thức kinh tế thị trường và tất cả các ngành kinh tế, trở thành lĩnh vực kinh tế
sống động của đất nước. Điều này đưa ra đánh giá vấn đề kinh tế ở cơ sở hạ tầng,
chính sách cải cách và phát triển kinh tế ở trên thượng tầng. -
Tóm lại, trong quá trình đổi mới tại Việt Nam, Đảng xác định đổi mới kinh tế
là trọng tâm bởi vì yếu tố cơ sở hạ tầng và kinh tế vật chất là quan trọng hơn nhiều
so với các yếu tố khác. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kinh tế tạo điều kiện thuận
lợi để các lĩnh vực khác phát triển CÂU 6. -
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai yếu tố quan trọng trong lý thuyết
kinh tế chính trị của Karl Marx, trong đó lực lượng sản xuất bao gồm các phương
tiện sản xuất (như máy móc, công cụ, vật liệu) và sức lao động của con người, trong
khi quan hệ sản xuất là các mối quan hệ xã hội, chính trị và kinh tế giữa các cá nhân
và tầng lớp trong quá trình sản xuất. -
Trong hệ thống kinh tế thị trường, lực lượng sản xuất được sử dụng để sản
xuất hàng hóa để bán trên thị trường, trong khi quan hệ sản xuất dựa trên các hợp
đồng thương mại và các quy định pháp lý. Điều này ảnh hưởng đến cách các tầng
lớp xã hội liên hệ với nhau, bao gồm cả các quan hệ sản xuất và quan hệ tiêu dùng. -
Ở Việt Nam, phải phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần bởi vì kinh tế
thị trường nhiều thành phần cung cấp cho các doanh nghiệp và cá nhân nhiều cơ hội
để sản xuất và tiêu thụ hàng hóa trên thị trường. Thị trường mở cạnh tranh cũng
khuyến khích sự đổi mới và hiệu quả sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng sản xuất tăng trưởng. -
Hơn nữa, kinh tế thị trường nhiều thành phần giúp thúc đẩy sự phát triển của
các ngành công nghiệp và dịch vụ, cải thiện đời sống người dân, nâng cao chất lượng
và số lượng hàng hóa và dịch vụ được cung cấp. Đồng thời, kinh tế thị trường nhiều
thành phần cũng giúp giảm thiểu sự tập trung quyền lực và hạn chế sự cạnh tranh
không lành mạnh trong quan hệ sản xuất. CÂU 7. lOMoAR cPSD| 61431571 -
Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lý thuyết kinh tế
chínhtrị của Karl Marx cho thấy rằng lực lượng sản xuất (bao gồm các phương tiện
sản xuất và sức lao động) và quan hệ sản xuất (bao gồm các mối quan hệ xã hội,
chính trị và kinh tế giữa các cá nhân và tầng lớp trong quá trình sản xuất) là hai yếu
tố chính quyết định sự phát triển của một nền kinh tế. -
Tại Việt Nam, việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá được coi là nhiệm vụ
trọng tâm bởi vì đây là cách hiệu quả nhất để nâng cao lực lượng và chất lượng sản
xuất, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản xuất. Các ngành công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đang được phát triển ở Việt Nam bao gồm sản xuất điện tử, ô tô,
đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, năng lượng tái tạo,... -
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao
năng suất và hiệu quả sản xuất của các ngành kinh tế, từ đó giúp tăng trưởng kinh tế
và giảm nghèo. Nhờ sự phát triển của công nghiệp trong nước, các sản phẩm được
sản xuất ở Việt Nam có thể tiết kiệm chi phí và tăng cường tính cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Ngoài ra, việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá còn đóng vai trò quan
trọng trong việc đẩy mạnh quan hệ sản xuất và nâng cao đời sống của người dân.
Các lĩnh vực sản xuất hiện đại đòi hỏi nhân lực có trình độ cao và kỹ năng công nghệ
tiên tiến. Do đó, chính phủ Việt Nam đang đầu tư nhiều vào đào tạo nhân lực chất
lượng cao để thu hút các nhà sản xuất nước ngoài và kích thích sự phát triển các
ngành công nghiệp trong nước. -
Vì vậy, việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá được xem là nhiệm vụ trọng tâm
tại Việt Nam, nhằm cải thiện quan hệ sản xuất và nâng cao đời sống của người dân,
đồng thời tăng cường tính cạnh tranh của kinh tế Việt Nam trên thị trường quốc tế. CHẤT VÀ LƯỢNG. -
Trong triết học, chất và lượng là những khái niệm phổ biến được sử dụng để
miêutả các tính chất của thực tế. -
Chất là một thuộc tính của vật chất, được coi là thứ tồn tại độc lập với ý thức.
Chất được hiểu là đối tượng vật lý và được xác định bởi các đặc tính như khối lượng,
thể tích, màu sắc, độ cứng và độ bền. Theo triết học, chất không thể bị phá hủy hay
biến mất đột ngột, mà nó chỉ thể hiện trong các hình thức khác nhau. -
Lượng là một thuộc tính của chất được mô tả bởi số lượng và độ lớn. Lượng
thường được đo bằng các đơn vị như số, độ dài, thời gian, trọng lượng, áp suất... lOMoAR cPSD| 61431571
Trong triết học, lượng thể hiện một mặt khác của chất, khi nó được đo đếm hoặc so
sánh với các đơn vị khác để có được nhận thức chính xác hơn về thế giới vật chất. -
Tuy nhiên, chất và lượng không phải là các khái niệm độc lập với nhau. Theo
triếthọc, chất và lượng là hai mặt của cùng một sự vật hay hiện tượng, và chúng luôn
ảnh hưởng và chuyển đổi qua lại với nhau. Một ví dụ điển hình là nước, khi chúng
ta đo lượng nước thì cũng đồng nghĩa với việc đo chất lượng nước theo mức độ độ
sánh, độ mặn, độ pH của nó. -
Tóm lại, trong triết học, chất và lượng được sử dụng để miêu tả các tính chất
của thực tế, là hai khái niệm phổ biến thể hiện bản chất của thế giới vật chất và giúp
ta có cái nhìn chính xác hơn về thế giới tồn tại xung quanh.