Trọn bộ Câu hỏi thảo luận tuần III chủ nghĩa Mac-lênin | Học viện Phụ Nữ Việt Nam
Trọn bộ Câu hỏi thảo luận tuần III chủ nghĩa Mac-lênin | Học viện Phụ Nữ Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác-Lênin (DHCT13)
Trường: Học viện Phụ nữ Việt Nam
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 1: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý thức?
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt là “óc người”, ý thức là hình
thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Con người là sản phẩm của quá trình
tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, từ vô cơ đến hữu cơ, từ đơn bào đến đa bào,
từ động vật bậc thấp đến động vật bậc cao. Óc người là sản phẩm phát triển cao
nhất của vật chất có cấu tạo rất tinh vi, là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý
thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lý thần kinh của bộ não.
Ý thức là thuộc tính của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những
đặc điểm của hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
Thuộc tính phản ánh gắn với sự tiến hóa của hệ thống vật chất từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển của các hình thức phản ánh từ thấp đến cao
tương ứng với trình độ kết cấu của thế giới vật chất, phản ánh ý thức của con người
là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Như vậy, não người và sự tác
động của thế giới vật chất xung quanh lên bộ não là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Về nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức.
Thông qua lao động đã cải biến thế giới tự nhiên, sáng tạo ra con người và xã hội;
cùng với quá trình đó, các giác quan của con người ngày càng phát triển, hoàn
thiện và khả năng phản ánh của ý thức sẽ ngày càng cao. Thông qua lao động, con
người chế tạo ra công cụ lao động, nối dài các giác quan. Công cụ lao động càng
phát triển, càng làm tăng khả năng của con người tác động vào tự nhiên, xã hội và
chính bản thân mình, buộc thế giới khách quan bộc lộ các thuộc tính để con người
nhận thức, cải tạo thỏa mãn nhu cầu.
Trong quá trình lao động, con người có nhu cầu trao đổi kinh nghiệm với nhau, từ
đó ngôn ngữ ra đời và phát triển. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “cái vỏ
vật chất” của tư duy, là công cụ của tư duy để con người phản ánh, khái quát hóa,
trừu tượng hóa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Ngôn ngữ là
phương tiện để lưu truyền tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác, giúp loài người
và mỗi người nhanh chóng hình thành, phát triển ý thức.
Lao động cùng ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội hình thành ý thức, có mối quan hệ
chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau, là cơ sở, tiền đề cho nhau tồn tại, phát
triển, luôn giữ vai trò quyết định đối với sự ra đời phát triển của ý thức.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở để phê phán các quan điểm
duy tâm, tôn giáo, siêu hình về nguồn gốc của ý thức. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm, ý thức ra đời từ một lực lượng siêu tự nhiên, hoặc do cảm giác của
con người sinh ra. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình tuy bác bỏ tính chất
thần bí của ý thức, nhưng lại đồng nhất ý thức với vật chất. Theo quan niệm của họ
óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật.
Trong bồi dưỡng, phát triển ý thức con người phải trên quan điểm toàn diện, phải
quan tâm đúng mức đến nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội, tránh tuyệt đối
hóa, hoặc tách rời các nguồn gốc với nhau, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguồn gốc nào.
Câu 2: Phân tích nội dung, ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin?
Định nghĩa vật chất của Lênin được diễn đạt như sau:
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh,
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
I. Nội dung định nghĩa vật chất nêu trên gồm những khía cạnh cơ bản sau:
1. Vật chất là một phạm trù triết học.
“Vật chất” ở đây không thể hiểu theo nghĩa hẹp như là vật chất trong lĩnh vực vật
lý, hóa học, sinh học (nhôm, đồng, H2O, máu, nhiệt lượng, từ trường…) hay ngành
khoa học thông thường khác… Cũng không thể hiểu như vật chất trong cuộc sống
hàng ngày (tiền bạc, cơm ăn áo mặc, ô tô, xe máy…).
“Vật chất” trong định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học, tức là phạm trù
rộng nhất, khái quát nhất, rộng đến cùng cực, không thể có gì khác rộng hơn.
Đến nay, nhận thức luận (tức lý luận về nhận thức của con người) vẫn chưa hình
dung được cái gì rộng hơn phạm trù vật chất. Ta không thể “nhét” vật chất này
trong một khoảng không gian nhất định, vì không có gì rộng hơn nó.
2. Vật chất là thực tại khách quan.
Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ
thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật
chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Dù con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn hay
không, thì vật chất luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.
3. Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác.
Vật chất, tức là thực tại khách quan, là cái có trước cảm giác (nói rộng ra là ý
thức). Như thế, vật chất “sinh ra trước”, là tính thứ nhất. Cảm giác (ý thức) “sinh ra sau” là tính thứ hai.
Do tính trước – sau như vậy, vật chất không lệ thuộc vào ý thức, nhưng ý thức lệ thuộc vào vật chất.
Trước khi loài người xuất hiện trên trái đất, vật chất đã tồn tại nhưng chưa có ý
thức vì chưa có con người. Đây ví dụ cho thấy vật chất tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào ý thức.
Có ý thức của con người trước hết là do có vật chất tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp lên giác quan (mắt, mũi, tai, lưỡi…) của con người. Đây là ví dụ cho thấy ý
thức lệ thuộc vào vật chất. Như thế, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
4. Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh.
Vật chất là một phạm trù triết học, tuy rộng đến cùng cực nhưng được biểu hiện
qua các dạng cụ thể (sắt, nhôm, ánh sáng mặt trời, khí lạnh, cái bàn, quả táo…) mà
các giác quan của con người (tai, mắt, mũi…) có thể cảm nhận được.
Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép lại, chụp lại,
phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức được vật chất. Sự chép lại, chụp
lại, phản ánh của giác quan đối với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của
con người về vật chất càng sâu sắc, toàn diện.
Nói rộng ra, tư duy, ý thức, tư tưởng, tình cảm… của con người chẳng qua chỉ là sự
phản ánh, là hình ảnh của vật chất trong bộ óc con người.
II. Định nghĩa vật chất của Lênin có nhiều ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận to lớn:
1. Bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất.
Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong thế giới
hiện thực, vật chất có trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất, là nguồn
gốc khách quan của cảm giác (ý thức).
Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật chất
chỉ là phức hợp của những cảm giác (Platon), hoặc vật chất là sự tha hóa của “ý
niệm tuyệt đối” (Heghen).
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học:
Vật chất có trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước.
2. Phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất.
Thuyết không thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới
khách quan, những tri thức mà con người biết được về thế giới khách quan chỉ là
hư ảo, giả dối, không có thật.
Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh… Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác nhau, con
người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận điểm này đã phủ nhận thuyết không thể biết.
Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học:
Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin khẳng định là có.
Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm sức mạnh, ý chí,
nghị lực để chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị phục vụ cuộc sống của
con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào thế bị động,
bỏ mặc số phận mình cho một thế lực siêu nhiên nào đó.
3. Khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất.
Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng cụ thể
cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất, lại
có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất.
Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất
kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được hay chưa, đã biết về nó hay chưa.
Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục những
quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là các dạng cụ
thể như cái bàn, cái ghế, ánh sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa, không khí…; đồng
nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học.
4. Định hướng các khoa học cụ thể trong việc tìm kiến các dạng hoặc hình thức mới của vật thể.
Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến mất,
luôn luôn vận động, định nghĩa vật chất của Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học (nhà
vật lý học, nhà hóa học, nhà sinh học…) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật
chất để tìm ra những kết cấu mới, những dạng thức thuộc tính, quy luật vận động
mới của vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại.
Ví dụ tiêu biểu là tháng 9/1995, tại Trung tâm Nghiên cứu hạt nhân châu Âu
(CERN), theo lý thuyết về phản hạt, các nhà khoa học đã tiến hành thực nghiệm
tạo ra được 9 phản nguyên tử, tức là 9 phản vật thể đầu tiên.
5. Cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội.
Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất của
Lênin đã giúp chúng ta xác định được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đây
là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa đạt tới.
Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở ở các hoạt động thực tiễn của
con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con người và phát triển xã hội.
Định nghĩa vật chất của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích
những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về
sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể tìm ra các
phương tán tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.