TRIẾT MÁC CUỐI KÌ | Triết học - MacLenin | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
"Triết Mác Cuối Kỳ" là một chủ đề quan trọng trong lĩnh vực Triết học - MacLenin tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Chủ đề này thường đề cập đến các ý tưởng và lý luận của triết gia Karl Marx và Friedrich Engels, hai nhà triết học chủ nghĩa Mác - Lenin, đặc biệt là trong giai đoạn cuối cuộc đời của họ.
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40190299 TRIẾT MÁC CUỐI KÌ
Triết học Mác Lenin (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) lOMoAR cPSD| 40190299
TRIẾT HỌC MÁC LÊ - NIN
Câu 1: Trình bày mối quan hệ tồn tại xã hội và ý thức xã hội 1. Khái niệm
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật chất xã
hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội
vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với con
người là những quan hệ cơ bản nhất.
Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Nó bao
gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận, là sự phản ánh của
tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau.Ý thức xã hội là sự phản ánh
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, vì thế, trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội
luôn mang tính giai cấp. 2. Nội dung
Tồn tại xã hội nào thì có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất,
đặc điểm, xu hướng vận động, sự biến đổi và sự phát triển của các hình thức ý thức xã
hội. Nếu xã hội còn tồn tại sự phân chia giai cấp thì ý thức xã hội nhất định cũng mang tính giai cấp.
Khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng, quan điểm về
chính trị, pháp luật, triết học và cả quan điểm thẩm mỹ lẫn đạo đức dù sớm hay muộn cũng
sẽ có những sự thay đổi nhất định. Tuy nhiên ý thức xã hội không phải là yếu tố hoàn toàn
thụ động hoặc tiêu cực. Mặc dù chịu sự quy định và chi phối của tồn tại xã hội nhưng Ý
thức xã hội không những có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại mạnh mẽ đối với
tồn tại xã hội, mà đặc biệt được xã hội còn có thể vượt trước tồn tại xã hội, thậm chí có thể
vượt trước rất xa tồn tại xã hội. Các hình thái ý thức xã hội có đặc điểm chung là mặc dù bị
tồn tại xã hội quy định, nhưng đều có tính độc lập tương đối thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, YTXH thường lạc hậu hơn so với TTXH: Đầu tiên do tác động mạnh mẽ và
nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con người nên tồn tại xã hội diễn ra với tốc độ
nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội. Thứ hai do sức mạnh của thói quen, tập
quán, truyền thống và do cả tính bảo thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa những điều
kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống
cũ hoàn toàn mất đi. Thứ ba, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người,
của các giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu níu kéo, bấm chặt
vào những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì quyền lợi ích kỷ của họ, để chống lại lực
lượng tiến bộ trong xã hội.
Thứ hai, YTXH có thể vượt trước TTXH: Trong những điều kiện nhất định, nhiều tư
tưởng khoa học và triết học có thể vượt trước tồn tại xã hội của thời đại rất xa. Ra gì Ý
thức xã hội có khả năng đó là do nó phản ánh đúng những mối liên hệ logic, khách quan,
tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
Thứ ba, YTXH có tính kế thừa trong sự phát triển của chúng: Những quan điểm lý luận
của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa
những tài liệu lý luận của thời đại trước lOMoAR cPSD| 40190299
Thứ tư, sự tác động qua lại của các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng:
Các hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại theo những cách khác nhau, có vai trò khác
nhau trong xã hội và trong đời sống con người. Tuy nhiên ở các thời đại lịch sử khác nhau,
trong những hoàn cảnh khác nhau dù vai trò của các hình thái ý thức xã hội không giống
nhau nhưng chúng vẫn có sự tác động qua lại với nhau.
Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội mạnh hay yếu còn
phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể vào các quan hệ kinh tế vốn là cơ sở hình
thành của các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản ánh và sức lan tỏa của ý thức đối
với các nhu cầu khác nhau của sự phát triển xã hội; đặc biệt là vào vai trò lịch sử của giai
cấp đại diện cho ngọn cờ tư tưởng đó. Vì vậy cần phân biệt ý thức xã hội tiến bộ với ý thức
xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ xã hội. 3. Ý nghĩa PPL
Thứ nhất, tồn tại xã hội đóng vai trò quyết định ý thức xã hội, tức mặt đời sống tinh thần
của xã hội. Vì vậy, muốn xóa bỏ hình thái ý thức xã hội cũ lỗi thời, lạc hậu, bảo thủ, trì trệ
thì trước hết phải cải tạo tồn tại xã hội sinh ra nó.
Thứ hai, ý thức xã hội có sự tác động trở lại tồn tại xã hội. Vì vậy, cần đấu tranh chống lại
các tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, phản tiến bộ, phản khoa học nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa. Vì vậy, trong quá trình phát triển cần phải kế thừa
những giá trị truyền thống của dân tộc và không ngừng tiếp thu, ứng dụng những thành tựu
văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghệ của nhân .
Thứ tư, ý thức xã hội có tính vượt trước, dự báo xu hướng vận động và phát triển của xã hội tương Lai.
4. Liên hệ thực tiễn
Cần phải tích cực đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm phát hiện những quy luật vận
động, phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và con người.
Câu 2: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn với quá trình nhận thức 1. Khái niệm
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào
trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn. 2. Nội dung
Thực tiễn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng gồm
những hình thức cơ bản sau: hoạt động sản xuất vật chất (có sớm nhất, cơ bản nhất và
đóng vai trò nền tảng),hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học lOMoAR cPSD| 40190299
Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn.
Sản xuất vật chất biểu thị mối quan hệ của con người với tự nhiên và là phương
thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội loài người; còn là cơ sở cho sự tồn tại
của các hình thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.
Hoạt động chính trị - xã hội: thể hiện tính tự giác cao của con người nhằm biến
đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội,...
Hoạt động thực nghiệm khoa học: con người chủ động tạo ra những điều kiện không có
sẵn trong tự nhiên để tiến hành thực nghiệm khoa học theo mục đích đề ra. Trên cơ sở đó,
vận dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật vào cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức: Thực tiễn cung cấp những tài liệu, vật liệu
cho nhận thức của con người. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không có
khoa học, không có lý luận, bởi lẽ tri thức của con người xét đến cùng là được nảy sinh từ thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con
người trong quá trình nhận thức để mở rộng khả năng của các khí quan nhận thức của con
người. Như vậy thực tiễn chính là nền tảng, cơ sở để nhận thức con người nảy sinh, tồn tại,
phát triển. Không những vậy thực tiễn còn là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Chính nhu cầu sản xuất vật chất và cải tạo xã hội
buộc con người phải nhận thức thế giới xung quanh. Nhận thức của con người là nhằm
phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn, nếu không vì thực tiễn, nhận thức
sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học - kết quả của nhận thức chỉ có ý
nghĩa khi được áp dụng vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp hay gián tiếp để phục vụ con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Dựa vào thực tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm
nghiệm chân lý bởi chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa
được tư tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý hoặc phủ định một sai lầm nào đó. Điều này
có nghĩa thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận
thức. Đồng thời, thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. 3. Ý nghĩa PPL
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi phải quán triệt quan điểm thực tiễn:
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn;
học phải đi đôi với hành. Xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn
sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng. Rèn luyện khả năng nắm bắt thực tiễn, nâng cao trình độ
đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
4. Ví dụ thực tiễn lOMoAR cPSD| 40190299
Nhằm ngăn chặn sự ô nhiễm và những vấn đề môi trường nhức nhối hiện tay, họ đã sản
xuất ra những vật dụng bảo vệ và thân thiện với môi trường nhằm góp phần giảm thiểu
ô nhiễm và tăng nhận thức của con người về môi trường.
Câu 3: Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 1. Khái niệm
Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người, là sự thống nhất giữa lực lượng
sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Trong quá trình sản xuất, con người có quan hệ “song trùng”: quan hệ của con người với
tự nhiên (gọi là lực lượng sản xuất), quan hệ của con người với con người (gọi là quan hệ sản xuất).
Lực lượng sản xuất: Là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản
xuất) cùng mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản
xuất) để cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con
người. Đây là sự thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt động sản
xuất vật chất của con người.
Quan hệ sản xuất: bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức quản lý quá trình sản xuất, quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản
xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối tác động lẫn nhau trên cơ
sở quyết định quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. 2. Nội dung
Bất cứ phương thức sản xuất ở một giai đoạn phát triển lịch sử nào cũng đều bao gồm hai
mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
hai mặt của phương thức sản xuất, chúng phản ánh hai mối quan hệ khác nhau, đặc trưng
phát triển không giống nhau, nhưng chúng có mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời và tác
động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài
người. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện ở hai nội dung cơ bản.
Một là: Lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp
với nó: Với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất sẽ có 1 quan hệ sản xuất tương
ứng, quan hệ sản xuất phụ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản
xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng thay đổi theo
>>> Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất vì nó là nội dung của sự sản xuất xã
hội, còn quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình đó, trong mối quan hệ này thì nội dung
quyết định hình thức, nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất sẽ quy định cách thức phân
biệt lẫn nhau trong sản xuất.
Hai là: Quan hệ sản xuất tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất: Mặc
dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất có tính độc
lập tương đối, tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều hướng, đó
là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp
với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng quy mô sản xuất được mở
rộng, thành tựu khoa học và công nghệ được áp dụng nhanh chóng, người lao động nhiệt
tình, hăng hái sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ lOMoAR cPSD| 40190299
sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự
kìm hãm đó chỉ diễn diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định. Việc giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thông qua việc nhận
thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua
đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. 3. Ý nghĩa PPL
Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất,
trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ
sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên
bàn xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tùy
tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan
điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy
kinh tế của đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Liên hệ thực tiễn
ột nhà máy sản xuất ô tô. Lực lượng sản xuất trong trường hợp này bao gồm các yếu tố
vật chất và tinh thần. Tư liệu sản xuất bao gồm các phương tiện sản xuất như máy móc, dây
chuyền lắp ráp, nguyên liệu và linh kiện. Người lao động là những công nhân làm việc trong
nhà máy, từ kỹ sư thiết kế, kỹ thuật viên vận hành máy móc đến công nhân lắp ráp.
Lực lượng sản xuất này cùng nhau tạo ra ô tô như một sản phẩm cuối cùng.
Câu 4: Mối quan hệ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng 1. Khái niệm
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình
thái kinh tế- xã hội nhất định. Thường bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị trong nền
kinh tế, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới dạng mầm mống,
tiền đề. Đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị
quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với một thiết chế
xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định. Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng
cùng những thiết chế xã hội tương ứng. Các yếu tố về quan điểm tư tưởng và thiết chế xã
hội có quan hệ với nhau, cùng với những quan hệ nội tại trong các yếu tố đó hợp thành
kiến trúc thượng tầng của xã hội. 2. Nội dung
Mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, đây là hai mặt của
đời sống xã hội và được hình thành một cách khách quan, gắn liền với những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất
biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc lOMoAR cPSD| 40190299
thượng tầng. Xuất phát từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, vận dụng vào lĩnh vực xã
hội thì quan hệ vật chất (cơ sở hạ tầng) sẽ quyết định quan hệ chính trị, tinh thần (kiến trúc
thượng tầng). Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện các nội dung sau:
Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng có tác
dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó.
Kiến trúc thượng tầng bị chi phối bị lệ thuộc bởi cơ sở hạ tầng biểu hiện ở
chỗ: Giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng thống trị về chính trị và đời
sống tinh thần. Các mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực chính trị, cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện của
những đối kháng về kinh tế. Mọi yếu tố về kiến trúc thượng tầng đều phụ thuộc
vào cơ sở hạ tầng điển hình nhất là sự phụ thuộc vào yếu tố chính trị. Khi cơ sở
hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo đó là một quá
trình phức tạp, trong quá trình đó, yếu tố chính trị, pháp luật thay đổi rất nhanh
chóng, các yếu tố khác thay đổi chậm hơn
Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng phải
thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Mọi yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều tác động trở lại cơ sở hạ tầng trong xã hội
có giai cấp, nhà nước là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất bởi vì đây là thiết chế duy nhất
có sức mạnh kinh tế và bộ máy thống trị.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng làm cho cơ sở hạ
tầng sinh ra nó được củng cố phát triển, do đó làm theo địa vị của giai cấp
thống trị trong kinh tế càng trở nên vững chắc. Trong xã hội có giai cấp đối
kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư tưởng của
giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế. Trong các bộ phận của kiến trúc
thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác dụng to lớn đối
với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào
chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp
thống trị. Các bộ phận khác của kiến
trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến
cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra trong 2 chiều: Nếu
kiến trúc thượng tầng tác động đến cơ sở hạ tầng phù hợp với sự vận động của quy
luật quy chế khách quan thì nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu tác
động ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội
Là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị. Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế quyết định chính trị,
chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất của vai trò kiến
trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác, tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi ích kinh tế sống còn
của mình. Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ
yếu thông qua đường lối, chính sách của đảng và nhà nước.
Nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm tuyệt
đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào quan điểm duy vật tầm lOMoAR cPSD| 40190299
thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỷ cương, pháp luật và không
tránh khỏi thất bại, đổ vỡ. Nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của
kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn và cũng
không tránh khỏi thất bại
4. Liên hệ thực tiễn
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất quan tâm đến nhận
thức và vận dụng quy luật này. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản chủ trương
đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời
đổi mới chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích
hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới ổn định phát triển, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 5: Mối quan hệ biện chứng của vật chất và ý thức 1. Khái niệm
Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác.Vật chất có những thuộc tính cơ bản sau đây: Thứ nhất cần phân biệt
khái niệm vật chất theo tư cách là một phạm trù triết học so với khái niệm vật chất sử dụng
trong các ngành khoa học khác. Thứ hai là tồn tại khách quan, tồn tại ngoài ý thức, độc
lập và không phụ thuộc vào ý thức của con người dù con người có nhận thức được nó hay
không, đây là cơ sở để chống lại chủ nghĩa duy tâm. Thứ ba, vật chất được thể hiện ở
những dạng cụ thể và gây nên cảm giác ở con người.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con người; là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nguồn gốc của ý thức bao gồm nguồn gốc xã
hội và nguồn gốc tự nhiên, Về nguồn gốc tự nhiên đó là bộ óc con người và mối quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan tạo nên những hiện tượng phản ánh năng động,
sáng tạo. Nhờ bộ óc và những mối quan hệ này tạo nên ý thức. Còn về nguồn gốc xã hội
thì là lao động và ngôn ngữ. Ý thức có tính năng động và sáng tạo, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Về kết cấu ý
thức gồm tri thức, tình cảm và ý chí. 2. Nội dung
Mối quan hệ biện chứng của vật chất và ý thức: Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là
cái có trước,ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý
thức, ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức: Ý thức là
sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Nguồn gốc của ý
thức đều bắt nguồn từ các dạng vật chất như: bộ óc con người, thế giới khách quan, lao
động, ngôn ngữ nên vật chất là nguồn gốc của ý thức. Là cơ sở cho ý thức hình thành,
tồn tại và phát triển.
Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó: vì ý thức là sự phản ánh của thế
giới vật chất nên nội dung của ý thức bị quyết định bởi vật chất và bị các quy luật
của thế giới vật chất chi phối.
Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo. lOMoAR cPSD| 40190299
Vật chất là điều kiện để biến ý thức thành hiện thực: ý thức chỉ được thể hiện thông
qua các hoạt động vật chất như ngôn ngữ và hoạt động thực tiễn của con người.
Vai trò của ý thức đối với vật chất: Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có tính
độc lập tương đối và có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nhờ có ý thức con người nhận thức được quy luật vận động, phát triển của thế giới khách
quan. Mọi hoạt động của con người đều bị ý thức chỉ đạo, ý thức trang bị cho vật chất
các tri thức về thực tại khách quan để xác định và xây dựng kế hoạch, phương pháp phù
hợp. Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+Tích cực: Nếu con người nhận thức đúng đắn, có tri thức khoa học, nghị lực, ý chí
hành động thì ý thức có thể trở thành động lực phát triển của vật chất
+Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý
thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất 3. Ý nghĩa PPL
Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, phải xuất phát từ chính bản thân sự vật hiện
tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh
chủ nghĩa chủ quan , bệnh chủ quan duy ý chí., Chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ
nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân
tố con người, chống tư tưởng và thái độ thụ động, trì trệ. Phải giáo dục và nâng cao trình
độ trí thức khoa học, cũng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên nhân dân nói chung.
4. Liên hệ thực tiễn
Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác.
Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác.
Câu 6: Quy luật lượng - chất
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động,
phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của
các quá trình vận động, phát triển là những sự thay đổi về chất của SVHT có cơ sở tất yếu là những
sự thay đổi về lượng của SVHT và ngược lại. 1. Khái niệm
Chất: Dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của SVHT; là sự thống nhất hữu cơ
các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với SVHT. Mỗi sự vật hiện tượng đều có những
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của SVHT.
Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Mỗi SVHT không chỉ có
một mà còn nhiều chất tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác,
chứ không tồn tại thuần túy tách rời SVHT, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó. lOMoAR cPSD| 40190299
Lượng: Dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của SVHT về các phương diện:
số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá
trình vận động, phát triển của SVHT. Khái niệm này cho thấy một SVHT có thể tồn tại
nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp
với từng loại lượng cụ thể của SVHT đó.
➡ Như vậy chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một SVHT hay một
quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách
quan, tuy nhiên sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về SVHT chỉ
có ý nghĩa tương đối: Có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối
quan hệ khác lại là lượng.
2. Nội dung quy luật
Bất kỳ SVHT nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó
không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất
yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi chuyển hóa về chất của sự vật hiện tượng. Ở một giới hạn
nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất được gọi là độ. Vì vậy
trong giới hạn của độ, SVHT chưa chuyển hóa thành SVHT khác.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất, giới
hạn đó được gọi là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút với những điều
kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới, đó chính là bước nhảy trong
quá trình vận động phát triển của SVHT. Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn vận
động, phát triển; đồng thời đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián
đoạn của quá trình vận động phát triển liên tục của SVHT. Khi chất mới ra đời lại có sự
tác động trở lại lượng của SVHT trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vận động phát triển của SVHT. Tóm lại, bất kỳ SVHT nào cũng có sự thống nhất
biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi về lượng đến điểm nút tất yếu sẽ dẫn
đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời chất mới sẽ tác động trở lại
lượng tạo ra những biến đổi mới về lượng của SVHT. Quá trình đó diễn ra liên tục tạo
thành phương thức cơ bản phổ biến của các quá trình vận động phát triển của SVHT trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. 3. Ý nghĩa PPL
Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa
thành những thay đổi về chất của SVHT và ngược lại. Do đó, trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về
chất; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của SVHT.
Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của SVHT với điều kiện
lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó, trong công tác thực tiễn cần phải
khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh: Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy
luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước
nhảy liên tục về chất. Mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích lũy
đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của SVHT. Vì thế
cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn.. Hữu lOMoAR cPSD| 40190299
khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy mặc dù lượng đã tích lũy
tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự biến hóa về lượng.
Nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hoá từ lượng
đến chất một cách có hiệu quả nhất.
4. Liên hệ thực tiễn
Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống và làm việc, thành công hay không dựa
trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến thức
của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con người, muốn có bất kỳ sự thay
đổi về chất nào cũng đều phải có sự tích lũy về lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kỳ ai thì
đều không có sự biến đổi nào về chất
Câu 7: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập 1. Khái niệm
Lê-nin gọi đây này là hạt nhân của phép biện chứng, là cơ sở để hiểu các quy luật khác
và hiểu được nguồn gốc vận động, phát triển của mọi hiện tượng. Mâu thuẫn là một khái
niệm để chỉ sự liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập của một
SVHT hoặc giữa các SVHT với nhau. Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính những
khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng là điều kiện tiền đề tồn tại cho nhau. 2. Nội dung
Tính chất chung của mâu thuẫn:
Mâu thuẫn tính khách quan, vì là cái vốn có trong các SVHT và tính phổ biến – tồn tại
trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Do mâu thuẫn có tính khách quan và
phổ biến, nêu mâu thuẫn có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong
các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau. Trong mỗi SVHT không phải chỉ có một mâu
thuẫn, mà có nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm,
có vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy, cần phải
có phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
Phân loại một số mâu thuẫn :
Thông thường phân mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không
cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu, mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng.
Mâu thuẫn bên trong (Có vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật): Là
sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập bên trong một SVHT.
Mâu thuẫn bên ngoài (Có vai trò quan trọng trong sự vận động, phát triển của sự vật): Là sự
tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập thuộc các sự vật khác nhau.
Mâu thuẫn cơ bản: Là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển
ở tất cả các giai đoạn phát triển của sự vật, nó quyết định sự nảy sinh của các mâu thuẫn khác. lOMoAR cPSD| 40190299
Mâu thuẫn không cơ bản: Là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của
sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật.
Mâu thuẫn chủ yếu: Là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.
Mâu thuẫn thứ yếu: Là mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào
đó của sự vật, nhưng không đóng vai trò chi phối sự vật. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu
góp phần vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
Mâu thuẫn đối kháng: Là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có
lợi ích cơ bản trái ngược nhau.
Mâu thuẫn không đối kháng: Là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp có lợi ích
cơ bản không đối lập nhau
Quá trình vận động của mâu thuẫn:
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn nhau của các mặt đối
lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại của mình. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự
xung đột, bài trừ và phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Trong một mâu thuẫn, sự thống
nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng, bởi vì trong quy định,
ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu
tranh với nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: thống nhất là tương đối tạm thời,
đấu tranh là tuyệt đối cũng như sự vận động phát triển là tuyệt đối.
Phát triển là một sự đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Quá trình hình thành và phát triển của một mâu thuẫn: lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn
thể hiện ở sự khác biệt; sau đó phát triển lên thành hai mặt đối lập; khi hai mặt đối lập
của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và có điều kiện thì giữa chúng có sự chuyển hoá
– mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi,mâu thuẫn mới được hình thành và lại
một quá trình mới làm cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển hoá), thì không có
sự phát triển. Chuyển hoá của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập. Các hình thức chuyển hoá cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển
hoá lẫn nhau và cũng có thể chuyển hoá lên hình thức cao hơn...
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt:
thống nhất của các mặt đối lập và đấu tranh của hai mặt đối lập, trong đó: thống nhất của các
mặt đối lập là tạm thời, tương đối; còn đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt
đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là sự tự
thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới
vật chất phân hoá thành các bộ phận, các sự vận đa dạng, phức tạp, gián đoạn. 3. Ý nghĩa PPL
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn,
phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự
vận động, phát triển. Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú nên trong việc giải quyết
mâu thuẫn cần có quan điểm lịch sử cụ thể, tức là phải biết phân tích cụ thể từng loại
mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. lOMoAR cPSD| 40190299
4. Liên hệ thực tiễn
Sản xuất và tiêu dùng sẽ phát triển theo những chiều hướng trái ngược nhau. Sản xuất
chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm
được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng. Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối
tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng. Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra
sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu
dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một
sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó. Do vậy có thể thấy
được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt đối lập, chúng có tính
chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau
cùng chuyển hóa, phát triển.
Câu 8: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 1. Khái niệm
Là một trong hai nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thể hiện nội
dung: các sự vật hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy luôn có mối liên hệ với nhau,
không tồn tại riêng lẻ như quan điểm của chủ nghĩa siêu hình. Trong phép biện chứng
khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa
các SVHT hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi SVHT trong thế giới; còn khái niệm mối
liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều SVHT của thế giới, trong đó
những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi SVHT của thế giới, nó
thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối
lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng… 2. Nội dung
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các mối liên hệ.
♢ Tính khách quan: là sự quy định, tác động, chuyển hóa lẫn nhau của các SVHT là cái
vốn có của nó, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý chí của con người, con người chỉ có
thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
♢ Tính phổ biến: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ SVHT hay quá trình
nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các SVHT hay quá trình khác; đồng thời cũng không
có bất cứ SVHT nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu
thành với những mối liên hệ bên trong của nó
♢ Tính đa dạng, phong phú: Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện
ở chỗ: các SVHT hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau,
giữ vai trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một
mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những
giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những
tính chất và vai trò khác nhau. Quan điểm về tính phong phú đa dạng của các mối liên hệ
còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc
thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện
không gian và thời gian cụ thể. lOMoAR cPSD| 40190299
Phân loại các mối liên hệ:
Mối liên hệ bên trong: Là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận,
giữa các, các thuộc tính, các mặt khác nhau của sự vật, nó giữ vai trò quyết định sự tồn
tại, vận động và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bên ngoài: Là mối liên hệ giữa một SVHT này với một sự vật hiện tượng
khác, hoặc một SVHT này với các SVHT khác. Mối liên hệ này không quyết định sự tồn
tại, vận động và phát triển của sự vật mà nó chỉ đóng vai trò trung gian.
Mối liên hệ bản chất: là mối liên hệ cốt lõi thể hiện bản chất của SVHT, quá trình
Mối liên hệ không bản chất: là mối liên hệ không cốt lõi, không thể hiện bản chất của SVHT, quá trình.
Ngoài ra còn có các mối liên hệ khác như: mối mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên v.v.... 3. Ý nghĩa PPL
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử – cụ thể
Quan điểm Toàn Diện: Một là trong nhận thức và thực tiễn cần phải chú ý tới tất cả
mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, các mặt bên trong sự vật, hiện tượng và mối liên hệ
giữa các SVHT này đối với các SVHT khác. Hai là phải biết phân biệt từng mối liên hệ,
thấy rõ vai trò của từng loại liên hệ đối với sự tồn tại, biến đổi của SVHT. Quan niệm
toàn diện đối lập với sự phiến diện, dàn trải.
Quan điểm lịch sử – cụ thể: cụ thể yêu cầu khi nhận thức phải gắn với điều kiện lịch
sử ra đời tồn tại và phát triển của sự vật.
4. Liên hệ thực tiễn
Trong tự nhiên có các mối liên hệ giữa động vật, thực vật, nước,... các nhân tố của môi
trường xung quanh như cây xanh quang hợp nhả khí oxi cho động vật thực hiện quá trình
hô hấp. Sau đó động vật thải ra chất thải tạo thành chất dinh dưỡng trong đất cho cây sinh sống và phát triển.
Câu 9: Nguyên lý về sự phát triển 1. Khái niệm
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những
phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến thành ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống
đó, có hai nguyên lý cơ bản nhất, 1 trong số đó là nguyên lý về sự phát triển. Nó khái quát
một trong những thuộc tính phổ biến nhất của thế giới vật chất là vật chất luôn vận động,
phát triển. Phép biện chứng duy vật khái niệm: “Phát triển dùng để chỉ quá trình vận
động của SVHT theo khuynh hướng đi lên; từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn”. Như vậy khái niệm “phát triển” không đồng nhất khái
niệm “vận động”; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng
hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng
ngày càng hoàn thiện của những sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu
thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan,
không phụ thuộc vào ý thức con người. Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở lOMoAR cPSD| 40190299
các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả
mọi SVHT và mọi quá trình, mọi giai đoạn phát triển của SVHT đó. Trong mỗi quá
trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
Đối với tự nhiên: sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể, khả năng tiến
hóa của cơ thể, khả năng hoàn thiện quá trình trao đổi VC giữa cơ thể và môi trường.
Từ vô sinh đến hữu sinh.
Đối với xã hội: Sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, nâng
cao đời sống mọi mặt của con người giải phóng con người và tạo điều kiện thuận lợi cho
con người phát triển toàn diện, hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Đối với tư duy: Sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy
đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi SVHT, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại
có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời
gian khác nhau SVHT sẽ phát triển khác nhau. Sự tác động của các yếu tố khác có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của SVHT, thậm chí có thể làm cho SVHT thụt lùi tạm thời, có
thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác... Đó là những biểu hiện
của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển. 2. Nội dung:
Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong các lĩnh vực khác
nhau của thế giới, nguyên lý về sự phát triển được phát biểu như sau: Một là, mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển. Hai là, con đường của
sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch đầy mâu thuẫn, tính quanh
co, phức tạp của SVHT trong quá trình phát triển của nó. Phát triển cũng là quá trình phát
sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của SVHT; là quá trình thống nhất giữa
phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ SVHT cũ trong hình thái của SVHT mới.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển có tính khách quan, tính
phổ biến và tính phức tạp.
Tính khách quan: Theo quan điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát
triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định, là quá
trình tự thân của mọi SVHT. Do vậy, phát triển là một quá trình khách quan
độc lập với ý thức con người.
Tính phổ biến: Tính phổ biến của sự phát triển với nghĩa là sự phát triển diễn ra ở
tất cả mọi lĩnh vực - từ tự nhiên đến xã hội đến tư duy, từ hiện thực khách quan
đến những khái niệm, những phạm trù khách quan phản ánh hiện thực ấy.
Tính chất phức tạp của sự phát triển: Phát triển không đơn giản chỉ là sự tăng
hay giảm đơn thuần về lượng, mà bao hàm cả sự nhảy vọt về chất. Nhưng xu
hướng chung là đi lên, là tiến bộ. Phát triển bao hàm cả sự phủ định cái cũ và sự
nảy sinh cái mới. Sự lặp lại dường như cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn. Do vậy,
phát triển là con đường xoáy ốc từ thấp đến cao lOMoAR cPSD| 40190299 2. Ý nghĩa PPL
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức và cải
tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm
phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định
kiến, đối lập với sự phát triển. Mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình
biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi phải nhận thức
được tính quanh co, phức tạp của SVHT trong quá trình phát triển của nó, tức là phải có
quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù
hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
3. Liên hệ thực tiễn
Sinh viên có thể nhìn nhận và xác định trước, vạch ra trong đầu các giai đoạn phát triển
của bản thân, từ đó học cách vượt qua gián đoạn và thúc đẩy SVHT đó phát triển trong
hiện tại và tương lai. Trong công cuộc học tập, có những lúc học sinh, sinh viên sẽ cảm
thấy quá trình học tập không có chút tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan và tránh những
suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh viên phải có sự phát triển về trí tuệ và thể chất khác nhau, sẽ
có các phương pháp học tập, rèn luyện khác nhau để nâng cao trí tuệ và cảm xúc. Mỗi
người sẽ có một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đố mà áp vào bản thân mình rồi tự cảm
thấy tự ti, áp lực đối với những người cùng tranh lứa, những người thành công hơn mình.
Quá trình học tập và rèn luyện luôn là quá trình tích lũy kiến thức lâu dài.