Trình bày những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021– 2025. Liên hệ thực tiễn ở địa phương | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Trình bày những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021– 2025. Liên hệ thực tiễn ở địa phương |  Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
12 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Trình bày những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021– 2025. Liên hệ thực tiễn ở địa phương | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Trình bày những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021– 2025. Liên hệ thực tiễn ở địa phương |  Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

20 10 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45474828
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------------------------------
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Trình bày những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII
(2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021
– 2025. Liên hệ thực tiễn ở địa phương.
Họ và tên sinh viên:
Mã sinh viên:
Lớp: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (121)
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thắm
Bắc Kạn - 10/2021
lOMoARcPSD| 45474828
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………….…..………..2
I. AN SINH HỘI..
………………………………………………………..............3
II. CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII (2016)…………………
4
III. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII
(2021) VỀ CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2021 -
2025………………………………………...6
1. Bối cảnh
1.1 Bối cảnh thế
giới…………………………………………………………..6
1.2 Bối cảnh Việt
Nam………………………………………………………...6
2. Điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương
thực hiện an sinh xã hi Việt Nam giai đoạn 2021 – 2025…………………..7
VI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI
TỈNH BẮC KẠN………………………………….9
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………11
TÀI LIỆU THAM
KHẢO…………………………………………………………..12
LỜI NÓI ĐẦU
An sinh hội một trong những vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển
của mỗi quốc gia. Bảo đảm ngày càng thực hiện tốt an sinh hội luôn một chủ
trương, nhiệm vụ lớn, ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định về chính trị,
kinh tế, xã hội chìa khóa để phát triển toàn diện bền vững, nhất trong
bối cảnh dch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp. Nhận thấy tầm quan trọng của
an sinh hội, bài luận này nhằm tìm hiểu những điểm mới trong văn kiện Đại
hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh hội Việt Nam giai đoạn 2021
– 2025 và liên hệ thực tiễn tại tỉnh Bắc Kạn.
lOMoARcPSD| 45474828
I. AN SINH XÃ HỘI (ASXH)
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung
cấp cho các nhân và hộ gia đình nhằm bảo đảm tiếp cận y tế và bảo đảm thu nhập,
đặc biệt trong trường hợp già yếu, thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, tai nạn lao động, thai
sản hoặc thiếu người nuôi dưỡng”. Để bảo đảm đáp ứng các nhu cầu, các đối tượng
ASXH khác nhau, hệ thống ASXH được tổ chức thành lưới an sinh. Thông thường,
lưới ASXH bao gồm:
Một là, hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm.
Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm giúp người lao động có việc làm để có thu nhập,
từ đó, tự bảo đảm ASXH. Lưới ASXH nào cũng hướng tới cung cấp hội việc làm
cho mọi người trong độ tuổi lao động, kết nối người thất nghiệp với doanh nghiệp cần
lao động; đào tạo, dạy nghề, nâng cao năng lực cho người lao động để họ thể tìm
kiếm, chuyển đổi việc làm hoặc tự tạo việc làm. Đặc biệt, lưới ASXH tập trung vào hỗ
trợ tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo, phụ nữ những nhóm người yếu thế.
Đối với người trong độ tuổi lao động, đủ điều kiện lao động thì hỗ trợ việc làm là
trợ giúp an sinh quan trọng nhất để họ tự bảo đảm thu nhập bền vững. Ở các quốc gia,
hệ thống hỗ trợ việc làm và giảm nghèo thường được tổ chức theo các cấp hành chính
từ Trung ương tới địa phương với stham gia của nhiều quan, tổ chức khác nhau,
trong đó, vai trò tham mưu, tổ chức thường gắn với các cơ quan có thẩm quyền về lĩnh
vực lao động, việc làm. Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm thường hoạt động nhờ ngân
sách nhà nước và đóng góp của các tổ chức, cá nhân.
Hai là, hệ thống bảo hiểm xã hội.
Hệ thống bảo hiểm hội (BHXH) đóng vai trò lưới đỡ nếu người lao động không
may không thể làm việc, mất việc làm do bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động,... hoặc
nghỉ hưu do tuổi già. Khi đó, họ cần có hệ thống BHXH chi trả để bảo đảm nguồn thu
nhập. Hệ thống BHXH đóng vai trò trung tâm trong lưới ASXH, giúp chống đỡ các rủi
ro mất hoặc suy giảm thu nhập. Hệ thống BHXH thường được tchức thống nhất
phân chia thành các cấp từ Trung ương tới địa phương. Nguồn quỹ chính của hệ thng
là ttiền đóng BHXH bắt buộc và/hoặc tự nguyện. Ngoài ra, có thể có các nguồn thu
khác từ hỗ trợ của ngân sách nhà nước, nguồn đóng góp hảo tâm, nguồn lãi tđầu
quỹ... Đối tượng thụ hưởng BHXH là những người tham gia BHXH, nghĩa là có đóng
góp BHXH.
Ba là, hệ thống trợ giúp xã hội.
Hệ thống BHXH đóng vai trò chủ chốt trong bảo đảm thu nhập trong trường hợp già
yếu, bệnh tật, mất thu nhập với điều kiện phải tham gia BHXH. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, nhân hộ gia đình không hoặc không điều kiện tham gia BHXH
(chẳng hạn những người khuyết tật, không có việc làm, những người nghèo). Bên cạnh
đó, sinh kế của các cá nhân, hộ gia đình có thể gặp phải một số rủi ro bất thường nằm
ngoài phạm vi BHXH, như thiên tai, mất mùa,... cũng khiến nhân hộ gia đình mất
lOMoARcPSD| 45474828
3
thu nhập, rơi vào cảnh túng thiếu. Khi đó, hệ thống trợ giúp xã hội đóng vai trò là lưới
an sinh thứ ba để hỗ trợ các nhân hộ gia đình. Trợ giúp hội các khoản trợ
cấp trực tiếp bằng tiền hoặc hiện vật cho nhân hộ gia đình nghèo hoặc bị tổn
thương, thường do nhà nước thực hiện bằng ngân sách nhà nước. Hệ thống trợ giúp xã
hội thường được tổ chức đa dạng, trong đó sự tham gia của nnước, các tổ chức
xã hội, các thiết chế cộng đồng,...
Bốn là, hệ thống bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản.
Việc làm, BHXH, trợ giúp hội đều hướng tới bảo đảm thu nhập cho các đối tượng
dân cư. Tuy nhiên, bên cạnh thu nhập, một trong các quyền ASXH của người dân
được cung cấp các dịch vụ hội bản, như y tế, giáo dục, nước sạch, nhà ở, thông
tin... Bên cạnh đó, được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cũng nhằm tạo hội cho
các cá nhân nâng cao năng lực, phát triển vn con người, từ đó có thể có việc làm, thu
nhập, vừa bảo đảm ASXH bản thân và gia đình, vừa đóng góp vào sự phát triển kinh tế
- hội. Thông thường, khi thiếu thu nhập, một mặt, người dân thể không điều
kiện được hưởng các dịch vụ hội bản; mặt khác, ở một số nơi, đặc biệt vùng
sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn, ngay cả khi thu nhập, người dân thể vẫn
khó tiếp cận các dịch vxã hội cơ bản, hoặc chỉ tiếp cận được dịch vụ kém chất lượng.
Trong khi đó, đây cũng nhu cầu thiết yếu của người dân. Việc tiếp cận dịch vụ hội
cơ bản không chỉ quyền của con người mà còn có ý nghĩa với ASXH và sự phát
triển quốc gia trong dài hạn, bởi con người trình độ giáo dục, được bảo đảm y tế, sẽ
phát triển thành những công dân trình độ, ích, thể việc làm với thu nhập
bảo đảm và góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Các bộ phận trong lưới ASXH có ở các có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau và
cùng hướng tới thực hiện chức năng của lưới ASXH phòng ngừa rủi ro, bảo vệ người
dân và thúc đẩy sự phát triển.
Tại Việt Nam lưới ASXH bao gồm 5 trụ cột chính là: Bảo hiểm hội, Bảo hiểm y
tế, Cứu trợ xã hội, Trợ giúp và ưu đãi xã hội.
II. CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH HỘI Ở VIỆT NAM TRONG VĂN
KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII (2016)
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định bảo đảm an sinh hội một
trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới.
Một là, chủ trương lãnh đạo giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cho
người lao động và đổi mới chính sách giảm nghèo đa chiều bền vững.
Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu
nhập công bằng, đủ điều kiện sống tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt nhất
nguồn nhân lực lao động đphục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Chú
trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ,
tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình
lOMoARcPSD| 45474828
công cộng. Khuyến khích đầu hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo
dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công,
khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với
sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện thực hiện
chính sách bảo hộ lao động
Hai là, tiếp tục phát triển và thực hiện tốt các chính sách bo hiểm.
Phát triển thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm tai nạn lao động…mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống,
đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hi.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu
quả công tác trợ giúp xã hội.
Tạo điều kiện để trợ giúp hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ bị tổn thương hoặc
những người gặp rủi ro trong cuộc sống, để công tác trợ giúp xã hội đạt được hiệu quả
cao nhất. Phải phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân
tham gia giúp đnhững người yếu thế nhằm huy động cao nhất các nguồn lực vật chất,
tinh thần đgiúp đỡ, tạo điều kiện để những người yếu thế hòa nhập cộng đồng. Bên
cạnh đó, yêu cầu chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh hội của
công dân trong quan điểm lãnh đạo của Đảng về an sinh hội, khẳng định sự quan
tâm đến quyền con người ca Đảng, Nhà nước ta.
Bốn là, bảo đảm cung cấp các dịch vụ xã hội bản thiết yếu, mức tối thiểu về thu
nhập và các dịch vụ xã hội bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch,
thông tin.
Về lãnh đạo bảo đảm giáo dục tối thiểu: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào
tạo; phát triển nguồn nhân lực; phát triển giáo dục đào tạo phải gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế - hội, xây dựng bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực thị trường lao động; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc
dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Về lãnh đạo bảo đảm y tế tối thiểu: Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh phục
hồi chức năng tất cả các tuyến; quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hoàn thiện
mạng lưới y tế sở, nhất miền núi, biên giới, hải đảo… tăng cường nhân lực y tế
cho khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, cùng với nâng cao chất lượng cuộc
sống, phấn đấu tuổi thọ trung bình đến năm 2020 đạt 74 - 75 tuổi.
Về lãnh đạo bảo đảm nhà hội: Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà cho
các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó
khăn. Phát triển nhà hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu
chế xuất và sinh viên. Hiện nay, bảo đảm nhà hội một trong những chính sách
được Đảng hết sức quan tâm.
lOMoARcPSD| 45474828
5
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương lãnh đạo bảo đảm công tác an
sinh xã hội, gắn với phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện an sinh xã hội toàn dân, thực
hiện quyền tbảo đảm an sinh xã hội của người dân. Những quan điểm của Đảng là sự
định hướng để chính sách an sinh xã hội được thực hiện trên thực tế.
III. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII (2021) VỀ CHỦ
TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2021
2025
1. Bối cảnh
1.1 Bối cảnh thế giới
Ngoài thảm họa y tế, dịch bệnh COVID-19 đã đẩy thế giới vào một cuộc suy thoái
kinh tế nghiêm trọng hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát năm
2008. Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 sụt giảm tới 4% - 5%; nhiều
quốc gia buộc phải “đóng cửa” cả bên trong lẫn bên ngoài biên giới khiến cho chuỗi
sản xuất, cung ứng toàn cầu cũng như sự giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia rối loạn,
ách tắc. Ngoài việc phải mất một khoản chi phí lớn để phòng, chống dịch bệnh
COVID-19, các quốc gia buộc phải đưa ra hàng loạt gói cứu trợ trị giá bằng khoảng
12% GDP, nhằm bảo đảm thanh khoản, ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng, duy
trì sản xuất và việc làm, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đầu tư vào hạ tầng y tế, nghiên
cứu vắc-xin chống dịch bệnh COVID-19..., đã tạo nên khoản nợ công lớn gấp nhiều
GDP của tất cả các nước cộng lại. Tác động hội cũng không kém phần nghiêm
trọng, với hàng chục triệu người lao động trong hầu hết các lĩnh vực mỗi nước bị
mất việc làm, thu nhập bị giảm sút hoặc không còn thu nhập, rơi vào cảnh đói nghèo,
tội phạm gia tăng, hố sâu ngăn cách giàu - nghèo ngày càng trầm trọng, cả một thế h
thanh - thiếu niên không được đi học bình thường...
Trên bình diện quốc tế, dịch bệnh COVID-19 đã làm gia tăng thêm mối bất hòa
giữa một số nước, thúc đẩy sự chuyển dịch sức mạnh giữa các quốc gia, đồng thời
buộc nhiều chính quyền trên thế giới phải điều chỉnh ưu tiên chính sách đối nội đối
ngoại, làm thay đổi phương thức vận hành của quan hệ quốc tế chính trị thế giới.
Mặt khác, dịch bệnh COVID-19 đã trở thành chất xúc tác thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế
số những lĩnh vực liên quan tới công cuộc phòng, chữa bệnh, trở thành những
thước đo mới về sức mạnh của các quốc gia. Về mặt hội, dịch bệnh COVID-19
khuyến khích con người thay đổi lối sống theo hướng “xanh hơn”, “chậm hơn”
“giãn cách hơn”.
1.2 Bối cảnh Việt Nam
Sự phát triển ca Viêt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhậ n. Đổi mớị
kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt
Nam tmột trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập
lOMoARcPSD| 45474828
trung bình thấp. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh, đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam
là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tăng trưởng GDP
ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới tăng trưởng
kinh tế dương, nhưng đại dịch đã đlại những tác động dài hạn đối với các hộ gia
đình - thu nhập của khoảng 45% hộ gia đình được khảo sát giảm trong tháng 1 năm
2021 so với tháng 1 năm 2020. Nền kinh tế được dbáo sẽ tăng trưởng 6,6% năm
2021 nếu Việt Nam kiểm soát tốt sự lây lan của vi-rút đồng thời các ngành sản xuất
hướng xuất khẩu hoạt động tốt và nhu cầu nội địa phục hồi mạnh mẽ.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội. Dân số Việt
Nam dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Theo kết quả Tổng điều tra dân
số Viêt Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung
bình gần
76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhâp tương đương trong khu vực. Nhưng dân số
đang bị già hóa nhanh, tầng lớp trung lưu đang dần hình thành.
Chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam 0.69. Điều đó nghĩa một em bé Việt
Nam được sinh ra thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức năng suất bằng 69% so
với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy đủ. Đây là mức cao hơn
mức trung bình của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương các nước thu nhập
trung bình thấp hơn. Mặc dù chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69
từ năm 2010 đến 2020 Việt Nam, còn tồn tại sự chênh lệch trong nội bội quốc gia,
đặc biệt là đối với nhóm các n tộc thiểu số.
Y tế cũng đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Từ năm 1993
đến 2017, tỷ suất tử vong trẻ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên 1.000 trẻ
sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong thời gian từ năm 1990 đến
2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân 73 - cao hơn mức trung bình của
khu vực thế giới với 87% dân số có bảo hiểm y tế. Tuy nhiên tỉ lệ chênh lệch giới
tính khi sinh vẫn mức cao ngày môt tăng (115 trong năm 2018) chọ thấy tình
trạng phân biệt giới tính vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những
quốc gia tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên
65 sẽ tăng gấp 2,5 lần.
Trong vòng 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ bản nhiều thay đổi tích
cực. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng sở được cải thiện đáng kể. Tính đến năm
2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14% năm 1993. Tỉ lệ tiếp cận
nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70% năm 2016, trong
khi tỉ lệ thành thị trên 95%. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư sở
vật chất tính theo phần trăm GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu
vực ASEAN. Điều này tạo ra những thách thức đối với sự phát triển liên tục của các
lOMoARcPSD| 45474828
7
dịch vụ sở htầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam
xếp thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).
2. Điểm mới trong văn kiện Đi hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã
hội ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2025
So với những chủ trương chính sách của Đại hội XII về an sinh hội được nêu
trên thì Đại hi XIII đã có những điểm mới là:
Một trong các đột phá chiến lược được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra Đổi
mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất quản phát triển quản hội”,
trong đó quản phát triển an sinh hội. Trong quá trình này, Nhà nước sử dụng các
công cụ, cơ chế, chính sách, pháp luật,... để tác động, điều chỉnh, thúc đẩy, điều tiết, xử
các vấn đề an sinh hội phát sinh từ thực tiễn, bảo đảm quyền an sinh hội của
người dân nhằm mục tiêu phát triển bền vững đất nước, con người.
Về y tế và chăm sóc sức khe của người dân.
Đổi mới chế tài chính y tế, thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Phát triển
nguồn nhân lực, khoa học công nghệ y tế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý y tế, khám chữa bệnh, giám định thanh toán BHYT. Thiết lập hệ thống sổ sức
khỏe điện t đến từng người dân. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức.
Phấn đấu đến năm 2025, trên 90% dân số được quản lý, theo dõi chăm sóc, bảo vệ
sức khỏe, tỷ lệ hài lòng ca người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.
Tập trung phát triển mạnh y tế cơ sở, y tế dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm, chữa
trị kịp thời, hiệu quả các loại dch bệnh mới. Xây dựng và củng cố hệ thống y tế, nhất
hệ thống y tế dự phòng cấp tỉnh Trung ương, hình thành hthống trung tâm kiểm soát
dịch bệnh đồng bộ ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới kiểm soát bệnh tật thế giới.
Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục
vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động sản
xuất vaccine, thuốc sáng chế.
Về chính sách tiền lương.
Chỉ rõ yêu cầu, tính chất của chính sách tiền lương đó là: chính sách tiền lương theo
hướng gắn với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc
độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối
theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất hiệu quả. Bên cạnh đó từng bước tách
việc điều chỉnh lương hưu với điều chỉnh tiền lương của người đang làm việc. Chiến
lược phát triển kinh tế - hội 10 năm 2021 - 2030 cụ thể hóa hơn một bước về chính
sách tiền lương đối với khu vực công, khu vực doanh nghiệp, nhằm mục tiêu xây dựng
quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Về chính sách quản lý phát triển xã hội.
Các văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh về chính sách huy động và phân bổ các nguồn
lực cho các vấn đề xã hội. Đổi mới cơ chế, huy động phân bổ và đa dạng hóa các nguồn
lOMoARcPSD| 45474828
lực thực hiện chính sách hội phù hợp với nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp dân cư,
nhóm xã hội, bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển, nhất là với lao động khu vực phi
chính thức. Yêu cầu mới này bao gồm cả hai mặt: huy động tối đa các nguồn lực trong
hội và phân bổ một cách công bằng, hợp lý, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả mọi
nguồn lực của Nhà nước, tư nhân, các tổ chức của nhân dân để giải quyết các vấn đề xã
hội.
Về vấn đề lao động.
Vấn đđã được đặt ra một cách hệ thống toàn diện hơn, bao gồm: xây dựng thị
trường lao động, tạo công ăn việc làm, chính sách tiền lương, hỗ trợ thất nghiệp. Về thị
trường lao động, các văn kiện Đảng Nhà nước không chỉ khẳng định sự cần thiết phải
phát triển một thị trường lao động thật sự, còn chỉ ra rất về phương hướng, tính
chất và yêu cầu ca thị trường lao động. Đó là phát triển thị trường lao động, hướng đến
việc làm bền vững, phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thống
nhất, hội nhập, có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Đặc biệt nhấn mạnh scần thiết
phải quan tâm đến lao động khu vực phi chính thức, nhất lao động nông nghiệp chuyển
đổi ngành nghề. Đây là bộ phận yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội, cần phải được tạo
các điều kiện thuận lợi để có thể tham gia vào khu vực lao động chính thức, giảm thiểu
và khắc phục những rủi ro trong cuộc sống.
Cuối cùng về chính sách phát triển dân số liên quan đến anh sinh xã hội.
Do tình hình cấu dân số đã bước vào giai đoạn ghóa, Đảng Nhà nước chủ
trương chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số
phát triển. Phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ
dân số. Tận dụng hiệu quả cấu dân số vàng; chủ động thích ứng với xu thế già hóa
dân số. Hỗ trợ thỏa đáng để thu hút, tạo điều kiện cho người dân sinh sống ổn định, lâu
dài ở các khu vực khó khăn, trng yếu về an ninh, quốc phòng. Xây dựng, hoàn thiện và
vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
VI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC KẠN
Về công tác phòng chống dịch bệnh.
Thực hiện Văn bản số 6666/BYT-MT ngày 16/8/2021 của Bộ Y tế về việc hướng
dẫn phòng chống dịch COVID-19 tại quan, đơn vị, BHXH tỉnh đã thành lập Ban chỉ
đạo phòng chống dịch Covid-19 của BHXH tỉnh Bắc Kạn với 13 thành viên; Thành lập
02 tổ an toàn Covid tại BHXH tỉnh 07 tổ an toàn Covid tại 7 đơn vị BHXH cấp
huyện. BHXH tỉnh Bắc Kạn còn tổ chức các đợt vận động quyên góp ủng hquỹ phòng,
chống Covid-19; ủng hộ quỹ vắc xin phòng chống Covid-19; ủng hộ 01 tấn gạo cho
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đăng ký mã QR-Code của cơ quan theo hướng dẫn
của Sở Thông tin - Truyền thông và thực hiện việc quét mã QR-Code để khai báo y tế,
lập sổ ghi chép thông tin những người ra, vào hàng ngày (đối với người không thuộc
quản của đơn vị đến liên hệ, giao dịch, thực hiện nhiệm vụ…). quan BHXH phân
lOMoARcPSD| 45474828
9
công các cán bộ đến từng hộ, gia đình để tuyên truyền về những tiện ích, tính năng cơ
bản lợi ích của việc sdụng ứng dụng VssID. Bố tcán bộ thường xuyên hỗ trợ
người dân đến giao dịch với quan BHXH tại bộ phận “1 cửa” đăng ký, cài đặt sử
dụng ứng dụng VSSID. Bên cạnh đó, BHXH tỉnh, BHXH huyện cũng linh hoạt kết hợp
các biện pháp, hình thức tuyên truyền cài đặt ứng dụng VssID tại các điểm chi trả lương
hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng; Phối hợp với cơ quan Công an để tổ chức hướng dẫn
cài đặt, sdụng ứng dụng VssID cho người dân trong đợt ra quân cấp căn cước công
dân của Ngành Công an trong tháng 3,4/2021… Hướng dẫn, hỗ trợ người dân đăng ký,
sử dụng ứng dụng VssID tại các điểm bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và đại hiểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 trong tháng 05/2021 vừa qua…
Tuy nhiên, do nhiều thôn, trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thuộc vùng sâu, vùng xa,
điều kiện kinh tế khó khăn, vẫn còn tỷ lệ người dân không biết chữ, điều kiện tiếp cận
với công nghệ thông tin còn hạn chế; một số thôn vùng sâu vùng xa chưa được phủ
sóng truyền thanh nên việc phát sóng các nội dung liên quan đến chính sách BHXH,
BHYT và công tác thực hiện ứng dụng VssID còn chưa được sâu rộng đến từng người
dân. Thêm vào đó, nhiều nơi không có mạng internet, không có sóng điện thoại, người
dân không có điện thoại thông minh nên không thể tiếp cận và sử dụng được ứng dụng
VssID. Đặc biệt, từ đầu năm đến nay, do tình hình dịch bệnh Covid19 diễn tiến phức
tạp, hạn chế tụ tập đông người nên đã ảnh hưởng đến việc tuyên truyền chính sách
BHXH, BHYT đến người dân nói chung và triển khai ứng dụng VssID nói riêng. Theo
số liệu thống của BHXH tỉnh Bắc Kạn, tính đến ngày 10/07/2021, toàn tỉnh Bắc Kạn
đã tiếp nhận gần 29.500 tài khoản đăng giao dịch điện tử cài đặt ứng dụng VssID,
trong đó có 28.000 tài khoản được phê duyệt hợp lệ và 23.000 tài khoản đã đăng nhập
sử dụng ứng dụng VssID thành công.
Về xóa đói giảm nghèo.
Mười chín năm hoạt động, tín dụng chính sách xã hội được coi nguồn lực chính
trong công cuộc giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn. Trong thời điểm dịch COVID-19 bùng phát gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình
sản xuất, đời sống nhân dân, nguồn vốn chính sáchBắc Kạn vẫn triển khai hiệu quả,
đến 31/8 đạt 2.298 tỷ đồng với 42.289 lượt hộ vay vốn. Hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc
thiểu số khó khăn từ vùng sơn cước Ba Bể, Pác Nặm đến triền đồi Chợ Mới, Chợ Đồn
được vay vốn thuận lợi, kịp thời để trồng trọt, chăn nuôi, tạo nguồn thu cho gia đình.
Tỉnh đã tập trung thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất theo hình
thức liên kết, tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho hợp tác xã,
phát triển các sản phẩm (OCOP) trên địa bàn, khuyến khích sự tham gia của hộ nghèo,
cận nghèo, giúp họ cải thiện sinh kế, ổn định cuộc sống có điều kiện tiếp cận các dịch
vụ hội bản. Nhân rộng các hình giảm nghèo hiệu quả phù hợp với điều
kiện của địa phương.
Có thể nói, nguồn vốn ưu đãi đang được chuyển tải kịp thời về khắp vùng miền núi
cao, vùng xa thông qua mạng lưới 108 điểm giao dịch của Ngân hàng Chính sách
lOMoARcPSD| 45474828
hội tại xã, phường, thị trấn hệ thống 1.597 tổ tiết kiệm và vay vốn ở khắp thôn, bản,
tổ dân phố của tỉnh Bắc Kạn.
Về các chính sách trợ giúp xã hội.
Trong năm qua, toàn tỉnh 9.080 đối tượng bảo trợ hội hưởng trợ cấp hằng tháng
tại cộng đồng, với tổng kinh phí gần 44 tỷ đồng, bao gồm người cao tuổi nghèo không
người nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, người từ đủ 80 tuổi trở lên không
lương hưu, trợ cấp bảo hiểm hội hằng tháng, người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng,
hộ gia đình nhận nuôi dưỡng chăm sóc trẻ em dưới 16 tuổi không nguồn nuôi dưỡng
người khuyết tật đặc biệt nặng, trẻ em dưới 16 tuổi không nguồn nuôi dưỡng,
người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo... Các chế độ của các đối tượng được bảo đảm
theo Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về quy định chính
sách trợ giúp hội đối với đối tượng bảo trợ hội; Quyết định s362/QĐ-UBND
ngày 26/3/2015 của UBND tỉnh về việc quy định mức trợ cấp chăm sóc, nuôi dưỡng
đối tượng tại các cơ sở bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, tỉnh thường xuyên theo dõi, bảo đảm ổn định đời sống dân sinh khi gặp
thiên tai, hỏa hoạn các nguyên nhân bất khả kháng. Chủ động bố trí ngân sách địa
phương, huy động cộng đồng và các nhà hảo tâm hỗ trợ hàng hóa, lương thực cho các
cá nhân và gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai, hỏa hoạn hoặc các lý do bất khả kháng
khác.
KẾT LUẬN
Xác định đúng vị trí, vai trò của an sinh xã hội đối với phát triển đất nước, phù hợp
với thực tiễn và tình hình mới, là cơ sở và điều kiện để người dân được “thụ hưởng”
nhiều hơn thành quả từ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cảm ơnđã dành thời gian đọc bài. Bài luận dựa trên kiến thức cá nhân và thông
tin tổng hợp nhiều nguồn nên em không thể tránh khỏi những sai sót, em mong sẽ nhận
được sự góp ý ca cô để em có thể rút kinh nghiệm. Em xin trân thành cảm ơn cô ạ!
lOMoARcPSD| 45474828
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bích Ngọc (2021, ‘Điểm tựa’ vững chắc cho hộ nghèo tại Bắc Kạn, truy cập lần cuối
vào ngày 18/10/2021 từ <
http://nhcsxh.chinhphu.vn/Thong-tin/Diem-tuavung-
chac-cho-ho-ngheo-tai-Bac-Kan/8131.vgp>
2. Bùi Văn Huyền & Nguyễn Ngọc Toàn (2021), Lưới an sinh hội hướng tới nền
kinh tế con người Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 16/10/2021 từ
<https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/823409/luoian-
sinh-xa-hoi-huong-toi-nen-kinh-te-vi-con-nguoi-o-viet-nam.aspx>
3. Hương Lan (2021), Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ giảm nghèo gắn với mục tiêu
phát triển bền vững, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ <
https://backan.gov.vn/pages/thuc-hien-tot-chinh-sach-ho-tro-giam-ngheo-gan-
voi591d.aspx>
4. Kim Anh (2021), BHXH tỉnh Bắc Kạn: Chung sức cùng địa phương trong phòng,
chống dịch COVID-19, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ <
https://dangcongsan.vn/bao-hiem-xa-hoi-bao-hiem-y-te-vi-an-sinh-xa-
hoi/tintuc/bhxh-tinh-bac-kan-chung-suc-cung-dia-phuong-trong-phong-chong-
dichcovid-19-590349.html>
5. Minh Anh (2021), BHXH tỉnh Bắc Kạn đẩy mạnh triển khai cài đặt ứng dụng VssID-
BHXH, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ <
https://dangcongsan.vn/baohiem-xa-
hoi-bao-hiem-y-te-vi-an-sinh-xa-hoi/tin-tuc/bhxh-tinh-bac-kan-day-manhtrien-
khai-cai-dat-ung-dung-vssid-bhxh-585562.html>
6. Minh (2021), Tín dụng chính sách giúp con vùng cao Bắc Kạn thoát
nghèo,truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ <
https://baochinhphu.vn/Xa-hoi/Tin-
dungchinh-sach-giup-ba-con-vung-cao-Bac-Kan-thoat-ngheo/446939.vgp>
7. Trần Thùy Linh (2017), Đại hội XII của Đảng những quan điểm về an sinh
hội, truy cập lần cuối ngày 16/10/2021 từ
<https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dungdang/-
/2018/43880/dai-hoi-xii-cua-dang-va-nhung-quan-diem-ve-an-sinh-xahoi.aspx>
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, t. I, tr.147,148,149,269.
| 1/12

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45474828
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------------------------------- BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Trình bày những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII
(2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021
– 2025. Liên hệ thực tiễn ở địa phương.
Họ và tên sinh viên: Mã sinh viên:
Lớp: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (121)
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thắm Bắc Kạn - 10/2021 lOMoAR cPSD| 45474828 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………….…..………..2 I. AN SINH XÃ HỘI..
………………………………………………………..............3 II.
CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII (2016)…………………… 4 III.
NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII
(2021) VỀ CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2021 -
2025………………………………………...6 1. Bối cảnh 1.1 Bối cảnh thế
giới…………………………………………………………..6 1.2 Bối cảnh Việt
Nam………………………………………………………...6
2. Điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương
thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2025…………………..7 VI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI TỈNH
BẮC KẠN………………………………….9
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………11 TÀI LIỆU THAM
KHẢO…………………………………………………………..12 LỜI NÓI ĐẦU
An sinh xã hội là một trong những vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển
của mỗi quốc gia. Bảo đảm ngày càng thực hiện tốt an sinh xã hội luôn là một chủ
trương, nhiệm vụ lớn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định về chính trị,
kinh tế, xã hội và là chìa khóa để phát triển toàn diện và bền vững, nhất là trong
bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp. Nhận thấy tầm quan trọng của
an sinh xã hội, bài luận này nhằm tìm hiểu những điểm mới trong văn kiện Đại
hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021
– 2025 và liên hệ thực tiễn tại tỉnh Bắc Kạn. lOMoAR cPSD| 45474828
I. AN SINH XÃ HỘI (ASXH)
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), “An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung
cấp cho các cá nhân và hộ gia đình nhằm bảo đảm tiếp cận y tế và bảo đảm thu nhập,
đặc biệt trong trường hợp già yếu, thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, tai nạn lao động, thai
sản hoặc thiếu người nuôi dưỡng
”. Để bảo đảm đáp ứng các nhu cầu, các đối tượng
ASXH khác nhau, hệ thống ASXH được tổ chức thành lưới an sinh. Thông thường, lưới ASXH bao gồm:
Một là, hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm.
Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm giúp người lao động có việc làm để có thu nhập,
từ đó, tự bảo đảm ASXH. Lưới ASXH nào cũng hướng tới cung cấp cơ hội việc làm
cho mọi người trong độ tuổi lao động, kết nối người thất nghiệp với doanh nghiệp cần
lao động; đào tạo, dạy nghề, nâng cao năng lực cho người lao động để họ có thể tìm
kiếm, chuyển đổi việc làm hoặc tự tạo việc làm. Đặc biệt, lưới ASXH tập trung vào hỗ
trợ tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo, phụ nữ và những nhóm người yếu thế.
Đối với người trong độ tuổi lao động, có đủ điều kiện lao động thì hỗ trợ việc làm là
trợ giúp an sinh quan trọng nhất để họ tự bảo đảm thu nhập bền vững. Ở các quốc gia,
hệ thống hỗ trợ việc làm và giảm nghèo thường được tổ chức theo các cấp hành chính
từ Trung ương tới địa phương với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau,
trong đó, vai trò tham mưu, tổ chức thường gắn với các cơ quan có thẩm quyền về lĩnh
vực lao động, việc làm. Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm thường hoạt động nhờ ngân
sách nhà nước và đóng góp của các tổ chức, cá nhân.
Hai là, hệ thống bảo hiểm xã hội.
Hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò lưới đỡ nếu người lao động không
may không thể làm việc, mất việc làm do bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động,... hoặc
nghỉ hưu do tuổi già. Khi đó, họ cần có hệ thống BHXH chi trả để bảo đảm nguồn thu
nhập. Hệ thống BHXH đóng vai trò trung tâm trong lưới ASXH, giúp chống đỡ các rủi
ro mất hoặc suy giảm thu nhập. Hệ thống BHXH thường được tổ chức thống nhất và
phân chia thành các cấp từ Trung ương tới địa phương. Nguồn quỹ chính của hệ thống
là từ tiền đóng BHXH bắt buộc và/hoặc tự nguyện. Ngoài ra, có thể có các nguồn thu
khác từ hỗ trợ của ngân sách nhà nước, nguồn đóng góp hảo tâm, nguồn lãi từ đầu tư
quỹ... Đối tượng thụ hưởng BHXH là những người tham gia BHXH, nghĩa là có đóng góp BHXH.
Ba là, hệ thống trợ giúp xã hội.
Hệ thống BHXH đóng vai trò chủ chốt trong bảo đảm thu nhập trong trường hợp già
yếu, bệnh tật, mất thu nhập với điều kiện phải tham gia BHXH. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp, cá nhân và hộ gia đình không hoặc không có điều kiện tham gia BHXH
(chẳng hạn những người khuyết tật, không có việc làm, những người nghèo). Bên cạnh
đó, sinh kế của các cá nhân, hộ gia đình có thể gặp phải một số rủi ro bất thường nằm
ngoài phạm vi BHXH, như thiên tai, mất mùa,... cũng khiến cá nhân và hộ gia đình mất lOMoAR cPSD| 45474828
thu nhập, rơi vào cảnh túng thiếu. Khi đó, hệ thống trợ giúp xã hội đóng vai trò là lưới
an sinh thứ ba để hỗ trợ các cá nhân và hộ gia đình. Trợ giúp xã hội là các khoản trợ
cấp trực tiếp bằng tiền hoặc hiện vật cho cá nhân và hộ gia đình nghèo hoặc bị tổn
thương, thường do nhà nước thực hiện bằng ngân sách nhà nước. Hệ thống trợ giúp xã
hội thường được tổ chức đa dạng, trong đó có sự tham gia của nhà nước, các tổ chức
xã hội, các thiết chế cộng đồng,...
Bốn là, hệ thống bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản.
Việc làm, BHXH, trợ giúp xã hội đều hướng tới bảo đảm thu nhập cho các đối tượng
dân cư. Tuy nhiên, bên cạnh thu nhập, một trong các quyền ASXH của người dân là
được cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, như y tế, giáo dục, nước sạch, nhà ở, thông
tin... Bên cạnh đó, được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cũng nhằm tạo cơ hội cho
các cá nhân nâng cao năng lực, phát triển vốn con người, từ đó có thể có việc làm, thu
nhập, vừa bảo đảm ASXH bản thân và gia đình, vừa đóng góp vào sự phát triển kinh tế
- xã hội. Thông thường, khi thiếu thu nhập, một mặt, người dân có thể không có điều
kiện được hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản; mặt khác, ở một số nơi, đặc biệt là vùng
sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn, ngay cả khi có thu nhập, người dân có thể vẫn
khó tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, hoặc chỉ tiếp cận được dịch vụ kém chất lượng.
Trong khi đó, đây cũng là nhu cầu thiết yếu của người dân. Việc tiếp cận dịch vụ xã hội
cơ bản không chỉ là quyền của con người mà nó còn có ý nghĩa với ASXH và sự phát
triển quốc gia trong dài hạn, bởi con người có trình độ giáo dục, được bảo đảm y tế, sẽ
phát triển thành những công dân có trình độ, có ích, có thể có việc làm với thu nhập
bảo đảm và góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Các bộ phận trong lưới ASXH có ở các có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau và
cùng hướng tới thực hiện chức năng của lưới ASXH là phòng ngừa rủi ro, bảo vệ người
dân và thúc đẩy sự phát triển.
Tại Việt Nam lưới ASXH bao gồm 5 trụ cột chính là: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y
tế, Cứu trợ xã hội, Trợ giúp và ưu đãi xã hội.
II. CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG VĂN
KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII (2016)
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định bảo đảm an sinh xã hội là một
trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới.
Một là, chủ trương lãnh đạo giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cho
người lao động và đổi mới chính sách giảm nghèo đa chiều bền vững.
Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu
nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt nhất
nguồn nhân lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Chú
trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ,
tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình 3 lOMoAR cPSD| 45474828
công cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo
dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công,
khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với
sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện
chính sách bảo hộ lao động
Hai là, tiếp tục phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm.
Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hiểm tai nạn lao động…mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ thống,
đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu
quả công tác trợ giúp xã hội.
Tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ bị tổn thương hoặc
những người gặp rủi ro trong cuộc sống, để công tác trợ giúp xã hội đạt được hiệu quả
cao nhất. Phải phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân
tham gia giúp đỡ những người yếu thế nhằm huy động cao nhất các nguồn lực vật chất,
tinh thần để giúp đỡ, tạo điều kiện để những người yếu thế hòa nhập cộng đồng. Bên
cạnh đó, yêu cầu chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của
công dân trong quan điểm lãnh đạo của Đảng về an sinh xã hội, khẳng định sự quan
tâm đến quyền con người của Đảng, Nhà nước ta.
Bốn là, bảo đảm cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu, mức tối thiểu về thu
nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin.
Về lãnh đạo bảo đảm giáo dục tối thiểu: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào
tạo; phát triển nguồn nhân lực; phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc
dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Về lãnh đạo bảo đảm y tế tối thiểu: Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và phục
hồi chức năng ở tất cả các tuyến; quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hoàn thiện
mạng lưới y tế cơ sở, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo… tăng cường nhân lực y tế
cho khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, cùng với nâng cao chất lượng cuộc
sống, phấn đấu tuổi thọ trung bình đến năm 2020 đạt 74 - 75 tuổi.
Về lãnh đạo bảo đảm nhà ở xã hội: Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho
các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó
khăn. Phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu
chế xuất và sinh viên. Hiện nay, bảo đảm nhà ở xã hội là một trong những chính sách
được Đảng hết sức quan tâm. lOMoAR cPSD| 45474828
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương lãnh đạo bảo đảm công tác an
sinh xã hội, gắn với phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện an sinh xã hội toàn dân, thực
hiện quyền tự bảo đảm an sinh xã hội của người dân. Những quan điểm của Đảng là sự
định hướng để chính sách an sinh xã hội được thực hiện trên thực tế.
III. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII (2021) VỀ CHỦ
TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2021 2025 1. Bối cảnh
1.1 Bối cảnh thế giới
Ngoài thảm họa y tế, dịch bệnh COVID-19 đã đẩy thế giới vào một cuộc suy thoái
kinh tế nghiêm trọng hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng phát năm
2008. Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 sụt giảm tới 4% - 5%; nhiều
quốc gia buộc phải “đóng cửa” cả bên trong lẫn bên ngoài biên giới khiến cho chuỗi
sản xuất, cung ứng toàn cầu cũng như sự giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia rối loạn,
ách tắc. Ngoài việc phải mất một khoản chi phí lớn để phòng, chống dịch bệnh
COVID-19, các quốc gia buộc phải đưa ra hàng loạt gói cứu trợ trị giá bằng khoảng
12% GDP, nhằm bảo đảm thanh khoản, ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng, duy
trì sản xuất và việc làm, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đầu tư vào hạ tầng y tế, nghiên
cứu vắc-xin chống dịch bệnh COVID-19..., đã tạo nên khoản nợ công lớn gấp nhiều
GDP của tất cả các nước cộng lại. Tác động xã hội cũng không kém phần nghiêm
trọng, với hàng chục triệu người lao động trong hầu hết các lĩnh vực ở mỗi nước bị
mất việc làm, thu nhập bị giảm sút hoặc không còn thu nhập, rơi vào cảnh đói nghèo,
tội phạm gia tăng, hố sâu ngăn cách giàu - nghèo ngày càng trầm trọng, cả một thế hệ
thanh - thiếu niên không được đi học bình thường...
Trên bình diện quốc tế, dịch bệnh COVID-19 đã làm gia tăng thêm mối bất hòa
giữa một số nước, thúc đẩy sự chuyển dịch sức mạnh giữa các quốc gia, đồng thời
buộc nhiều chính quyền trên thế giới phải điều chỉnh ưu tiên chính sách đối nội và đối
ngoại, làm thay đổi phương thức vận hành của quan hệ quốc tế và chính trị thế giới.
Mặt khác, dịch bệnh COVID-19 đã trở thành chất xúc tác thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế
số và những lĩnh vực liên quan tới công cuộc phòng, chữa bệnh, trở thành những
thước đo mới về sức mạnh của các quốc gia. Về mặt xã hội, dịch bệnh COVID-19
khuyến khích con người thay đổi lối sống theo hướng “xanh hơn”, “chậm hơn” và “giãn cách hơn”.
1.2 Bối cảnh Việt Nam
Sự phát triển của Viêt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhậ n. Đổi mớị
kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt
Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập 5 lOMoAR cPSD| 45474828
trung bình thấp. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh, đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam
là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tăng trưởng GDP
ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới tăng trưởng
kinh tế dương, nhưng đại dịch đã để lại những tác động dài hạn đối với các hộ gia
đình - thu nhập của khoảng 45% hộ gia đình được khảo sát giảm trong tháng 1 năm
2021 so với tháng 1 năm 2020. Nền kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng 6,6% năm
2021 nếu Việt Nam kiểm soát tốt sự lây lan của vi-rút đồng thời các ngành sản xuất
hướng xuất khẩu hoạt động tốt và nhu cầu nội địa phục hồi mạnh mẽ.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội. Dân số Việt
Nam dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Theo kết quả Tổng điều tra dân
số Viêt Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung ̣ bình gần
76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhâp tương đương trong khu vực.̣ Nhưng dân số
đang bị già hóa nhanh, tầng lớp trung lưu đang dần hình thành.
Chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam là 0.69. Điều đó có nghĩa là một em bé Việt
Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức năng suất bằng 69% so
với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy đủ. Đây là mức cao hơn
mức trung bình của khu vực Đông Á - Thái Bình Dương và các nước có thu nhập
trung bình thấp hơn. Mặc dù chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69
từ năm 2010 đến 2020 Việt Nam, còn tồn tại sự chênh lệch trong nội bội quốc gia,
đặc biệt là đối với nhóm các dân tộc thiểu số.
Y tế cũng đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Từ năm 1993
đến 2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên 1.000 trẻ
sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong thời gian từ năm 1990 đến
2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73 - cao hơn mức trung bình của
khu vực và thế giới – với 87% dân số có bảo hiểm y tế. Tuy nhiên tỉ lệ chênh lệch giới
tính khi sinh vẫn ở mức cao và ngày môt tăng (115 trong năm 2018) chọ thấy tình
trạng phân biệt giới tính vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những
quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên
65 sẽ tăng gấp 2,5 lần.
Trong vòng 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản có nhiều thay đổi tích
cực. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện đáng kể. Tính đến năm
2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14% năm 1993. Tỉ lệ tiếp cận
nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70% năm 2016, trong
khi tỉ lệ ở thành thị là trên 95%. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở
vật chất tính theo phần trăm GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu
vực ASEAN. Điều này tạo ra những thách thức đối với sự phát triển liên tục của các lOMoAR cPSD| 45474828
dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam
xếp thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).
2. Điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã
hội ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2025
So với những chủ trương chính sách của Đại hội XII về an sinh xã hội được nêu ở
trên thì Đại hội XIII đã có những điểm mới là:
Một trong các đột phá chiến lược được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra là “Đổi
mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội”,
trong đó có quản lý phát triển an sinh xã hội. Trong quá trình này, Nhà nước sử dụng các
công cụ, cơ chế, chính sách, pháp luật,... để tác động, điều chỉnh, thúc đẩy, điều tiết, xử
lý các vấn đề an sinh xã hội phát sinh từ thực tiễn, bảo đảm quyền an sinh xã hội của
người dân nhằm mục tiêu phát triển bền vững đất nước, vì con người.
Về y tế và chăm sóc sức khỏe của người dân.
Đổi mới cơ chế tài chính y tế, thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Phát triển
nguồn nhân lực, khoa học công nghệ y tế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý y tế, khám chữa bệnh, giám định thanh toán BHYT. Thiết lập hệ thống sổ sức
khỏe điện tử
đến từng người dân. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức.
Phấn đấu đến năm 2025, trên 90% dân số được quản lý, theo dõi và chăm sóc, bảo vệ
sức khỏe, tỷ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.
Tập trung phát triển mạnh y tế cơ sở, y tế dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm, chữa
trị kịp thời, hiệu quả các loại dịch bệnh mới. Xây dựng và củng cố hệ thống y tế, nhất là
hệ thống y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương, hình thành hệ thống trung tâm kiểm soát
dịch bệnh đồng bộ ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới kiểm soát bệnh tật thế giới.
Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục
vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động sản
xuất vaccine, thuốc sáng chế.
Về chính sách tiền lương.
Chỉ rõ yêu cầu, tính chất của chính sách tiền lương đó là: chính sách tiền lương theo
hướng gắn với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc
độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối
theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả. Bên cạnh đó từng bước tách
việc điều chỉnh lương hưu với điều chỉnh tiền lương của người đang làm việc. Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 cụ thể hóa hơn một bước về chính
sách tiền lương đối với khu vực công, khu vực doanh nghiệp, nhằm mục tiêu xây dựng
quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Về chính sách quản lý phát triển xã hội.
Các văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh về chính sách huy động và phân bổ các nguồn
lực cho các vấn đề xã hội. Đổi mới cơ chế, huy động phân bổ và đa dạng hóa các nguồn 7 lOMoAR cPSD| 45474828
lực thực hiện chính sách xã hội phù hợp với nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp dân cư,
nhóm xã hội, bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển, nhất là với lao động khu vực phi
chính thức. Yêu cầu mới này bao gồm cả hai mặt: huy động tối đa các nguồn lực trong
xã hội và phân bổ một cách công bằng, hợp lý, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả mọi
nguồn lực của Nhà nước, tư nhân, các tổ chức của nhân dân để giải quyết các vấn đề xã hội.
Về vấn đề lao động.
Vấn đề đã được đặt ra một cách hệ thống và toàn diện hơn, bao gồm: xây dựng thị
trường lao động, tạo công ăn việc làm, chính sách tiền lương, hỗ trợ thất nghiệp. Về thị
trường lao động, các văn kiện Đảng và Nhà nước không chỉ khẳng định sự cần thiết phải
phát triển một thị trường lao động thật sự, mà còn chỉ ra rất rõ về phương hướng, tính
chất và yêu cầu của thị trường lao động. Đó là phát triển thị trường lao động, hướng đến
việc làm bền vững, phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh hoạt, thống
nhất, hội nhập, có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết
phải quan tâm đến lao động khu vực phi chính thức, nhất là lao động nông nghiệp chuyển
đổi ngành nghề. Đây là bộ phận yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội, cần phải được tạo
các điều kiện thuận lợi để có thể tham gia vào khu vực lao động chính thức, giảm thiểu
và khắc phục những rủi ro trong cuộc sống.
Cuối cùng về chính sách phát triển dân số liên quan đến anh sinh xã hội.
Do tình hình cơ cấu dân số đã bước vào giai đoạn già hóa, Đảng và Nhà nước chủ
trương chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và
phát triển
. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ
dân số. Tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng; chủ động thích ứng với xu thế già hóa
dân số. Hỗ trợ thỏa đáng để thu hút, tạo điều kiện cho người dân sinh sống ổn định, lâu
dài ở các khu vực khó khăn, trọng yếu về an ninh, quốc phòng. Xây dựng, hoàn thiện và
vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
VI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC KẠN
Về công tác phòng chống dịch bệnh.
Thực hiện Văn bản số 6666/BYT-MT ngày 16/8/2021 của Bộ Y tế về việc hướng
dẫn phòng chống dịch COVID-19 tại cơ quan, đơn vị, BHXH tỉnh đã thành lập Ban chỉ
đạo phòng chống dịch Covid-19 của BHXH tỉnh Bắc Kạn với 13 thành viên; Thành lập
02 tổ an toàn Covid tại BHXH tỉnh và 07 tổ an toàn Covid tại 7 đơn vị BHXH cấp
huyện. BHXH tỉnh Bắc Kạn còn tổ chức các đợt vận động quyên góp ủng hộ quỹ phòng,
chống Covid-19; ủng hộ quỹ vắc xin phòng chống Covid-19; ủng hộ 01 tấn gạo cho
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đăng ký mã QR-Code của cơ quan theo hướng dẫn
của Sở Thông tin - Truyền thông và thực hiện việc quét mã QR-Code để khai báo y tế,
lập sổ ghi chép thông tin những người ra, vào hàng ngày (đối với người không thuộc
quản lý của đơn vị đến liên hệ, giao dịch, thực hiện nhiệm vụ…). Cơ quan BHXH phân lOMoAR cPSD| 45474828
công các cán bộ đến từng hộ, gia đình để tuyên truyền về những tiện ích, tính năng cơ
bản và lợi ích của việc sử dụng ứng dụng VssID. Bố trí cán bộ thường xuyên hỗ trợ
người dân đến giao dịch với cơ quan BHXH tại bộ phận “1 cửa” đăng ký, cài đặt sử
dụng ứng dụng VSSID. Bên cạnh đó, BHXH tỉnh, BHXH huyện cũng linh hoạt kết hợp
các biện pháp, hình thức tuyên truyền cài đặt ứng dụng VssID tại các điểm chi trả lương
hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng; Phối hợp với cơ quan Công an để tổ chức hướng dẫn
cài đặt, sử dụng ứng dụng VssID cho người dân trong đợt ra quân cấp căn cước công
dân của Ngành Công an trong tháng 3,4/2021… Hướng dẫn, hỗ trợ người dân đăng ký,
sử dụng ứng dụng VssID tại các điểm bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và đại hiểu
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 trong tháng 05/2021 vừa qua…
Tuy nhiên, do nhiều thôn, xã trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thuộc vùng sâu, vùng xa,
điều kiện kinh tế khó khăn, vẫn còn tỷ lệ người dân không biết chữ, điều kiện tiếp cận
với công nghệ thông tin còn hạn chế; một số thôn vùng sâu vùng xa chưa được phủ
sóng truyền thanh nên việc phát sóng các nội dung liên quan đến chính sách BHXH,
BHYT và công tác thực hiện ứng dụng VssID còn chưa được sâu rộng đến từng người
dân. Thêm vào đó, nhiều nơi không có mạng internet, không có sóng điện thoại, người
dân không có điện thoại thông minh nên không thể tiếp cận và sử dụng được ứng dụng
VssID. Đặc biệt, từ đầu năm đến nay, do tình hình dịch bệnh Covid19 diễn tiến phức
tạp, hạn chế tụ tập đông người nên đã ảnh hưởng đến việc tuyên truyền chính sách
BHXH, BHYT đến người dân nói chung và triển khai ứng dụng VssID nói riêng. Theo
số liệu thống kê của BHXH tỉnh Bắc Kạn, tính đến ngày 10/07/2021, toàn tỉnh Bắc Kạn
đã tiếp nhận gần 29.500 tài khoản đăng ký giao dịch điện tử cài đặt ứng dụng VssID,
trong đó có 28.000 tài khoản được phê duyệt hợp lệ và 23.000 tài khoản đã đăng nhập
sử dụng ứng dụng VssID thành công.
Về xóa đói giảm nghèo.
Mười chín năm hoạt động, tín dụng chính sách xã hội được coi là nguồn lực chính
trong công cuộc giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc
Kạn. Trong thời điểm dịch COVID-19 bùng phát gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình
sản xuất, đời sống nhân dân, nguồn vốn chính sách ở Bắc Kạn vẫn triển khai hiệu quả,
đến 31/8 đạt 2.298 tỷ đồng với 42.289 lượt hộ vay vốn. Hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc
thiểu số khó khăn từ vùng sơn cước Ba Bể, Pác Nặm đến triền đồi Chợ Mới, Chợ Đồn
được vay vốn thuận lợi, kịp thời để trồng trọt, chăn nuôi, tạo nguồn thu cho gia đình.
Tỉnh đã tập trung thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất theo hình
thức liên kết, tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho hợp tác xã,
phát triển các sản phẩm (OCOP) trên địa bàn, khuyến khích sự tham gia của hộ nghèo,
cận nghèo, giúp họ cải thiện sinh kế, ổn định cuộc sống có điều kiện tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản. Nhân rộng các mô hình giảm nghèo có hiệu quả phù hợp với điều kiện của địa phương.
Có thể nói, nguồn vốn ưu đãi đang được chuyển tải kịp thời về khắp vùng miền núi
cao, vùng xa thông qua mạng lưới 108 điểm giao dịch của Ngân hàng Chính sách xã 9 lOMoAR cPSD| 45474828
hội tại xã, phường, thị trấn và hệ thống 1.597 tổ tiết kiệm và vay vốn ở khắp thôn, bản,
tổ dân phố của tỉnh Bắc Kạn.
Về các chính sách trợ giúp xã hội.
Trong năm qua, toàn tỉnh có 9.080 đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp hằng tháng
tại cộng đồng, với tổng kinh phí gần 44 tỷ đồng, bao gồm người cao tuổi nghèo không
có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, người từ đủ 80 tuổi trở lên không có
lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng,
hộ gia đình nhận nuôi dưỡng chăm sóc trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng
và người khuyết tật đặc biệt nặng, trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng,
người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo... Các chế độ của các đối tượng được bảo đảm
theo Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về quy định chính
sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; Quyết định số 362/QĐ-UBND
ngày 26/3/2015 của UBND tỉnh về việc quy định mức trợ cấp chăm sóc, nuôi dưỡng
đối tượng tại các cơ sở bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, tỉnh thường xuyên theo dõi, bảo đảm ổn định đời sống dân sinh khi gặp
thiên tai, hỏa hoạn và các nguyên nhân bất khả kháng. Chủ động bố trí ngân sách địa
phương, huy động cộng đồng và các nhà hảo tâm hỗ trợ hàng hóa, lương thực cho các
cá nhân và gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai, hỏa hoạn hoặc các lý do bất khả kháng khác. KẾT LUẬN
Xác định đúng vị trí, vai trò của an sinh xã hội đối với phát triển đất nước, phù hợp
với thực tiễn và tình hình mới, là cơ sở và điều kiện để người dân được “thụ hưởng”
nhiều hơn thành quả từ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cảm ơn cô đã dành thời gian đọc bài. Bài luận dựa trên kiến thức cá nhân và thông
tin tổng hợp nhiều nguồn nên em không thể tránh khỏi những sai sót, em mong sẽ nhận
được sự góp ý của cô để em có thể rút kinh nghiệm. Em xin trân thành cảm ơn cô ạ! lOMoAR cPSD| 45474828
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bích Ngọc (2021, ‘Điểm tựa’ vững chắc cho hộ nghèo tại Bắc Kạn, truy cập lần cuối
vào ngày 18/10/2021 từ < http://nhcsxh.chinhphu.vn/Thong-tin/Diem-tuavung-
chac-cho-ho-ngheo-tai-Bac-Kan/8131.vgp>
2. Bùi Văn Huyền & Nguyễn Ngọc Toàn (2021), Lưới an sinh xã hội hướng tới nền
kinh tế vì con người ở Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 16/10/2021 từ
sinh-xa-hoi-huong-toi-nen-kinh-te-vi-con-nguoi-o-viet-nam.aspx>
3. Hương Lan (2021), Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ giảm nghèo gắn với mục tiêu
phát triển bền vững, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ <
https://backan.gov.vn/pages/thuc-hien-tot-chinh-sach-ho-tro-giam-ngheo-gan- voi591d.aspx>
4. Kim Anh (2021), BHXH tỉnh Bắc Kạn: Chung sức cùng địa phương trong phòng,
chống dịch COVID-19, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ <
https://dangcongsan.vn/bao-hiem-xa-hoi-bao-hiem-y-te-vi-an-sinh-xa-
hoi/tintuc/bhxh-tinh-bac-kan-chung-suc-cung-dia-phuong-trong-phong-chong- dichcovid-19-590349.html>
5. Minh Anh (2021), BHXH tỉnh Bắc Kạn đẩy mạnh triển khai cài đặt ứng dụng VssID-
BHXH, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ < https://dangcongsan.vn/baohiem-xa-
hoi-bao-hiem-y-te-vi-an-sinh-xa-hoi/tin-tuc/bhxh-tinh-bac-kan-day-manhtrien-
khai-cai-dat-ung-dung-vssid-bhxh-585562.html>
6. Minh Dư (2021), Tín dụng chính sách giúp bà con vùng cao Bắc Kạn thoát
nghèo,truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ < https://baochinhphu.vn/Xa-hoi/Tin-
dungchinh-sach-giup-ba-con-vung-cao-Bac-Kan-thoat-ngheo/446939.vgp>
7. Trần Thùy Linh (2017), Đại hội XII của Đảng và những quan điểm về an sinh xã
hội, truy cập lần cuối ngày 16/10/2021 từ
/2018/43880/dai-hoi-xii-cua-dang-va-nhung-quan-diem-ve-an-sinh-xahoi.aspx>
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, t. I, tr.147,148,149,269. 11