Trọn bộ câu hỏi đề cương giáo dục học | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Trọn bộ câu hỏi đề cương giáo dục học | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống

GIÁO DỤC HỌC
Câu 1. Các khái niệm cơ bản của Giáo dục học
Bài làm
1. Các khái niệm cơ bản của giáo dục học:
Giáo dục (theo nghĩa rộng):
quá trình hình thành nhân các được tổ chức một cách mục đích , kế hoạch,
nội dung , căn cứ vào những điều kiện do hội quy định được thực hiện thông
qua sự phối hợp gx nhà giáo dục với người đc giáo dục nhằm giúp ng được giáo dục
chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp):
Giáo dục theo nghĩa hẹp quá trình hình thành cho người được giáo dục tưởng,
động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói
quen xử đúng đắn trong hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động
giao lưu
Dạy học quá trình tác động qua lại giữa người dạy người học nhằm giúp cho
người học lĩnh hội những tri thức khoa học, kĩ năng hoạt động nhận thức và thực tiễn,
phát triển các năng lực hoạt động sáng tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan
các phẩm chất nhân cách của người học theo mục đích giáo dục.
2. Phân biệt các khái niệm trên
Các khái niệm trên gắn với các quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng), quá trình giáo
dục (theo nghĩa hẹp) quy trình dạy học được phân biệt sự khác nhau về việc thực hiện
chức năng trội cuả của chúng:
Chức năng trội của GD (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách toàn diện ở người học
sinh bao gồm cả năng lực và phẩm chất.
Chức năng trội của GD (theo nghĩa hẹp): phát triển về mặt phẩm chất người học
sinh.
Chức năng trội của DH: phát triển về mặt năng lực ở người học sinh
Câu 2. Chức năng xã hội của giáo dục
1. Khái niệm Giáo dục:
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục và đổi
tượng người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu
cầu của xã hội.
2. Các chức năng xã hội của giáo dục:
Chức năng kinh tế − sản xuất; chức năng chính trị − xã hội và chức năng tư tưởng − văn hóa.
a) Chức năng kinh tế − sản xuất.
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao
hơn, thay thế sức lao động đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát
triển những năng lực chung năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một
năng suất lao động cao hơn, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
Giúp có nguồn nhân lực trình độ học vấn cao, có tay nghề vững vàng, năng động,
1
sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những yêu cầu , đ òi hỏi của xã hội phát
triển. Dạy học theo tiếp cận năng lực một trong giải pháp quan trọng để phát triển
năng lực hành động cho người học trong các nhà trường, đáp ứng được yêu cầu của
thị trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm:
Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội .
Tiếp tục thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực hành
động cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
b) Chức năng chính trị − xã hội
Giáo dục tác động đến các bộ phận, các thành phần xã hội (các giai cấp, các tầng lớp,
các nhóm hội...) làm thay đổi tính chất mối quan hệ giữa các bộ phận, thành phần
đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội.
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,
củng cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội, nhằm duy trì,
củng cố thể chế chính trị - xã hội cho một quốc gia nào đó.
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc hội trở nên thuần nhất, làm
cho các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội ngày càng xích lại gần nhau.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho quyền lực của
dân, do dân, dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí
Minh, giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân, Giáo dục phục
vụ cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm:
Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng,
pháp luật của nhà nước.
Giúp học sinh hiểu, tin tưởng thực hiện theo đường lối , chủ trương của Đảng,
pháp luật của nhà nước.
c) Chức năng tư tưởng − văn hóa.
Xây dựng một hệ tư tưởng chỉ phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong
xã hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng
lớp xã hội.
Thông qua giáo dục, những tư tưởng hội được thẩm đến từng con người, giáo dục
hình thành con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn
mực đạo đức hội. Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân
tộc, của cộng đồng được bảo tồn và phát triển, trở thành hệ thống giá trị của từng con
người.
Kết luận sư phạm:
Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân,
nhằm tạo cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời.
Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là chức năng
2
quan trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư
tưởng - văn hóa.
Câu 3: Tính chất của giáo dục.
Bài làm
1. Khái niệm.
Giáo dục quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục)
đối tượng (người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những
yêu cầu của xã hội.
2. Các tính chất của giáo dục(3) :
a) Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục.
Giáo dục chỉ hội loài người, một phần không thể tách rời của đời sống
xã hội, giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau.
Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi xã hội không tồn
tại, là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của mỗinhân và
xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người,con đường đặc
trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
b) Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự qui định của xã hội)
Giáo dục một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của hội, mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử đều nền giáo dục tương ứng, khi hội chuyển từ hình thái
kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục
tương ứng cũng biến đổi theo.
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội
đáp ứng các yêu cầu kinh tế -hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn
biến đổi trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, không có một nền giáo dục
rập khuôn cho mọi hình thái kinh tế hội, cho mọi giai đoạn của mỗi hình thái
kinh tế - xã hội cũng như cho mọi quốc gia, chínhvậy giáo dục mang tính lịch sử.
mỗi thời lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau về mục đí ch, nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn được hoàn
thiện dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
c) Tính giai cấp của giáo dục.
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định - giai cấp thống trị xã hội.
Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì củng cố vai trò thống trị của
mình.
Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp
đối với giai cấp bị bóc lột, bị thống trị.
Giáo dục làm phương tiện đấu tranh, lật đổ giai cấp thống trị.
Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục chi
3
phối, định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục.
Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta hướng tới xoá bỏ áp bức bóc lột, từ đó
hướng tới sự bình đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang cơ chế thị trường,
bên cạnh những mặt tích cực cơ bản vẫn có những mặt trái khó tránh được, nhà nước
ta đã cố gắng đưa ra những chính sách đảm bảo công bằng trong giáo dục như:
Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào
tạo lên cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v,v..
Tiến hành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục.
Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo cơ hội
học tập cho mọi tầng lớp nhân dân.
d) Bên cạnh những tính chất trên, giáo dục còn có những tính chất dưới đây:
Tính đại chúng
Tính nhân văn
Tính dân tộc
Tính thời đại
Câu 4. Giáo dục đối với sự phát triển nhân cách.
Bài làm
1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục)
đối tượng người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những
yêu cầu của xã hội.
2. Khái niệm sự phát triển cá nhân
(Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng định
trình độ phát triển nhân cách của chính nhân. Sự phát triển nhân cách nhân được biểu
hiện qua những dấu hiệu sau:)
a. Kháiniệmnhâncách:
+ Nhân cách là một trình thể của nhiều thuộc tính, đặc điểm bền vững của con người.
+ Những đặc điểm thuộc tính ấy mang tính độc đáo riêng mỗi nhân.
+ Những thuộc tính nhân cách thể hiện trong hành vi hội, mang giá trị hội.
=> Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí cá nhân thể hiện bản
sắc và giá trị xã hội của mỗi con người.
Sự phát triển về nhân cách của con người bao gồm:
Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng,
cơ bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động
của cơ thể.
Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của
nhân: trình độ nhận thức, khả năng tư duy, quan điểm, lập trường, thói quen, xúc cảm,
tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, vv...
Sự phát triển về mặt hội: Thể hiện thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan
hệ với những người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động
4
cải biến, phát triển xã hội.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
Yếu tố bẩm sinh, di truyền
– Các yếu tố bẩm sinh di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên, cho sựcơ sở vật chất
hình thành và phát triển nhân cách. Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc điểm hoạt
động của hệ thần kinh, cấu tạo của não, cấu tạo hoạt động của các giác quan…
Những yếu tố này sinh ra đã có do bố mẹ truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm
sinh).
Di truyền sự tái tạo đời sau những thuộc tính sinh học đời trước, sự
truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm chất nhất định (sức
mạnh bên trong thể, tồn tại dưới sạng nhưng chất năng lực) đã được ghi lại
trong hệ thống gen di truyền.
Yếu tố môi trường
Trong sự hình thành phát triển nhân cách, môi trường hội có tầm quan trọng
đặc biệt vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tính người cũng không
thể phát triển được. Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự
nhiên và môi trường xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của
trẻ nhỏ.
Sự hình thành phát triển nhân cách chỉ thể được thực hiện trong một môi
trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện
điều kiện cho hoạt động giao lưu của nhân, nhờ đó giúp trẻ chiếm lĩnh được các
kinh nghiệm để hình thành phát triển nhân cách của mình.
– Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân đối
với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào xu hướng và năng lực, vào mức độ
nhân tham gia cải biến môi trường.
Yếu tố hoạt động cá nhân
-Hoạt động phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người hoạt
động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác
nhất định với những công cụ nhất định. Hoạt động nhân đóng vai trò quyết định
trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Thông qua hoạt động của bản thân trẻ sẽ lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử hội
biến nó thành nhân cách của mình. Hoạt động giúp kích thích hứng thú, niềm say
sáng tạo làm nảy sinh những nhu cầu mới, những thuộc tính tâm mới… mỗi
các nhân mà nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ phụ thuộc vào hoạt động ở mỗi thời kì,
lứa tuổi nhất đinh. Muốn hình thành và phát triển nhân cách thì cha mẹ cần phải cho
con tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau kích thích yếu tố hoạt động
nhân.
Ngay từ khi còn nhỏ, mỗi trẻ đã hình thành những nhân cách khác nhau cũng như
chịu chi phối bởi hệ thống gia đình, giáo dục, xã hội,….Trong đó gia đình được coi là
cái nôi của nhân cách, tác động vào hệ thống phát triển tinh thần thể chất của trẻ.
Vì vậy giáo dục nhân cách cho trẻ ngay từ nhà là điều rất quan trọng và cần thiết.
Yếu tố giáo dục
5
–Giáo dục sự tác động mục đích, tổ chức, kế hoạch nhằm thực hiện
hiệu quả các mục đích đã đề ra. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách. Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như
bẩm sinh- di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể được.
– Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát
triển. Giáo dục giá trị định hướng sự hình thành phát triển nhân cách. Giáo dục
thúc đẩy sức mạnh bên trong khi trẻ nắm bắt được nhu cầu, động cơ, hứng thú
phù hợp với quy luật phát triển bên trong của nhân.
– Bên cạnh đó giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật,
nó có thể đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. Giáo dục còn
thể uốn nắn những phẩm chất tâm xấu làm cho phát triển theo chiều hướng
mong muốn của hội.
– Tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục đối với sự hình thành nhân
cách. Giáo dục không thể tách rời tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở
mỗi cá nhân.
4. Vai trò của yếu tố giáo dục
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách, bởi
vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất mục đích nhân cách tưởng
xã hội đang yêu cầu.
Ba lực lượng giáo dục gia đình, nhà trưởng các đoàn thể hội, trong đó nhà
trường vai trò, vị trí cùng quan trọng trong việc thực hiện mục đích, nội dung
giáo dục bằng các phương pháp khoa học tác động mạnh nhất giúp cho học sinh
hình thành năng lực ngăn ngừa, đấu tranh với những ảnh hưởng tiêu cực từ môi
trường hoặc di truyền bẩm sinh.
5. Vai trò của yếu tố giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách được
thể hiện:
Giáo dục vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành phát triển nhân cách của học
sinh tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong
muốn.
Giáo dục là những tác động tự giác điều khiển, thể mang lại những tiến bộ mà
các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do
tác động tự phát.
Giáo dục sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành phẩm chất lệch lạc
không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của hội. Đó chính kết quả quan trọng
của giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc người phạm pháp.
Giáo dục tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng
do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có
phương pháp giáo dục, rèn luyện đặc biệt củng với sự hỗ trợ của các phương tiện
khoa học thể giúp cho người khuyết tật, thiểu năng phục hồi một phần chức năng
đã mất hoặc phát triển các chức năng khác nhằm trừ những chức năng bị khiếm
khuyết, giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng dông
Giáo dục những tác động điều khiển điều chỉnh cho nên không những thích
ứng với các yếu tố di truyền, bám sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình
6
thành và phát triển nhân cách mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu
tố ảnh hưởng đến quá trình đó theo một gia tốc phù hợp di truyền môi trường
không thể thực hiện được.
6. Kết luận sư phạm
Cần nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành phát triển
nhân cách.
Biến quy trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học
Tổ chức quá trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS
Yêu cầu giáo dục mang tính vừa sức với HS
Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tổ chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động
nhân của học sinh nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục
Câu 5.
Đặc điểm của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp.
Bài làm
1. Khái niệm về quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục,
người được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ giáo dục.
2. Đặc điểm của quá trình giáo dục
a) Quá trình giáo dục diễn ra dưới những tác động phức hợp.
Sự phát triển nhân cách của người được giáo dục chịu ảnh hưởng của rất nhiều các
yếu tố: khách quan, chủ quan; bên trong, bên ngoài; trực tiếp, gián tiếp; có chủ định,
không có chủ định.
Quá trình giáo dục diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi con người, do đó quá trình giáo
dục cũng luôn chịu sự tác động của rất nhiều những yếu tố đó.
+ Yếu tố khách quan những môi trường kinh tế - hội, khoa học công nghệ ảnh
hưởng tới quá trình giáo dục nhà trường, ảnh hưởng tới người được giáo dục.
+ Yếu tố chủ quan những thành tố của quá trình giáo dục: mục đích, nội dung,
phương pháp, phương tiên, … ; cách tổ chức được chủ thểkhách thể của quá tình
giáo dục tác động để vận hành phát triển nhằm đem lại hiệu quả giáo dục; các
yếu tố tâm lý, trình độ, điều kiện, hoàn cảnh gia đinh, … của đối tượng giáo dục; các
mối quan hệ phạm được tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với
học sinh và học sinh với giáo viên.
b) Quá trình giáo dục là một quá trình diễn ra lâu dài
Mục tiêu của quá trình giáo dục hình thành quan điểm, thể giới quan, nhân sinh
quan, niềm tin, tưởng, chăm chút nhân cách của người công dân, người lao động
mà xã hội yêu cầu ở người được giáo dục. Để thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi quá trình
giáo dục phải diễn ra một thời gian dài mới đạt được kết quả và thực tiễn giáo dục đã
7
cho thấy: giáo dục diễn ra suốt cuộc đời mỗi người. Tính chất lâu dài của quá trình
giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
Việc hình thành hành vi và thói quen hành vi đúng đắn ở người được GD, đòi hỏi
quá trình giáo dục phải tác động đến nhận thức, tạo lập xúc cảm, tình cảm tích
cực đối với hành vi đó đồng thời người được giáo dục phải trải qua một quá trình
luyện tập, trải nghiệm để lặp đi lặp lại hành vi đó trở thành thói quen bền vững
gắn với nhu cầu của họ. Vì vậy quá trình giáo dục đòi hỏi trong một thời gian dài,
liên tục mới có được kết quả.
Trong quá trình hình thành quan điểm, thải độ, niềm tin, thói quen hành vi mới
phù hợp với các CMXH quy định người được giáo dục, bản thân người được
giáo dục cũng luôn phải diễn ra cuộc đấu tranh động giữa cái cái mới
cần phải hinh thảnh quan điểm, niềm tin, giá trị, hành vi, thói quen hành vi mới).
Thông thường, những cái cũ, lạc hậu thường tồn tại dai dẳng khó thay đổi, đặc
biệt là những thói quen hành vi xấu đã được tạo lập ở mỗi người. Nếu người được
giáo dục không quyết tâm thay đổi thì cái lại nhanh chóng quay trở lại cái
mới khó được hình thành.
vậy, quá trình giáo dục muốn đạt được mục tiêu, hiệu quả giáo dục đòi hỏi nhà
giáo dục không được nôn nóng, vội vàng đốt cháy giai đoạn mà cần phải kiên trì, bền bỉ, liên
tục tác động cùng với sự tự giác, nỗ lực quyết tâm tự rèn luyện của người được giáo dục.
c) Quá trình giáo dục mang tính cá biệt, cụ thể
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mỗi
nhân con người. Người được giáo dục có sự khác nhau về tuổi tác, trình độ, tính cách,
điều kiện hoàn cảnh... vậy, trong những điều kiện môi trường giáo dục xác định,
với những đối tượng giáo dục cụ thể...Quá trình giáo dục luôn có những tác động phù
hợp.
Tính cá biệt, cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện như sau:
Quá trình giáo dục phải tính đến đặc điểm của từng nhóm đối tượng, từng đối
tượng giáo dục cụ thể: đặc điểm tâm sinh lý, trình độ được giáo dục, kinh nghiệm
sống, thải độ, hành vi, thói quen, điều kiện hoàn cảnh sống,...khi thực hiện tổ
chức các hoạt động giáo dục và đưa ra những quyết định của nhà giáo dục.
Quá trình giáo dục diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể. Do đó quá trình giáo dục phải trên cơ sở những điều kiện
cụ thể của tình huống giáo dục để có những yêu cầu và tác động phù hợp đối với
người được giáo dục.
Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý luyện tập và rèn luyện các thao tác, kĩ năng
hành động ở người được giáo dục thể hiện theo các yêu cầu, nội dung, chuẩn mực
hội về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong đời sống của nhân nhưng vẫn thể
hiện nét tính cách độc đáo riêng của mỗi con người.
Bên cạnh những tác động chung, đòi hỏi nhà giáo dục cần phải có những tác động
riêng phù hợp với từng đối tượng giáo dục trong từng bối cảnh cụ thể. Tuyệt đối
tránh các cách giáo dục rập khuôn máy móc, hình thức bởi, với cách giáo dục đó
sẽ mang lại thất bại, tác động phản giáo dục.
Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể của một quá trình giáo dục cho từng đối
8
tượng, từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể, đối với từng mặt, từng yêu cầu cụ
thể...., trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
d) Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Qúa trình dạy học quá trình giáo dục hai quá trình bộ phận của quá trình
phạm tổng thể có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất của hai
quá trình này là cùng hướng tới phát triển nhân cách toàn diện cho người học đáp ứng
các yêu cầu của hội. Tuy nhiên, mỗi quá trình chức năng, nhiệm vụ riêng nên
giữa chúng có sự tác động qua lại, hỗ trợ, đan xen bổ sung cho nhau cũng đem lại sự
phát triển nhân cách của người học.
Nhiệm vụ của quá trình dạy học không những chi hình thành cho người học tri trứe,
kỳ năng kỹ xảo, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ còn hình thành phẩm chất
nhân cách của người công dân, người lao động. Hay ta thường nói: thông qua “dạy
chữ” để “dạy người”.
Ngược lại: nhờ có quá trình giáo dục mà người được giáo dục xây dựng được thế giới
quan khoa học, động cơ thái độ học tập đúng đắn, thói quen hành vi tích cực... Chính
kết quả giáo dục này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động học tập của người học nói
riêng, hoạt động dạy học nói chung vận động phát triển.
Mục đích cuối cùng của giáo dụcphát triển con người có đủ tài và đức để đáp ứng
các yêu cầu của hội, đủ sức cạnh tranh phát triển. vậy trong công tác giáo
dục nói chung, giáo dục ở nhà trường nói riêng tránh tách rời hai quá trình giáo dục và
quá trình dạy học.
Bản chất của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp
2. Cơ sở xác định bản chất của quá trình giáo dục
a) Quy trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách trong xã hội
Nhân cách của mỗi người được thể hiện không chỉ thông qua lời nói mà quan trọng là
ở hành vi thói quen hành vi họ trong cuộc sống. Vì vậy, mục đích của quá trình
giáo dục hình thành người được giáo dục hành vi thói quen hành vi phù hợp
với các chuẩn mực xã hội (CMXH) quy định.
Sự phát triển nhân cách con ngườikết quả của quá trình hoạt động và giao lưu của
con người trong xã hội. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội” (Mác).
Vì vậy để hình thành nhân cách con người có hành vi, thói quen hành vi phù hợp với
các CMXH quy định đòi hỏi quá trình giáo dục phải tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt
động và các quan hệ giao lưu của người được giáo dục , nhằm thu hút sự tham gia của
họ vào quá trình giáo dục trên cơ đó đạt được mục tiêu giáo dục đặt ra,
b) Mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong quá trình giáo dục
Trong quá trình giáo dục, mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục (cá
nhân hoặc tập thể) quan hệ sư phạm, một loại quan hệ hội đặc thù. Quan hệ
phạm này luôn luôn chịu sự chi phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã
hội, kinh tế, khoa học - kĩ thuật ..., đặc biệt là quan hệ chính trị xã hội.
Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ thuộc vào mối quan hệ thống nhất biện chứng
9
giữa vai trò chủ đạo của nhà giáo dục vai trò tự giác, tích cực tự giáo dục của
người được giáo dục. Xét cho cùng, sự nỗ lực của nhà giáo dục người được giáo
dục trong quá trình giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chuyển hóa những
yêu cầu của CMXH quy định thành hành vi, thói quen hành vi tương ứng ở họ trên cơ
sở đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
Vì vậy, quá trình giáo dục chỉ đem lại hiệu quả khi quá trình giáo dục phát huy được
vai trò tự giác, tích cực tự giáo dục của người được giáo dục tham gia vào quá trình
giáo dục. Trên cơ sở đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục
3. Bản chất của quá trình giáo dục
a) Quá trình giáo dục - quá trình hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các yêu
cầu khách quan thành vêu cầu chủ quan của cá nhân.
Quá trình giáo dục nhằm hình thànhphát triểnnhân con người trở thành những
thành viên hội. Những thành viên này phải thỏa mãn được hai mặt: vừa phù hợp
(thích ứng) với các yêu cầu hội mỗi giai đoạn phát triển, vừa khả năng tác
động cải tạo, xây dựng xã hội làm cho nó tốn tại và phát triển. Những nét bản chất của
cá nhân con người chính là do các mối quan hệ hội hợp thành. Quá trình giáo dục
là quá trình làm cho đối tượng giáo dục ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị
của nó, biết vận dụng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa - xã hội,
đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình, ứng xử ... nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân
và yêu cầu của xã hội.
Khi đứa trẻ mới sinh ra, ý thức, nhân cách của chưa được hình thành. Các chuẩn
mực, các quy tắc ... của xã hội vốn tồn tại khách quan bên ngoài, độc lập với đứa trẻ.
Quá trình trẻ lớn lên trong môi trường văn minh của hội loài người, thẩm thấu
những giá trị văn hóa của loài người để tạo ra nhân cách của chính mình - quá trình xã
hội hóa con người. Đó là quá trình giúp trẻ biến những yêu cầu khách quan của xã hội
thánh ý thức, thảnh niềm tin thái độ, thành những thuộc tinh, những phẩm chất
nhân cách của nhân. Bên cạnh đó, quá trình này cũng giúp đối tượng biết loại bỏ
khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn cũ, lạc hậu không
còn phù hợp với xã hội hiện đại.
b) Quá trình giáo dục quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động giao lưu cho đối
tượng giáo dục
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất ngưởi – bản chất xã hội trong mỗi
cá nhân một cách có ý thức,quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các
kinh nghiệm xã hội.
Triết học Mác - xít đã khẳng định: Bản chấthội của con người chỉđược khi
tham gia vào đời sống hội đích thực thông qua hoạt động vi giao lưu một môi
trường văn hóa (văn hóa vật chất và tinh thần).
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con người và
cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Tâm
lý học đã khẳng định: hoạt động và giao lưu vừa là nguồn gốc củađộng lực của sự
hình thành và phát triển nhân cách.
Các thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người muốn tồn tại và phát triển phải
hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người)
được tổ chức một cách khoa học với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến,
10
| 1/57

Preview text:

GIÁO DỤC HỌC
Câu 1. Các khái niệm cơ bản của Giáo dục học Bài làm
1. Các khái niệm cơ bản của giáo dục học:
Giáo dục (theo nghĩa rộng):
Là quá trình hình thành nhân các được tổ chức một cách có mục đích , có kế hoạch,
có nội dung , căn cứ vào những điều kiện do xã hội quy định được thực hiện thông
qua sự phối hợp gx nhà giáo dục với người đc giáo dục nhằm giúp ng được giáo dục
chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. 
Giáo dục (theo nghĩa hẹp):
Giáo dục theo nghĩa hẹp là quá trình hình thành cho người được giáo dục lí tưởng,
động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói
quen cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lưu 
Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm giúp cho
người học lĩnh hội những tri thức khoa học, kĩ năng hoạt động nhận thức và thực tiễn,
phát triển các năng lực hoạt động sáng tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và
các phẩm chất nhân cách của người học theo mục đích giáo dục.
2. Phân biệt các khái niệm trên
Các khái niệm trên gắn với các quá trình giáo dục (theo nghĩa rộng), quá trình giáo
dục (theo nghĩa hẹp) và quy trình dạy học được phân biệt ở sự khác nhau về việc thực hiện
chức năng trội cuả của chúng: 
Chức năng trội của GD (theo nghĩa rộng): phát triển nhân cách toàn diện ở người học
sinh bao gồm cả năng lực và phẩm chất. 
Chức năng trội của GD (theo nghĩa hẹp): phát triển về mặt phẩm chất ở người học sinh. 
Chức năng trội của DH: phát triển về mặt năng lực ở người học sinh
Câu 2. Chức năng xã hội của giáo dục
1. Khái niệm Giáo dục:

Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục và đổi
tượng người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
2. Các chức năng xã hội của giáo dục:
Chức năng kinh tế − sản xuất; chức năng chính trị − xã hội và chức năng tư tưởng − văn hóa.
a) Chức năng kinh tế − sản xuất.
Giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao
hơn, thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát
triển những năng lực chung và năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một
năng suất lao động cao hơn, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. 
Giúp có nguồn nhân lực có trình độ học vấn cao, có tay nghề vững vàng, năng động, 1
sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những yêu cầu , đ òi hỏi của xã hội phát
triển. Dạy học theo tiếp cận năng lực là một trong giải pháp quan trọng để phát triển
năng lực hành động cho người học trong các nhà trường, đáp ứng được yêu cầu của
thị trường lao động hiện nay.
Kết luận sư phạm:
Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội . 
Tiếp tục thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 
Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nhằm phát triển năng lực hành
động cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
b) Chức năng chính trị − xã hội
Giáo dục tác động đến các bộ phận, các thành phần xã hội (các giai cấp, các tầng lớp,
các nhóm xã hội...) làm thay đổi tính chất mối quan hệ giữa các bộ phận, thành phần
đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho toàn thể xã hội. 
Giáo dục trở thành phương tiện, công cụ để khai sáng nhận thức, bồi dưỡng tình cảm,
củng cố niềm tin, kích thích hành động của tất cả các lực lượng xã hội, nhằm duy trì,
củng cố thể chế chính trị - xã hội cho một quốc gia nào đó. 
Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên thuần nhất, làm
cho các giai cấp, các tầng lớp, các thành phần xã hội ngày càng xích lại gần nhau. 
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước, đại diện cho quyền lực của
dân, do dân, vì dân” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và của toàn dân, Giáo dục phục
vụ cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận sư phạm:
Người giáo viên luôn phải nắm vững quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng,
pháp luật của nhà nước.  Giúp
học sinh hiểu, tin tưởng và thực hiện theo đường lối , chủ trương của Đảng,
pháp luật của nhà nước.
c) Chức năng tư tưởng − văn hóa.
Xây dựng một hệ tư tưởng chỉ phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong
xã hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội. 
Thông qua giáo dục, những tư tưởng xã hội được thẩm đến từng con người, giáo dục
hình thành ở con người thế giới quan, giáo dục ý thức, hành vi phù hợp với chuẩn
mực đạo đức xã hội. Nhờ giáo dục, tất cả các giá trị văn hoá của nhân loại, của dân
tộc, của cộng đồng được bảo tồn và phát triển, trở thành hệ thống giá trị của từng con người.
Kết luận sư phạm: 
Đa dạng hóa các loại hình và phương thức đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân,
nhằm tạo cơ hội cho người dân được đi học và học suốt đời. 
Sử dụng sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong ba chức năng xã hội của giáo dục, chức năng kinh tế - sản xuất là chức năng 2
quan trọng nhất, nó là cơ sở để thực hiện chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng - văn hóa.
Câu 3: Tính chất của giáo dục. Bài làm 1. Khái niệm.
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục) và
đối tượng (người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
2. Các tính chất của giáo dục(3) :
a) Tính phổ biến, vĩnh hằng của giáo dục.
Giáo dục chỉ có ở xã hội loài người, nó là một phần không thể tách rời của đời sống
xã hội, giáo dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau. 
Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi xã hội không tồn
tại, là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội loài người. 
Như vậy, giáo dục tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người, là con đường đặc
trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
b) Tính lịch sử của giáo dục (Giáo dục chịu sự qui định của xã hội)
Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn
phát triển của lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái
kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục
tương ứng cũng biến đổi theo. 
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và đáp ứng các yêu cầu kinh tế - xã hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn
biến đổi trong quá trình phát triển của lịch sử loài người, không có một nền giáo dục
rập khuôn cho mọi hình thái kinh tế – xã hội, cho mọi giai đoạn của mỗi hình thái
kinh tế - xã hội cũng như cho mọi quốc gia, chính vì vậy giáo dục mang tính lịch sử.
Ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau về mục đí ch, nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn được hoàn
thiện dưới ảnh hưởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
c) Tính giai cấp của giáo dục.
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp. 
Giáo dục thuộc về một giai cấp xác định - giai cấp thống trị xã hội. 
Giáo dục được sử dụng như một công cụ để duy trì và củng cố vai trò thống trị của mình. 
Giáo dục cũng được sử dụng như một công cụ, phương tiện để đấu tranh giai cấp –
đối với giai cấp bị bóc lột, bị thống trị. 
Giáo dục làm phương tiện đấu tranh, lật đổ giai cấp thống trị. 
Tính giai cấp của giáo dục thường được biểu hiện qua mục đích giáo dục và nó chi 3
phối, định hướng chính trị đối với sự vận động và phát triển của giáo dục. 
Ở Việt Nam, mục đích của Nhà nước ta là hướng tới xoá bỏ áp bức bóc lột, từ đó
hướng tới sự bình đẳng, công bằng trong giáo dục. Khi chuyển sang cơ chế thị trường,
bên cạnh những mặt tích cực cơ bản vẫn có những mặt trái khó tránh được, nhà nước
ta đã cố gắng đưa ra những chính sách đảm bảo công bằng trong giáo dục như:
 Mọi công dân đều có quyền tiếp cận hệ thống giáo dục.
 Đảm bảo cho những học sinh, sinh viên có năng khiếu, tài năng tiếp tục được đào
tạo lên cao bất kể điều kiện kinh tế, hoàn cảnh, giới tính, dân tộc, tôn giáo v,v..
 Tiến hành xoá mù chữ, phổ cập giáo dục.
 Đa dạng, mềm dẻo các loại hình đào tạo, các loại hình trường lớp nhằm tạo cơ hội
học tập cho mọi tầng lớp nhân dân.
d) Bên cạnh những tính chất trên, giáo dục còn có những tính chất dưới đây:  Tính đại chúng  Tính nhân văn  Tính dân tộc  Tính thời đại
Câu 4. Giáo dục đối với sự phát triển nhân cách. Bài làm
1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục) và
đối tượng người được giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã hội.
2. Khái niệm sự phát triển cá nhân
(Phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người, khẳng định
trình độ phát triển nhân cách của chính cá nhân. Sự phát triển nhân cách cá nhân được biểu
hiện qua những dấu hiệu sau:) a. Kháiniệmnhâncách:
+ Nhân cách là một trình thể của nhiều thuộc tính, đặc điểm bền vững của con người.
+ Những đặc điểm thuộc tính ấy mang tính độc đáo riêng ở mỗi cá nhân.
+ Những thuộc tính nhân cách thể hiện trong hành vi xã hội, mang giá trị xã hội.
=> Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí cá nhân thể hiện bản
sắc và giá trị xã hội của mỗi con người.
Sự phát triển về nhân cách của con người bao gồm: 
Sự phát triển về mặt thể chất: Thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng,
cơ bắp, sự hoàn thiện chức năng các giác quan, sự phối hợp các chức năng vận động của cơ thể. 
Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá
nhân: trình độ nhận thức, khả năng tư duy, quan điểm, lập trường, thói quen, xúc cảm,
tình cảm, tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, vv... 
Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan
hệ với những người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động 4
cải biến, phát triển xã hội.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
Yếu tố bẩm sinh, di truyền
– Các yếu tố bẩm sinh di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên, là cơ sở vật chất cho sự
hình thành và phát triển nhân cách. Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc điểm hoạt
động của hệ thần kinh, cấu tạo của não, cấu tạo và hoạt động của các giác quan…
Những yếu tố này sinh ra đã có do bố mẹ truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm sinh).
– Di truyền là sự tái tạo ở đời sau những thuộc tính sinh học có ở đời trước, là sự
truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm những phẩm chất nhất định (sức
mạnh bên trong cơ thể, tồn tại dưới sạng nhưng tư chất và năng lực) đã được ghi lại
trong hệ thống gen di truyền.  Yếu tố môi trường
– Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường xã hội có tầm quan trọng
đặc biệt vì nếu không có xã hội loài người thì những tư chất có tính người cũng không
thể phát triển được. Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự
nhiên và môi trường xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của trẻ nhỏ.
– Sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong một môi
trường nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và
điều kiện cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó giúp trẻ chiếm lĩnh được các
kinh nghiệm để hình thành và phát triển nhân cách của mình.
– Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường, quan điểm, thái độ của cá nhân đối
với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào xu hướng và năng lực, vào mức độ cá
nhân tham gia cải biến môi trường. 
Yếu tố hoạt động cá nhân
-Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt động của con người là hoạt
động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác
nhất định với những công cụ nhất định. Hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định
trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Thông qua hoạt động của bản thân trẻ sẽ lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội và
biến nó thành nhân cách của mình. Hoạt động giúp kích thích hứng thú, niềm say mê
sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, những thuộc tính tâm lý mới… ở mỗi
các nhân mà nhờ đó nhân cách được hình thành và phát triển.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ phụ thuộc vào hoạt động ở mỗi thời kì,
lứa tuổi nhất đinh. Muốn hình thành và phát triển nhân cách thì cha mẹ cần phải cho
con tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau và kích thích yếu tố hoạt động cá nhân.
Ngay từ khi còn nhỏ, ở mỗi trẻ đã hình thành những nhân cách khác nhau cũng như
chịu chi phối bởi hệ thống gia đình, giáo dục, xã hội,….Trong đó gia đình được coi là
cái nôi của nhân cách, tác động vào hệ thống phát triển tinh thần và thể chất của trẻ.
Vì vậy giáo dục nhân cách cho trẻ ngay từ nhà là điều rất quan trọng và cần thiết.  Yếu tố giáo dục 5
–Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có
hiệu quả các mục đích đã đề ra. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách. Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như
bẩm sinh- di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được.
– Giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát
triển. Giáo dục có giá trị định hướng sự hình thành phát triển nhân cách. Giáo dục
thúc đẩy sức mạnh bên trong khi trẻ nắm bắt được nhu cầu, động cơ, hứng thú và nó
phù hợp với quy luật phát triển bên trong của cá nhân.
– Bên cạnh đó giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật,
nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người. Giáo dục còn có
thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.
– Tuy nhiên không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục đối với sự hình thành nhân
cách. Giáo dục không thể tách rời tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
4. Vai trò của yếu tố giáo dục
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách, bởi
vì nó được thực hiện theo định hướng thống nhất vì mục đích nhân cách lí tưởng mà xã hội đang yêu cầu. 
Ba lực lượng giáo dục là gia đình, nhà trưởng và các đoàn thể xã hội, trong đó nhà
trường có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực hiện mục đích, nội dung
giáo dục bằng các phương pháp khoa học có tác động mạnh nhất giúp cho học sinh
hình thành năng lực ngăn ngừa, đấu tranh với những ảnh hưởng tiêu cực từ môi
trường hoặc di truyền bẩm sinh.
5. Vai trò của yếu tố giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện:
Giáo dục vạch ra chiều hướng, mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách của học
sinh và tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong muốn. 
Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà
các yếu tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể tạo ra được do tác động tự phát. 
Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành phẩm chất lệch lạc
không phù hợp với yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính là kết quả quan trọng
của giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc người phạm pháp. 
Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người khuyết tật hoặc thiểu năng
do bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có
phương pháp giáo dục, rèn luyện đặc biệt củng với sự hỗ trợ của các phương tiện
khoa học có thể giúp cho người khuyết tật, thiểu năng phục hồi một phần chức năng
đã mất hoặc phát triển các chức năng khác nhằm bù trừ những chức năng bị khiếm
khuyết, giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng dông 
Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích
ứng với các yếu tố di truyền, bám sinh, môi trường, hoàn cảnh trong quá trình hình 6
thành và phát triển nhân cách mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu
tố ảnh hưởng đến quá trình đó theo một gia tốc phù hợp mã di truyền và môi trường
không thể thực hiện được.
6. Kết luận sư phạm
Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo dục đến sự hình thành và phát triển nhân cách. 
Biến quy trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục ở người học 
Tổ chức quá trình giáo dục một cách khoa học, hợp lý:
 Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý HS
 Yêu cầu giáo dục mang tính vừa sức với HS
 Tổ chức các hoạt động và giao lưu đa dạng, phong phú cho HS
 Lựa chọn nội dung giáo dục phù hợp và các phương pháp giáo dục khoa học
 Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa nhà giáo dục và người được giáo dục
 Khơi dậy khả năng tiềm ẩn, tổ chất di truyền, tính tích cực trong hoạt động cá
nhân của học sinh nhằm mang lại hiệu quả cho quá trình giáo dục Câu 5.
Đặc điểm của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp.
Bài làm
1. Khái niệm về quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục là một quá trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục,
người được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
2. Đặc điểm của quá trình giáo dục
a) Quá trình giáo dục diễn ra dưới những tác động phức hợp.
Sự phát triển nhân cách của người được giáo dục chịu ảnh hưởng của rất nhiều các
yếu tố: khách quan, chủ quan; bên trong, bên ngoài; trực tiếp, gián tiếp; có chủ định, không có chủ định. 
Quá trình giáo dục diễn ra trong suốt cuộc đời mỗi con người, do đó quá trình giáo
dục cũng luôn chịu sự tác động của rất nhiều những yếu tố đó.
+ Yếu tố khách quan là những môi trường kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ ảnh
hưởng tới quá trình giáo dục nhà trường, ảnh hưởng tới người được giáo dục.
+ Yếu tố chủ quan là những thành tố của quá trình giáo dục: mục đích, nội dung,
phương pháp, phương tiên, … ; cách tổ chức được chủ thể và khách thể của quá tình
giáo dục tác động để nó vận hành và phát triển nhằm đem lại hiệu quả giáo dục; các
yếu tố tâm lý, trình độ, điều kiện, hoàn cảnh gia đinh, … của đối tượng giáo dục; các
mối quan hệ sư phạm được tạo ra trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh với
học sinh và học sinh với giáo viên.
b) Quá trình giáo dục là một quá trình diễn ra lâu dài
Mục tiêu của quá trình giáo dục là hình thành quan điểm, thể giới quan, nhân sinh
quan, niềm tin, lý tưởng, chăm chút nhân cách của người công dân, người lao động
mà xã hội yêu cầu ở người được giáo dục. Để thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi quá trình
giáo dục phải diễn ra một thời gian dài mới đạt được kết quả và thực tiễn giáo dục đã 7
cho thấy: giáo dục diễn ra suốt cuộc đời mỗi người. Tính chất lâu dài của quá trình
giáo dục được xem xét ở các góc độ sau:
 Việc hình thành hành vi và thói quen hành vi đúng đắn ở người được GD, đòi hỏi
quá trình giáo dục phải tác động đến nhận thức, tạo lập xúc cảm, tình cảm tích
cực đối với hành vi đó đồng thời người được giáo dục phải trải qua một quá trình
luyện tập, trải nghiệm để lặp đi lặp lại hành vi đó trở thành thói quen bền vững
gắn với nhu cầu của họ. Vì vậy quá trình giáo dục đòi hỏi trong một thời gian dài,
liên tục mới có được kết quả.
 Trong quá trình hình thành quan điểm, thải độ, niềm tin, thói quen hành vi mới
phù hợp với các CMXH quy định ở người được giáo dục, bản thân người được
giáo dục cũng luôn phải diễn ra cuộc đấu tranh động cơ giữa cái cũ và cái mới
cần phải hinh thảnh quan điểm, niềm tin, giá trị, hành vi, thói quen hành vi mới).
Thông thường, những cái cũ, lạc hậu thường tồn tại dai dẳng khó thay đổi, đặc
biệt là những thói quen hành vi xấu đã được tạo lập ở mỗi người. Nếu người được
giáo dục không quyết tâm thay đổi thì cái cũ lại nhanh chóng quay trở lại và cái
mới khó được hình thành.
Vì vậy, quá trình giáo dục muốn đạt được mục tiêu, hiệu quả giáo dục đòi hỏi nhà
giáo dục không được nôn nóng, vội vàng đốt cháy giai đoạn mà cần phải kiên trì, bền bỉ, liên
tục tác động cùng với sự tự giác, nỗ lực quyết tâm tự rèn luyện của người được giáo dục.
c) Quá trình giáo dục mang tính cá biệt, cụ thể
Quá trình giáo dục được thực hiện trong cuộc sống, hoạt động và giao lưu của mỗi cá
nhân con người. Người được giáo dục có sự khác nhau về tuổi tác, trình độ, tính cách,
điều kiện hoàn cảnh... Vì vậy, trong những điều kiện môi trường giáo dục xác định,
với những đối tượng giáo dục cụ thể...Quá trình giáo dục luôn có những tác động phù hợp. 
Tính cá biệt, cụ thể của quá trình giáo dục được thể hiện như sau:
 Quá trình giáo dục phải tính đến đặc điểm của từng nhóm đối tượng, từng đối
tượng giáo dục cụ thể: đặc điểm tâm sinh lý, trình độ được giáo dục, kinh nghiệm
sống, thải độ, hành vi, thói quen, điều kiện hoàn cảnh sống,...khi thực hiện tổ
chức các hoạt động giáo dục và đưa ra những quyết định của nhà giáo dục.
 Quá trình giáo dục diễn ra trong thời gian, thời điểm, không gian với những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể. Do đó quá trình giáo dục phải trên cơ sở những điều kiện
cụ thể của tình huống giáo dục để có những yêu cầu và tác động phù hợp đối với người được giáo dục.
 Quá trình giáo dục phải đặc biệt chú ý luyện tập và rèn luyện các thao tác, kĩ năng
hành động ở người được giáo dục thể hiện theo các yêu cầu, nội dung, chuẩn mực
xã hội về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong đời sống của cá nhân nhưng vẫn thể
hiện nét tính cách độc đáo riêng của mỗi con người.
 Bên cạnh những tác động chung, đòi hỏi nhà giáo dục cần phải có những tác động
riêng phù hợp với từng đối tượng giáo dục trong từng bối cảnh cụ thể. Tuyệt đối
tránh các cách giáo dục rập khuôn máy móc, hình thức bởi, với cách giáo dục đó
sẽ mang lại thất bại, tác động phản giáo dục.
 Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể của một quá trình giáo dục cho từng đối 8
tượng, từng nhóm đối tượng giáo dục cụ thể, đối với từng mặt, từng yêu cầu cụ
thể...., trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
d) Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Qúa trình dạy học và quá trình giáo dục là hai quá trình bộ phận của quá trình sư
phạm tổng thể có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất của hai
quá trình này là cùng hướng tới phát triển nhân cách toàn diện cho người học đáp ứng
các yêu cầu của xã hội. Tuy nhiên, mỗi quá trình có chức năng, nhiệm vụ riêng nên
giữa chúng có sự tác động qua lại, hỗ trợ, đan xen bổ sung cho nhau cũng đem lại sự
phát triển nhân cách của người học. 
Nhiệm vụ của quá trình dạy học không những chi hình thành cho người học tri trứe,
kỳ năng kỹ xảo, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ mà còn hình thành phẩm chất
nhân cách của người công dân, người lao động. Hay ta thường nói: thông qua “dạy
chữ” để “dạy người”. 
Ngược lại: nhờ có quá trình giáo dục mà người được giáo dục xây dựng được thế giới
quan khoa học, động cơ thái độ học tập đúng đắn, thói quen hành vi tích cực... Chính
kết quả giáo dục này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động học tập của người học nói
riêng, hoạt động dạy học nói chung vận động phát triển. 
Mục đích cuối cùng của giáo dục là phát triển con người có đủ tài và đức để đáp ứng
các yêu cầu của xã hội, đủ sức cạnh tranh và phát triển. Vì vậy trong công tác giáo
dục nói chung, giáo dục ở nhà trường nói riêng tránh tách rời hai quá trình giáo dục và quá trình dạy học.
Bản chất của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp
2. Cơ sở xác định bản chất của quá trình giáo dục
a) Quy trình giáo dục là quá trình hình thành một kiểu nhân cách trong xã hội
Nhân cách của mỗi người được thể hiện không chỉ thông qua lời nói mà quan trọng là
ở hành vi và thói quen hành vi ở họ trong cuộc sống. Vì vậy, mục đích của quá trình
giáo dục là hình thành ở người được giáo dục hành vi và thói quen hành vi phù hợp
với các chuẩn mực xã hội (CMXH) quy định. 
Sự phát triển nhân cách con người là kết quả của quá trình hoạt động và giao lưu của
con người trong xã hội. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội” (Mác). 
Vì vậy để hình thành nhân cách con người có hành vi, thói quen hành vi phù hợp với
các CMXH quy định đòi hỏi quá trình giáo dục phải tổ chức cuộc sống, tổ chức hoạt
động và các quan hệ giao lưu của người được giáo dục , nhằm thu hút sự tham gia của
họ vào quá trình giáo dục trên cơ đó đạt được mục tiêu giáo dục đặt ra,
b) Mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục trong quá trình giáo dục
Trong quá trình giáo dục, mối quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục (cá
nhân hoặc tập thể) là quan hệ sư phạm, một loại quan hệ xã hội đặc thù. Quan hệ sư
phạm này luôn luôn chịu sự chi phối của các quan hệ chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã
hội, kinh tế, khoa học - kĩ thuật ..., đặc biệt là quan hệ chính trị xã hội. 
Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ thuộc vào mối quan hệ thống nhất biện chứng 9
giữa vai trò chủ đạo của nhà giáo dục và vai trò tự giác, tích cực tự giáo dục của
người được giáo dục. Xét cho cùng, sự nỗ lực của nhà giáo dục và người được giáo
dục trong quá trình giáo dục là nhằm giúp người được giáo dục chuyển hóa những
yêu cầu của CMXH quy định thành hành vi, thói quen hành vi tương ứng ở họ trên cơ
sở đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục. 
Vì vậy, quá trình giáo dục chỉ đem lại hiệu quả khi quá trình giáo dục phát huy được
vai trò tự giác, tích cực tự giáo dục của người được giáo dục tham gia vào quá trình
giáo dục. Trên cơ sở đó thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục
3. Bản chất của quá trình giáo dục
a) Quá trình giáo dục - quá trình xã hội nhằm giúp đối tượng giáo dục biến các yêu
cầu khách quan thành vêu cầu chủ quan của cá nhân.
Quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển cá nhân con người trở thành những
thành viên xã hội. Những thành viên này phải thỏa mãn được hai mặt: vừa phù hợp
(thích ứng) với các yêu cầu xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa có khả năng tác
động cải tạo, xây dựng xã hội làm cho nó tốn tại và phát triển. Những nét bản chất của
cá nhân con người chính là do các mối quan hệ xã hội hợp thành. Quá trình giáo dục
là quá trình làm cho đối tượng giáo dục ý thức được các quan hệ xã hội và các giá trị
của nó, biết vận dụng vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, văn hóa - xã hội,
đạo đức, tôn giáo, pháp luật, gia đình, ứng xử ... nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân
và yêu cầu của xã hội. 
Khi đứa trẻ mới sinh ra, ý thức, nhân cách của nó chưa được hình thành. Các chuẩn
mực, các quy tắc ... của xã hội vốn tồn tại khách quan bên ngoài, độc lập với đứa trẻ.
Quá trình trẻ lớn lên trong môi trường văn minh của xã hội loài người, thẩm thấu
những giá trị văn hóa của loài người để tạo ra nhân cách của chính mình - quá trình xã
hội hóa con người. Đó là quá trình giúp trẻ biến những yêu cầu khách quan của xã hội
thánh ý thức, thảnh niềm tin và thái độ, thành những thuộc tinh, những phẩm chất
nhân cách của cá nhân. Bên cạnh đó, quá trình này cũng giúp đối tượng biết loại bỏ
khỏi bản thân những quan niệm, những biểu hiện tiêu cực, tàn dư cũ, lạc hậu không
còn phù hợp với xã hội hiện đại.
b) Quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho đối
tượng giáo dục
Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất ngưởi – bản chất xã hội trong mỗi
cá nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các kinh nghiệm xã hội. 
Triết học Mác - xít đã khẳng định: Bản chất xã hội của con người chỉ có được khi nó
tham gia vào đời sống xã hội đích thực thông qua hoạt động vi giao lưu ở một môi
trường văn hóa (văn hóa vật chất và tinh thần). 
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống của con người và
cũng là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Tâm
lý học đã khẳng định: hoạt động và giao lưu vừa là nguồn gốc của là động lực của sự
hình thành và phát triển nhân cách. 
Các thuyết về hoạt động đã chứng tỏ là con người muốn tồn tại và phát triển phải có
hoạt động và giao lưu. Nếu các hoạt động và giao lưu của cá nhân (hoặc nhóm người)
được tổ chức một cách khoa học với các điều kiện, phương tiện hoạt động tiên tiến, 10