


Preview text:
Trình bày đặc điểm phân bố dân cư ở nước ta?
1. Phân bố dân cư là gì?
Phân bố dân cư là sự sắp xếp số dân một cách tự phát hoặc tự giác trên một lãnh thổ sao cho phù hợp với
các điều kiện sống cũng như các yêu cầu khác của xã hội. Để thể hiện tình hình phân bố dân cư của một
khu vực người ta thường sử dụng tiêu chí mật độ dân số. Tức là số dân cư trú sinh sống trên một đơn vị
diện tích, thường với km2.
Đơn vị tính mật độ dân số là người/km2. Theo đó ta có công thức tính mật độ dân số:
Mật độ dân số = Số người sống trên lãnh thổ/ Diện tích lãnh thổ.
2. Đặc điểm phân bố dân cư ở nước ta
Phân bố dân cư ở nước ta hiện tại có những đặc điểm như sau:
Phân bố dân cư nước ta rất không đồng đều trên lãnh thổ, cụ thể:
- Dân cư tập trung đông ở vùng đồng bằng, ven biển và các đô thị. Đồng bằng sông Hồng là hai nơi có mật
độ dân số cao nhất cả nước.
- Miền núi và trung du dân cư thưa thớt. Tây Nguyên và Tây Bắc là các vùng có mật độ thấp hơn các vùng khác.
Trong cùng một vùng, phân bố dân cư cũng rất chênh lệch giữa các địa phương. Ví dụ: Ở đồng bằng
Sông Hồng dù quy mô dân số lớn nhưng chỉ tập trung ở khu vực Hà Nội, Hải Phòng, còn những vùng
ven ngoài thì lại vô cùng thưa thớt.
Các đô thị của nước ta cũng phân bố tập trung ở vùng đồng bằng và ven biển. Đồng bằng sông Hồng
là vùng có mạng lưới đô thị dày đặc và có nhiều đô thị lớn hơn các vùng khác.
Việc phân bố dân cư không đồng đều đã đặt ra vấn đề phải phân bố lại dân cư ở nước ta. Bởi lẽ, do quá
trình phát triển công nghiệp ồ ạt và cùng với nó là quá trình đô thị hóa, dân cư ngày càng lập trung vào một
số trung tâm công nghiệp và vào các thành phố lớn. Tại đây, nhân dân lao động thường phải sống chen
chúc trong những khu chật hẹp, thiếu tiện nghi với môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Trong khi ấy, ở các vùng
nông nghiệp thì dân cư lại ngày càng thưa thớt. Vì thế, chúng ta phải chú trọng hơn đến việc phân bổ dân
cư có kế hoạch. Số dân thành thị tăng lên nhanh chóng nhưng vẫn phải phù hợp với sự phát triển công
nghiệp. Ngoài ra, khi dân cư được phân bố lại ở các vùng thưa dân nhưng giàu tiềm năng sẽ tạo điều kiện
khai thác tốt các nguồn tài nguyên, tận dụng và điều hòa nguồn lao động giữa các vùng trong phạm vi cả nước.
3. Tình hình dân số và phân bố dân cư ở nước ta
3.1. Mật độ dân số
Mật độ dân số nước ta tăng và đứng thứ 03 khu vực Đông Nam Á. Kết quả thống kê năm 2019 cho thấy,
mật độ dân số của Việt Nam là 290 người/km2, tăng 31 người/km2 so với năm 2009. Với kết quả này, Việt
Nam là quốc gia có mật độ dân số đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á, sau Phi-li-pin (363 người/km2)
và Xin-ga-po (8.292 người/km2) .
Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng có mật độ dân số cao nhất toàn quốc, tương ứng là
1.060 người/km2 và 757 người/km2. Đây là hai vùng đông dân nhất cả nước, trong đó Hà Nội thuộc vùng
Đồng bằng sông Hồng với mật độ dân số là 2.398 người/km2 và thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng Đông
Nam Bộ với mật độ dân số là 4.363 người/km2.
Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là hai vùng có mật độ dân số thấp nhất, tương ứng là 132
người/km2 và 107 người/km2. Thành phố Hồ Chí Minh là khu vực có mật độ dân số cao nhất, cao hơn gần
86 lần so với tỉnh Lai Châu (có mật độ dân số là 51 người/km2), là địa phương có mật độ dân số thấp nhất cả nước.
3.2. Phân bố dân cư không đồng đều giữa các vùng
Theo kết quả điều tra năm 2019, dân số thành thị nước ta là 33.122.548 người, chiếm 34,4% tổng dân số
cả nước; dân số nông thôn là 63.086.436 người, chiếm 65,6%. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực
thành thị giai đoạn 2009-2019 là 2,64%/năm, tăng gấp sáu lần so với tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu
vực nông thôn song vẫn thấp hơn mức tăng 3,4%/năm của giai đoạn 1999 - 2009. Tỷ lệ dân số sống ở khu
vực thành thị của Việt Nam đã tăng lên những vẫn đang ở mức thấp so với các nước trong khu vực Đông
Nam Á, chỉ cao hơn Ti-mo Lét-xtê (31%), Mi-an-ma (29%) và Cam-pu-chia (23%).
Dân số Việt Nam phân bố không đồng đều giữa các vùng kinh tế - xã hội, trong đó, đồng bằng sông Hồng là
nơi tập trung dân cư lớn nhất của cả nước với 22,5 triệu người, chiếm 23,4% tổng dân số cả nước; tiếp đến
là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với 20,2 triệu người đang sinh sống, chiếm 21,0%. Tây
Nguyên là nơi có ít dân cư sinh sống nhất với 5,8 triệu người, chiếm 6,1% dân số cả nước.
Giai đoạn 2009 - 2019, Đông Nam Bộ có tỷ lệ tăng dân số bình quân cao nhất cả nước (2,37%/năm), đây là
trung tâm kinh tế năng động, thu hút rất nhiều người di cư đến làm ăn, sinh sống và học tập; đồng bằng
sông Cửu Long có tỷ lệ tăng dân số bình quân thấp nhất (0,05%/năm).
Kết quả điều tra năm 2019 cũng cho thấy, quy mô dân số chủ yếu của các tỉnh trên cả nước là từ 1 đến 2
triệu người (35 tỉnh), tiếp đến là nhóm các tỉnh có quy mô dân số nhỏ, dưới 1 triệu người (21 tỉnh), 7 tỉnh có
quy mô dân số trên 2 triệu người. Hai thành phố là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có quy mô dân số lớn
nhất cả nước (tương ứng là 8.053.663 người và 8.993.082 người), trong đó chênh lệch về dân số giữa địa
phương đông dân nhất cả nước (thành phố Hồ Chí Minh) và địa phương ít dân số nhất cả nước (tỉnh Bắc Kạn) là trên 28 lần.
Việc phân bố dân cư không đồng đều giữa các địa phương nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội, tiếp cận việc làm, giáo dục và dịch vụ y tế của một số địa phương có lợi thế hơn hẳn các địa
phương khác nên việc người dân di cư để lựa chọn nơi sinh sống phù hợp hơn là một trong những lý do
làm gia tăng chênh lệch về tăng dân số ở một số địa phương. Tình hình này xảy ra ngay cả trong điều kiện
những tỉnh có đông dân nhưng tỷ lệ sinh luôn thấp hơn mức sinh thay thế trong nhiều thập kỷ qua.
3.3. Việt Nam ta đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng
Kết quả TĐT năm 2019 cho thấy tỷ trọng dân số từ 15 - 64 tuổi chiếm 68,0% (giảm 1,1 điểm phần trăm so
với năm 2009), tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên chiếm lần lượt là 24,3% và 7,7%. Như vậy,
Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” khi mà cứ một người phụ thuộc thì có hai người trong độ
tuổi lao động. Dự báo đến khoảng năm 2040, Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”.
Mặc dù thời kỳ cơ cấu dân số vàng tạo ra nhiều thuận lợi, thế mạnh song cũng đặt ra không ít những khó
khăn, thách thức cần phải giải quyết. Ngoài các vấn đề về nâng cao trình độ kỹ năng của người lao động để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động nhất là trong bối cảnh cuộc
cách mạng công nghệ 4.0, kết nối cung cầu thị trường lao động thì việc giảm bớt áp lực về thiếu việc làm,
trật tự, an ninh xã hội cần tiếp tục được quan tâm.