Trình bày lý luận và thực tiễn về hàng hóa sức laođộng, giá trị thặng dư môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Trường đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội

Trong những năm gần đây, Việt Nam dần hội nhập với nền kinh tế thếgiới, kinh tế tri thức trở thành xu hướng phát triển chung của cả thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Con người được đặt ở vị trí trung tâm nên việc phát triển thị trường hàng hóa saức lao động sao cho hợp lý là một nhu cầu cấp thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Lý luận về loại hàng hóa đặc biệt. Tài liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem! 

Thông tin:
15 trang 5 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Trình bày lý luận và thực tiễn về hàng hóa sức laođộng, giá trị thặng dư môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin | Trường đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội

Trong những năm gần đây, Việt Nam dần hội nhập với nền kinh tế thếgiới, kinh tế tri thức trở thành xu hướng phát triển chung của cả thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Con người được đặt ở vị trí trung tâm nên việc phát triển thị trường hàng hóa saức lao động sao cho hợp lý là một nhu cầu cấp thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Lý luận về loại hàng hóa đặc biệt. Tài liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem! 

791 396 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 47886956
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG
NGHỆ HÀ NỘI
TIỂU LUẬN:
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN
CHỦ ĐỀ
:
động, giá trị thặng dư, các phương pháp sản xuất ra giá trị
thặng dư và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong
nền kinh tế thị trường
Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Lớp:
Mã sinh viên:
lOMoARcPSD| 47886956
2
TIỂU LUẬN:KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN.................................................................................
A:MỞ ĐẦU..................................................................................................................................
B: NỘI DUNG...............................................................................................................................
CHƯƠNG 1: HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG............................................................................... 1-
Sức lao động, điều kiện về sức lao động trở thành hàng hóa......................................................
1.1. Khái niệm sức lao động...........................................................................................................
1.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.........................................................................
2. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động........................................................................................
2.1 Giá trhàng hóa sức lao động...................................................................................................
2.2. Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động.....................................................................................
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ THẶNG DƯ..............................................................................................
Giá trị thặng dư, quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra. Nguồn gốc, bản chất của giá
trị thặng .....................................................................................................................................
1.1. Khái niệm giá trị thặng dư.......................................................................................................
1.2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra như thế nào.......................................................
1.3. Nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư.................................................................................
1.3.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư.............................................................................................
1.3.2. Bn chấất ca giá tr thặng ..............................................................
2.Các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng ............................................................................
2.1.Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối:......................................................................
2.2.Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:.....................................................................
3. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường................................
3.1. Lợi nhuận thương nghiệp:......................................................................................................
3.2. Lợi tức tsuất...................................................................................................................
3.3. Địa tô:....................................................................................................................................
C: KẾT LUẬN............................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................
lOMoARcPSD| 47886956
3
A:MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, Việt Nam dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh
tế tri thức trở thành xu hướng phát triển chung của cả thế giới và Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu hướng đó. Con người được đặt vị trí trung tâm nên việc
phát triển thị trường hàng hóa saức lao động sao cho hợp một nhu cầu cấp
thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Lý luận về loại hàng hóa đặc biệt
sức lao động theo chủ nghĩa Mác đã cung cấp thêm nhiều luận điểm khoa học,
toàn diện và biện chứng. Trên cở sở đó, tạo lý luận tiền đề vững chắc cho việc lý
giải và áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải pháp nhằm ổn định và phát triển
thị trường của loại hàng hóa đặc biệt này các vần đề liên quan tới nó. Nhận
thấy sự quan trọng của vấn đề sức lao động, em xin lựa chọn chủ đề: Trình bày
luận và thực tiễn về hàng hóa sức lao động, giá trị thặng dư, các
phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư các hình thức biểu hiện của
giá trị thặng trong nền kinh tế thị trường”. Bài viết này còn nhiều hạn
chế về mặt kiến thức,kính mong thầy giáo đóng góp ý kiến để bài viết của em
được hoàn thiện một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn!
B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
1- Sức lao động, điều kiện về sức lao động trở thành hàng hóa
1.1. Khái niệm sức lao động
Theo C.Mác: Sức lao động hay năng lực lao động toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang
sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra mt giá trị sử
dụng nào đó”
i cách khác, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực trong cơ thể con
người và được vận dụng vào quá trình sản xuất.
Trong chủ nghĩa tư bản sức lao động là đối tượng mua- bán,mua bán khả
năng lao động của người lao động về để lao động cho nhà tư bản,đó là chế
độ lao động làm thuê. khác với chế độ mua người lao động trong chế
độ nô lệ.
1.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
lOMoARcPSD| 47886956
4
Sức lao động không phải lúc nào cũng là hàng hóa. Nó chỉ có thể biến
thành hàng hoá khi thỏa hai điều kiện lịch sử sau:
Một là, người lao động phải được tự do về thân thểs, khả năng chi
phối sức lao động của mình. Trên thị trường, sức lao động chỉ xuất hiện
dưới tư cách là hàng hóa khi và chỉ khi do người có sức lao động đưa ra
bán. Muốn bán thì người sở hữu sức lao động ấy phải quyền sở hữu năng
lực của mình. Do đó, trong thời chế độ chiếm hữu lệ, sức lao động
của người lệ không được xem hàng hóa do bản thân lthuộc quyền
sở hữu của chủ nô. Nô lệ không được phép và không có quyền bán sức lao
động của mình. Để sức lao động trở thành hàng hóa thì việc thủ tiêu chế độ
chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến là tất yếu
Hai là,người lao động buộc phải bán sức lao động của mình. Khi người
lao động tước đoạt hết liệu sản xuất dẫn đến không thể tự tiến hành lao
động sản xuất. Khi đó, người lao động buộc phải bán sức lao động để
thể tồn tại.Trong trường hợp người thợ thủ công tự do, tuy có thể tùy ý sử
dụng sức lao động song người đó tư liệu sản xuất đlàm ra những sản
phẩm để nuôi sống bản thân, chưa buộc phải bán sức lao động để sống nên
sức lao động của người này chưa thể xem là hàng hóa.
2. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng như các loại hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng. 2.1 Giá trị hàng hóa sức lao động
Như các giá trị hàng hóa khác, giá trị hàng hóa sức lao động cũng được
quyết định bởi số lượng thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất ra sức lao động. Tuy nhiên, sức lao động chỉ có thể tồn tại như năng
lực con người sống. Để có thể tái sản xuất ra năng lực đó, người lao động
phải tiêu dùng một số lượng các tư liệu sinh hoạt nhất định. Ngoài ra còn
phải thỏa mãn những nhu cầu từ gia đình, từ con cái của người lao động
đó để sức lao động được sản xuất và tái sản xuất một cách liên tục. Do
vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để thể sản xuất ra sức lao động
sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt ấy. Nói cách khác là giá trị hàng hóa sức lao động sẽ
được đo lường gián tiếp thông qua giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái
sản xuất ra sức lao động.
Ngoài ra, giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch
sử. Yếu tố tinh thần thể hiện qua việc người lao động không chỉ có nhu
cầu về vật chất mà còn có nhu cầu về tinh thần. Yếu tố lịch sử tác động
đến nhu cầu qua các hoàn cảnh lịch sử quốc gia, thời kì, trình độ văn
minh, phong tục tập quán, vị trí địa lý và khí hậu… của nước đó. Trong
một quốc gia tại một thời kì nhất định thì quy mô những tư liệu sinh hoạt
lOMoARcPSD| 47886956
5
cần thiết cho người lao động là một đại lượng xác định do những bộ phận
sau hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt ( vật chất và tinh thần) cần thiết để
tái sản xuất lao động, duy trì đời sống của người lao động.
Hai là, phí tồn đài tạo người lao động.
Bà là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình, cho con cái
của người lao động.
2.2 . Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động
Về giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động, chúng cũng giống như
các hàng hóa khác. Nó được thể hiện qua quá trình tiêu dùng sức lao
động, nói cách khác là quá trình người công nhân tiến hành lao động sản
xuất. Tuy nhiên , những tính chất riêng biệt của hàng hóa sức lao động
vẫn được thấy rõ qua hai biểu hiện sau:
Một là, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động khác biệt với giá trị
sử dụng của các hàng hóa khác ở chỗ: sau quá trình tiêu dùng, sử dụng t
giá trị và giá trị tiêu dùng của các hàng hóa thông thường đều giảm
biến mất dần theo thời gian. Ngược lại, với hàng hóa sức lao động, quá
trình tiêu dùng nó lại là quá trình sản xuất ra một loại hàng hóa mới, là
quá trình tạo ra được giá trị mới lớn hơn nhiều so với ban đầu. Phần lớn
hơn này là giá trị thặng dư. So với các hàng hóa khác thì đây là đặc điểm
cơ bản nhất của sử dụng hàng hóa sức lao động.
Hai là, chủ thể của hàng hóa sức lao động là con người dẫn đến vấn đề
cung ứng sức lao động sẽ bị phụ thuộc vào các thành phần như tâm,
kinh tế,... của người lao động. Với hầu hết các thị trường khác, con người
sẽ gây nên những tác động đến cầu nhưng tại thị trường lao động, con
người sẽ ảnh hưởng quyết định đến cung.
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Giá trị thặng dư, quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra. Nguồn gốc, bản
chất của giá trị thặng dư
1.1 . Khái niệm giá trị thặng dư
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến lớn nhất mà Mác đã
đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn
giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày
nay.
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D.Ricardo cũng không
giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư bản
vẫn thu được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai
lOMoARcPSD| 47886956
6
mặt của lao động sản xuất hàng hoá C.Mác đã chứng minh một cách khoa học
rằng trong quá trình sản xuất hàng hoá lao động cụ thể của công nhân chuyển
giá trị của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động
trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn giá trị sức
lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngoài khoản bù lại giá trị
sức lao động, C.Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Công
nhân chỉ được tiếp tục làm thuê chừng nào còn tạo ra được khối lượng giá trị
mới lớn hơn giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã trả cho người đó dưới hình
thức tiền công, nếu không sẽ bị sa thải.
Theo đó Giá trị thặng dư là giá trị rơi ra ngoài sức lao động do công nhân sang
tạo ra và nhà tư bản chiếm không.
Nhà tư bản giành một phần giá trị thặng dư này cho sự hưởng thụ của mình và
gia đình mình, phần còn lại được tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Khoản tích
luỹ này lại trở thành điều kiện vật chất để thu hút thêm nhiều gái trị thặng
hơn nữa. Chính lòng ham mê giá trị thặng dư là động lực thúc đẩy nhà tư bản
dám mạo hiểm bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh.
1.2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra như thế nào
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm
tăng giá trị.
Để có được giá trị thặng dư, nền sản xuất xã hội phải đạt đến mt trình độ nhất
định. Trình độ đó phản ánh, người lao động chỉ phải hao phí một phần thời gian
lao động (trong thời gian lao động đã được thỏa thuận mua bán theo nguyên tắc
ngang giá) là có thể bù đắp được giá trị hàng hóa sức lao động, bộ phận này là
thời gian lao động tất yếu.
Ngoài thời gian tất yếu đó, vẫn trong nguyên tắc ngang giá đã thoả thuận, người
lao động phải làm việc trong sự quản lý của người mua hàng hóa sức lao động,
và sản phẩmm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, thời gian đó là thời gian lao
động thặng dư.
1.3 . Nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư
1.3.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
Qua nghiên cứu, C.Mác đi đến kết luận quá trình sản xuất ra chủ nghĩa bản
được định nghĩa quá trình sản xuất ra quá trình tiến hành sản xuất ra giá trị
thặng giá trị sử dụng. Phần giá trị mới sinh ra lớn hơn giá trị của sức lao
động được tính bằng gtrị sức lao động cộng thêm với gtrị thặng dư. Chính
nhờ sức lao động cụ thể của mình mà người công nhân đã sử dụng các tư liệu sản
xuất của nhà bản mua chuyển các giá trị của chúng để đưa vào sản phẩm;
bằng những sức lao động trừu tượng của mình người công nhân đã tạo ra được
giá trị mới lớn hơn được giá trị của sức lao động bỏ ra , cũng chính phần lớn
hơn đó được xem là giá trị thặng dư.
lOMoARcPSD| 47886956
7
Để cái nhìn sâu, đúng đắn về nguồn gốc bản chất của quá trình sản
xuất nhằm tạo ra giá trị thặng dư, Các Mác đã chia tư bản ra thành 2 bộ phận gồm
tư bản khả biến và tư bản bất biến. Cụ thể như sau:
bản khả biến được hiểu bộ phận của tư bản biểu hiện cụ thể
dưới hình thức của giá trị sức lao động mà trong quá trình tiến hành sản xuất
đã tăng thêm về giá trị lượng, được kí hiệu tắt là v.
bản bất biến được hiểu một bộ phận của bản được biểu hiện, tồn
tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà ở tại đó, giá của giá trị hàng hóa được
bảo tồn đưa vào sản phẩm, giá trị về lượng không biến đổi trong quá trình
sản xuất, được kí hiệu tắt là c.
Giá trị của bất cứ một loại hàng hóa sẽ được tính bằng giá trị của tư bản khả biến
(v) + giá trị của tư bản bất biến mà nó chứa đựng (c)
Từ sự phân chia, tách biệt giữa bản khả biến bản bất biến thì thể dễ
dàng thấy được bản chất của tư bản chủ nghĩa là bóc lột sức lao động ch
tchính sức lao động của người công nhân làm thuê thì mới có thể tạo ra được
giá tri thặng dư phuc vụ cho các nhà bản. Các nhà bản đã tiến hành bóc lột
kiếm lời tmột phần giá trị mới tsức lao động của người công nhân tạo ra.
Chính vậy, giá trị ca bản bỏ ra một giá trị chính là c + v. Nhưng giá trị thực
mà các nhà bản thu vào được chính c + v + m. Phần m ở đây chính phần
dôi ra mà tư bản bóc lột trên lao động của người công nhân.
Như vậy, quá trình tạo ra các giá trị tăng thêm từ phần dôi ra cho các nhà bản
khi năng suất lao động của người công nhân đạt tới trình độ nhất định được xem
chính là sản xuất tư bản chủ nghĩa– mà trong đó, chỉ cần mt phần nhỏ ca ngày
lao động của người công nhân làm thuê đã tạo ra được giá trị bằng với giá trị sức
lao động của chính mình. Hay nói cách khác, lao động sống này chính nguồn
gốc tạo ra giá trị thặng dư.
1.3.2. Bản chất của giá trị thặng dư
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ hữu vtư liệu
sản xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất
chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi.
Nhà bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng một gtrị trao đổi,
nghĩa một hàng hoá. Hơn nữa, nhà bản muốn sản xuất ra một hàng hoá
giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà
nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “
Với tư cách sự thống nhất giữa hai quá trình lao động quá trình tạo ra giá
lOMoARcPSD| 47886956
8
trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự
thống nhất giữa quá trình lao động quá trình làm tăng giá trị thì quá trình
sản xuất một quá trình sản xuất bản chủ nghĩa, hình thái tư bản chủ
nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách quá trình nhà bản tiêu dùng sức lao động
có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà bản giống
như những yếu tố khác của sản xuất được nhà bản sử dụng sao cho hiêụ
quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà bản, chứ không phải của
người công nhân
C.Mác đã lấy dụ về việc sản xuất sợi nước Anh làm đối tượng nghiên
cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mác đã sdụng phương
pháp giả định khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành nghiên cứu:
Không xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ gtrị liệu
sản xuất đem tiêu dùng chuyển hết mt lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên
cứu trong nền kinh tế tái sản xuất giản đơn. Từ các giả định đó, Mác đưa ra một
loạt các giả thiết để nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết
bị máy móc đkéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động
1 ngày 4 đôla; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân 1 đôla chỉ
cần 4 giờ người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi. Từ đó,
bảng quyết toán như sau:
lOMoARcPSD| 47886956
9
Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng
chi phí tư bản ứng trước qtrình sản xuất (16 đôla) nhà bản nhận thấy tiền
ứng ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi giá trị thặng dư. Từ sự nghiên
cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của bản đã được giải quyết. Việc chuyển
hoá tiền thành bản diến ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn
ra trong lĩnh vực đó. Chỉ trong lưu thông nhà bản mới mua được một thứ
hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nbản sử dụng
hàng hoá đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị
thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai , phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (10 kg sợi), chúng ta thấy
có hai phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân
được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động
gọi giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, bằng
giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.
Tư bản ứng trước
Giá trị của sản phẩm mới
Giá 10 kg bông
10
đôla
động
cụ
thể
của
Lao
công
nhân
bảo
tồn
chuyển giá trị 10 kg bông
vào 10 kg sợi.
10
đôla
Hao mòn máy móc
2
đôla
Khấu hao tài sản cố định
2
đôla
Tiền thuê sức lao
động trong mt ngày
4
đôla
Giá trị mới do 8 giờ lao
động của người công nhân
tạo ra
8
đôla
Tổng chi phí sản
xuất
16
đôla
Tổng doanh thu
20
đôla
lOMoARcPSD| 47886956
10
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành
hai phần:
Một phần gọi thời gian lao động cần thiết: Trong thời gian này người
công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động
hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho mình (4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư: Trong thời gian lao
động thặng dư người công nhân lại tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức
lao động hay tiền lương nhà bản đã trả cho mình, đó giá trị thặng (4
đôla) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản (nhà tư bản chiếm đoạt).
2.Các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó
giai cấp tư sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng
dư. Những phương pháp bản để đạt được mục đích đó tạo ra giá trị
thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
2.1 .Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối :
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối thời
gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian lao
động cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không
đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là
100%. Giả định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao
động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt
đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200% (m
= 200% )
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư
bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng
hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời
gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân
đòi hỏi còn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao
động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật
chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt
về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của
giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động
trong ngày.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi
hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
lOMoARcPSD| 47886956
11
2. 2 .Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối :
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian
lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động
thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại
giả thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng
với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động thành
thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường hợp đó
cũng thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động
thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300% (m’ = 300%).
Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi
biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và công nghệ vào trong quá trình sản
xuất để nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá
cả thị trường của sản phẩm. Đặc biệtng cao năng suất lao động xã hội trong
những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người
công nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất g
trị thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu. Hai phương pháp trên được các nhà
tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm
thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
3. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
3.1 . Lợi nhuận thương nghiệp :
Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá
trình sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhượng cho tư bản thương nghiệp, để
tư bản thương nghiệp bán hàng hoá thay cho mình.Thực chất, lợi nhuận thương
nghiệp chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư nên nguồn gốc của lợi
nhuận thương nghiệp chính là một bộ phận lao động của công nhân không được
trả công.
Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp: -
Tư bản công nghiệp nhượng một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp
bằng cách bán hàng hoá thấp hơn giá trị của nó, để rồi tư bản thương nghiệp bán
hàng hoá theo đúng giá trị sẽ thu được khoản chênh lệch (hoa hồng).
Bán H
Bán H
T
ư bản
công
nghiệp
T
ư bản
thương
nghiệp
T
ư bản
tiêu dùng
lOMoARcPSD| 47886956
12
( Giá cả < Giá trị) - (Giá cả = Giá trị) =Ptn
Việc nhượng giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công việc và nhà tư bản
thương nghiệp cũng diễn ra theo đúng quy luật tỷ suất lợi nhuận bình
quân.Nghĩa là, tư bản thương nghiệp cũng tham gia vào cạnh trnah giữa
các nghành để thu được lợi nhuận bình quân cho mình
3.2 . Lợi tức và tỷ suất
Lợi tức chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả
cho nhà tư bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản
trong một thời gian nhất định. Ký hiệu là 2.
Nguồn gốc của lợi tức cũng chính là từ giá trị thặng dư do công nhân làm th
sáng tạo ra từ trong lĩnh vực sản xuất. Vì vậy,có thể khẳng định tư bản cho vay
cũng gián tiếp bớt lột công nhân làm thuê thông qua nhà tư bản đi vay.
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay
trong một thời gian nhất định kí hiệu là z’
z=z/Kcv x100%
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và quan hệ cung cầu
về tư bản cho vay. Thông thường giới hạn vận động ca tỷ suất lợi tức là: 0<
z’<p’
3.3 . Địa tô :
a) Bản chất của địa tô:
Trong nông nghiệp, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp cũng phải thu được lợi
nhuận bình quân như các ngành khác, nhưng họ phải thuê ruộng đất của địa chủ
để kinh doanh, do vậy ngoài lợi nhuận bình quân họ phải thu được phần lợi
nhuận siêu ngạch để trả cho nhà tư bản dưới hình thức địa tô. Phần lợi nhuận
siêu ngạch phải ổn định và lâu dài.
Vậy: Địa tô TBCN là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của
tư bản kinh doanh trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra, mà nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu
ruộng đất.
Bản chất của địa tô TBCN là mối quan hệ bóc lột giá trị thặng dư giữa 3 giai cấp
trong đó, giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ cùng tham gia bóc lột giai cấp công
nhân làm thuê trong nông nghiệp. b) Các hình thức địa tô TBCN - Địa tô chêch
lệch :
Trong kinh doanh nông nghiệp, giá cả của hàng hoá nông phẩm được hình thành
trên cơ sở điều kiện sản xuất xấu nhất (độ màu mỡ xấu nhất, vị trí địa lý khó
khăn nhất...), chứ không phải ở điều kiện trung bình như trong công nghiệp.Vì
thế, nếu kinh doanh trên đất tốt hoặc trung bình sẽ có lợi nhuận siêu ngạch.Phần
lợi nhuận siêu ngạch này tồn tại thường xuyên, tương đối ổn định và nó thuộc về
người chủ ruộng đất (nhà tư bản phải trả cho địa chủ) gọi là địa tô chêch lệch.
Vậy: Địa tô chêch lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân
lOMoARcPSD| 47886956
13
thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chêch lệch
giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất
xấu nhất và giả cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình. Địa tô chêch
lệch có hai loại: Địa tô chêch lệch I và địa tô chêch lệch II. + Địa tô chêch lệch
I: là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có những điều kiện tự nhiên thuận
lợi, tức là có độ màu m hay vị trí thuận lợi hơn.
+ Địa tô chêch lệch II là loại địa tô thu được gắn liền với thâm canh tăng năng
suất, là kết quả ca tư bản đầu tư thêm trên cùng mt đơn vị diện tích. Trong
thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại thuộc nhà
tư bản kinh doanh ruộng đất. Nhưng khi hết hợp đồng, địa chủ sẽ tìm cách nâng
giá thuê ruộng đất lên, tức là biến địatô chêch lệch II thành địa tô chêch lệch I.
Tình trạng này dẫn đến mâu thuẫn: Nhà tư bản muốn kéo dài thời hạn thuê
ruộng đất, ngược lại, địa chủ lại chỉ muốn cho thuê trong thời hạn ngắn. Vì vậy
trong thời hạn thuê đất nhà tư bản tìm mọi cách quayng sản xuất, tận dụng và
vắt kiệt độ màu mỡ của đất đai. Mác cho rằng lối kinh doanh TBCN trong nông
nghiệp dẫn đến quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm xuống.
- Địa tô tuyệt đối :
+ Địa tô tuyệt đối là số lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
hình thành bởi sự chêch lệch giữa giá trị nông sản và giá cả sản xuất chung. Đây
là loại địa tô mà nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp tuyệt đối phải np
cho địa chủ, bất kể ruộng đất tốt hay xấu.
+ Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp
thấp hơn trong công nghiệp.
+ Nguyên nhân tồn tại của đa tô tuyệt đối là do chế độ độc quyền sở hữu ruộng
đất đã ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh để hình thành lợi nhuận bình
quân.
Vậy: Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn
cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệ, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông
sản sản phẩm và giá cả sản xuất chung
VD:
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ phải
thuê đất của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương với diện
tích cũng như vị trí của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất rõ việc thuê đất
để kinh doanh, trên cơ sở ấy, ta thấy rõ sự khác biệt và sự vận dụng lý luận địa
tô của Mác trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những
văn bản pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi
nộp tiền thuê đất đều tự nguyện đóng góp. Trong việc thuê đất để kinh doanh thì
người đã thuê đất của nhà nước sẽ phát triển kinh doanh trên mảnh đất đó rồi lấy
lợi nhuận mà mình làm ra để trả cho nhà nước và số tiền đó sẽ vào ngân sách
nhà nước. Hiện nay không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc
kinh doanh mà nhà nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài ở Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách.
lOMoARcPSD| 47886956
14
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như trong
một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tô vẫn còn tồn tại
nhưng về bản chất thì hoàn toàn khác so với địa tô phong kiến và địa tô tư bản
chủ nghĩa. Tuy nhiên trong việc sử dụng lý luận địa tô của C.Mác trong việc
quản lý đất đai vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chẳng hạn như nhà nước thu đất
của nông dân với giá rất rẻ sau đó quy hoạch xây dựng nhà ở và cho thuê với giá
rất cao. Đây là vấn đề cần được kiến nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền
bù thoả đáng cho dân. Nếu như trong xã hội phong kiến và tư bản chủ nghĩa,
người sử dụng đất phải nộp tô cho địa chủ thì ngày nay tô hay còn nói các khác
là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào ngân sách nhà nước. Nguồn
ngân sách đó lại được dung vào những công việc nhằmy dựng đấy nước. Địa
tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Địa tô đã từng
tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và c
trong thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, lý luận địa tô tư bản chất Mác
không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp
mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp
và các ngành khác có liên quan đến đất đai có hiệu quả hơn. Như vậy ta một lần
nữa ta khẳng định rằng lý luận về địa tô của C.Mác đã được đảng và nhà nước ta
vận dụng mt cách sáng tạo và hợp lý. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế và nhà nước đang dần cải thiện để xây dựng một Việt
Nam giàu mạnh
C: KẾT LUẬN
Đề tài giúp nâng cao tư duy nhận thức và trình độ lí luận về học thuyết kinh tế
cũng như chủ nghĩa Mác, nó giúp chúng ta hiểu sâu hơn quy luật kinh tế của chủ
nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư, nhận thấy vai trò quan trọng của nó
trong phát triển kinh tế.
Việt nam hiện nay đang phát triển kinh tế thị trường, nền kinh tế mở cửa, vì vậy
đã có quy luật giá trị thặng dư hoạt động. Nhận thức về quy luật trang bị cho các
nhà kinh tế những hiểu biết trong quản lí và sản xuất kinh doanh. Hiểu được quy
luật này thì sẽ nắm được sự vận động của các quy luật khác: quy luật cạnh tranh,
quy luật giá trị.... vì quy luật giá trị thặng dư là quy luật trung tâm. Từ đó các
nhà kinh tế có biện pháp tối ưu hơn, phù hợp quy luật để tạo hiệu quả kinh
doanh cao nhất.
Đề tài thực sự có ý nghĩa thực tiễn và giá trị vận dụng trong phương thức sản
xuất và nền sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Một yêu cầu trong phát triển kinh tế,
sử dụng quy luật giá trị thặng dư trong quản lí doang nghiệp là các doanh nghiệp
nước ta phải vận dụng một cách hợp lí quy luật giá trị thăng dư, tuân theo sự
điều tiết, quản lí vĩ mô của nhà nước để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
quyền lợi thuộc về nhân dân và người lao động.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin
lOMoARcPSD| 47886956
15
2- Kinh tế chính trị học Mác-Lênin
3- Giáo trình kinh tế chính trị
| 1/15

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47886956
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI TIỂU LUẬN:
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN CHỦ ĐỀ
: Trình bày lý luận và thực tiễn về hàng hóa sức lao
động, giá trị thặng dư, các phương pháp sản xuất ra giá trị
thặng dư và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong
nền kinh tế thị trường
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: Lớp: Mã sinh viên: 1 lOMoAR cPSD| 47886956
TIỂU LUẬN:KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN.................................................................................
A:MỞ ĐẦU..................................................................................................................................
B: NỘI DUNG...............................................................................................................................
CHƯƠNG 1: HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG............................................................................... 1-
Sức lao động, điều kiện về sức lao động trở thành hàng hóa......................................................
1.1. Khái niệm sức lao động...........................................................................................................
1.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.........................................................................
2. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động........................................................................................
2.1 Giá trị hàng hóa sức lao động...................................................................................................
2.2. Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động.....................................................................................
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ THẶNG DƯ..............................................................................................
Giá trị thặng dư, quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra. Nguồn gốc, bản chất của giá
trị thặng dư.....................................................................................................................................
1.1. Khái niệm giá trị thặng dư.......................................................................................................
1.2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra như thế nào.......................................................
1.3. Nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư.................................................................................
1.3.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư.............................................................................................
1.3.2. Bản chấất của giá trị thặng dư ..............................................................
2.Các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư............................................................................
2.1.Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối:......................................................................
2.2.Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:.....................................................................
3. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường................................
3.1. Lợi nhuận thương nghiệp:......................................................................................................
3.2. Lợi tức và tỷ suất...................................................................................................................
3.3. Địa tô:....................................................................................................................................
C: KẾT LUẬN............................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................... 2 lOMoAR cPSD| 47886956 A:MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, Việt Nam dần hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh
tế tri thức trở thành xu hướng phát triển chung của cả thế giới và Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu hướng đó. Con người được đặt ở vị trí trung tâm nên việc
phát triển thị trường hàng hóa saức lao động sao cho hợp lý là một nhu cầu cấp
thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Lý luận về loại hàng hóa đặc biệt –
sức lao động theo chủ nghĩa Mác đã cung cấp thêm nhiều luận điểm khoa học,
toàn diện và biện chứng. Trên cở sở đó, tạo lý luận tiền đề vững chắc cho việc lý
giải và áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải pháp nhằm ổn định và phát triển
thị trường của loại hàng hóa đặc biệt này và các vần đề liên quan tới nó. Nhận
thấy sự quan trọng của vấn đề sức lao động, em xin lựa chọn chủ đề: “Trình bày
lý luận và thực tiễn về hàng hóa sức lao động, giá trị thặng dư, các
phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư và các hình thức biểu hiện của
giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường”. Bài viết này còn nhiều hạn
chế về mặt kiến thức,kính mong thầy giáo đóng góp ý kiến để bài viết của em
được hoàn thiện một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn! B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
1- Sức lao động, điều kiện về sức lao động trở thành hàng hóa
1.1. Khái niệm sức lao động
Theo C.Mác: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng
lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang
sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”
Nói cách khác, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực trong cơ thể con
người và được vận dụng vào quá trình sản xuất.
Trong chủ nghĩa tư bản sức lao động là đối tượng mua- bán,mua bán khả
năng lao động của người lao động về để lao động cho nhà tư bản,đó là chế
độ lao động làm thuê. Nó khác với chế độ mua người lao động trong chế độ nô lệ.
1.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. 3 lOMoAR cPSD| 47886956
Sức lao động không phải lúc nào cũng là hàng hóa. Nó chỉ có thể biến
thành hàng hoá khi thỏa hai điều kiện lịch sử sau:
Một là, người lao động phải được tự do về thân thểs, có khả năng chi
phối sức lao động của mình. Trên thị trường, sức lao động chỉ xuất hiện
dưới tư cách là hàng hóa khi và chỉ khi nó do người có sức lao động đưa ra
bán. Muốn bán thì người sở hữu sức lao động ấy phải có quyền sở hữu năng
lực của mình. Do đó, trong thời kì chế độ chiếm hữu nô lệ, sức lao động
của người nô lệ không được xem là hàng hóa do bản thân nô lệ thuộc quyền
sở hữu của chủ nô. Nô lệ không được phép và không có quyền bán sức lao
động của mình. Để sức lao động trở thành hàng hóa thì việc thủ tiêu chế độ
chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến là tất yếu
Hai là,người lao động buộc phải bán sức lao động của mình. Khi người
lao động tước đoạt hết tư liệu sản xuất dẫn đến không thể tự tiến hành lao
động sản xuất. Khi đó, người lao động buộc phải bán sức lao động để có
thể tồn tại.Trong trường hợp người thợ thủ công tự do, tuy có thể tùy ý sử
dụng sức lao động song người đó có tư liệu sản xuất để làm ra những sản
phẩm để nuôi sống bản thân, chưa buộc phải bán sức lao động để sống nên
sức lao động của người này chưa thể xem là hàng hóa.
2. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng như các loại hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc
tính là giá trị và giá trị sử dụng. 2.1 Giá trị hàng hóa sức lao động
Như các giá trị hàng hóa khác, giá trị hàng hóa sức lao động cũng được
quyết định bởi số lượng thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản
xuất ra sức lao động. Tuy nhiên, sức lao động chỉ có thể tồn tại như năng
lực con người sống. Để có thể tái sản xuất ra năng lực đó, người lao động
phải tiêu dùng một số lượng các tư liệu sinh hoạt nhất định. Ngoài ra còn
phải thỏa mãn những nhu cầu từ gia đình, từ con cái của người lao động
đó để sức lao động được sản xuất và tái sản xuất một cách liên tục. Do
vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để có thể sản xuất ra sức lao động
sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt ấy. Nói cách khác là giá trị hàng hóa sức lao động sẽ
được đo lường gián tiếp thông qua giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái
sản xuất ra sức lao động.
Ngoài ra, giá trị hàng hóa sức lao động bao hàm yếu tố tinh thần và lịch
sử. Yếu tố tinh thần thể hiện qua việc người lao động không chỉ có nhu
cầu về vật chất mà còn có nhu cầu về tinh thần. Yếu tố lịch sử tác động
đến nhu cầu qua các hoàn cảnh lịch sử quốc gia, thời kì, trình độ văn
minh, phong tục tập quán, vị trí địa lý và khí hậu… của nước đó. Trong
một quốc gia tại một thời kì nhất định thì quy mô những tư liệu sinh hoạt 4 lOMoAR cPSD| 47886956
cần thiết cho người lao động là một đại lượng xác định do những bộ phận sau hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt ( vật chất và tinh thần) cần thiết để
tái sản xuất lao động, duy trì đời sống của người lao động.
Hai là, phí tồn đài tạo người lao động.
Bà là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình, cho con cái của người lao động.
2.2 . Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động
Về giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động, chúng cũng giống như
các hàng hóa khác. Nó được thể hiện qua quá trình tiêu dùng sức lao
động, nói cách khác là quá trình người công nhân tiến hành lao động sản
xuất. Tuy nhiên , những tính chất riêng biệt của hàng hóa sức lao động
vẫn được thấy rõ qua hai biểu hiện sau:
Một là, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động khác biệt với giá trị
sử dụng của các hàng hóa khác ở chỗ: sau quá trình tiêu dùng, sử dụng thì
giá trị và giá trị tiêu dùng của các hàng hóa thông thường đều giảm và
biến mất dần theo thời gian. Ngược lại, với hàng hóa sức lao động, quá
trình tiêu dùng nó lại là quá trình sản xuất ra một loại hàng hóa mới, là
quá trình tạo ra được giá trị mới lớn hơn nhiều so với ban đầu. Phần lớn
hơn này là giá trị thặng dư. So với các hàng hóa khác thì đây là đặc điểm
cơ bản nhất của sử dụng hàng hóa sức lao động.
Hai là, chủ thể của hàng hóa sức lao động là con người dẫn đến vấn đề
cung ứng sức lao động sẽ bị phụ thuộc vào các thành phần như tâm lý,
kinh tế,... của người lao động. Với hầu hết các thị trường khác, con người
sẽ gây nên những tác động đến cầu nhưng tại thị trường lao động, con
người sẽ ảnh hưởng quyết định đến cung.
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
Giá trị thặng dư, quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra. Nguồn gốc, bản
chất của giá trị thặng dư
1.1 . Khái niệm giá trị thặng dư
Học thuyết về giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến lớn nhất mà Mác đã
đóng góp cho nhân loại. Cho đến nay học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn
giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên nó cần được phát triển phù hợp với thực tiễn ngày nay.
Trước Mác, ngay cả những nhà kinh tế tư bản lỗi lạc như D.Ricardo cũng không
giải thích được vì sao trao đổi hàng hoá theo đúng quy luật giá trị mà nhà tư bản
vẫn thu được lợi nhuận. Nhờ phân biệt được phạm trù lao động và tính chất hai 5 lOMoAR cPSD| 47886956
mặt của lao động sản xuất hàng hoá C.Mác đã chứng minh một cách khoa học
rằng trong quá trình sản xuất hàng hoá lao động cụ thể của công nhân chuyển
giá trị của tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng sang sản phẩm, đồng thời lao động
trừu tượng của người đó thêm vào sản phẩm một giá trị mới lớn hơn giá trị sức
lao động của mình. Khoản lớn hơn đó, tức là số dư ra ngoài khoản bù lại giá trị
sức lao động, C.Mác gọi là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Công
nhân chỉ được tiếp tục làm thuê chừng nào còn tạo ra được khối lượng giá trị
mới lớn hơn giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã trả cho người đó dưới hình
thức tiền công, nếu không sẽ bị sa thải.
Theo đó Giá trị thặng dư là giá trị rơi ra ngoài sức lao động do công nhân sang
tạo ra và nhà tư bản chiếm không.
Nhà tư bản giành một phần giá trị thặng dư này cho sự hưởng thụ của mình và
gia đình mình, phần còn lại được tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Khoản tích
luỹ này lại trở thành điều kiện vật chất để thu hút thêm nhiều gái trị thặng dư
hơn nữa. Chính lòng ham mê giá trị thặng dư là động lực thúc đẩy nhà tư bản
dám mạo hiểm bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh.
1.2. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư diễn ra như thế nào
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị.
Để có được giá trị thặng dư, nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ nhất
định. Trình độ đó phản ánh, người lao động chỉ phải hao phí một phần thời gian
lao động (trong thời gian lao động đã được thỏa thuận mua bán theo nguyên tắc
ngang giá) là có thể bù đắp được giá trị hàng hóa sức lao động, bộ phận này là
thời gian lao động tất yếu.
Ngoài thời gian tất yếu đó, vẫn trong nguyên tắc ngang giá đã thoả thuận, người
lao động phải làm việc trong sự quản lý của người mua hàng hóa sức lao động,
và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, thời gian đó là thời gian lao động thặng dư.
1.3 . Nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư
1.3.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
Qua nghiên cứu, C.Mác đi đến kết luận quá trình sản xuất ra chủ nghĩa tư bản
được định nghĩa là quá trình sản xuất ra quá trình tiến hành sản xuất ra giá trị
thặng dư và giá trị sử dụng. Phần giá trị mới sinh ra lớn hơn giá trị của sức lao
động được tính bằng giá trị sức lao động cộng thêm với giá trị thặng dư. Chính
nhờ sức lao động cụ thể của mình mà người công nhân đã sử dụng các tư liệu sản
xuất của nhà tư bản mua chuyển các giá trị của chúng để đưa vào sản phẩm; và
bằng những sức lao động trừu tượng của mình mà người công nhân đã tạo ra được
giá trị mới lớn hơn được giá trị của sức lao động bỏ ra , và cũng chính phần lớn
hơn đó được xem là giá trị thặng dư. 6 lOMoAR cPSD| 47886956
Để có cái nhìn sâu, rõ và đúng đắn về nguồn gốc và bản chất của quá trình sản
xuất nhằm tạo ra giá trị thặng dư, Các Mác đã chia tư bản ra thành 2 bộ phận gồm
tư bản khả biến và tư bản bất biến. Cụ thể như sau:
• Tư bản khả biến được hiểu là bộ phận của tư bản mà biểu hiện cụ thể là
dưới hình thức của giá trị sức lao động mà trong quá trình tiến hành sản xuất
đã tăng thêm về giá trị lượng, được kí hiệu tắt là v.
• Tư bản bất biến được hiểu là một bộ phận của tư bản mà được biểu hiện, tồn
tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà ở tại đó, giá của giá trị hàng hóa được
bảo tồn và đưa vào sản phẩm, giá trị về lượng không biến đổi trong quá trình
sản xuất, được kí hiệu tắt là c.
Giá trị của bất cứ một loại hàng hóa sẽ được tính bằng giá trị của tư bản khả biến
(v) + giá trị của tư bản bất biến mà nó chứa đựng (c)
Từ sự phân chia, tách biệt giữa tư bản khả biến và tư bản bất biến thì có thể dễ
dàng thấy được rõ bản chất của tư bản chủ nghĩa là bóc lột sức lao động và chỉ
có từ chính sức lao động của người công nhân làm thuê thì mới có thể tạo ra được
giá tri thặng dư phuc vụ cho các nhà tư bản. Các nhà tư bản đã tiến hành bóc lột
và kiếm lời từ một phần giá trị mới từ sức lao động của người công nhân tạo ra.
Chính vì vậy, giá trị của tư bản bỏ ra một giá trị chính là c + v. Nhưng giá trị thực
mà các nhà tư bản thu vào được chính là c + v + m. Phần m ở đây chính là phần
dôi ra mà tư bản bóc lột trên lao động của người công nhân.
Như vậy, quá trình tạo ra các giá trị tăng thêm từ phần dôi ra cho các nhà tư bản
khi năng suất lao động của người công nhân đạt tới trình độ nhất định được xem
chính là sản xuất tư bản chủ nghĩa– mà trong đó, chỉ cần một phần nhỏ của ngày
lao động của người công nhân làm thuê đã tạo ra được giá trị bằng với giá trị sức
lao động của chính mình. Hay nói cách khác, lao động sống này chính là nguồn
gốc tạo ra giá trị thặng dư.
1.3.2. Bản chất của giá trị thặng dư
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất
chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi,
nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá
có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà
nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “
Với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá 7 lOMoAR cPSD| 47886956
trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự
thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình
sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ
nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc trưng:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống
như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiêụ quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của người công nhân
C.Mác đã lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng nghiên
cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mác đã sử dụng phương
pháp giả định khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành nghiên cứu:
Không xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu
sản xuất đem tiêu dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên
cứu trong nền kinh tế tái sản xuất giản đơn. Từ các giả định đó, Mác đưa ra một
loạt các giả thiết để nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết
bị máy móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động
1 ngày là 4 đôla; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ
cần 4 giờ người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi. Từ đó, có
bảng quyết toán như sau: 8 lOMoAR cPSD| 47886956
Tư bản ứng trước
Giá trị của sản phẩm mới Lao động cụ thể của Giá 10 kg bông 10 đôla 10 đôla công nhân bảo tồn và
chuyển giá trị 10 kg bông vào 10 kg sợi. Hao mòn máy móc 2 đôla
Khấu hao tài sản cố định 2 đôla Tiền thuê sức lao 4 8 đôla
Giá trị mới do 8 giờ lao đôla động trong một ngày
động của người công nhân tạo ra Tổng chi phí sản 16 đôla Tổng doanh thu 20 đôla xuất
Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng
chi phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền
ứng ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư. Từ sự nghiên
cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển
hoá tiền thành tư bản diến ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn
ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ
hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng
hàng hoá đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị
thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (10 kg sợi), chúng ta thấy có hai phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà
được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động
gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng
giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. 9 lOMoAR cPSD| 47886956
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành hai phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: Trong thời gian này người
công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động
hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho mình (4 đôla).
Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư: Trong thời gian lao
động thặng dư người công nhân lại tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức
lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4
đôla) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản (nhà tư bản chiếm đoạt).
2.Các phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó
giai cấp tư sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng
dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị
thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
2.1 .Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối :
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối thời
gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian lao
động cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là
100%. Giả định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao
động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt
đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200% (m’ = 200% )
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư
bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng
hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời
gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân
đòi hỏi còn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao
động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật
chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt
về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của
giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi
hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối. 10 lOMoAR cPSD| 47886956
2. 2 .Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối :
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian
lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động
thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại
giả thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng
với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động thành
thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường hợp đó
cũng thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động
thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300% (m’ = 300%).
Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi
biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và công nghệ vào trong quá trình sản
xuất để nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá
cả thị trường của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong
những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người
công nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá
trị thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu. Hai phương pháp trên được các nhà
tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm
thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
3. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
3.1 . Lợi nhuận thương nghiệp :
Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quá
trình sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhượng cho tư bản thương nghiệp, để
tư bản thương nghiệp bán hàng hoá thay cho mình.Thực chất, lợi nhuận thương
nghiệp chỉ là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư nên nguồn gốc của lợi
nhuận thương nghiệp chính là một bộ phận lao động của công nhân không được trả công.
Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp: -
Tư bản công nghiệp nhượng một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp
bằng cách bán hàng hoá thấp hơn giá trị của nó, để rồi tư bản thương nghiệp bán
hàng hoá theo đúng giá trị sẽ thu được khoản chênh lệch (hoa hồng). T ư bản T ư bản T ư bản công thương tiêu dùng Bán H Bán H nghiệp nghiệp 11 lOMoAR cPSD| 47886956
( Giá cả < Giá trị) - (Giá cả = Giá trị) =Ptn
Việc nhượng giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công việc và nhà tư bản
thương nghiệp cũng diễn ra theo đúng quy luật tỷ suất lợi nhuận bình
quân.Nghĩa là, tư bản thương nghiệp cũng tham gia vào cạnh trnah giữa
các nghành để thu được lợi nhuận bình quân cho mình
3.2 . Lợi tức và tỷ suất
Lợi tức chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả
cho nhà tư bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản
trong một thời gian nhất định. Ký hiệu là 2.
Nguồn gốc của lợi tức cũng chính là từ giá trị thặng dư do công nhân làm thuê
sáng tạo ra từ trong lĩnh vực sản xuất. Vì vậy,có thể khẳng định tư bản cho vay
cũng gián tiếp bớt lột công nhân làm thuê thông qua nhà tư bản đi vay.
Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay
trong một thời gian nhất định kí hiệu là z’ z=z/Kcv x100%
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận bình quân và quan hệ cung cầu
về tư bản cho vay. Thông thường giới hạn vận động của tỷ suất lợi tức là: 0< z’

3.3 . Địa tô :
a) Bản chất của địa tô:
Trong nông nghiệp, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp cũng phải thu được lợi
nhuận bình quân như các ngành khác, nhưng họ phải thuê ruộng đất của địa chủ
để kinh doanh, do vậy ngoài lợi nhuận bình quân họ phải thu được phần lợi
nhuận siêu ngạch để trả cho nhà tư bản dưới hình thức địa tô. Phần lợi nhuận
siêu ngạch phải ổn định và lâu dài.
Vậy: Địa tô TBCN là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của
tư bản kinh doanh trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra, mà nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.
Bản chất của địa tô TBCN là mối quan hệ bóc lột giá trị thặng dư giữa 3 giai cấp
trong đó, giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ cùng tham gia bóc lột giai cấp công
nhân làm thuê trong nông nghiệp. b) Các hình thức địa tô TBCN - Địa tô chêch lệch :
Trong kinh doanh nông nghiệp, giá cả của hàng hoá nông phẩm được hình thành
trên cơ sở điều kiện sản xuất xấu nhất (độ màu mỡ xấu nhất, vị trí địa lý khó
khăn nhất...), chứ không phải ở điều kiện trung bình như trong công nghiệp.Vì
thế, nếu kinh doanh trên đất tốt hoặc trung bình sẽ có lợi nhuận siêu ngạch.Phần
lợi nhuận siêu ngạch này tồn tại thường xuyên, tương đối ổn định và nó thuộc về
người chủ ruộng đất (nhà tư bản phải trả cho địa chủ) gọi là địa tô chêch lệch.
Vậy: Địa tô chêch lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân 12 lOMoAR cPSD| 47886956
thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chêch lệch
giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất
xấu nhất và giả cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình. Địa tô chêch
lệch có hai loại: Địa tô chêch lệch I và địa tô chêch lệch II. + Địa tô chêch lệch
I: là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có những điều kiện tự nhiên thuận
lợi, tức là có độ màu mỡ hay vị trí thuận lợi hơn.
+ Địa tô chêch lệch II là loại địa tô thu được gắn liền với thâm canh tăng năng
suất, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên cùng một đơn vị diện tích. Trong
thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại thuộc nhà
tư bản kinh doanh ruộng đất. Nhưng khi hết hợp đồng, địa chủ sẽ tìm cách nâng
giá thuê ruộng đất lên, tức là biến địatô chêch lệch II thành địa tô chêch lệch I.
Tình trạng này dẫn đến mâu thuẫn: Nhà tư bản muốn kéo dài thời hạn thuê
ruộng đất, ngược lại, địa chủ lại chỉ muốn cho thuê trong thời hạn ngắn. Vì vậy
trong thời hạn thuê đất nhà tư bản tìm mọi cách quay vòng sản xuất, tận dụng và
vắt kiệt độ màu mỡ của đất đai. Mác cho rằng lối kinh doanh TBCN trong nông
nghiệp dẫn đến quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm xuống. - Địa tô tuyệt đối :
+ Địa tô tuyệt đối là số lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
hình thành bởi sự chêch lệch giữa giá trị nông sản và giá cả sản xuất chung. Đây
là loại địa tô mà nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp tuyệt đối phải nộp
cho địa chủ, bất kể ruộng đất tốt hay xấu.
+ Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp
thấp hơn trong công nghiệp.
+ Nguyên nhân tồn tại của địa tô tuyệt đối là do chế độ độc quyền sở hữu ruộng
đất đã ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh để hình thành lợi nhuận bình quân.
Vậy: Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn
cấu tạo hữu cơ của tư bản trong công nghiệ, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông
sản sản phẩm và giá cả sản xuất chung VD:
Hiện nay, một số các nhà kinh doanh có vốn muốn lập ra một công ty thì họ phải
thuê đất của nhà nước, họ phải trả cho nhà nước số tiền tương đương với diện
tích cũng như vị trí của nơi được thuê. Nhà nước đã quy định rất rõ việc thuê đất
để kinh doanh, trên cơ sở ấy, ta thấy rõ sự khác biệt và sự vận dụng lý luận địa
tô của Mác trong thời đại ngày nay. Đó chính là việc nhà nước sử dụng những
văn bản pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của người thuê đất để người dân khi
nộp tiền thuê đất đều tự nguyện đóng góp. Trong việc thuê đất để kinh doanh thì
người đã thuê đất của nhà nước sẽ phát triển kinh doanh trên mảnh đất đó rồi lấy
lợi nhuận mà mình làm ra để trả cho nhà nước và số tiền đó sẽ vào ngân sách
nhà nước. Hiện nay không chỉ có việc thuê đất trong nông nghiệp trong việc
kinh doanh mà nhà nước còn cho nước ngoài thuê đất để thu hút đầu tư trực tiếp
của nước ngoài ở Việt Nam và tăng nguồn thu cho ngân sách. 13 lOMoAR cPSD| 47886956
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về luật đất đai, thuế nông nghiệp cũng như trong
một số lĩnh vực kinh doanh, ta có thể khẳng định hiện nay địa tô vẫn còn tồn tại
nhưng về bản chất thì hoàn toàn khác so với địa tô phong kiến và địa tô tư bản
chủ nghĩa. Tuy nhiên trong việc sử dụng lý luận địa tô của C.Mác trong việc
quản lý đất đai vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chẳng hạn như nhà nước thu đất
của nông dân với giá rất rẻ sau đó quy hoạch xây dựng nhà ở và cho thuê với giá
rất cao. Đây là vấn đề cần được kiến nghị lên cấp có thẩm quyền nhằm có sự đền
bù thoả đáng cho dân. Nếu như trong xã hội phong kiến và tư bản chủ nghĩa,
người sử dụng đất phải nộp tô cho địa chủ thì ngày nay tô hay còn nói các khác
là thuế đất, thuế nhà, tiền thuê đất đều được nộp vào ngân sách nhà nước. Nguồn
ngân sách đó lại được dung vào những công việc nhằm xây dựng đấy nước. Địa
tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Địa tô đã từng
tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả
trong thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Như vậy, lý luận địa tô tư bản chất Mác
không chỉ vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp
mà còn là cơ sở khoa học để xây dựng các chính sách thuế đối với nông nghiệp
và các ngành khác có liên quan đến đất đai có hiệu quả hơn. Như vậy ta một lần
nữa ta khẳng định rằng lý luận về địa tô của C.Mác đã được đảng và nhà nước ta
vận dụng một cách sáng tạo và hợp lý. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế và nhà nước đang dần cải thiện để xây dựng một Việt Nam giàu mạnh C: KẾT LUẬN
Đề tài giúp nâng cao tư duy nhận thức và trình độ lí luận về học thuyết kinh tế
cũng như chủ nghĩa Mác, nó giúp chúng ta hiểu sâu hơn quy luật kinh tế của chủ
nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư, nhận thấy vai trò quan trọng của nó
trong phát triển kinh tế.
Việt nam hiện nay đang phát triển kinh tế thị trường, nền kinh tế mở cửa, vì vậy
đã có quy luật giá trị thặng dư hoạt động. Nhận thức về quy luật trang bị cho các
nhà kinh tế những hiểu biết trong quản lí và sản xuất kinh doanh. Hiểu được quy
luật này thì sẽ nắm được sự vận động của các quy luật khác: quy luật cạnh tranh,
quy luật giá trị.... vì quy luật giá trị thặng dư là quy luật trung tâm. Từ đó các
nhà kinh tế có biện pháp tối ưu hơn, phù hợp quy luật để tạo hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Đề tài thực sự có ý nghĩa thực tiễn và giá trị vận dụng trong phương thức sản
xuất và nền sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Một yêu cầu trong phát triển kinh tế,
sử dụng quy luật giá trị thặng dư trong quản lí doang nghiệp là các doanh nghiệp
nước ta phải vận dụng một cách hợp lí quy luật giá trị thăng dư, tuân theo sự
điều tiết, quản lí vĩ mô của nhà nước để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa
quyền lợi thuộc về nhân dân và người lao động.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê Nin 14 lOMoAR cPSD| 47886956
2- Kinh tế chính trị học Mác-Lênin
3- Giáo trình kinh tế chính trị 15