









Preview text:
lOMoAR cPSD| 61432759 1 BÀI TẬP TỰ LUẬN
Nội dung và cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện; liên hệ với thực tế đổi
mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Triết học chính là hệ thống trí thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới và cả vị trí cũng như vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học được
ra đời từ rất sớm (khoảng từ thế kỉ VIII đến thế kỉ VI trước Công nguyên) gần như
cùng một thời điểm ở cả phương Đông và phương Tây.
Triết học tìm hiểu thế giới với tư cách là một chỉnh thể để tìm ra những quy
luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể ấy cũng như hoạt động của
toàn thể nhân loại trong cuộc sống rồi thể hiện ra một cách có hệ thống dưới dạng
duy lý. Ngay từ khi ra đời, triết học được coi là hình thái cao nhất của tri thức, là
khoa học của mọi khoa học. Tuy nhiên, cũng như những khoa học khác, triết học
cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan đến nhau, trong đó có những vấn
đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề
còn lại - vấn đề cơ bản.
Về cơ bản, triết học có hai mặt cụ thể. Mặt thứ nhất (Bản thể luận) để trả
lời cho câu hỏi: Giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Và cái
nào quyết định cái nào? Và mặt thứ hai (nhận thức luận) trả lời cho câu hỏi: Con
người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Việc đi tìm câu trả lời cho
mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản đã chia các nhà triết học thành hai trường phái.
Trong khi một số triết học gia theo chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Ý thức có trước,
vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất. Thì các một số khác theo chủ nghĩa
duy vật biện chứng lại có hướng lập luận ngược lại, cho rằng: Vật chất có trước,
ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức. Trong đó, phép lập luận duy vật
được cho là “chìa khoá” của chủ nghĩa triết học Mác - Lênin. Và quan điểm toàn
diện chính là một trong 3 nguyên tắc phương pháp luận cơ bản và rất quan trọng
của phép biện chứng duy vật. Trong các hoạt động nhận thức và cả hoạt động thực
tiễn, chúng ta cần phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện này.
Trong bối cảnh đổi mới nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển nền kinh tế thị trường định nghĩa xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội
nhập quốc tế đem theo nhiều thách thức cũng như cơ hội mới của đất nước Việt
Nam hiện tại, quan điểm toàn diện được xem là một công cụ định hướng toàn diện
tránh được những đánh giá khách quan, phiến diện, sai lệch về các sự vật hiện
tượng để mở đường dẫn lối cho đất nước ngày một đổi mới và phát triển hơn bao giờ hết.
Trong công cuộc đổi mới đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý quan lOMoAR cPSD| 61432759 2
điểm toàn diện, đặc biệt là quan điểm toàn diện trong đổi mới kinh tế ở nước ta
hiện nay. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “Nội dung và cơ sở lý luận của quan
điểm toàn diện. Liên hệ với thực tế đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay ” để
tìm hiểu thêm về vấn đề này.
I. Nội dung và cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
1. Nội dung của quan điểm toàn diện
1.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
a. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, “mối liên hệ phổ biến” là phạm trù triết
học dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình
trong thực tế đều tác động đến nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tách biệt
hoàn toàn với các sự vật, hiện tượng khác.
Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều nằm trong sự nương tựa, ràng buộc,
quy định lẫn nhau; làm điều kiện và tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau.
Ví dụ: sinh viên và giáo viên có mối quan hệ ràng buộc, giáo viên chỉ được gọi là
giáo viên khi có sinh viên, có người học và ngược lại sinh viên chỉ được gọi là
sinh viên khi có giáo viên, có người dạy.
b. Các tính chất của mối liên hệ - Tính khách quan
+ Trong thế giới vật chất, các sự vật, hiện tượng luôn có mối liên hệ với
nhau, dù nhiều dù ít. Điều này là khách quan, không lệ thuộc vào việc con người
có nhận thức được các mối liên hệ hay không.
+ Có những mối liên hệ rất gần gũi ta có thể nhận thấy ngay. Ví dụ như mối
liên hệ giữa con gà và quả trứng. Nhưng có những mối liên hệ phải suy đến cùng,
qua rất nhiều khâu trung gian, ta mới thấy được. Gần đây, chúng ta hay được nghe
về lý thuyết “hiệu ứng cánh bướm”. Lý thuyết này xuất phát từ quan điểm cho
rằng những sự vật, hiện tượng ở rất xa nhau nhưng đều có liên quan đến nhau. -
Tính phổ biến: Các mối liên hệ tồn tại giữa tất cả các sự vật, hiện
tượngcủa tự nhiên, xã hội và tư duy. Không có sự vật, hiện tượng bất kỳ nào mà
không có sự liên hệ với phần còn lại của thế giới khách quan. -
Tính phong phú, đa dạng: Đó là sự muôn hình, muôn vẻ của những
mốiliên hệ. Tính đa dạng, nhiều loại của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn
tại, vận động và phát triển của chính các sự vật, hiện tượng quy định. lOMoAR cPSD| 61432759 3
1.2 Nội dung của quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện
tượng, một mặt chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ
phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Mặt
khác, chúng ta phải xem xét nó trong mối liên hệ với các sự vật khác (kể cả trực
tiếp và gián tiếp). Đề cập đến 2 nội dung này, Lê - nin viết “Muốn thực sự hiểu
được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ
trực tiếp và gián tiếp của sự vật đó”.
Đồng thời quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên...để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương
pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản
thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện nhất định.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật,
chúng ta vừa phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó, vừa phải chú ý tới
những mối liên hệ giữa sự vật ấy với các sự vật khác. Từ đó ta phải biết sử dụng
đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động vào sự vật nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất.
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật cần
phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Ứng với
mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người
bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi
vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ trọn vẹn. Ý
thức được điều này, chúng ta mới tránh được việc tuyệt đối hóa những tri thức đã
có về sự vật và tránh xem nó là những chân lí bất biến, tuyệt đối không thể bổ
sung, không thể phát triển. Để nhận thức được sự vật, cần phải nghiên cứu tất cả
các mối liên hệ, cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đề phòng cho chúng ta
khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó
chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên
hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính,
những quy định khác nhau của sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác
nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất
chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
1.3 Vai trò của quan điểm toàn diện trong hoạt động của con người lOMoAR cPSD| 61432759 4
Nắm chắc quan điểm toàn diện xem xét sự vật hiện tượng từ nhiều khía
cạnh, từ mối liên hệ của nó với sự vật, hiện tượng sẽ giúp con người có nhận thức
sâu sắc, toàn diện về sự vật và hiện tượng đó; tránh được quan điểm phiến diện về
sự vật và hiện tượng chúng ta nghiên cứu. Từ đó có thể kết luận về bản chất, quy
luật chung của chúng để đề ra những biện pháp kế hoạch có phương pháp tác động
phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động của bản thân. Tuy nhiên,
trong nhận thức và hành động chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa
các mối liên hệ trong điều kiện xác định.
2. Cơ sở lý luân của quan điểm toàn diện
Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về
sự phát triển, rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cái tạo hiện thực.
Đó chính là quan điểm toàn diện. Vì bất cứ sự vật, hiện tượng nào trên thế giới
đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa
dạng, phong phú, do đó khi nhận thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có quan
điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối
liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính quy luật của nó.
Với chủ nghĩa duy vật biện chứng, những phản ánh trên sự vật đều được
giải thích và đều cần phải giải thích. Khi những nguyên nhân luôn tồn tại và sự
vật tác động lẫn nhau. Khi đó, việc nhìn nhận và đánh giá muốn mang đến hiệu
quả phải dựa trên những tính chất phản ánh đầy đủ nhất. Xác định đúng đắn mới
mang đến hiệu quả trong quan điểm thể hiện. Do đó mà tính chất toàn diện là tính
chất cần thiết, quan trọng.
Sự vật hiện tượng trong mối quan hệ phổ biến mang trong mình sự đa dạng,
muôn màu muôn vẻ, có các mối quan hệ trong ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản
và phức tạp, nguyên nhân và kết quả, giữa bản chất và hiện tượng, nội dung và
hình thức, tất nhiên và ngẫu nhiên.
Mối quan hệ này không chỉ diễn ra ở bên trong mỗi sự vật hiện tượng mà
còn tồn tại giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Điều đó khẳng định, không có sự
vật hiện tượng tồn tại riêng lẻ, độc mà chúng luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động, bộ trở phát triển và kìm hãm ức chế lẫn nhau. Thêm vào đó là mối quan hệ
về mặt thời gian, hiện tại và tương lai của các sự vật hiện tượng.
Vì thế, muốn tìm hiểu một cách khách quan các sự vật hiện tượng thì chúng
ta không thể bỏ qua các mối quan hệ xung quanh cũng như ẩn sâu bên trong của
mỗi một sự vật hiện tượng được xem xét, tìm hiểu
II. Liên hệ quan điểm toàn diện với thực tế đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
1. Nôi dung của cuôc đổi mới lOMoAR cPSD| 61432759 5
Tại đại hội Đảng VI (tháng 12/1986) đã xem lại một cách căn bản về vấn
đề cải tạo XHCN và đưa ra quan điểm về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần,
coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế. Vậy nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thực chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
2. Khái niệm về kinh tế thị trường và viêc chuyển đổi nền kinh tế thời
chiến sang nền kinh tế thị trường của nước ta thời kì đầu đổi mới.
Kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mà ở đó người mua và bán tác
động lẫn nhau theo quy luật cung cầu để xác định giá cả và số lượng hàng hoá
trên thị trường hay nói cách khác, thị trường đóng vai trò quyết định sự phân phối
các nguồn lực kinh tế vào từng lĩnh vực kinh tế.
Trong thời kì đầu đổi mới, nền kinh tế tập trung đã đem lại hiệu quả nhất
định trong thời chiến. Tuy nhiên ngay sau khi đất nước được thống nhất, việc áp
dụng mô hình kinh tế này đã đem lại những hệ quả tiêu cực nhất định cho đất
nước: lãng phí tài nguyên thiên nhiên, hao phí lao động, ô nhiễm môi trường,...
Điều này ảnh hưởng nặng nề đời sống nhân dân, kìm hãm sự phát triển kinh tế,
ngân sách thâm hụt, lạm phát đạt mức cao,.. ..Áp dụng quan điểm toàn diện của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đã xác định việc chuyển đổi mô hình kinh tế sang
một nền kinh tế thị trường để đáp ứng nhu cầu phát triển của nhân dân được xem
là một vấn đề cấp bách, tiên quyết để đưa đất nước đi lên.
Nhưng sau chiến tranh kết thúc, Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc
hậu, thế nên ngoài việc chuyển đổi mô hình kinh tế, Đảng và Nhà nước còn kết
hợp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa
trên những cơ sở lí thuyết và thực tiễn sâu sắc, bắt nguồn từ bối cảnh thời đại và
điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và áp dụng tốt quan điểm toàn diện. Việc lựa
chọn con đường phát triển này là sự lựa chọn không chỉ phù hợp với xu hướng
phát triển một cách khách quan mà còn là sự tiếp thu những điều tốt đẹp của kiểu
hình kinh tế cũ trước đây, nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại một cách
triệt để nhất có thể.
Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đem lại sự
đa dạng các hình thức sở hũu và đa dạng các thành phần kinh tế, trong đó khu vực
kinh tế nhà nước vẫn còn giữ vai trò chủ đạo, đất đai thuộc về nhân dân. Quan
điểm toàn diện còn được Đảng ta nhận thức và quán triệt ngay trong chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng lOMoAR cPSD| 61432759 6
xã hội chủ nghĩa nhưng cũng vừa vận hành theo cơ chế thị trường. Ở đây, kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế chi phối các hoạt động kinh tế.
Thế nhưng, cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thừa nhận rằng chưa
có nhận thức rõ ràng, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa do mô hình này hoàn toàn mới, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử.
Về mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam: Theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội.
Vì vậy, qua sự đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước đang cố gắng hết sức để có thể
phát triển lực lượng sản xuất của nước nhà theo cả số lượng và chất lượng để từ
đó mang lại một năng suất cao nhất giúp kinh tế phát triển. Sau đó là nâng cao
chất lượng cơ sở vật chất - kỹ thuật và nâng cao đời sống nhân dân. Cùng với đó
là thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Có thể khẳng định đây là sự vận động và quán triệt quan điểm toàn diện
trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới và đem lại những thắng lợi to lớn cho sự nghiệp
đổi mới nền kinh tế Việt Nam hiện đại.
3. Một số thành tựu đạt được sau thời kỳ đổi mới
Trước đại hội Đảng VI, chúng ta đã nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ
sản xuất (QHSX) một thành phần dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản
xuất, làm như vậy là chúng ta đã đẩy QHSX đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất
(LLSX) thấp kém với một bên là QHSX được xã hội hoá giả tạo, dẫn đến kìm
hãm sự phát triển của LLSX làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội.
Từ đại hội VI đến nay, khắc phục sai lầm trên, chúng ta thực hiện xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và coi nó là nhiệm vụ cơ bản cho quá trình
đổi mới toàn diện nền kinh tế. Vậy nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN xuất phát từ tính chất
và trình độ của LLSX nước ta là đa dạng, không đồng đều và chưa cao.
Đồng thời, Nhà nước đã ngày một xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo khuân
khổ pháp luật, môi trường ổn định, thuận lợi cho kinh tế phát triển, vừa sử dụng
triệt để các nguồn lực trong nước, vừa biết tận dụng cơ hội phát triển và sự giúp
đỡ từ các nước trong khu vực cũng như quốc tế, hướng đến mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Như vậy, từ thực tiễn đến lý luận có thể khẳng định mô hình kinh tế thị
trường là mô hình hiện đại, phù hợp với định hướng phát triển đất nước trong thời lOMoAR cPSD| 61432759 7
điểm hiện tại, theo kịp xu thế hội nhập toàn cầu. Hơn nữa, sự kiên định đổi mới,
hội nhập và phát triển trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với đất nước và chế độ ta. Mối quan hệ giữa đổi
mới, hội nhập và phát triển phản ánh quy luật mang tính biện chứng, là một trong
những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới ở nước ta, phản ánh mục tiêu,
điều kiện, phương thức để tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định chủ chương xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với phát triển LLSX ở nước ta. Nó đã thực
sự giải phóng, phát triển, khơi dây các tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực
sáng tạo chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất, đưa nước ta ra khỏi
thời kỳ khủng hoảng kinh tế xã hội.
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay đã không tạo
được động lực phát triển và gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Do đó,
đại hội VI đã chủ trương đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế và chỉ ra thực chất của
cơ chế mới đó là: "Cơ chế kế hoạch hoá theo hướng phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ". Việc xây dựng kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần cũng có nghĩa là chúng ta chấp nhận đa dạng hoá
các hình thức sở hữu để phát triển kinh tế nước nhà.
Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế với nước ta, một nhiệm
vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế
hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn
để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào
sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Trên cơ sở đánh giá những vấn đề thực tiễn trong đổi mới cơ chế quản lý ở
nước ta từ năm 1986 đến nay, trong các kỳ Đại hội Đảng ta tiếp tục làm rõ nội
dung và phương thức đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng "xóa bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN". Điều đó thực chất là quá trình đổi mới cả hệ thống
các công cụ, chính sách quản lý và tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước.
Và một trong những nội dung quan trong trong công cuộc đổi mới đất nước đó là
mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội VI đã chỉ rõ: "Cùng với
việc mở rộng xuất nhập khẩu tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng
nhiều hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại". Thực hiện chủ trương
đó, Nhà nước đã ban hành chính sách "mở cửa" để thu hút vốn và kỹ thuật nước
ngoài, từng bước gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường
trong nước với thị trường quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, đảm
bảo độc lập, chủ quyền dân tộc và an ninh quốc gia. lOMoAR cPSD| 61432759 8
Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với nguồn vốn huy động
trong nước, nguồn vốn huy động từ bên ngoài hết sức quan trọng đối với nước ta
trong giai đoạn hiện nay cũng như trong những năm tiếp theo. Việc mở rông tham
gia hợp tác kinh tế thế giới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội khi chúng ta cần thu hút nhiều nguồn lực từ bên ngoài phục vụ
cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và xây dựng những tiền
để cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH.
Năm 1987, Nhà nước ban hành luật đầu tư nước ngoài, sau đó được bổ sung
và sửa đổi nhiều lần nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư. Nhà nước tạo môi trường thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như đơn giản hoá thủ tục hành chính, xây dựng
các khu chế xuất, cơ sở hạ tầng thuận tiện. Những chính sách trên nhằm đẩy mạnh
hoạt động thương mại quốc tế và thu hút đầu tư của nước ngoài, kết hợp các nguồn
lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Hơn 30 năm qua, với sự nỗ lực
phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Hiện nay, Việt Nam được xem
là một trong số những nước có định hướng phát triển nền kinh tế tương đối ổn
định. Từ một trong số những nước nghèo nhất, Việt Nam đã vươn mình thành một
nước có trình độ phát triển kinh tế mạnh mẽ chỉ trong vài chục năm qua.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh: Đầu thập kỷ 90, nền kinh tế nước ta liên tục
tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế
hoạch 5 năm (1991 - 1995), lần đầu tiên ta đã hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu
của kế hoạch này. Tất cả các mục tiêu kinh tế xã hội của kế hoạch 5 năm (1996 -
2000) và chiến lược kinh tế 10 năm (1991 - 2000) đều đạt và vượt kế hoạch; GDP
trong 10 này tăng bình quân hàng năm 7,56%/năm nhờ vậy GDP năm 2000 đã
gấp 2,07 lần năm 1990. Riêng 2 năm 1998-1999 nền kinh tế tăng trưởng châm
hơn trước (5,8% và 4,8%) vì bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
cùng với thiên tai xảy ra trong nhiều vùng trên cả nước. Tuy nhiên đến năm 2000
- 2002 tốc độ tăng trưởng lại tăng lên đạt 6,7%; 6,8% và 7,0% đặc biệt năm 2005
là 8,0% đưa tốc độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm 2001-2005 từ 7,5%. Năm
2006 nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 7,4% và năm 2007 tốc độ tăng
trưởng kinh tế là 8,4%, nước ta trở thành một trong những nước có tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất trên thế giới.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt,
từ chỗ nước ta là nước phải nhập khẩu lương thực trước đây trở thành một trong
những nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới (đứng thứ 2 sau Thái Lan). Lạm lOMoAR cPSD| 61432759 9
phát được kiềm chế và đẩy lùi. Trong những năm 1986 - 1988 lạm phát đã tăng
tới 3 con số làm cho nền kinh tế chao đảo. Năm 1986: 774,7%; năm 1990: 67,4%;
năm 1995: 12,7%; năm 1997: 3,7%. Năm 1999: 0,1%. Thời gian gần đây tốc độ
lạm phát trong nền kinh tế mặc dù có tăng nhưng vẫn nó vẫn nằm trong vòng kiểm
soát của nền kinh tế. Cũng là hệ quả tất yếu của việc mở rộng thị trường khi nước
ta chính thức trở thành thành viên của WTO.
Hiện nay, kinh tế thị trường nước ta phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu thô
và đầu tư nước ngoài theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xét theo quy mô GDP,
Việt Nam hiện là nước có nền kinh tế lớn thứ 44 trên thế giới. Nước ta hiện đang
là nước thành viên của Liên Hợp Quốc, ASEAN, Tổ chức Thương mại Thế giới,
Quỹ tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á,...
Ngoài ra, còn có các hiệp định tự do thương mại với các nước ASEAN, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác. Điều này chứng tỏ nỗ lực thực
hiện xu thế hội nhập toàn cầu, đem lại cho nước ta nhiều cơ hội và thách thức.
Kinh tế Việt Nam hiện nay cũng nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ không chỉ bởi nhu
cầu nội địa lớn mà còn là định hướng xuất khẩu tương đối cao. Tỷ lệ dân nghèo
được giảm đáng kể xuống mức dưới 3%. Đồng nên kinh tế đang trên đà phát triển
đều, không có dấu hiệu suy thoái. Kể từ năm 1988 đến nay, nền kinh tế tăng trưởng
trung bình gần 7%, chỉ có một năm ở mức 5%. Từ đó đến nay, thu nhập bình quân
đầu người cũng tăng gấp 5 lần. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, nền kinh
tế nước ta được khôi phục một cách nhanh chóng và nổi lên là một nước xuất khẩu
mạnh và có kinh tế thu nhập trung bình phát triển mạnh.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Hiện tại nước ta được hầu hết các nước
trên thế giới công nhận là nước có nền kinh tế thị trường. Việt Nam là một trong
những nước có nền chính trị, an ninh ổn định bậc nhất trên thế giới. Là điểm đến
an toàn cho mọi người trên thế giới. Vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày
càng được củng cố và nâng cao; không chỉ là thành viên của ASEAN từ năm 1995,
thành viên của APEC... Năm 2008 đánh dấu cột mốc lịch sử trong quan hệ đối
ngoại của nước ta khi Việt Nam được bầu cử đại diện cho châu á là thành viên
không thường trực tại Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc.
Từ những điểm trình bày trên có thể thấy, quá trình hình thành quan điểm
toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự
vật và sự vận dụng, quán triệt nguyên tắc trên của Đảng trong sự nghiệp đổi mới
đất nước đi theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lOMoAR cPSD| 61432759 10
lại rất nhiều thành công cho nền kinh tế bước đầu, đưa đất nước phát triển đi lên
với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chính
vì thế, việc nhận thức và áp dụng tốt nguyên tắc toàn diện của Đảng có ý nghĩa
rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta trong thời gian tới. KẾT LUẬN
Trải qua hơn 31 năm (1986 - 2023), công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo được nhân dân đồng tình hưởng ứng; đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Những thành tựu đó chứng
tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên CNXH
của nước ta là phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Nhờ đổi mới mà nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh
tế tăng trường nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của nhân dân ngày
càng được cải thiện, tăng thêm niềm tin của nhân dân vào Đảng. Đổi mới làm thay
đổi gần như tất cả mọi mặt đời sống kinh tế đất nước.
Trong quá trình đổi mới đó, nước ta đã học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm
từ quốc tế kèm với đó là việc ứng dụng thành công quan điểm toàn diện của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Quan điểm toàn diện đóng vai trò như “chìa khoá vàng” trong
công cuộc đổi mới nền kinh tế và đưa kinh tế nước nhà phát triển đến đỉnh cao.
Quan điểm toàn diện giúp Đảng và Nhà nước cũng như các doanh nghiệp nhìn
nhận nền kinh tế một cách khách quan về mọi mối liên hệ xung quanh nó cũng
như các mặt bên trong nền kinh tế Việt Nam. Từ đó có thể giúp Nhà nước và doanh
nghiệp tránh được những cái nhìn sai lệch, phiến diện, đem lại nhiều rủi ro và tổn
thất cho kinh tế nước nhà.
Ngoài ra, qua tình hình kinh tế Việt Nam những năm gần đây cũng chứng
minh được, quan điểm toàn diện có vai trò quan trọng trong tư tưởng suy nghĩ của
mỗi cá nhân cũng như một tập thể. Vì vậy, ở trong mọi lĩnh vực của đời sống,
cuộc sống hằng ngày tất cả chúng ta đều cần tôn trọng, đề cao quan điểm toàn
diện để có thể đem lại lợi ích cho chính bản thân mình cũng như một cộng đồng./.