Triết học Mac-Lenin về con người và bản chất con người – Ý nghĩa việc nghiên cứu con người đối với xã hội Việt Nam ngày nay | Tiểu luận cuối kì môn Triết học Mác – Lênin

Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

by Unknown Author is licensed under
by Unknown Author is licensed
under
by Unknown Author is
licensed under
TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.
Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ HỘI VIỆT
NAM HIỆN NAY
GVHD: TS. PHẠM THỊ LAN
SVTH:
1.LÊ TẤN HIỂN 22144089
2.HUỲNH THIỆN PHÁT 22144160
3.DƯƠNG XUÂN KHẢI 22144119
4.NGUYỄN THÀNH LUÂN 22144142
5.PHẠM KHÁNH VINH 22144228
Mã lớp học: LLCT130105_13CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12, năm 2022
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu.....................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1.1. Con người là thực thể sinh học - xã hội.................................................5
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình .....................................................................6
1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người…... 7
1.4. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử………7
1.5. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội………………………9
CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI
HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tư tưởng lấy dân làm gốc.........................................................................9
2.2. Tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc và mối đại đoàn kết quốc
tế................................................................................................................13
2.2.1 Giải pháp tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay
...................................................................................................................13
2.2.2 Giải pháp tăng cường mối đại đoàn kết quốc tế ................................
KẾT LUẬN............................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................24
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Muốn có một tiểu luận cho triết học Mac-Lenin về con người và bản chất con người –
Ý nghĩa việc nghiên cứu con người đối với xã hội Việt Nam ngày nay. Từ đó giúp bản
thân cũng như mọi người có thêm kiến thức về đề tài này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
a. Hiểu rõ được con người và bản chất của con người theo triết học Mac-Lenin
- Biết được con người là thực thể của sinh học và xã hội.
- Hiểu được sự khác biệt cơ bản của con người là loài vật.
- Hiểu được con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
- Biết bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
b. Nắm bắt được ý nghĩa và phương pháp nghiên cứu con người đối với xã hội
Việt Nam ngày nay
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp phân tích tổng hợp phương pháp tổng hợp những bài nghiên
cứu hoặc những mô hình lý thuyết trước đó về vấn đề đưa ra, sau đó thực hiện
phân tích và lựa chọn lý thuyết phù hợp nhất với bài tiểu luận.
- Nội dung: Trong quá trình nghiên cứu phân tích vấn đề, bạn cần tổng hợp
lại các thuyết tìm hiểu được một cách ngắn gọn, cụ thể với nội dung chính
xác. Đặc biệt cần nắm rõ những lưu ý hay ý nghĩa của đề tài một cách rõ ràng.
- Cách áp dụng: Phương pháp này thường được sử dụng nhiều trong phần mở
đầu hoặc kết thúc bài tiểu luận, bên cạnh đó cũng thể xuất hiện trong phần
bàn luận vấn đề.
Phương pháp phỏng vấn – trả lời
- Phương pháp phỏng vấn – trả lời là phương pháp sử dụng một loạt các câu hỏi
để phỏng vấn nhằm thu được câu trả lời từ người được hỏi.
- Nội dung: Phương pháp này sẽ đưa ra những câu hỏi đã được chuẩn bị trước
hoặc bổ sung thêm trong quá trình hỏi đáp từ nhóm phỏng vấn nhằm thu
thập các thông tin hữu ích và phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình.
- Cách áp dụng: Áp dụng khi nhóm nghiên cứu mong muốn thu được những
thông tin thực tiễn nhằm phục vụ bài tiểu luận.
3
Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia là phương pháp thu thập các ý kiến của
những chuyên gia trong lĩnh vực liên quan hoặc trực tiếp về vấn đề nghiên
cứu.
- Nội dung: Phương pháp này thu thập các ý kiến quan điểm khác nhau từ
các chuyên gia, kiểm tra và bổ sung lẫn nhau để có một cái nhìn khách quan và
chuyên sâu về vấn đề nghiên cứu.
- Cách áp dụng: Trong các bài nghiên cứu, phương pháp này được sử dụng để
giúp nhóm nghiên cứu thêm những hiểu biết chi tiết về lĩnh vực hoặc vấn
đề nghiên cứu.
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp phương pháp thu thập tổng hợp lại
các số liệu thứ cấp từ những bài nghiên cứu hoặc khảo sát trước đó, tổng hợp và
phân tích hoặc thực hiện lại trong tình hình hiện tại.
- Nội dung: Phương pháp này yêu cầu người viết lấy thông tin từ những nguồn
đáng tinphù hợp với đề tài nghiên cứu với độ chính xác cao nhất để đưa ra
kết quả và rút ra kết luận.
- Cách áp dụng: Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp được áp dụng khi người
viết muốn sử dụng các số liệu được nghiên cứu trước đó vào bài tiểu luận của
mình.
Phương pháp liệt kê so sánh
- Phương pháp liệtso sánh phương pháp nghiên cứu tiểu luận sử dụng các
tài liệu tham khảo các dẫn chứng thực tế so sánh đối chiếu với nhau để
tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của từng luận điểm nhằm rút ra lựa chọn tối ưu
nhất cho bài tiểu luận.
- Nội dung: Khi sử dụng phương pháp liệt so sánh, người viết thể dùng
những thông tin mang tính tương đồng để xét vào một nhóm thực hiện so
sánh.
- Cách áp dụng: Áp dụng thườngtrong phần nêu lên dẫn chứng và thực trạng
của vấn đề nghiên cứu.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1.1. Con người là thực thể sinh học - xã hội
Theo C. Mác, con người một sinh vật tính hội trình độ phát triển cao nhất
của giới tự nhiên của lịch sử hội, chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các
thành tựu của văn minh n hóa. Về phương diện sinh học, con người một thực
thể sinh vật, sản phẩm của giới tự nhiên, một động vật hội. “Bản thân cái sự
kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao
giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Điều đó có nghĩa rằng
con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu
tranh sinh tồn” để tồn tại phát triển. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa điều đó,
không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo
nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực thể xã hội. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi xem xét con người, không thể tách rời hai phương diện
sinh học hội của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết
định phương diện kia.
Không chỉ một thực thể sinh học, mà con người cũng còn một bộ phận của giới
tự nhiên. “Giới tự nhiên... của con người,... đời sống thể xác tinhthân thể
thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Về phương diện thực thể sinh học, con
người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di
truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một
bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên
và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt
đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác,
con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên
liệu, áo quần, nhà ở, v.v.. Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận
của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự
nhiên là “thân thể của con người”. thế con người phải dựa vào giới tự nhiên,
gắn với giới tự nhiên, hòa hợp với giới tự nhiên mới thể tồn tại phát triển.
Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự
trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan
trọng nhất của con người lao động sản xuất. “Người giống vật duy nhất thể
bằng lao động thoát khỏi trạng thái thuần túy loài vật”. Nếu các động vật khác
phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con
người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật
phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ lao động sản xuất về mặt sinh học
con người thể trở thành thực thể hội, thành chủ thể của “lịch sử tính tự
nhiên”, có tính, “bản năng hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh
học của con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao
động điều kiện tiên quyết, cần thiết chủ yếu quyết định sự hình thành phát
triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
5
Trong hoạt động, con người không chỉ các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất,
còn hàng loạt các quan hệ hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển
phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến
cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội
của con người chỉ có trong xã hội loài người, con người không thể tách khỏihội
đó là điểm bản làm cho con người khác với các động vật khác. Hoạt động của con
người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã
hội, khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực
tiếp của nó. Hoạt động giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. duy, ý
thức của con người chỉ thể phát triển trong lao động giao tiếp hội với nhau.
Cũng nhờ lao động giao tiếp hội mà ngôn ngữ xuất hiện phát triển. Ngôn
ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là
một trong những biểu hiện nhất phương diện con người một thực thể hội.
Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉthể tồn tại và phát triển trong hội
loài người.
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
“Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng
bất cứ cái cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật
ngay khi con người bắt đầu những tư liệu sinh hoạt của mình - đó mộtsản xuất ra
bước tiến do tổ chức thể của con người quy định. Sản xuất ra những liệu sinh
hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của
mình”.
“Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vượn
may mắn lắm chỉ trong khi con người lại . Chỉ riêng sự khác biệt duyhái lượm sản xuất
nhất nhưng bản ấy cũng khiến ta không thể chuyển - nếu không kèm theo những
điều kiện tương ứng - các quy luật của các xã hội loài vật sang xã hội loài người”.
Các nhà tưởng trước C. Mác cũng đã những ý kiến khác nhau về sự khác biệt
giữa con người các động vật khác với cách những dấu hiệu về nội hàm của
khái niệm con người. Chẳng hạn, Aristoteles đã cho rằng con người một động vật
chính trị. Nhưng quan niệm của triết học Mác - Lênin về sự khác biệt giữa con người
các động vật khác thể hiện tính chất duy vật nhất quán: xác định sự khác biệt đó
dựa trên nền tảng của sản xuất vật chất. Lao động, tức là sản xuất ra liệu sinh hoạt
của mình, tạo ra con người hội, thúc đẩy con người hội phát triển. Đây
điểm khác biệt rất căn bản, chi phối các đặc điểm khác biệt khác giữa con người với
các động vật khác. Quan niệm này được Ph. Ăngghen làm sáng trong tác phẩm
Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người”.
1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của Feuerbach đã
xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể hoạt động thực tiễn của họ,
xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, không có hoạt động thực
tiễn. Feuerbach đã không nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống động giữa người
với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy, Feuerbach đã tuyệt
6
đối hóa tình yêu giữa người với người. Hơn nữa, đó cũng không phải tình yêu hiện
thực mà tình yêu đã được lý tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Feuerbach
của các nhà tư tưởng khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch
sử tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng
định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản
phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con người. C. Mác đã khẳng
định trong tác phẩm “ rằng: “Tiền đề của lý luận duy vật biện chứngHệ tư tưởng Đức”
và duy vật lịch sử là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất
làm ra lịch scủa chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn
tại”. Cần lưu ý rằng con người sản phẩm của lịch sử của bản thân con người,
nhưng con người, khác với các động vật khác, không thụ động đ lịch sử làm mình
thay đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử.
1.4. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa sản phẩm của lịch sử tự nhiên lịch sử xã hội, nhưng đồng thời,
lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động sáng tạothuộc tính xã hội tối cao của con
người. Con người động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác
với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát
triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không
phải do chúng làm ra trong chừng mực chúng tham dự vào việc làm ra lịch
sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu
thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi các động vật khác, ý nghĩa
sáng tạo chân chính hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản
xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên
trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn hội. Chính thời điểm đó con người bắt đầu
làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” bản chất của con người, nhưng con
người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, phải dựa vào
những điều kiện do quá khứ, do thế hệ tr ớc để lại trong những hoàn cảnh mới. Conƣ
người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện của thế hệ
trước để lại; mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của mình để cải biến
những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì tương ứng, con
người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người tạo ra lịch sử cho đến nay
con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại phát triển luôn luôn trong một hệ thống môi trường xác định.
Đó là toàn bộ điều kiện tự nhiên và hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần, có quan
hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người hội. Đó những điều
kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại phát triển của con người.
Một mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan
hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn
lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác,
là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự nhiên,
tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc biệt là các quá trình y
học, sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh thể hay sinh học, con người
một tiểu trụ cấu trúc phức tạp, một hệ thống mở, biến đổi phát triển
7
không ngừng, thay đổi thích nghi khá nhanh chóng so với các động vật khác trước
những biến đổi của môi trường. Con người vừa tiếp nhận, thích nghi, hòa nhịp với giới
tự nhiên, nhưng cũng bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng biến đổi
chính mình.
Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con
người trở thành một thực thểhội mang bản chất hội. Con người sản phẩm
của hoàn cảnh, của môi trường, trong đó có môi trường xã hội. Môi trường xã hội cũng
điều kiện tiền đề để con người thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên quy
rộng lớn hữu hiệu hơn. Về thực chất, môi trường hội cũng một bộ phận
của tự nhiên với những đặc thù riêng. So với môi trường tự nhiên, môi trường hội
ảnh hưởng trực tiếp quyết định đến con người, sự tác động của môi trường tự
nhiên đến từng nhân con người thường phải thông qua môi trường hội chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố hội. Môi trường hội cũng như mỗi nhân
con người thường xuyên phải có quan hệ với môi trường tự nhiên và tồn tại trong mối
quan hệ tác động qua lại, chi phối và quy định lẫn nhau.
Do sự phát triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học công nghệ, nhiều loại
môi trường khác đã và đang được phát hiện. Đó là những môi trường, như môi trường
thông tin, kiến thức, môi trường từ tính, môi trường điện, môi trường hấp dẫn, môi
trường sinh học, v.v.. Nhưng cần lưu ý rằng, những môi trường trong số đó mới
được phát hiện đang được nghiên cứu, nên còn nhiều ý kiến, quan niệm khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi trường
tương tác yếu đang được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi trường như
vậy. Tuy nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay còn có những
ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc là thuộc về môi trường tự nhiên, hoặc
thuộc về môi trường xã hội. Tính chất, phạm vi, vai trò tác động của chúng đến
con người khác nhau, không giống hoàn toàn như môi trường tự nhiên môi
trường hội. Chúng những hiện tượng, quá trình cụ thể của tự nhiên hoặc hội,
tác động, ảnh hưởng một khía cạnh hẹp, cụ thể xác định phương diện tự
nhiên hoặc xã hội.
1.5. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động những điều kiện lịch sử nhất định con người
có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người tổng hòa những quan hệ hội”. Bản chất của con người luôn được hình
thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ
thể. Các quan hệ hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không phải sự kết
hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan
hệ hội vị trí, vai trò khác nhau, tác động qua lại, không tách rời nhau. Các
quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan
hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ gián tiếp, quan hệ tất nhiên hoặc ngẫu nhiên,
quan hệ bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, v.v.. Tất cả các
quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ hội
thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo.
Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có thể bộc lộ được bản chất
thực sự của mình, cũng trong những quan hệ hội đó thì bản chất người của con
8
người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chi phối
quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người
không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh
đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã
hội tồn tại, phát triển và chi phối.
CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ
HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.Ý nghĩa tư tưởng lấy dân làm gốc.
Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ của dân tộc Việt Nam và phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới còn nhà tưởng lớn với những chân đã được kiểm chứng
bởi thực tiễn. Điều nổi bật cũng quyết thành công của Hồ Chí Minh với
cách nhà tư tưởng và thủ lĩnh chính trị nằm ở chỗ: Người đã thấu hiểu vai trò của dân,
thực sự trọng dân, biết phát huy vai trò của dân và hết lòng vì dân. Trong 35 năm qua,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành sự nghiệp Đổi mới với tinh thần “đổi mới là sự
nghiệp của dân, do dân và vì dân”. Cho dù chưa bao giờ Việt Nam có đượcđồ như
ngày hôm nay nhưng hội thách thức đang đặt ra cho cách mạng Việt Nam đòi
hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức hành động đúng tinh thần “Lấy dân làm
gốc” để phát huy cao độ tiềm lực trong dân, đưa đất nước tiến lên.
a. Nước lấy dân làm gốc
“Dân là gốc của nước, nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng và phương châm hành động
của các bậc hiền minh từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim. Trên tinh thần kế thừa và phát
triển tinh hoa văn hóa dân tộc nhân loại, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng “Lấy dân
làm gốc” lên một tầm cao mới. tưởng của Người vừa s chung đúc với tiền
nhân, vừa có nét độc đáo, sáng tạo. Đáng chú ý nhất là một số quan điểm sau đây.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm mới về quần chúng nhân dân. Nói đến dân
là nói đến những người đứng ngoài bộ máy cai trị, chịu tác động từ chính sách của nhà
cầm quyền. Nếu trong quan niệm của giai cấp phong kiến, dân chỉ là “thần dân”, “thảo
dân”, tức tầng lớp “bị trị” thấp hèn thì đối với Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân”. Quan niệm về nhân dân của Hồ Chí Minh điểm khác biệt so với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Nếu Lênin nhấn mạnh tính giai cấp khi coi “quần chúng là đa số, và hơn
thế nữa chẳng những đa số công nhân, mà là đa số những người bị bóc lột” thì Hồ Chí
Minh nhấn mạnh tính dân tộc khi định nghĩa: “Nhân dân bốn giai cấp công, nông,
tiểu sản, sản dân tộc những phần tử yêu nước khác”. Việc mở rộng nội hàm
“Nhân dân” của Hồ Chí Minh hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của hội Việt Nam.
Mặt khác, quan niệm của Người về nhân dân cũng khác biệt so với ông cha khi Người
đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để khẳng định “công - nông gốc của
cách mạng”.
Thứ hai, Hồ Chí Minh luận giải một cách khoa học “vì sao dân là gốc của nước”. Dân
là “gốc” của nước bởi “lực lượng của dân rất to”, rất đông, rất mạnh. Dân là “gốc” của
nước bởi “dân rất tốt”, trong mỗi người dân đều có phẩm chất cao quý nhất là lòng yêu
nước tinh thần dân tộc. Dân “gốc” của nước còn bởi “dân rất thông minh”, biết
“giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Chính của cải, sức mạnh, đạo đức, tài
9
năng, lòng tin của dân đã tạo nên “cái gốc” của nước. Nhận thức sâu sắc về cái “gốc”
đó, Hồ Chí Minh đúc kết: “Nước lấy dân làm gốc… Gốc vững, cây mới bền/ Xây
lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Như vậy, lòng dân chính là “vận nước”.
Thứ ba, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của dân trong sự nghiệp cách mạng và vị thế
của dân trong chế độ mới. Nếu giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản coi nhân dân chỉ
động lực, phương tiện cần huy động cho các cuộc đấu tranh thì Hồ Chí Minh khẳng
định nhân dân chủ thể và là mục tiêu của cách mạng. Người nhấn mạnh: “Làm cách
mạng phải dựa vào dân nhưng làm cách mạng để mang lại hạnh phúc cho dân”.
Người còn nâng quan điểm “Dân vi bản” và truyền thống “thân dân” thành quan điểm
“dân chủ làm chủ”. Người khẳng định: Trong chế độ dân chủ, nhân dân mới
chủ sở hữu mọi quyền lực. Nếu cụm từ “Dân chủ” nói đến địa vị cao nhất của dân
trong xã hội thì cụm từ “Dân làm chủ” nói đến trách nhiệm nghĩa vụ làm chủ của
dân. Sự nghiệp cách mạng không chỉ của dân còn do dân; cho nên, bản thân quần
chúng nhân dân phải có đạo đức và trách nhiệm công dân.
Mặt khác, khi dân đãchủ thì tất cả cán bộ, kể cả Chủ tịch nước, đều đầy tớ của
dân. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ vai trò “kép” của mình:
Vừa người đầy tớ trung thành, vừa người lãnh đạo sáng suốt nhưng “lãnh đạo
làm đầy tớ cho nhân dân và phải làm cho tốt”.
Thứ tư, Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên phải gần dân, trọng
dân, học dân, thật thà trước dân u dân. Dân tộc Việt Nam đã tồn tại hàng ngàn
năm nhưng Đảng thì mới ra đời o năm 1930. Điều đó nghĩa “lòng dân” có
trước “ý Đảng”. Dân “gốc” của nước, cội nguồn sức mạnh của Đảng nên muốn
lãnh đạo dân, Đảng phải gần dân, lắng nghe dân, thấu hiểu dân đ đề ra chủ trương,
chính sách hợp lòng dân. Coi xa dân, quan liêu những căn bệnh lớn nhất của đảng
cầm quyền nên Hồ Chí Minh đã viết: “Đề nghị các vị Bộ trưởng nên luyện cho mình
đôi chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ, không nên chỉ ngồi bàn giấy, theo
kiểu “đạo nhân phòng thủ”. Không chỉ nhấn mạnh phương thức hoạt động của Đảng là
“phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, Người còn cảnh báo: Nếu xa
cách dân chúng thì nhất định thất bại. Sự “gần dân” trong quan niệm của Hồ Chí Minh
không chỉ là gần về khoảng cách địa lý, tức là cán bộ phải bám sát cơ sở còn phải
“gần” về lối sống, mức sống, thậm chí là cán bộ, đảng viên phải tinh thần “tiên ưu
hậu lạc”. Chỉ như thế nhân dân mới thấy đây người đại diện của mình cán bộ
cũng mới hiểu rõ dân sinh, dân ý, dân tình.
Dân “gốc” của nước nên Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực hành
văn hóa trọng dân, trước hết tôn trọng ý nguyện quyền làm chủ của dân. Người
căn dặn “ý dâný trời”, dân muốn gì ta phải làm nấy. Sự tín nhiệm của dân luôn thể
hiện chính xác năng lực, phẩm chất của cán bộ nên Đảng phải tôn trọng đánh giá của
dân về từng cán bộ để làm tốt công tác tổ chức.
Do lực lượng của dân rất đông, trí tuệ của dân tận nên cán bộ, đảng viên phải
thực sự cầu thị, khiêm tốn, học hỏi dân chúng. Dân chính người chịu tác động của
mọi chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước nên việc xây dựng đường lối phải
dựa trên ý nguyện của dân, tuyệt đối không được chủ quan, duy ý chí; nếu “nghị quyết
gì mà dân chúng cho là không hợp thì đề nghị họ sửa chữa”.
10
Trong công tác lãnh đạo dân chúng, nếu cán bộ “có khuyết điểm thì thật thà tự phê
bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình”. Sự thành thực của cán
bộ không chỉ làm dân thông cảm, tin yêu còn là cơ sở để Đảng khắc phục hạn chế,
ngày càng trưởng thành hơn. Mọi tình cảm bền vững phải dựa trên nguyên tắc 2 chiều
nên Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ là, “chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới
yêu ta, kính ta”.
Thứ năm, cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực sự dựa vào dân để dân. “Cách
mạng sự nghiệp của quần chúng” vậy, cho Đảng Cộng sản lực lượng dẫn
đường nhưng “những người cộng sản chỉ một giọt nước trong đại dương, một giọt
nước trong đại dương nhân dân”. Muốn thực hiện bất cứ chiến lược nào, Đảng đều
phải bàn bạc với dân, dựa vào dân, huy động sức mạnh trong nhân dân.
Không chỉ dựa vào dân, quan trọng hơn là Hồ Chí Minh đã coi lợi ích của dân là mục
tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng. Người nói rõ “Đảng không phải là một tổ chức
để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. dân “gốc” nên việc lợi cho dân nhỏ
nhất vẫn phải làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ nhất cũng phải tránh. “Dân dĩ thực vi
thiên”, khi trở thành Đảng cầm quyền, tất cả đường lối, phương châm, chính sách của
Đảng đều phải nhằm vào mục tiêu nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết làm
cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành.
“Lấy dân làm gốc” sợi chỉ đỏ trong tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Sức thuyết
phục của tư tưởng không chỉ xuất phát từ tính khoa học, cách mạng, nhân văn được thể
hiện trong từng luận điểm còn được đảm bảo bằng cuộc đời trọn vẹn nước,
dân của Người.
b. Vận dụng tư tưởng “lấy dân làm gốc”
Từ sự trưởng thành trong duy luận sự kiểm chứng trên thực tế, các Đại hội
Đảng trong thời kỳ Đổi mới đều khẳng định bài học: Đổi mới phải luôn quán triệt
tưởng “Lấy dân làm gốc”; phải thực sự dựa vào dân, lợi ích của dân. Đảng muốn
đồng hành lãnh đạo dân thì Đảng phải tin o dân quan trọng hơn phải được
dân tin.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
viên vẫn chỉ biết vun vén, thậm chí vét cho bản thân thờ ơ, cảm trước dân.
Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế; phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chủ yếu mới dừng “dân làm”. Căn bệnh độc đoán,
chuyên quyền, dân chủ hình thức còn ở đâu đó… Những khuyết điểm trên đã làm ảnh
hưởng tới lòng tin của dân vào Đảng và chế độ.
Do đó, thực hành tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc” để khôi phục lại lòng
tin của dân, là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay. Tuy nhiên, học tậptưởng Hồ Chí Minh
không phải chỉ là nhắc lại những câu nói mang tầm chân lý của Người mà là nghĩu,
nhìn thẳng và làm tốt một số việc sau đây.
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao nhận thức, thấm nhuần bài học “Lấy dân
làm gốc” một cách sâu sắc nhất để vì dân một cách thiết thực nhất. Khi giải quyết công
việc, cán bộ phải luôn tận tâm, nhiệt tình, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải
tránh thói “miệng nói dân chủ nhưng làm theo lối “quan chủ”.
11
Hai , phải hoàn thiện thể chế,chế để đảm bảo quyền làm chủ của dân trên thực
tế. Theo Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII, nguyên tắc “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”
được bổ sung thêm nội dung “dân giám sát dân thụ hưởng”. Điều này hoàn toàn
đúng nhưng quan trọng hơn là phải nhanh chóng thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc đó
bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Tôn trọng lợi ích của dân thì trước khi ban hành
pháp luật, chính sách, cần đánh giá kỹ lưỡng tác động của đến đời sống nhân dân,
phải thăm luận, đẩy mạnh việc đối thoại với dân - những người chịu tác động
của chính sách ban hành.
Ba , cán bộ phải lắng nghe dân mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước phải hướng
tới việc bảo vệ quyền lợi của dân. Cho không phải mọi ý kiến của dân đều xác
đáng, nhưng đúng như Hồ Chí Minh đã nói, “nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có
một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”.
Điều quan trọng nhất để được lòng tin của dân chính là: Toàn bộ hoạt động của
Đảng và Nhà nước phải xuất phát và hướng tới lợi ích của dân. Trong thời kỳ đất nước
chiến tranh, sở để tạo ra sự gắn kết giữa “lòng dân” “ý Đảng” chính mục
tiêu giải phóng dân tộc. Trong thời bình, sở quan trọng nhất để tạo dựng niềm tin
của dân vào Đảng chính lợi ích của dân. Đây không phải s ban ơn trách
nhiệm, là hành động đúng quy luật của Đảng. Nếu không mang lại lợi ích cho dân thì
có nói bao nhiêu về dân chủ cũng đều vô nghĩa.
Bốn , phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi tệ nạn tham
nhũng, “lợi ích nhóm”. “Lấy dân làm gốc” thì phải huy động nhân dân vào công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cho hình thức dân chủ trực tiếp ngày càng được chú
trọng nhưng dân chủ đại diện vẫn một phương thức bản để hiện thực hóa quyền
làm chủ của dân.
Muốn được dân tin yêu thì người cán bộ, đảng viên, nhất cán bộ lãnh đạo phải
gương mẫu về mọi mặt. Đặc biệt, phải quyết liệt chống tiêu cực thì nhân tố tích cực
mới có chỗ đứng, giống như muốn lúa tốt, phải nhổ sạch cỏ. Vì thế, biểu hiệnnhất,
tập trung nhất của tư tưởng “lấy dân làm gốc” hiện nay chính nói “không” với tham
nhũng và đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, triệt tiêu “lợi ích nhóm".
Thực hiện tư tưởng “Lấy dân làm gốc” thì còn phải phát huy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, đoàn kết trong dân, xây dựng “thế trận lòng dân” trong công cuộc bảo vệ Tổ
quốc. Phải làm tốt công tác dân vận để huy động tối đa “tài dân, sức dân, của dân để
mưu cầu hạnh phúc cho dân”.
Cổ nhân từng đúc kết: “Dân vi bang bản thiên niên sách/ Công tại nhân tâm vạn cổ
trường” (Lấy dân làm gốc, đó là sách lược ngàn năm/ Công lao ở lòng người sẽ ghi tạc
muôn đời). Kỳ tích của dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử đều bắt nguồn
từ sự thực hành tư tưởng “Lấy dân làm gốc” của các bậc anh minh, trong đó có Hồ Chí
Minh. Sinh ra từ dân, sống hoạt động trong lòng dân, luôn tin tưởng biết phát
huy sức mạnhtận của dân để vì dân, Hồ Chí Minh trở thành tượng đài bất tử trong
tình yêu của nhân dân. Bí quyết thành công của Người chính là bài học sâu sắc mà hậu
thế phải noi theo.
2.2. Ý nghĩa việc tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc và mối đại đoàn kết
quốc tế
12
2.2.1 Ý nghĩa việc tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc- truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Từ khi ra đời, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành
phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất
Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy cao độ,
trở thành động lực của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Ðại đoàn kết toàn dân
tộc là đường lối chiến lược, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Thực hiện lời dạy
của Bác Hồ:“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công, đang động lực, kết nối sức mạnh vô địch của toàn dân tộc Việt Nam. Sau 35
năm thực hiện công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướnglãnh đạo, nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so
với những năm trước đổi mới.
Đồng chí Tổng thư khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ được đồ, tiềm
lực, vị thế uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu đó sản phẩm kết tinh
sức sáng tạo,kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong công tác dân
vận tiếp tục được khẳng định nâng cao trong đời sống chính trị - hội của đất
nước. Mối quan hệ gắn giữa Mặt trận các đoàn thể với c tầng lớp nhân dân
ngày càng được củng cố, tăng cường, phát huy. Ðường lối chủ trương của Ðảng, Nhà
nước về đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện và thể chế hóa bằng các
chính sách, pháp luật. Các tầng lớp nhân dân chung sức, chung lòng cùng Ðảng, Nhà
nước vượt qua khó khăn, thử thách, giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dânnâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đang kế thừa,
phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, góp phần to
lớn tạo nên s đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân
dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước trong xây dựng phát triển nhanh, bền vững đất nước. Các
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xã hội rộng lớn do Mặt trận và các tổ
chức thành viên phát động ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng tích cực. Ðặc biệt, các phong trào, cuộc vận động “ Toàn dân xây dựng đời
sống văn hóa sở’’; “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh”; Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; hoạt động bảo vệ biên giới,
chủ quyền, biển đảo, phòng chống thiên tai, bão đoàn kết giúp nhau phát triển
13
kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, lá lành đùm lá rách,
các hoạt động tự quản ở cộng đồng dân cư... có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết
cộng đồng xây dựng quê hương, đất nước.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, chúng ta có thể thấy rõ, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, lúc, nơi chưa phát huy
được vai trò, quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác
những diễn biến, thay đổi cấu hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân để có chủ trương phù hợp. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân các cấp có lúc, có nơi chưa sâu sát với các tầng lớp nhân dân và cơ sở, vẫn còn có
biểu hiện hành chính hóa, chưa thật thiết thưc, hiệu quả. Chủ trương, quan điểm của
Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng
chưa được tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, làm gây nên bức xúc trong một bộ
phận nhân dân.
Trước tình hình mới, Ðảng ta tiếp tục khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam, động lực nguồn lực to lớn trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát
huy mạnh m mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng
bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia-
dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để
tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật
thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
b. Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn về chiến lược cách mạng của Hồ
Chí Minh
Đoàn kết đã trở thành một yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc ta trong đấu tranh
chống kẻ thù ngoại xâm. Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta đã minh chứng về sự ghi nhận công lao của các dân tộc Việt Nam trong sự
đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau, hợp sức – hợp lòng, chung lưng đấu cật
chống thiên tai, địch họa không chỉ để sinh tồn quan rọng hơn còn xây dựng
cuộc sống chung gìn giữ nền độc lập dân tộc phát triển. Chính thế, theo Hồ
Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta.
Từ truyền thống lịch sử vẽ vang ấy, muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải lực
lượng đủ mạnh, muốn lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành £t khối thống nhất
để tạo sức mạnh cách mạng địch. Trên Báo Việt Nam độc lập số 117 ngày 01-02-
1942, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn
kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn
kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Để thống nhất ý chí và hành động của toàn dân, các lực
lượng phải được tập hợp có tổ chức, đó chính là Mặt trận– một trong những nhân tố cơ
bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mặt trận hình thành lấy sở
chung đại đoàn kết, Mặt trận phải cương lĩnh thể hiện mục tiêu đoàn kết,
14
chính sách đúng đắn để phát huy tinh thần đoàn kết và truyền thống yêu nước vẻ vang
của dân tộc. “Có đoàn kết mới lực lượng, lực lượng mới giành được độc lập, tự
do”. Do đó, Hồ Chí Minh xác định trong Mặt trận thì nền tảng của khối đại đoàn kết
chính liên minh công nông: “Đảng phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh
công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân.
như thế mới phát triển củng cố được lực lượng cách mạng đưa cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng”. Người khẳng định: “Đoàn kết một lực lượng địch. Lực
lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp
kháng chiến thắng lợi”. vậy, cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh ra lời
kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, hễ người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu
Tổ quốc”. Trong kháng chiến chống Mỹ, đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng ta
“sẵn sàng đoàn kết tất cả những người yêu nước, không phân biệt xu hướng chính
trị, tín ngưỡng, tôn giáo”...
vậy, xuyên suốt s nghiệp cách mạng Việt Nam, Người khuyên rằng: Dân ta xin
nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh. “Sự đồng tâm của đồng
bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, địch hung tàn, xảo
quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Chẳng
những đoàn kết mọi lực lượng giai cấp trong hội, Hồ Chí Minh đặc biệt chú
trọng đến việc đoàn kết trong Đảng nhất là trong giai đoạn Đảng ta cầm quyền, “các
đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Tinh thần đoàn kết ấy vốnđã được hun đúc
với sự kiện ngày 03/02/1930 thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bằng công thức của
sự kết hợp hữu cơ chặt chẽ giữa Chủ nghĩa Mác Lê-Nin với phong trào công nhân
phong trào yêu nước Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đảng phải
có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Về phương châm đoàn kết. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác
nhau của Hồ Chí Minh là “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn
chế cái riêng, cái khác biệt. Đoàn kết còn có nghĩa“phải giúp đỡ nhau, thật thà học
tập những ưu điểm phê bình những khuyết điểm của nhau để cùng nhau tiến
bộ”. Trong thư gửi đồng bào Nam bộ tháng 6/ 1946, Hồ Chí Minh viết: Năm ngón tay
cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ
tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng
thì ai cũng ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải
lấy tình thân ái mà cảm hóa họ; đối với những người từng bị địch lợi dụng, mua chuộc
nhưng khi họ đã hối cải thì phải lôi kéo họ về phía dân tộc, đoàn kết với họ. Và Người
cũng từng nói rằng, chỉ sợ mình không có lòng nhân ái chứ không sợ người không theo
mình. Như vậy, đoàn kết phải đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả,
hướng tới tương lai.
Dù ở mọi thời kỳ cách mạng, các thế lực xâm lược thù địch luôn tìm mọi cách để
chia rẽ nhân dân ta về mặt lãnh thổ, tôn giáo, sắc tộc... nhằm làm suy yếu tinh thần yêu
nước phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Hồ Chí Minh luôn xác định phương
15
châm “Cầu đồng tồn dị” trong xử trí để đạt đến sự thống nhất, sự tương đồng giữa mục
tiêu, lý tưởng của cách mạng Việt Nam với những niềm tin, khát vọng chính đáng của
tôn giáo, của các lực lượnghội khác… Người không bao giờ để cho sự đối đầu
giữa các hệ tưởng ấy phát triển, ảnh hưởng đến đại cục, đến sự nghiệp chung. Thí
dụ, tôn giáo Tổ quốc, tôn giáo độc lập dân tộc phải thống nhất với nhau. Đấu
tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc nguyện vọng, thiết tha của mọi người dân,
trong đó tín đồ các tôn giáo… Theo ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã nói: Nước không
độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập
đã. Ngay trong Báo cáo dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại Quốc hội nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà khoá I, kỳ họp thứ 11 ngày 18/12/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
khẳng định: “Đảng Chính phủ ta luôn kêu gọi các dân tộc xoá bỏ xích mích do đế
quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ”.
Đoàn kết phải có nguyên tắc, mục tiêu lợi ích chung. Không đoàn kết một
chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời. Trong chính sách đoàn kết phải chống hai khuynh
hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc.
từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, thể cần thiết phải điều chỉnh
chính sách phương pháp phù hợp để tập hợp lực lượng, các đối tượng khác nhau,
song đại đoàn kết dân tộc mẫu số chung luôn luôn được Người coi vấn đề sống
còn của cách mạng.
c. Các giải pháp thực hiện cho công cuộc tăng cường mối đại đoàn kết
dân tộc
Để thực hiện thành công, thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa hội mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh”, cần tiếp tục phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí, nghị lực sức sáng tạo của con người Việt
Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống hội. Muốn vậy, theo chúng tôi cần tập
trung vào các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể cần chăm lo, phát huy
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là
dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của
nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu đổi mới, chỉ có mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa mới
đoàn kết thật sự và bền vững. Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp nhân
dân thiết thực, hiệu quả trong phát triển kinh tế - hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh, giữ vững ổn định chính trị và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện và góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân.
Hai là, Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
điều lợi ích của nhân dân. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, hội, thực hiện
16
tiến bộ công bằng hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Đoàn kết trong Đảng hạt nhân, sở vững chắc để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy Đảng chính quyền phải thường xuyên lắng nghe
tâm nguyện vọng của nhân dân, trao đổi, đối thoại, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải
quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tạo nên niềm tin
của nhân dân đối với Đảng Nhà nước, sự đồng thuận của nhân dân trong hội.
Tiếp tục thể chế hóa cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương,chính sách
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện thực hiện hiệu quả các
chế ,chính sách để phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề
lớn của đất nước; bảo đảm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân,
nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể chính trị- xã hội; tạo
sự đồng thuận trong hội góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh; xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân trong quá trình phát triển đất nước.
Ba là, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần đầu tư, quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp của công
nhân. Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Nâng cao năng suất lao động trong nông
nghiệp và cải thiện chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; thực hiện có hiệu quả,
bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp. Xây dựng
đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước. Tôn trọng phát huy tự do tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Trọng dụng trí thức trên sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực kết quả cống
hiến. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò
vấn, phản biện, giám định hội của các quan nghiên cứu khoa học trong việc
hoạch định đường lối,chủ trương của Đảng,chính sách, pháp luật của Nhà nước và các
dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chăm lo bồi dưỡng và phát huy vai trò của thế hệ trẻ, đội ngũ
doanh nhân, phụ nữ, Cựu Chiến binh, người cao tuổi, các nhân tiêu biểu, các nhân
sĩ, trí thức, người dân tộc thiểu số, các tín đồ, chức sắc tôn giáo cộng đồng người
Việt Nam nước ngoài trong công cuộc đổi mới, xây dựng phát triển nhanh, bền
vững đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Bốn là, Đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiếp tục hoàn thiện
các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết
hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử
dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về
phát triển kinh tế, văn hóa, hội vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất
vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Cơ chế thúc đẩy
tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế
- hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Tăng cường kiểm tra ,giám sát,
đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở
các cấp một cách công khai, minh bạch. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm
17
mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch.
Vận động đồng bào các dân tộc phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống, tích cực tham
gia bảo vệ chủ quyền, biên giới, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện thực thi quy định về đạo đức công vụ trong công tác
dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến
lược, người đứng đầu, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh cải
cách hành chính, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu
chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.
Củng cố, kiện toàn về tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể nhân dân đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, hướng mạnh về sở; phát huy sức mạnh to lớn
của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ sở, phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm
dân tin’’; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân vào công cuộc
đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí; phê phán, xử nghiêm minh những cán bộ, công
chức, viên chức thờ ơ, cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
nhũng nhiễu dân; tăng cường ý thức, tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Sáu là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương chính sách lớn,
bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng công tác kiểm tra, giám sát, bằng công tác lãnh
đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Quy định cụ thể Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình. Phát huy quyền làm chủ, tinh thần đoàn kết, sức sáng tạo của nhân dân trong
công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước. Đổi mới phương thức, phương pháp,
lề lối làm việc, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống
chính trị để thực hiện có hiệu quả những nội dung, nhiệm vụ về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để thực hiện tốt các nội dung trên, cần quán triệt, thấm nhuần u sắc ý kiến của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá
trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố hội chủ nghĩa để các
nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ
thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng”. Toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục phát huy mạnh
mẽ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Ðảng vào cuộc sống, thực hiện thắng lợi
mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
2.2.2. Ý nghĩa việc tăng cường mối đại đoàn kết quốc tế
18
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước
của dân tộc thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng để tổng kết thành một phương
châm sâu sắc: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
ng”. Tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả duy
luận và hoạt động thực tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền,
trong phạm vi một dân tộc, còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó
đoàn kết quốc tế. Gần 60 năm hoạt động cách mạng, trong đó 30 năm hoạt động ở nước
ngoài, liên tục tham gia phong trào cách mạng đóng góp cho sự nghiệp chung của
cách mạng thế giới, thông điệp về tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế luôn được Chủ tịch
Hồ Chí Minh thể hiện một cách rõ ràng và vững chắc. Tư tưởng đoàn kết của Người th
hiện nhãn quan chính trị của một vĩ nhân, sự tài tình của nhà tổ chức cách mạng luôn đặt
yếu tố đoàn kết lên hàng đầu. Theo những di huấn của Người, ch “đoàn kết, đại
đoàn kết” mới tập hợp được lực lượng, hình thành được tổ chức ch mạng, mới tạo
được sức mạnh to lớn để biến luận khoa học, biến đường lối, quan điểm của Đảng
thành hiện thực mới đạt được “đại thành công”.
Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt và nhất quán,
bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
sản muốn đi đến thắng lợi t phải huy động tập hợp được sức mạnh đoàn kết
quốc tế. Trong hành trình tìm đường cứu nước, lý tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ C
Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà còn vì sự nghiệp giải phóng các
n tộcnhân loại cần lao khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, đế quốc. Thực tiễn
lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng được những kẻ thù hùng mạnh cũng bởi
nhờ toàn dân luôn đoàn kết một lòng; đồng thời, đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp
đỡ quý báu cả về tinh thần và vật chất của các nước anh em, của bạn bè yêu chuộng hòa
bình trên toàn thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến ngày thắng lợi “Sẽ thay
mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các
nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta”. Đó biểu hiện truyền thống đoàn kết, thủy chung của dân tộc Việt
Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu
thương đối với con người, với nhân loại đoàn kết toàn nhân loại mục tiêu giải
phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong
mối quan hệ khăng khít với phong trào cách mạng thế giới. Từ ngày 25 đến ngày 30
tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội
Pháp, họp thành phố Tua (Tours) với cách đại biểu Đông Dương, Người đã bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản, trở thành một thành viên sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp. Từ đây, Người đã đặt nền móng cho tình đoàn kết chiến đấu giữa
Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Pháp, tạo sự gắn chặt chẽ hơn giữa
phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.
Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng, giữ gìn và phát triển nh đoàn
kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các nước hội chủ nghĩa anh
em khác; với nhân dân các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-tinh...Người chủ trương tăng
19
cường đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, “giúp bạn tự giúp mình”; coi trọng, thắt
chặt tình đoàn kết, giúp đỡ của nhân dân thế giới c tổ chức quốc tế đối với Việt
Nam; gắn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Lần đầu tiên
trong lịch sử nước ta có một con người vĩ đại đã gắn cách mạng của đất nước mình với
cách mạng thế giới thời đại, trên sở nhận thức cách mạng Việt Nam là một bộ
phận, có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới. vậy, Người chủ trương thực hiện đoàn kết
sâu sắc triệt để trên nguyên tắc bình đẳng dân tộc hợp tác cùng lợi. Đoàn kết
hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ
quốc tế để làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển biến lực
ợng lợi cho cách mạng trong nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nhân dân ta
chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của mình, còn tự do, độc
lập chung của các dân tộc và hòa bình thế giới. Ngay đối với Mỹ là nước đưa quân sang
m lược Việt Nam, Người cũng nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết phân biệt sự khác
nhau giữa những người Mỹ xâm lược nhân dân Mỹ, được biểu hiện thông qua
bức Thư gửi nhân dân Mỹ tháng 12-1961, trong đó nêu rõ: “Nhân dân Mỹ và nhân dân
Việt Nam không thù không oán. Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn một dân tộc
đầu tiên đã phất cờ chống chủ nghĩa thực dân (1775 – 1783) và chúng tôi mong muốn
quan hệ hữu nghị với các bạn… Hiện nay, Chính phủ Mỹ đang ng quân sự can
thiệp vào nội bộ Việt Nam, đang âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam chúng tôi.
Chúng tôi buộc phải đấu tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Và chúng tôi mong
c bạn hành động ngay để ngăn cản Chính phủ Mỹ phát động một cuộc chiến tranh
phi nghĩa chống nhân dân Việt Nam”.
Đối với phong trào Cộng sản công nhân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú
trọng đến đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản anh em trên toàn thế giới, là hiện thân của
tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đoàn kết quốc tế, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mệnh An Nam cũng một bộ phận trong cách mệnh thế
giới và cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cuộc đấu
tranh đại nhằm chống chủ nghĩa đế quốc chủ nghĩa thực dân của nhân dân thế
giới”. Vì vậy, trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong hòa bình xây dựng
đất nước, một mặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc nêu cao tinh thần độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng Người luôn luôn kêu gọi phải tăng cường sự đoàn kết
và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủtiến bộ xã hội trên thế
giới. Tại các diễn đàn quốc tế, Người đã cảnh báo về sự bất đồng, chia rẽ trong
phong trào Cộng sản công nhân quốc tế. Theo đó, không chỉ làm suy giảm sức
mạnh cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội,
còn chia rẽ sâu sắc khối đoàn kết, thống nhất của các lực lượng dân chủ, yêu chuộng
hòa bình, tiến bộ trên thế giới; tạo điều kiện để các loại kẻ thù của cách mạng gây
chiến tranh xâm lược, phá hoại môi trường hòa bình thế giới. Cùng với niềm tin tưởng,
kỳ vọng vào sức mạnh của tình đoàn kết quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời bày
tỏ những trăn trở, lo lắng về những bất hòa, mất đoàn kết trong nội bộ giữa các Đảng
anh em. Người viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với
sự lớn mạnh của phong trào cộng sản công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng
đau lòng bấy nhiêu sự bất hòa hiện nay giữa các Đảng anh em”. Chủ tịch Hồ Chí
20
| 1/26

Preview text:

TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  by Unknown Author is licensed under
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.
Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: TS. PHẠM THỊ LAN SVTH: 1.LÊ TẤN HIỂN 22144089
2.HUỲNH THIỆN PHÁT 22144160 3.DƯƠNG XUÂN KHẢI 22144119
4.NGUYỄN THÀNH LUÂN 22144142 under 5.PHẠM KHÁNH VINH 22144228 Author is licensed by Unknown
Mã lớp học: LLCT130105_13CLC
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12, năm 2022 Author is by Unknown licensed under MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu.....................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................3 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1.1. Con người là thực thể sinh học - xã hội.................................................5
1.2. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình .....................................................................6
1.3. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người…... 7
1.4. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử………7
1.5. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội………………………9
CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tư tưởng lấy dân làm gốc.........................................................................9
2.2. Tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc và mối đại đoàn kết quốc
tế................................................................................................................13
2.2.1 Giải pháp tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay
...................................................................................................................13
2.2.2 Giải pháp tăng cường mối đại đoàn kết quốc tế ................................
KẾT LUẬN............................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................24 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài
Muốn có một tiểu luận cho triết học Mac-Lenin về con người và bản chất con người –
Ý nghĩa việc nghiên cứu con người đối với xã hội Việt Nam ngày nay. Từ đó giúp bản
thân cũng như mọi người có thêm kiến thức về đề tài này. 2. Mục tiêu nghiên cứu
a. Hiểu rõ được con người và bản chất của con người theo triết học Mac-Lenin
- Biết được con người là thực thể của sinh học và xã hội.
- Hiểu được sự khác biệt cơ bản của con người là loài vật.
- Hiểu được con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
- Biết bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
b. Nắm bắt được ý nghĩa và phương pháp nghiên cứu con người đối với xã hội Việt Nam ngày nay
3. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp phân tích tổng hợp là phương pháp tổng hợp những bài nghiên
cứu hoặc những mô hình lý thuyết trước đó về vấn đề đưa ra, sau đó thực hiện
phân tích và lựa chọn lý thuyết phù hợp nhất với bài tiểu luận.
- Nội dung: Trong quá trình nghiên cứu và phân tích vấn đề, bạn cần tổng hợp
lại các lý thuyết tìm hiểu được một cách ngắn gọn, cụ thể với nội dung chính
xác. Đặc biệt cần nắm rõ những lưu ý hay ý nghĩa của đề tài một cách rõ ràng.
- Cách áp dụng: Phương pháp này thường được sử dụng nhiều trong phần mở
đầu hoặc kết thúc bài tiểu luận, bên cạnh đó cũng có thể xuất hiện trong phần bàn luận vấn đề.
 Phương pháp phỏng vấn – trả lời
- Phương pháp phỏng vấn – trả lời là phương pháp sử dụng một loạt các câu hỏi
để phỏng vấn nhằm thu được câu trả lời từ người được hỏi.
- Nội dung: Phương pháp này sẽ đưa ra những câu hỏi đã được chuẩn bị trước
hoặc bổ sung thêm trong quá trình hỏi – đáp từ nhóm phỏng vấn nhằm thu
thập các thông tin hữu ích và phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình.
- Cách áp dụng: Áp dụng khi nhóm nghiên cứu mong muốn thu được những
thông tin thực tiễn nhằm phục vụ bài tiểu luận. 3
 Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia
- Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia là phương pháp thu thập các ý kiến của
những chuyên gia trong lĩnh vực liên quan hoặc trực tiếp về vấn đề nghiên cứu.
- Nội dung: Phương pháp này thu thập các ý kiến và quan điểm khác nhau từ
các chuyên gia, kiểm tra và bổ sung lẫn nhau để có một cái nhìn khách quan và
chuyên sâu về vấn đề nghiên cứu.
- Cách áp dụng: Trong các bài nghiên cứu, phương pháp này được sử dụng để
giúp nhóm nghiên cứu có thêm những hiểu biết chi tiết về lĩnh vực hoặc vấn đề nghiên cứu.
 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp là phương pháp thu thập và tổng hợp lại
các số liệu thứ cấp từ những bài nghiên cứu hoặc khảo sát trước đó, tổng hợp và
phân tích hoặc thực hiện lại trong tình hình hiện tại.
- Nội dung: Phương pháp này yêu cầu người viết lấy thông tin từ những nguồn
đáng tin và phù hợp với đề tài nghiên cứu với độ chính xác cao nhất để đưa ra
kết quả và rút ra kết luận.
- Cách áp dụng: Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp được áp dụng khi người
viết muốn sử dụng các số liệu được nghiên cứu trước đó vào bài tiểu luận của mình.
 Phương pháp liệt kê so sánh
- Phương pháp liệt kê so sánh là phương pháp nghiên cứu tiểu luận sử dụng các
tài liệu tham khảo và các dẫn chứng thực tế so sánh và đối chiếu với nhau để
tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của từng luận điểm nhằm rút ra lựa chọn tối ưu
nhất cho bài tiểu luận.
- Nội dung: Khi sử dụng phương pháp liệt kê so sánh, người viết có thể dùng
những thông tin mang tính tương đồng để xét vào một nhóm và thực hiện so sánh.
- Cách áp dụng: Áp dụng thường ở trong phần nêu lên dẫn chứng và thực trạng
của vấn đề nghiên cứu. 4 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI 1.1.
Con người là thực thể sinh học - xã hội
Theo C. Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất
của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các
thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một thực
thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự
kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao
giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Điều đó có nghĩa rằng
con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu
tranh sinh tồn” để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa điều đó,
không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo
nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực thể xã hội. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi xem xét con người, không thể tách rời hai phương diện
sinh học và xã hội của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận của giới
tự nhiên. “Giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người,... đời sống thể xác và tinh
thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Về phương diện thực thể sinh học, con
người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di
truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một
bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên
và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt
đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác,
con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên
liệu, áo quần, nhà ở, v.v.. Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận
của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự
nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên,
gắn bó với giới tự nhiên, hòa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển.
Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự
trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan
trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể
bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”. Nếu các động vật khác
phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con
người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật
phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà về mặt sinh học
con người có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự
nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh
học của con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao
động là điều kiện tiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát
triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội. 5
Trong hoạt động, con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà
còn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển
phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến
cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội
của con người chỉ có trong xã hội loài người, con người không thể tách khỏi xã hội và
đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với các động vật khác. Hoạt động của con
người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho xã
hội, khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực
tiếp của nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý
thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau.
Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn
ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là
một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội.
Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. 1.2.
Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
“Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng
bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật
ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một
bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”.
“Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vượn
may mắn lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất. Chỉ riêng sự khác biệt duy
nhất nhưng cơ bản ấy cũng khiến ta không thể chuyển - nếu không kèm theo những
điều kiện tương ứng - các quy luật của các xã hội loài vật sang xã hội loài người”.
Các nhà tư tưởng trước C. Mác cũng đã có những ý kiến khác nhau về sự khác biệt
giữa con người và các động vật khác với tư cách là những dấu hiệu về nội hàm của
khái niệm con người. Chẳng hạn, Aristoteles đã cho rằng con người là một động vật
chính trị. Nhưng quan niệm của triết học Mác - Lênin về sự khác biệt giữa con người
và các động vật khác thể hiện tính chất duy vật nhất quán: xác định sự khác biệt đó
dựa trên nền tảng của sản xuất vật chất. Lao động, tức là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt
của mình, tạo ra con người và xã hội, thúc đẩy con người và xã hội phát triển. Đây là
điểm khác biệt rất căn bản, chi phối các đặc điểm khác biệt khác giữa con người với
các động vật khác. Quan niệm này được Ph. Ăngghen làm sáng rõ trong tác phẩm
Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người”. 1.3.
Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của Feuerbach đã
xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ,
xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, không có hoạt động thực
tiễn. Feuerbach đã không nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống động giữa người
với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy, Feuerbach đã tuyệt 6
đối hóa tình yêu giữa người với người. Hơn nữa, đó cũng không phải là tình yêu hiện
thực mà là tình yêu đã được lý tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Feuerbach
và của các nhà tư tưởng khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch
sử tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng
định con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản
phẩm của lịch sử xã hội loài người và của chính bản thân con người. C. Mác đã khẳng
định trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” rằng: “Tiền đề của lý luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và
làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn
tại”. Cần lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người,
nhưng con người, khác với các động vật khác, không thụ động để lịch sử làm mình
thay đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử. 1.4.
Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời,
lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con
người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác
với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát
triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không
phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch
sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu
thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi các động vật khác, có ý nghĩa
sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản
xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên
trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu
làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con
người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà phải dựa vào
những điều kiện do quá khứ, do thế hệ tr ớc ƣ
để lại trong những hoàn cảnh mới. Con
người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ
trước để lại; mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của mình để cải biến
những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì tương ứng, con
người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người tạo ra lịch sử cho đến nay
con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác định.
Đó là toàn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần, có quan
hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và xã hội. Đó là những điều
kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của con người.
Một mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan
hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn
lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác,
là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự nhiên,
tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc biệt là các quá trình y
học, sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh thể hay sinh học, con người
là một tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ thống mở, biến đổi và phát triển 7
không ngừng, thay đổi và thích nghi khá nhanh chóng so với các động vật khác trước
những biến đổi của môi trường. Con người vừa tiếp nhận, thích nghi, hòa nhịp với giới
tự nhiên, nhưng cũng bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con
người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội. Con người là sản phẩm
của hoàn cảnh, của môi trường, trong đó có môi trường xã hội. Môi trường xã hội cũng
là điều kiện và tiền đề để con người có thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy
mô rộng lớn và hữu hiệu hơn. Về thực chất, môi trường xã hội cũng là một bộ phận
của tự nhiên với những đặc thù riêng. So với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến con người, sự tác động của môi trường tự
nhiên đến từng cá nhân con người thường phải thông qua môi trường xã hội và chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố xã hội. Môi trường xã hội cũng như mỗi cá nhân
con người thường xuyên phải có quan hệ với môi trường tự nhiên và tồn tại trong mối
quan hệ tác động qua lại, chi phối và quy định lẫn nhau.
Do sự phát triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học và công nghệ, nhiều loại
môi trường khác đã và đang được phát hiện. Đó là những môi trường, như môi trường
thông tin, kiến thức, môi trường từ tính, môi trường điện, môi trường hấp dẫn, môi
trường sinh học, v.v.. Nhưng cần lưu ý rằng, có những môi trường trong số đó mới
được phát hiện và đang được nghiên cứu, nên còn có nhiều ý kiến, quan niệm khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi trường
tương tác yếu đang được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi trường như
vậy. Tuy nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay còn có những
ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc là thuộc về môi trường tự nhiên, hoặc
là thuộc về môi trường xã hội. Tính chất, phạm vi, vai trò và tác động của chúng đến
con người là khác nhau, không giống hoàn toàn như môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội. Chúng là những hiện tượng, quá trình cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội,
có tác động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp, cụ thể và xác định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội. 1.5.
Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội
Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người
có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Bản chất của con người luôn được hình
thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ
thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người, nhưng không phải là sự kết
hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mỗi quan
hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không tách rời nhau. Các
quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan
hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ gián tiếp, quan hệ tất nhiên hoặc ngẫu nhiên,
quan hệ bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, v.v.. Tất cả các
quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ xã hội
thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo.
Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có thể bộc lộ được bản chất
thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản chất người của con 8
người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chi phối
và quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người
không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh
đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã
hội tồn tại, phát triển và chi phối.
CHƯƠNG 2. Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ
HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.Ý nghĩa tư tưởng lấy dân làm gốc.
Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ của dân tộc Việt Nam và phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới mà còn là nhà tư tưởng lớn với những chân lý đã được kiểm chứng
bởi thực tiễn. Điều nổi bật và cũng là bí quyết thành công của Hồ Chí Minh với tư
cách nhà tư tưởng và thủ lĩnh chính trị nằm ở chỗ: Người đã thấu hiểu vai trò của dân,
thực sự trọng dân, biết phát huy vai trò của dân và hết lòng vì dân. Trong 35 năm qua,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành sự nghiệp Đổi mới với tinh thần “đổi mới là sự
nghiệp của dân, do dân và vì dân”. Cho dù chưa bao giờ Việt Nam có được cơ đồ như
ngày hôm nay nhưng cơ hội và thách thức đang đặt ra cho cách mạng Việt Nam đòi
hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức và hành động đúng tinh thần “Lấy dân làm
gốc” để phát huy cao độ tiềm lực trong dân, đưa đất nước tiến lên.
a. Nước lấy dân làm gốc
“Dân là gốc của nước, nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng và phương châm hành động
của các bậc hiền minh từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim. Trên tinh thần kế thừa và phát
triển tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng “Lấy dân
làm gốc” lên một tầm cao mới. Tư tưởng của Người vừa có sự chung đúc với tiền
nhân, vừa có nét độc đáo, sáng tạo. Đáng chú ý nhất là một số quan điểm sau đây.
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm mới về quần chúng nhân dân. Nói đến dân
là nói đến những người đứng ngoài bộ máy cai trị, chịu tác động từ chính sách của nhà
cầm quyền. Nếu trong quan niệm của giai cấp phong kiến, dân chỉ là “thần dân”, “thảo
dân”, tức tầng lớp “bị trị” thấp hèn thì đối với Hồ Chí Minh, “trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân”. Quan niệm về nhân dân của Hồ Chí Minh có điểm khác biệt so với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Nếu Lênin nhấn mạnh tính giai cấp khi coi “quần chúng là đa số, và hơn
thế nữa chẳng những đa số công nhân, mà là đa số những người bị bóc lột” thì Hồ Chí
Minh nhấn mạnh tính dân tộc khi định nghĩa: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông,
tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác”. Việc mở rộng nội hàm
“Nhân dân” của Hồ Chí Minh hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của xã hội Việt Nam.
Mặt khác, quan niệm của Người về nhân dân cũng khác biệt so với ông cha khi Người
đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để khẳng định “công - nông là gốc của cách mạng”.
Thứ hai, Hồ Chí Minh luận giải một cách khoa học “vì sao dân là gốc của nước”. Dân
là “gốc” của nước bởi “lực lượng của dân rất to”, rất đông, rất mạnh. Dân là “gốc” của
nước bởi “dân rất tốt”, trong mỗi người dân đều có phẩm chất cao quý nhất là lòng yêu
nước và tinh thần dân tộc. Dân là “gốc” của nước còn bởi “dân rất thông minh”, biết
“giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Chính của cải, sức mạnh, đạo đức, tài 9
năng, lòng tin của dân đã tạo nên “cái gốc” của nước. Nhận thức sâu sắc về cái “gốc”
đó, Hồ Chí Minh đúc kết: “Nước lấy dân làm gốc… Gốc có vững, cây mới bền/ Xây
lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Như vậy, lòng dân chính là “vận nước”.
Thứ ba, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của dân trong sự nghiệp cách mạng và vị thế
của dân trong chế độ mới. Nếu giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản coi nhân dân chỉ là
động lực, phương tiện cần huy động cho các cuộc đấu tranh thì Hồ Chí Minh khẳng
định nhân dân là chủ thể và là mục tiêu của cách mạng. Người nhấn mạnh: “Làm cách
mạng phải dựa vào dân nhưng làm cách mạng để mang lại hạnh phúc cho dân”.
Người còn nâng quan điểm “Dân vi bản” và truyền thống “thân dân” thành quan điểm
“dân là chủ và làm chủ”. Người khẳng định: Trong chế độ dân chủ, nhân dân mới là
chủ sở hữu mọi quyền lực. Nếu cụm từ “Dân là chủ” nói đến địa vị cao nhất của dân
trong xã hội thì cụm từ “Dân làm chủ” nói đến trách nhiệm và nghĩa vụ làm chủ của
dân. Sự nghiệp cách mạng không chỉ của dân mà còn do dân; cho nên, bản thân quần
chúng nhân dân phải có đạo đức và trách nhiệm công dân.
Mặt khác, khi dân đã là chủ thì tất cả cán bộ, kể cả Chủ tịch nước, đều là đầy tớ của
dân. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nhận thức rõ vai trò “kép” của mình:
Vừa là người đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo sáng suốt nhưng “lãnh đạo là
làm đầy tớ cho nhân dân và phải làm cho tốt”.
Thứ tư, Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên phải gần dân, trọng
dân, học dân, thật thà trước dân và yêu dân. Dân tộc Việt Nam đã tồn tại hàng ngàn
năm nhưng Đảng thì mới ra đời vào năm 1930. Điều đó có nghĩa là “lòng dân” có
trước “ý Đảng”. Dân là “gốc” của nước, là cội nguồn sức mạnh của Đảng nên muốn
lãnh đạo dân, Đảng phải gần dân, lắng nghe dân, thấu hiểu dân để đề ra chủ trương,
chính sách hợp lòng dân. Coi xa dân, quan liêu là những căn bệnh lớn nhất của đảng
cầm quyền nên Hồ Chí Minh đã viết: “Đề nghị các vị Bộ trưởng nên luyện cho mình
đôi chân hay đi, đôi mắt hay nhìn, cái óc hay nghĩ, không nên chỉ ngồi bàn giấy, theo
kiểu “đạo nhân phòng thủ”. Không chỉ nhấn mạnh phương thức hoạt động của Đảng là
“phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, Người còn cảnh báo: Nếu xa
cách dân chúng thì nhất định thất bại. Sự “gần dân” trong quan niệm của Hồ Chí Minh
không chỉ là gần về khoảng cách địa lý, tức là cán bộ phải bám sát cơ sở mà còn phải
“gần” về lối sống, mức sống, thậm chí là cán bộ, đảng viên phải có tinh thần “tiên ưu
hậu lạc”. Chỉ như thế nhân dân mới thấy đây là người đại diện của mình và cán bộ
cũng mới hiểu rõ dân sinh, dân ý, dân tình.
Dân là “gốc” của nước nên Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực hành
văn hóa trọng dân, trước hết là tôn trọng ý nguyện và quyền làm chủ của dân. Người
căn dặn “ý dân là ý trời”, dân muốn gì ta phải làm nấy. Sự tín nhiệm của dân luôn thể
hiện chính xác năng lực, phẩm chất của cán bộ nên Đảng phải tôn trọng đánh giá của
dân về từng cán bộ để làm tốt công tác tổ chức.
Do lực lượng của dân rất đông, trí tuệ của dân là vô tận nên cán bộ, đảng viên phải
thực sự cầu thị, khiêm tốn, học hỏi dân chúng. Dân chính là người chịu tác động của
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nên việc xây dựng đường lối phải
dựa trên ý nguyện của dân, tuyệt đối không được chủ quan, duy ý chí; nếu “nghị quyết
gì mà dân chúng cho là không hợp thì đề nghị họ sửa chữa”. 10
Trong công tác lãnh đạo dân chúng, nếu cán bộ “có khuyết điểm thì thật thà tự phê
bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình”. Sự thành thực của cán
bộ không chỉ làm dân thông cảm, tin yêu mà còn là cơ sở để Đảng khắc phục hạn chế,
ngày càng trưởng thành hơn. Mọi tình cảm bền vững phải dựa trên nguyên tắc 2 chiều
nên Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ là, “chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.
Thứ năm, cán bộ, đảng viên của Đảng phải thực sự dựa vào dân để vì dân. “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng” vì vậy, cho dù Đảng Cộng sản là lực lượng dẫn
đường nhưng “những người cộng sản chỉ là một giọt nước trong đại dương, một giọt
nước trong đại dương nhân dân”. Muốn thực hiện bất cứ chiến lược nào, Đảng đều
phải bàn bạc với dân, dựa vào dân, huy động sức mạnh trong nhân dân.
Không chỉ dựa vào dân, quan trọng hơn là Hồ Chí Minh đã coi lợi ích của dân là mục
tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng. Người nói rõ “Đảng không phải là một tổ chức
để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Vì dân là “gốc” nên việc gì có lợi cho dân dù nhỏ
nhất vẫn phải làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ nhất cũng phải tránh. “Dân dĩ thực vi
thiên”, khi trở thành Đảng cầm quyền, tất cả đường lối, phương châm, chính sách của
Đảng đều phải nhằm vào mục tiêu nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là làm
cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành.
“Lấy dân làm gốc” là sợi chỉ đỏ trong tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Sức thuyết
phục của tư tưởng không chỉ xuất phát từ tính khoa học, cách mạng, nhân văn được thể
hiện trong từng luận điểm mà còn được đảm bảo bằng cuộc đời trọn vẹn vì nước, vì dân của Người.
b. Vận dụng tư tưởng “lấy dân làm gốc”
Từ sự trưởng thành trong tư duy lý luận và sự kiểm chứng trên thực tế, các Đại hội
Đảng trong thời kỳ Đổi mới đều khẳng định bài học: Đổi mới phải luôn quán triệt tư
tưởng “Lấy dân làm gốc”; phải thực sự dựa vào dân, vì lợi ích của dân. Đảng muốn
đồng hành và lãnh đạo dân thì Đảng phải tin vào dân và quan trọng hơn là phải được dân tin.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận thực tế, một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
viên vẫn chỉ biết vun vén, thậm chí vơ vét cho bản thân mà thờ ơ, vô cảm trước dân.
Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế; phương châm “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chủ yếu mới dừng ở “dân làm”. Căn bệnh độc đoán,
chuyên quyền, dân chủ hình thức còn ở đâu đó… Những khuyết điểm trên đã làm ảnh
hưởng tới lòng tin của dân vào Đảng và chế độ.
Do đó, thực hành tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc” để khôi phục lại lòng
tin của dân, là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay. Tuy nhiên, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
không phải chỉ là nhắc lại những câu nói mang tầm chân lý của Người mà là nghĩ sâu,
nhìn thẳng và làm tốt một số việc sau đây.
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao nhận thức, thấm nhuần bài học “Lấy dân
làm gốc” một cách sâu sắc nhất để vì dân một cách thiết thực nhất. Khi giải quyết công
việc, cán bộ phải luôn tận tâm, nhiệt tình, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, phải
tránh thói “miệng nói dân chủ nhưng làm theo lối “quan chủ”. 11
Hai là, phải hoàn thiện thể chế, cơ chế để đảm bảo quyền làm chủ của dân trên thực
tế. Theo Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII, nguyên tắc “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”
được bổ sung thêm nội dung “dân giám sát và dân thụ hưởng”. Điều này hoàn toàn
đúng nhưng quan trọng hơn là phải nhanh chóng thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc đó
bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Tôn trọng lợi ích của dân thì trước khi ban hành
pháp luật, chính sách, cần đánh giá kỹ lưỡng tác động của nó đến đời sống nhân dân,
phải thăm dò dư luận, đẩy mạnh việc đối thoại với dân - những người chịu tác động của chính sách ban hành.
Ba là, cán bộ phải lắng nghe dân và mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước phải hướng
tới việc bảo vệ quyền lợi của dân. Cho dù không phải mọi ý kiến của dân đều xác
đáng, nhưng đúng như Hồ Chí Minh đã nói, “nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có
một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích”.
Điều quan trọng nhất để có được lòng tin của dân chính là: Toàn bộ hoạt động của
Đảng và Nhà nước phải xuất phát và hướng tới lợi ích của dân. Trong thời kỳ đất nước
có chiến tranh, cơ sở để tạo ra sự gắn kết giữa “lòng dân” và “ý Đảng” chính là mục
tiêu giải phóng dân tộc. Trong thời bình, cơ sở quan trọng nhất để tạo dựng niềm tin
của dân vào Đảng chính là lợi ích của dân. Đây không phải là sự ban ơn mà là trách
nhiệm, là hành động đúng quy luật của Đảng. Nếu không mang lại lợi ích cho dân thì
có nói bao nhiêu về dân chủ cũng đều vô nghĩa.
Bốn là, phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi tệ nạn tham
nhũng, “lợi ích nhóm”. “Lấy dân làm gốc” thì phải huy động nhân dân vào công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cho dù hình thức dân chủ trực tiếp ngày càng được chú
trọng nhưng dân chủ đại diện vẫn là một phương thức cơ bản để hiện thực hóa quyền làm chủ của dân.
Muốn được dân tin yêu thì người cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo phải
gương mẫu về mọi mặt. Đặc biệt, phải quyết liệt chống tiêu cực thì nhân tố tích cực
mới có chỗ đứng, giống như muốn lúa tốt, phải nhổ sạch cỏ. Vì thế, biểu hiện rõ nhất,
tập trung nhất của tư tưởng “lấy dân làm gốc” hiện nay chính là nói “không” với tham
nhũng và đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, triệt tiêu “lợi ích nhóm".
Thực hiện tư tưởng “Lấy dân làm gốc” thì còn phải phát huy sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, đoàn kết trong dân, xây dựng “thế trận lòng dân” trong công cuộc bảo vệ Tổ
quốc. Phải làm tốt công tác dân vận để huy động tối đa “tài dân, sức dân, của dân để
mưu cầu hạnh phúc cho dân”.
Cổ nhân từng đúc kết: “Dân vi bang bản thiên niên sách/ Công tại nhân tâm vạn cổ
trường” (Lấy dân làm gốc, đó là sách lược ngàn năm/ Công lao ở lòng người sẽ ghi tạc
muôn đời). Kỳ tích của dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử đều bắt nguồn
từ sự thực hành tư tưởng “Lấy dân làm gốc” của các bậc anh minh, trong đó có Hồ Chí
Minh. Sinh ra từ dân, sống và hoạt động trong lòng dân, luôn tin tưởng và biết phát
huy sức mạnh vô tận của dân để vì dân, Hồ Chí Minh trở thành tượng đài bất tử trong
tình yêu của nhân dân. Bí quyết thành công của Người chính là bài học sâu sắc mà hậu thế phải noi theo.
2.2. Ý nghĩa việc tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc và mối đại đoàn kết quốc tế 12
2.2.1 Ý nghĩa việc tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc- truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam
Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Từ khi ra đời, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành
phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất
Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy cao độ,
trở thành động lực của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Ðại đoàn kết toàn dân
tộc là đường lối chiến lược, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Thực hiện lời dạy
của Bác Hồ:“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công, đang là động lực, kết nối sức mạnh vô địch của toàn dân tộc Việt Nam. Sau 35
năm thực hiện công cuộc đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so
với những năm trước đổi mới.
Đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “ Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh
sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta, của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong công tác dân
vận tiếp tục được khẳng định và nâng cao trong đời sống chính trị - xã hội của đất
nước. Mối quan hệ gắn bó giữa Mặt trận và các đoàn thể với các tầng lớp nhân dân
ngày càng được củng cố, tăng cường, phát huy. Ðường lối chủ trương của Ðảng, Nhà
nước về đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện và thể chế hóa bằng các
chính sách, pháp luật. Các tầng lớp nhân dân chung sức, chung lòng cùng Ðảng, Nhà
nước vượt qua khó khăn, thử thách, giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dân và nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã và đang kế thừa,
phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, góp phần to
lớn tạo nên sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân
dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước trong xây dựng và phát triển nhanh, bền vững đất nước. Các
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xã hội rộng lớn do Mặt trận và các tổ
chức thành viên phát động ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng tích cực. Ðặc biệt, các phong trào, cuộc vận động “ Toàn dân xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở’’; “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh”; “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; hoạt động bảo vệ biên giới,
chủ quyền, biển đảo, phòng chống thiên tai, bão lũ và đoàn kết giúp nhau phát triển 13
kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, lá lành đùm lá rách,
các hoạt động tự quản ở cộng đồng dân cư... có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết
cộng đồng xây dựng quê hương, đất nước.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, chúng ta có thể thấy rõ, sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy
được vai trò, quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Chưa đánh giá và dự báo chính xác
những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân để có chủ trương phù hợp. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân các cấp có lúc, có nơi chưa sâu sát với các tầng lớp nhân dân và cơ sở, vẫn còn có
biểu hiện hành chính hóa, chưa thật thiết thưc, hiệu quả. Chủ trương, quan điểm của
Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa được kịp thời thể chế hóa, hoặc đã thể chế hóa nhưng
chưa được tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, làm gây nên bức xúc trong một bộ phận nhân dân.
Trước tình hình mới, Ðảng ta tiếp tục khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát
huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia-
dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để
tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật
thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
b. Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn về chiến lược cách mạng của Hồ Chí Minh
Đoàn kết đã trở thành một yêu cầu khách quan của lịch sử dân tộc ta trong đấu tranh
chống kẻ thù ngoại xâm. Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta đã minh chứng về sự ghi nhận công lao của các dân tộc Việt Nam trong sự
đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ nhau, hợp sức – hợp lòng, chung lưng đấu cật
chống thiên tai, địch họa không chỉ để sinh tồn mà quan rọng hơn còn là xây dựng
cuộc sống chung và gìn giữ nền độc lập dân tộc và phát triển. Chính vì thế, theo Hồ
Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta.
Từ truyền thống lịch sử vẽ vang ấy, muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực
lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành mô £t khối thống nhất
để tạo sức mạnh cách mạng vô địch. Trên Báo Việt Nam độc lập số 117 ngày 01-02-
1942, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn
kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn
kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Để thống nhất ý chí và hành động của toàn dân, các lực
lượng phải được tập hợp có tổ chức, đó chính là Mặt trận– một trong những nhân tố cơ
bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mặt trận hình thành lấy cơ sở
chung là đại đoàn kết, Mặt trận phải có cương lĩnh thể hiện mục tiêu đoàn kết, có 14
chính sách đúng đắn để phát huy tinh thần đoàn kết và truyền thống yêu nước vẻ vang
của dân tộc. “Có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được độc lập, tự
do”. Do đó, Hồ Chí Minh xác định trong Mặt trận thì nền tảng của khối đại đoàn kết
chính là liên minh công nông: “Đảng phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh
công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân. Có
như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng”. Người khẳng định: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực
lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp
kháng chiến thắng lợi”. Vì vậy, ở cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh ra lời
kêu gọi: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu
Tổ quốc”. Trong kháng chiến chống Mỹ, đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng ta
là “sẵn sàng đoàn kết tất cả những người yêu nước, không phân biệt xu hướng chính
trị, tín ngưỡng, tôn giáo”...
Vì vậy, xuyên suốt sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Người khuyên rằng: Dân ta xin
nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh. “Sự đồng tâm của đồng
bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung tàn, xảo
quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Chẳng
những đoàn kết mọi lực lượng và giai cấp trong xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt chú
trọng đến việc đoàn kết trong Đảng – nhất là trong giai đoạn Đảng ta cầm quyền, “các
đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng
như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Tinh thần đoàn kết ấy vốn dĩ đã được hun đúc
với sự kiện ngày 03/02/1930 thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bằng công thức của
sự kết hợp hữu cơ chặt chẽ giữa Chủ nghĩa Mác Lê-Nin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đảng phải
có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Về phương châm đoàn kết. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác
nhau của Hồ Chí Minh là “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn
chế cái riêng, cái khác biệt. Đoàn kết còn có nghĩa là “phải giúp đỡ nhau, thật thà học
tập những ưu điểm và phê bình những khuyết điểm của nhau để cùng nhau tiến
bộ”. Trong thư gửi đồng bào Nam bộ tháng 6/ 1946, Hồ Chí Minh viết: Năm ngón tay
cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ
tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng
thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải
lấy tình thân ái mà cảm hóa họ; đối với những người từng bị địch lợi dụng, mua chuộc
nhưng khi họ đã hối cải thì phải lôi kéo họ về phía dân tộc, đoàn kết với họ. Và Người
cũng từng nói rằng, chỉ sợ mình không có lòng nhân ái chứ không sợ người không theo
mình. Như vậy, đoàn kết phải đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
Dù ở mọi thời kỳ cách mạng, các thế lực xâm lược và thù địch luôn tìm mọi cách để
chia rẽ nhân dân ta về mặt lãnh thổ, tôn giáo, sắc tộc... nhằm làm suy yếu tinh thần yêu
nước và phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Hồ Chí Minh luôn xác định phương 15
châm “Cầu đồng tồn dị” trong xử trí để đạt đến sự thống nhất, sự tương đồng giữa mục
tiêu, lý tưởng của cách mạng Việt Nam với những niềm tin, khát vọng chính đáng của
tôn giáo, của các lực lượng xã hội khác… Và Người không bao giờ để cho sự đối đầu
giữa các hệ tư tưởng ấy phát triển, ảnh hưởng đến đại cục, đến sự nghiệp chung. Thí
dụ, tôn giáo và Tổ quốc, tôn giáo và độc lập dân tộc phải thống nhất với nhau. Đấu
tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc là nguyện vọng, thiết tha của mọi người dân,
trong đó có tín đồ các tôn giáo… Theo ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã nói: Nước không
độc lập thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập
đã. Ngay trong Báo cáo dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại Quốc hội nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà khoá I, kỳ họp thứ 11 ngày 18/12/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
khẳng định: “Đảng và Chính phủ ta luôn kêu gọi các dân tộc xoá bỏ xích mích do đế
quốc và phong kiến gây ra, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”.
Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một
chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời. Trong chính sách đoàn kết phải chống hai khuynh
hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc.
Dù ở từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh
chính sách và phương pháp phù hợp để tập hợp lực lượng, các đối tượng khác nhau,
song đại đoàn kết dân tộc là mẫu số chung luôn luôn được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
c. Các giải pháp thực hiện cho công cuộc tăng cường mối đại đoàn kết dân tộc
Để thực hiện thành công, thắng lợi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”, cần tiếp tục phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí, nghị lực và sức sáng tạo của con người Việt
Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Muốn vậy, theo chúng tôi cần tập
trung vào các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể cần chăm lo, phát huy và
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là
dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của
nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu đổi mới, chỉ có mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa mới có
đoàn kết thật sự và bền vững. Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp nhân
dân thiết thực, hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh, giữ vững ổn định chính trị và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện và góp phần
nâng cao chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân.
Hai là, Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
điều vì lợi ích của nhân dân. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, thực hiện 16
tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy Đảng và chính quyền phải thường xuyên lắng nghe
tâm tư nguyện vọng của nhân dân, trao đổi, đối thoại, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải
quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tạo nên niềm tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, sự đồng thuận của nhân dân trong xã hội.
Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương,chính sách
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ
chế ,chính sách để phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề
lớn của đất nước; bảo đảm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội; tạo
sự đồng thuận trong xã hội và góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh; xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân trong quá trình phát triển đất nước.
Ba là, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần đầu tư, quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp của công
nhân. Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Nâng cao năng suất lao động trong nông
nghiệp và cải thiện chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; thực hiện có hiệu quả,
bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp. Xây dựng
đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống
hiến. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò
tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc
hoạch định đường lối,chủ trương của Đảng,chính sách, pháp luật của Nhà nước và các
dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chăm lo bồi dưỡng và phát huy vai trò của thế hệ trẻ, đội ngũ
doanh nhân, phụ nữ, Cựu Chiến binh, người cao tuổi, các cá nhân tiêu biểu, các nhân
sĩ, trí thức, người dân tộc thiểu số, các tín đồ, chức sắc tôn giáo và cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển nhanh, bền
vững đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Bốn là, Đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tiếp tục hoàn thiện
các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết
hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử
dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là
vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung. Cơ chế thúc đẩy
tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế
- xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Tăng cường kiểm tra ,giám sát,
đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở
các cấp một cách công khai, minh bạch. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm 17
mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch.
Vận động đồng bào các dân tộc phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống, tích cực tham
gia bảo vệ chủ quyền, biên giới, biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện và thực thi quy định về đạo đức công vụ trong công tác
dân vận, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến
lược, người đứng đầu, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh cải
cách hành chính, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu
chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.
Củng cố, kiện toàn về tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, hướng mạnh về cơ sở; phát huy sức mạnh to lớn
của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm
dân tin’’; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân vào công cuộc
đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí; phê phán, xử lý nghiêm minh những cán bộ, công
chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
nhũng nhiễu dân; tăng cường ý thức, tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân.
Sáu là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương chính sách lớn,
bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng công tác kiểm tra, giám sát, bằng công tác lãnh
đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Quy định cụ thể Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự
giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình. Phát huy quyền làm chủ, tinh thần đoàn kết, sức sáng tạo của nhân dân trong
công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước. Đổi mới phương thức, phương pháp,
lề lối làm việc, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống
chính trị để thực hiện có hiệu quả những nội dung, nhiệm vụ về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để thực hiện tốt các nội dung trên, cần quán triệt, thấm nhuần sâu sắc ý kiến của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá
trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các
nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ
thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng”. Toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục phát huy mạnh
mẽ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Ðảng vào cuộc sống, thực hiện thắng lợi
mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2.2. Ý nghĩa việc tăng cường mối đại đoàn kết quốc tế 18
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước
của dân tộc và thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng để tổng kết thành một phương
châm sâu sắc: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành
công”
. Tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả tư duy lý
luận và hoạt động thực tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền,
trong phạm vi một dân tộc, mà còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó là
đoàn kết quốc tế. Gần 60 năm hoạt động cách mạng, trong đó 30 năm hoạt động ở nước
ngoài, liên tục tham gia phong trào cách mạng và đóng góp cho sự nghiệp chung của
cách mạng thế giới, thông điệp về tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế luôn được Chủ tịch
Hồ Chí Minh thể hiện một cách rõ ràng và vững chắc. Tư tưởng đoàn kết của Người thể
hiện nhãn quan chính trị của một vĩ nhân, sự tài tình của nhà tổ chức cách mạng luôn đặt
yếu tố đoàn kết lên hàng đầu. Theo những di huấn của Người, chỉ có “đoàn kết, đại
đoàn kết”
mới tập hợp được lực lượng, hình thành được tổ chức cách mạng, mới tạo
được sức mạnh to lớn để biến lý luận khoa học, biến đường lối, quan điểm của Đảng
thành hiện thực và mới đạt được “đại thành công”.
Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt và nhất quán,
bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vô sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy động và tập hợp được sức mạnh đoàn kết
quốc tế. Trong hành trình tìm đường cứu nước, lý tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà còn vì sự nghiệp giải phóng các
dân tộc và nhân loại cần lao khỏi ách áp bức, bóc lột của thực dân, đế quốc. Thực tiễn
lịch sử cho thấy, dân tộc Việt Nam chiến thắng được những kẻ thù hùng mạnh cũng bởi
nhờ toàn dân luôn đoàn kết một lòng; đồng thời, đã nhận được sự đoàn kết, ủng hộ, giúp
đỡ quý báu cả về tinh thần và vật chất của các nước anh em, của bạn bè yêu chuộng hòa
bình trên toàn thế giới. Vì thế, Người đã bày tỏ mong muốn đến ngày thắng lợi “Sẽ thay
mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các
nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta”
. Đó là biểu hiện truyền thống đoàn kết, thủy chung của dân tộc Việt
Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu
thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải
phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong
mối quan hệ khăng khít với phong trào cách mạng thế giới. Từ ngày 25 đến ngày 30
tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội
Pháp, họp ở thành phố Tua (Tours) với tư cách là đại biểu Đông Dương, Người đã bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản, trở thành một thành viên sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp. Từ đây, Người đã đặt nền móng cho tình đoàn kết chiến đấu giữa
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp, tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa
phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.
Trong những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của
mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng, giữ gìn và phát triển tình đoàn
kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh
em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-tinh...Người chủ trương tăng 19
cường đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, “giúp bạn là tự giúp mình”; coi trọng, thắt
chặt tình đoàn kết, giúp đỡ của nhân dân thế giới và các tổ chức quốc tế đối với Việt
Nam; gắn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Lần đầu tiên
trong lịch sử nước ta có một con người vĩ đại đã gắn cách mạng của đất nước mình với
cách mạng thế giới và thời đại, trên cơ sở nhận thức cách mạng Việt Nam là một bộ
phận, có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới. Vì vậy, Người chủ trương thực hiện đoàn kết
sâu sắc triệt để trên nguyên tắc bình đẳng dân tộc và hợp tác cùng có lợi. Đoàn kết và
hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ
quốc tế để làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển biến lực
lượng có lợi cho cách mạng trong nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nhân dân ta
chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập riêng của mình, mà còn vì tự do, độc
lập chung của các dân tộc và hòa bình thế giới. Ngay đối với Mỹ là nước đưa quân sang
xâm lược Việt Nam, Người cũng nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết phân biệt sự khác
nhau giữa những người Mỹ xâm lược và nhân dân Mỹ, được biểu hiện thông qua
bức Thư gửi nhân dân Mỹ tháng 12-1961, trong đó nêu rõ: “Nhân dân Mỹ và nhân dân
Việt Nam không thù không oán. Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là một dân tộc
đầu tiên đã phất cờ chống chủ nghĩa thực dân (1775 – 1783) và chúng tôi mong muốn
có quan hệ hữu nghị với các bạn… Hiện nay, Chính phủ Mỹ đang dùng quân sự can
thiệp vào nội bộ Việt Nam, đang âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam chúng tôi.
Chúng tôi buộc phải đấu tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ. Và chúng tôi mong
các bạn hành động ngay để ngăn cản Chính phủ Mỹ phát động một cuộc chiến tranh

phi nghĩa chống nhân dân Việt Nam”.
Đối với phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú
trọng đến đoàn kết giữa các Đảng Cộng sản anh em trên toàn thế giới, là hiện thân của
tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đoàn kết quốc tế, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế
giới và cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cuộc đấu
tranh vĩ đại nhằm chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân của nhân dân thế
giới”. Vì vậy, trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong hòa bình xây dựng
đất nước, một mặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc nêu cao tinh thần độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng Người luôn luôn kêu gọi phải tăng cường sự đoàn kết
và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới. Tại các diễn đàn quốc tế, Người đã có cảnh báo về sự bất đồng, chia rẽ trong
phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế. Theo đó, không chỉ làm suy giảm sức
mạnh cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, mà
còn chia rẽ sâu sắc khối đoàn kết, thống nhất của các lực lượng dân chủ, yêu chuộng
hòa bình, tiến bộ trên thế giới; tạo điều kiện để các loại kẻ thù của cách mạng gây
chiến tranh xâm lược, phá hoại môi trường hòa bình thế giới. Cùng với niềm tin tưởng,
kỳ vọng vào sức mạnh của tình đoàn kết quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời bày
tỏ những trăn trở, lo lắng về những bất hòa, mất đoàn kết trong nội bộ giữa các Đảng
anh em. Người viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với
sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng

đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các Đảng anh em”. Chủ tịch Hồ Chí 20