



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Đề tài: Họ và tên
: Trần Hằng Mai Mã sinh viên : 11224083 Chuyên ngành
: Quản lý đất đai 64 Lớp học phần : 18
Giảng viên hướng dẫn : TS Hà Nội, 2022 lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................................3
CHƯƠNG I......................................................................................................................3
QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ Ý THỨC................................3
1.1 - Khái niệm về ý thức...............................................................................................3
1.2 - Nguồn gốc của ý thức............................................................................................5
1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên..........................................................................................5
1.2.2. Nguồn gốc xã hội............................................................................................7
1.3 - Bản chất của ý thức...............................................................................................9
1.3.1. Tính năng động, sáng tạo.................................................................................9
1.3.2. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan...................................10
1.3.3. Ý thức là hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội...................................10
1.4 - Kết cấu của ý thức...............................................................................................11
1.4.1. Theo các yếu tố hợp thành..............................................................................11
1.4.2. Theo chiều sâu nội tâm...................................................................................12
1.5 - Vai trò của ý thức đối với vật chất.......................................................................14
CHƯƠNG II...................................................................................................................16
SỰ VẬN DỤNG Ý THỨC CỦA SINH VIÊN CAO THANH TRANG....................16
2.1 - Định hướng vận dụng ý thức cho bản thân.........................................................16
2.2 - Thực trạng vận dụng ý thức cho bản thân...........................................................19
LỜI KẾT THÚC...............................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................23 LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có sự thay đổi và đạt được nhiều
thành tựu to lớn. Để đạt những thành tựu ấy chúng ta không thể quên được bước ngoặt
lịch sử trong cơ chế chuyển đổi nền kinh tế đất nước, mà cột mốc của nó là Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI (1986) đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế Nhà nước. Đối với nước ta, đi Page | 1 lOMoAR cPSD| 44985297
lên từ một nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt
đến trình độ của nước phát triển thị tất yếu cần phải đổi mới. Đây là một để không mới
nhưng nó đề cập đến những vấn đề cấp thiết của nước ta hiện nay, đụng chạm trực tiếp
đến cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nước ta. Nó giúp chúng ta rất nhiều trong
việc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. (Tiểu luận: Học thuyết về
hình thái kinh tế – xã hội Việt Nam)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định : “Xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ vật chất kỹ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý , quan hệ sản
xuất tiến bộ , phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống
vật chất và tinh thần cao , quốc phòng an ninh vững chắc , dân giàu , nước mạnh , xã hội
công bằng văn minh”. Mục tiêu đó là sự cụ thể hoá học thuyết Mác về hình thái kinh tế –
xã hội và hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam . Nó cũng là mục tiêu của sự nghiệp cong
nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta .
Chính vì vậy mà em chọn đề tài “Học thuyết về hình thái kinh tế – xã hôi và vấn đề quá
độ lên CNXH ở Việt Nam ” . Đây là một đề tài hay, có nội dung phức tạp và rộng. Trong
quá trình hoàn thiện bài tập lớn, bản thân em đã cố gắng tìm hiểu, khai thác đa dạng các
đầu tài liệu, song do kinh nghiệm và kiến thức của mình vẫn còn hạn chế nên không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong thầy giáo bộ môn Triết học - thầy Lê Ngọc
Thông và toàn thể các bạn có thể đưa ra những góp ý, nhận xét bổ sung để em có thể rút
kinh nghiệm và hoàn thiện kiến thức của bản thân mình hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I.
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1 – Khái quát chung về học thuyết hình thái – xã hội
Để có thể đưa ra một khái niệm chính xác nhất về một vấn đề hết sức phức tạp - ý
thức, loài người đã trải qua vô vàn những khoảng thời gian thăng trầm, cùng với sự nỗ lực
không ngừng đến từ các nhà triết học nổi tiếng của từng thời kì khác nhau, đi từ những tư Page | 2 lOMoAR cPSD| 44985297
tưởng mộc mạc cho đến những quan niệm dựa trên những nghiên cứu khoa học có cơ sở đúng đắn, rõ ràng.
Trong thời kì cổ đại, do sống trong môi trường thô sơ, lạc hậu, khoa học chưa phát
triển, con người không được tiếp cận với các phương tiện đưa tin, các nguồn kiến thức
chính thống, nhìn chung, sự hiểu biết của họ đối với cuộc sống xung quanh hay thậm chí
với chính bản thân mình vô cùng hạn hẹp. Con người không lí giải được các hiện tượng
thuộc về ý thức, tinh thần như trí nhớ của họ, những hình ảnh xuất hiện trong giấc mơ, trí
tưởng tượng, v.v. Chính vì lẽ đó, thời điểm ấy con người quan niệm rằng ý thức được tạo
thành từ thực thể “linh hồn”. Linh hồn tồn tại trong cơ thể con người, điều khiển mọi hành
vi, suy nghĩ của con người và tạo ra ý thức của họ.
Các nhà triết học duy tâm quan niệm “linh hồn” là thực thể tinh thần. Thực thể này
chính là nguyên nhân sinh ra vật chất, tồn tại độc lập và khác biệt hoàn toàn so với vật chất.
Theo quan điểm của nhà triết học người Athen - Platon, ý thức là linh hồn, chúng tồn tại
vĩnh viễn trong thế giới ý niệm và trú ngụ bên trong thân xác loài người để làm họ có thể
tư duy, suy nghĩ. Khi chết đi, thực thể này thoát ra khỏi thân xác nhưng vẫn tiếp tục hành
trình sống trong thế giới ý niệm.
Các nhà duy vật cổ đại thì quan niệm: ý thức có nguồn gốc từ vật chất hay chính là
một thực thể vật chất. Vị triết gia người Hy Lạp - Democritus tin rằng linh hồn được tạo
thành từ các nguyên tử hình cầu, vừa dễ kết hợp lại vừa dễ phân tán, điều này làm cho linh
hồn (ý thức) con người vô cùng nhanh nhạy, linh hoạt. Và cũng từ đây, ông phủ nhận sự
sáng tạo ra thế giới vật chất bằng ý thức; thừa nhận vật chất tồn tại khách quan, không phụ
thuộc ý thức, ý thức được giải thích từ nguyên nhân vật chất, thậm chí ông còn đồng nhất
ý thức và vật chất. Democritus thừa nhận ý thức có tính năng động, nhưng tính năng động
ấy cũng từ nhân tố vật chất mà ra.
Với sự phát triển vượt bậc và những thành tựu rực rỡ của nền khoa học thế giới thế
kỷ XVII - XVIII, con người đã nghiên cứu thành công chính bản thân của mình, họ đã có
một vốn hiểu biết nhất định về cấu tạo của cơ thể người, đặc biệt là cách thức hoạt động
của hệ thần kinh, các hiện tượng tâm sinh lý, v.v. từ đó đã đưa ra những lí luận sâu sắc hơn về ý thức. Page | 3 lOMoAR cPSD| 44985297
Chủ nghĩa duy tâm ở thời kì này quan niệm ý thức tự nó tồn tại, không phụ thuộc
vào vật chất và sự tồn tại của vật chất là do ý thức quyết định. Theo Berkeley - nhà triết
học chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng: Ý thức là cái tôi của chủ thể, cái vốn có của mỗi
người và không phụ thuộc vào bản chất. Khi các cảm giác của cá nhân con người kết hợp
lại, đó chính là sự lí giải về sự tồn tại của các vật.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác lại cho rằng ý thức là sản phẩm của vật chất, không
phải là một thực thể phi vật chất tồn tại độc lập với vật chất. Tuy nhiên, do bị quan điểm
siêu hình về thế giới chi phối cũng như sự hiểu biết hạn chế về thế giới xung quanh, nên
chủ nghĩa duy vật ở thời kì này cũng chưa thể đưa ra một khái niệm hợp lí về ý thức. Có
nhà duy vật quan niệm ý thức là một dạng của vật chất, ý thức ở sẵn trong bộ óc, chính là
sản phẩm của bộ óc người và chính bộ óc ấy tạo ra ý thức. Có người lại nói ý thức con
người cũng giống như phản xạ của động vật, không có tính năng động, tích cực.
Từ những quan điểm trên, ta thấy: triết học trước Mác xuất hiện nhiều ý kiến khác
nhau về ý thức, mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, và có nhiều yếu tố khá đúng đắn. Tuy
nhiên, hầu hết vẫn còn những điểm hạn chế: chưa nhận thức được thực chất mối quan hệ
biện chứng giữa ý thức và thế giới xung quanh, chưa nhận thấy tính năng động, sáng tạo,
chủ động, tích cực của sự phản ánh ý thức, chưa thấy được bản chất xã hội của ý thức, vai
trò của yếu tố xã hội trong sự hình thành ý thức. Những hạn chế này đã được lý luận của
triết học Mác - Lênin về ý thức, về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất khắc phục và hoàn thiện.
Triết học Mác - Lênin quan niệm “Ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới khách
quan vào bộ não con người thông qua lao động ngôn ngữ”. Ý thức con người có hình thức
rất phức tạp, tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau như cảm xúc, trí nhớ, ước mơ, niềm tin,
v.v. Tất cả những trạng thái nêu trên diễn ra trong đầu óc con người đều gọi là ý thức.
Nhưng những hiện tượng về ý thức ấy xuất phát từ đâu mà có, bản chất của chúng là gì?
Mối quan hệ giữa ý thức và vật chất như thế nào? Để có thể cho người đọc hiểu rõ hơn về
vấn đề này, triết học Mác - lênin đã nêu lên nguồn gốc, bản chất và mối quan hệ của ý thức
đối với vật chất dưới đây. Page | 4 lOMoAR cPSD| 44985297
1.2 - Nguồn gốc của ý thức
1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên
Chủ nghĩa duy tâm khẳng định, ý thức là thứ có trước, vật chất là thứ có sau, ý thức
tạo ra vật chất và quy định tới sự tồn tại và vận động của vật chất. Bên cạnh đó cũng đã
xuất hiện các khái niệm khác nhau về ý thức của học thuyết triết học duy tâm khách quan
và triết học duy tâm chủ quan, nhưng về cơ bản chúng đều mang tính tương đồng ở chỗ:
đều tách rời ý thức khỏi vật chất và ý thức sản sinh ra thế giới tự nhiên.
Các nhà duy vật trước Mác đã chống lại quan điểm sai lầm trên của chủ nghĩa duy
tâm, họ tuyệt đối phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, đồng thời chỉ ra được mối
liên hệ bền vững, gắn bó mật thiết giữa ý thức và vật chất, thừa nhận vật chất có trước ý
thức và ý thức phụ thuộc vào vật chất. Nhưng họ đã không thể định nghĩa được chính xác
nguồn gốc và bản chất của ý thức do sự ảnh hưởng của quan điểm siêu hình cũng như khoa
học chưa phát triển mạnh mẽ.
Cho đến sau này, khi khoa học tự nhiên đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể,
đặc biệt là sinh lí học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức chính là một
thuộc tính của vật chất. Tuy nhiên, ý thức không phải là mọi dạng của vật chất, mà chỉ là
thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, đó chính là bộ não của con người. Bộ
não là cơ quan vật chất của ý thức, ý thức là chức năng của bộ não con người. Bộ não càng
được trau dồi hoàn thiện, các hoạt động sinh lý học thần kinh của bộ não hoạt động càng
năng suất, hiệu quả, từ đó ý thức con người trở nên phong phú và sâu sắc hơn. Đó cũng
chính là sự lí giải cho câu hỏi tại sao quá trình tiến hoá của con người cũng là quá trình phát
triển năng lực tư duy, nhận thức và tại sao khi bộ não người bị tổn thương, đời sống sinh
hoạt của con người sẽ bị ảnh hưởng, ví dụ như mất khả năng suy đoán, mất trí nhớ, v.v.
Chính vì lẽ đó, chúng ta không thể chia cắt được ý thức khỏi hoạt động của bộ não, bởi vì
ý thức không thể diễn ra và bị tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người.
Tuy nhiên, những nội dung ý thức không hề có sẵn trong bộ não người. Để hình
thành nội dung ý thức, cần phải có đối tượng vật chất tác động vào giác quan của loài người,
tạo nên những thông tin về các đối tượng vật chất trong hiện thực khách quan và lưu trữ
trong não. Như Marx đã nói, ý thức là một thực tại khách quan di chuyển trong não người
và được biến đổi trong đó. Điều này có nghĩa rằng kể cả khi bộ não người tồn tại mà không Page | 5 lOMoAR cPSD| 44985297
có thế giới khách quan tác động vào thì chúng ta cũng không thể có ý thức, bởi mối liên hệ
giữa con người và thế giới khách quan là mối liên hệ tất yếu ngay từ lúc con người xuất
hiện. Ở mối liên hệ này đã hình thành quá trình phản ánh của thế giới khách quan thông
qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ não người và tạo thành ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất, là năng lực tái tạo, ghi chép lại những
đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình chúng tác động
qua lại lẫn nhau. Khi thế giới vật chất phát triển: từ thế giới vô cơ, chưa tồn tại sự sống, đến
khi tiến hoá, xuất hiện những động vật, sinh vật cấp cao và cao nhất là con người, mà phản
ánh xuất hiện nhiều hình thức khác nhau tương ứng với từng thời kì phát triển của thế giới:
phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo.
Hình thức phản ánh đơn giản nhất chính là phản ánh vật lý, hoá học, đặc trưng cho
dạng vật chất vô sinh. Khi các dạng vật chất này tác động qua lại lẫn nhau sẽ xuất hiện
những biến đổi về cơ, lý, hoá. Những hình thức này có tính thụ động, chưa có định hướng
chọn lọc của vật nhận tác động.
Giới hữu sinh tồn tại hình thức cao hơn giới vô sinh, đó chính là hình thức phản ánh
sinh học. Căn cứ vào quá trình phát triển từ thấp tới cao, từ đơn giản tới phức tạp của giới
tự nhiên hữu sinh mà phản ánh sinh vật xuất hiện những trình độ khác nhau tương ứng.
Tính kýnh thích là hình thức phản ứng của các động vật và thực vật ở bậc thấp, chưa có hệ
thần kinh, khi có sự tác động của môi trường sống sẽ làm thay đổi các tính chất của chúng
như sự sinh trưởng, phát triển, màu sắc, v.v. Tính cảm ứng hay năng lực cảm giác là hình
thức phản ứng đặc trưng của động vật đã có hệ thần kinh nhưng chưa hoàn thiện, khi có sự
tác động từ bên ngoài môi trường sẽ điều khiển hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện.
Phản ánh tâm lý là hình thức phản ánh từ động vật đã sở hữu hệ thần kinh trung
ương. Đây là hình thức phản ánh cao nhất trong giới động vật, được thực hiện dựa trên sư
điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện. Loại phản ánh này cung cấp
cho động vật những thông tin về thuộc tính cũng như các mối quan hệ của các sự vật bên
ngoài và những suy nghĩ của chúng về đời sống con vật. Điều này giúp chúng có thể lường
trước mọi tình huống có khả năng xuất hiện và đưa ra được những hành động phù hợp để đối phó. Page | 6 lOMoAR cPSD| 44985297
Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất của sự phản ánh. Hình
thức này chỉ có ở dạng vật chất có tổ chức và sự phát triển cao nhất, đó chính là bộ não con
người bởi cấu trúc phức tạp, tinh vi của nó. Khi các giác quan của loài người bị thế giới
khách quan tác động, phản ánh sẽ được thực hiện thông qua quá trình hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não người. Sự phản ánh này có mục đích, có tính chủ động chọn lọc và
xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, tìm ra ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh này chính là ý thức.
1.2.2. Nguồn gốc xã hội
Nếu chỉ có một bộ não hoàn thiện và sự tác động của hiện thực khách quan vào bộ
não thì chưa thể hình thành nên được ý thức. Bởi muốn ý thức được hình thành thì ngoài
các yếu tố tự nhiên đã kể trên còn cần có các yếu tố xã hội. Vì sao lại có thể khẳng định
được điều ấy? Dễ hiểu khi trong thế giới tự nhiên tồn tại các loài động vật bậc cao như khỉ,
vượn, v.v. Chúng có đầy đủ các yếu tố tự nhiên tương tự loài người: có bộ não phát triển,
cũng sinh sống trong môi trường giống như người, tuy nhiên lại không thể hình thành nên
ý thức. Lý do bởi chúng không có khả năng tạo ra những điều kiện mới trong môi trường
sống giống như con người, và đó chính là nguồn gốc xã hội để ý thức phát triển. Có nhiều
yếu tố cấu thành nên nguồn gốc xã hội của ý thức, trong đó có hai yếu tố cơ bản và trực
nhất đó chính là Lao động và Ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người tác động vào thế giới tự nhiên để tạo ra sản phẩm
có thể đáp ứng được nhu cầu sống và phát triển của bản thân. Nhờ lao động mà xã hội loài
người mới hình thành và phát triển. Sự khác biệt lớn nhất giữa động vật và con người đó
chính là trong khi động vật chỉ biết sử dụng những sản phẩm có sẵn trong thế giới tự nhiên,
có gì dùng nấy và chúng thoả mãn với những thứ đã có sẵn đó, còn con người thay vì sử
dụng những thứ có sẵn thì họ khám phá, tìm tòi để thay đổi những sản phẩm ấy phù hợp
với cá thể loài người, buộc chúng phải phục vụ nhu cầu của con người tốt hơn. Ví dụ trong
thời kỳ tiền sử, khi con người còn sinh sống theo bầy đàn, họ chỉ biết săn bắt, hái lượm và
ăn thức ăn sống. Nhưng loài người lúc bấy giờ đã nỗ chế tạo ra các dụng cụ lao động mới,
sắc nhọn hơn, giúp quá trình săn bắt trở nên dễ dàng, thuận tiện, từ đó kiếm được nhiều
thức ăn cho đồng loại. Nhưng khi thức ăn đã kiếm được đủ nhiều, điều quan trọng tiếp theo
đó chính là làm thế nào để tìm ra lửa để sinh hoạt và nấu chín thức ăn. Con người lại tiếp
tục khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh, biến những thứ có sẵn trong tự nhiên trở thành Page | 7 lOMoAR cPSD| 44985297
những thứ phục vụ cho đời sống sinh hoạt của mình, từ đó bán cầu não của loài người ngày
một phát triển, tăng khả năng nhận biết và phản ứng nhanh nhạy trước những tình huống khách quan.
Thêm nữa, khi lao động, con người đã chủ động tác động vào thế giới khách quan
để phản ánh thế giới ấy, buộc thế giới bộc lộ ra những thuộc tính, kết cấu, quy luật, v.v. tạo
ra những hiện tượng nhất định. Từ đó, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh của loài người
sẽ tăng cao, loài người sẽ phát hiện ra những đặc tính mới mẻ của các sự vật ở xung quanh
và sẽ dần hình thành nên những tri thức về tự nhiên và xã hội. Từ những sự vật ấy, con
người sẽ tiếp tục sáng tạo ra thêm nhiều sự vật mới mẻ trong cuộc sống, mang những đặc
điểm giống với sự vật trước đó, đồng nghĩa với việc một tự nhiên mới được tạo thành. Như
vậy, suy cho cùng ý thức được hình thành do hoạt động của con người khi cải tạo thế giới
khách quan và biến đổi thế giới ấy.
Có thể thấy, lao động góp một phần rất quan trọng trong việc hình thành cũng như
phát triển ý thức. Tuy nhiên, những hoạt động sản xuất đó không những giúp con người và
thế giới tự nhiên gần nhau hơn, mà còn tạo ra sợi dây liên kết giữa con người với con người,
tạo thành những mối quan hệ xã hội. Mối quan hệ xã hội tồn tại trong hầu hết các lĩnh vực
của đời sống xã hội, điển hình như lĩnh vực sản xuất vật chất, đã làm nảy sinh nhu cầu giao
tiếp, trao đổi tư tưởng giữa người với người. Từ đó dẫn đến sự ra đời của Ngôn ngữ.
Ngôn ngữ ra đời để đáp ứng nhu cầu con người có phương tiện giao tiếp với đối
phương, để trao đổi tư tưởng, vừa để con người phản ánh hiện thực khách quan. Nhờ có
ngôn ngữ, con người có thể khái quát, đúc kết thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức, kinh
nghiệm, tư tưởng tình cảm với đối phương. Từ đó, ý thức cá nhân biến thành ý thức xã hội
và ngược lại ý thức xã hội đi sâu vào và trở thành nhân tố tác động bên trong ý thức cá
nhân. Ý thức không phải là một hiện tượng cá nhân thuần tuý mà là một hiện tượng xã hội,
vì thế nếu như xã hội không có phương tiện trao đổi về mặt ngôn ngữ thì ý thức tuyệt nhiên
không thể hình thành và phát triển. Chính bởi lẽ ấy, ngôn ngữ trở thành phương tiện vật
chất không thể thiếu trong quá trình hình thành, phát triển ý thức.
Suy cho cùng, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất, quyết định đến sự ra
đời và phát triển ý thức đó chính là lao động. Nhà triết học Engels từng nói rằng: “Sau lao
động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng Page | 8 lOMoAR cPSD| 44985297
đến bộ óc của con vượn, đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con
người; khiến cho tâm lí động vật dần chuyển hoá thành ý thức.”
1.3 - Bản chất của ý thức
Theo quan điểm của Lênin, ý thức không có sẵn trong bộ não người, càng không
phải là sự phản ánh một cách thụ động, đơn giản, phản ánh một chiều thế giới khách quan
vào não người như phản ánh tâm lý của những loài động vật, mà ý thức mang bản chất là
sự phản ánh tích cực, sáng tạo, năng động và chủ động thế giới khách quan vào não loài
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan và đồng thời còn mang tính xã hội.
1.3.1. Tính năng động, sáng tạo
Ý thức có tính chất năng động, sáng tạo bởi ý thức và lao động luôn song hành
cùng nhau. Bản thân hoạt động lao động cần phải có sự sáng tạo, năng suất, làm thay đổi
và chi phối bản chất của con người. Có hai khía cạnh chính được tính năng động, sáng tạo
của ý thức thể hiện ra rất rõ ràng: Đầu tiên, tính chất này được thể hiện ở khả năng con
người thực hiện các hoạt động tâm sinh lý khi tiếp nhận, định hướng thông tin, chọn lọc
xử lí và lưu trữ những thông tin, sự vật hiện có dựa theo mục đích của con người. Không
những vậy, chúng còn có khả năng hiểu được ý nghĩa của những thông tin đã được bộ não
tiếp nhận và sáng tạo ra những thông tin mới. Thứ hai, trên cơ sở trí nhớ của con người đã
tồn tại sẵn các tài liệu, tin tức, hình ảnh về các sự vật, từ đó tư duy, ý thức con người có
khả năng sáng tạo ra những hình ảnh mới về sự vật trong ý thức, hình dung ra được những
sự vật mới, chưa từng xuất hiện trên thực tại. Con người còn có thể dự đoán trước được
tương lai, phát minh ra các giả thuyết khoa học mang tính trừu tượng hay thậm chí có cả
những sự ảo tưởng, hoang đường, huyền thoại.
1.3.2. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
Sở dĩ ý thức là hình ảnh chủ quan vì nó không có tính vật chất, không có tính hiện
thực khách quan. Hơn nữa, ý thức tồn tại nhưng chỉ tồn tại ở dạng vật chất có tổ chức cao
nhất, đó chính là bộ não của con người. Do đó, C. Mác đã khẳng định ý thức là hiện thực
khách quan, nó chính là “cái vật chất, được di chuyển vào trong bộ óc của con người và
được cải biến đi ở trong đó”. Page | 9 lOMoAR cPSD| 44985297
Bên cạnh đó, ý thức là hình ảnh chủ quan theo nghĩa: là sự phản ánh thế giới bởi bộ
não con người và được thực hiện ở trong chính bộ não con người. Nó gắn liền với hoạt
động khái quát hoá, trừu tượng hoá, có định hướng, lựa chọn, nhằm tạo ra những tri thức
sâu sắc và nhiều mặt về các tính quy luật khách quan của thế giới. Mặc dù ý thức là hình
ảnh chủ quan nhưng nó lại lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định và
có nội dung phản ánh là cái khách quan.
Tuy nhiên, không phải chỉ cần thế giới khách quan tác động lên bộ não con người là
mặc nhiên chúng ta đã có ý thức, hay nói cách khác, không phải cứ khi nào thế giới khách
quan tác động vào bộ não là mặc nhiên sẽ chuyển thành hình ảnh chủ quan, bởi ý thức chính
là sự phản ánh sáng tạo về thế giới.
1.3.3. Ý thức là hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội
Ý thức được hình thành trong quá trình lao động của con người và cải tạo thế giới.
Khi ấy, loài người nhận thức được cần phải có sự kết nối với đối phương để chia sẻ kinh
nghiệm cũng như có những nhu cầu khác. Ngay từ ban đầu, ý thức đã là một sản phẩm của
xã hội, ý thức chính là tri thức của loài người đối với xã hội này, về thế giới khách quan
đang phát triển quanh mình, về mối quan hệ giữa những con người với nhau trong cuộc
sống. Vì vậy, ý thức cá nhân và xã hội hình thành cùng nhau, có mối liên hệ mật thiết và
không thể tách rời. Ý thức cá nhân bao gồm những đặc điểm chung của giai cấp dân tộc và
những mặt khác của xã hội cũng như những điểm riêng biệt tuỳ vào điều kiện và hoàn cảnh
riêng của từng cá nhân quyết định. Từ đó có thể rút ra kết luận, về bản chất ý thức không
phải là sản phẩm thuần tuý của mỗi cá nhân mà là hiện tượng xã hội, dù cho ý thức có ở cá
nhân mỗi con người. Con người không chỉ bị chi phối bởi trí óc, bàn tay của bản thân mà
còn bởi những người xung quanh, hay rộng hơn là bị chi phối bởi xã hội, bởi nhân loại.
Nếu con người tách khỏi môi trường xã hội sẽ không tồn tại ý thức và cảm xúc thực sự.
1.4 - Kết cấu của ý thức
1.4.1. Theo các yếu tố hợp thành
Ý thức là một phạm trù có kết cấu vô cùng phức tạp, được hợp thành bởi nhiều yếu
tố có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau và không thể tách rời, song có ba yếu tố cơ
bản nhất đó chính là Tri thức, Tình cảm và Ý chí. Trong đó, tri thức là yếu tố quan trọng Page | 10 lOMoAR cPSD| 44985297
nhất, là cách để khiến ý thức tồn tại, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và quyết
định khả năng biểu đạt của những yếu tố còn lại.
Tri thức là tổng thể các hiểu biết của con người, nó còn là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái hiện lại những hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của loài người đều dựa trên tri thức và được định hướng bởi tri thức. Mọi
biểu hiện của ý thức đều chứa nội dung tri thức. Tri thức là phương thức để ý thức tồn tại
và là điều kiện phát triển của ý thức.
Tình cảm là sự rung động của con người trong những mối quan hệ của họ với thực
tại xung quanh và với chính mình. Đây chính là hình thức phản ánh đặc biệt về hiện thực,
nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người cũng như mối quan hệ giữa con
người với thế giới khách quan. Mọi hoạt động của con người đều có sự tham gia của tình
cảm, yếu tố này đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc sửa đổi các hoạt động của con
người, làm cho những hoạt động ấy trở nên đúng đắn, phù hợp hơn.
Ý chí là sự tác động mạnh mẽ của con người trong quá trình cố gắng vượt qua những
trở ngại để thực hiện mục đích của bản thân. Yếu tố này chính là biểu hiện và là mặt năng
động của ý thức, nó được thể hiện khi con người tự ý thức được mục đích của hành động
của mình, họ sẽ tự đấu tranh với chính bản thân và thế giới xung quanh để quyết tâm thực
hiện mục đích đã đề ra. Từ đó ta nhận ra rằng, ý chí là thứ sức mạnh vô cùng quyền lực ẩn
sâu trong ý thức của mỗi con người đối với bản thân mình: ý chí kiểm soát và chỉnh đốn
lại hành vi để mọi người có ý thức tự giác phấn đấu vì mục đích của bản thân; nó cũng cho
phép mọi người luôn làm chủ được bản thân, dứt khoát hành động sao cho phù hợp với
quan điểm và niềm tin của họ. Như V.I.Lênin đã từng nói: “ý chí là một trong những yếu
tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết
liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại”.
Như vậy, có thể thấy loài người nhờ có tri thức mới có khả năng nhận thức được các
mối quan hệ bản chất, quy luật vận động và sự phát triển của xã hội, tiếp đó con người mới
có thể vạch ra được những mục tiêu, phương pháp cho bản thân để trở nên phù hợp với quy
luật vận động hiện thực khách quan. Điều đó khiến cho các hoạt động của con người có
hiệu quả cao hơn, tăng tính tự giác và có sự định hướng rõ ràng hơn. Tuy nhiên, bên cạnh
vai trò vô cùng to lớn của tri thức, thì tình cảm và ý chí cũng góp một phần vô cùng quan
trọng đối với mọi hoạt động của con người. Nếu con người có tri thức để viết nên những Page | 11 lOMoAR cPSD| 44985297
mục tiêu của họ, nhưng lại không có tình cảm và ý chí để làm việc thì con đường từ mục
tiêu, phương hướng ấy đến cái đích cuối cùng - mục tiêu trở thành hiện thực sẽ có rất nhiều
khó khăn, trắc trở, khó có thể thực hiện.
Một ví dụ đơn giản, một người đàn ông làm công việc văn phòng có gia cảnh hoàn
toàn ổn định, nên anh ta có thể yên tâm đi làm, anh ta đến công ty và làm việc vô cùng hăng
say, đem lại hiệu quả công việc rất lớn cho công ty. Tuy nhiên, gia đình anh ấy gặp chuyện
chẳng lành, chẳng hạn như người thân mất, anh ấy sẽ khó có thể tập trung toàn bộ công lực
cho công việc của mình, từ đó dẫn đến sự giảm sút trong chất lượng công việc. Từ trường
hợp trên có thể thấy được, rõ ràng người đàn ông này đã bị tình cảm chi phối và tác động
đến sự vận dụng tri thức trong thực tiễn.
Các yếu tố để hình thành nên ý thức có vai trò khác nhau nhưng giữa chúng tồn tại
một mối liên hệ gắn bó, không thể tách rời, nên trong thực tiễn cuộc sống, con người cần
phải bồi dưỡng toàn diện tất cả các khía cạnh bao gồm cả tri thức, ý chí, tình cảm, không
nên đánh giá quá cao hoặc coi thường, bỏ qua bất kỳ khía cạnh nào.
1.4.2. Theo chiều sâu nội tâm
Khi xét về khía cạnh chiều sâu nội tâm của con người, ý thức gồm 3 yếu tố chính,
đó là: Tự ý thức, Tiềm thức và Vô thức.
Tự ý thức là khi ý thức con người có thể tự nhận thức được chính mình trong mối
quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng của ý thức,
thể hiện mức độ phát triển của ý thức. Trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, con
người tự tách biệt bản thân mình với thế giới đó để đánh giá chính mình thông qua những
mối quan hệ. Nhờ vậy, con người đã tự ý thức bản thân là một thực thể hoạt động có cảm
giác, đang tư duy, tự đánh giá năng lực và trình độ hiểu biết của mình về thế giới, cũng như
các quan điểm, tình cảm, tư tưởng, đạo đức, hành vi và lợi ích của họ, qua đó xác định đúng
những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, ý thức về mình như một cá nhân, chủ thể có ý
thức đầy đủ về hành động của mình, luôn làm chủ bản thân, chủ động điều chỉnh hành vi
của mình trong tác động qua lại về thế giới quan. Tự ý thức không chỉ thuộc về từng cá
nhân mà còn là của các nhóm xã hội khác nhau, như một tập thể, một giai cấp, một dân tộc,
thậm chí cả xã hội về vị thế của mình trong mối quan hệ sản xuất, lợi ích và lý tưởng của mình. Page | 12 lOMoAR cPSD| 44985297
Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động xảy ra bên ngoài sự điều khiển của
chủ thể, nhưng có mối liên hệ mật thiết đến các hoạt động tâm lý đang xảy ra dưới sự điều
khiển của chủ thể ấy. Về bản chất, yếu tố này chính là những tri thức đã được con người
tiếp thu được từ trước và gần như hình thành nên bản năng, kỹ năng nằm sâu trong của ý
thức chủ thể. Do đó, tự bản thân tiềm thức đã có khả năng tạo nên các hoạt động nhận thức
và tâm lý mà không cần đến sự điều khiển trực tiếp của chúng ta. Đây là yếu tố vô cùng
cần thiết và quan trọng trong cả hoạt động tâm lý thường ngày lẫn trong các giai đoạn, trình
độ cao cấp hơn của quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này, tiềm thức chủ yếu gắn liền
với những loại hình tư duy chính xác và những hoạt động được lặp đi lặp lại. Tiềm thức
đóng vai trò giúp trí óc của con người giảm bớt sự căng thẳng và quá tải trong quá trình xử
lý một khối lượng lớn các văn bản, dữ liệu, thông tin xảy ra nhiều lần mà vẫn bảo đảm được
sự chặt chẽ cần thiết và mức độ chính xác.
Vô thức là hiện tượng tâm lý trong chiều sâu tâm lý của con người, khi đó nó có thể
điều chỉnh những suy nghĩ, hành vi của họ mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có
sự tính toán, kiểm tra của lý trí, hay nói cách khác, vô thức là hiện tượng tâm lý mà khi đó
ý thức không thể thực hiện được chức năng của mình.
Vô thức thể hiện bằng các hình thức khác nhau như sự ham muốn, sự lỡ lời, giấc
mơ, bị thôi miên, trực giác, v.v. Mỗi hình thức đều hoạt động ở một vùng riêng, có vai trò,
chức năng khác nhau, tuy nhiên toàn bộ những hình thức đó đều có một chức năng chung
là giảm bớt ức chế đối với các hoạt động thần kinh vượt ngưỡng. Nó còn giúp khôi phục
lại sự cân bằng trong các hoạt động tinh thần của trí óc con người, ngăn chặn trạng thái ức chế cực độ xảy ra.
Có thể thấy rằng, vô thức đóng vai trò khá hữu hiệu trong đời sống sinh hoạt và hoạt
động thường ngày của con người. Nhờ vô thức mà chúng ta có thể tránh được những căng
thẳng khi quá tải công việc hoặc tránh được tác động của những ký ức không mấy vui vẻ
trong quá khứ. Nhờ vô thức mà con người có những phát minh vĩ đại, phục vụ cho cuộc
sống ngày nay, như Isaac Newton - nhà vật lý học khi tình cờ nhìn thấy quả táo rơi xuống
trong lúc nằm dưới gốc cây táo, ông đã phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn, và định luật
này vẫn được áp dụng cho tới ngày nay, v.v. Vì thế, không thể phủ nhận vai trò của yếu tố
này trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, nếu phủ nhận, con người sẽ không thể hiểu một
cách đầy đủ và chính xác về bản thân mình cũng như thế giới xung quanh. Page | 13 lOMoAR cPSD| 44985297
1.5 - Vai trò của ý thức đối với vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò của vật chất đối với ý thức song
cũng đồng thời chỉ rõ sự tác động ngược lại rất quan trọng của ý thức đối với vật chất. Vai
trò của ý thức cũng chính là vai trò của con người bởi ý thức ở đây chính là ý thức thuộc
về con người. Ý thức không thể trực tiếp làm thay đổi hiện thực, mà cần có những hoạt
động vật chất. Tuy nhiên, những hoạt động ấy đều do ý thức điều khiển, dù không trực tiếp
tạo nên hay đổi mới thế giới vật chất nhưng ý thức đã cung cấp cho con người những tri
thức về thực tại khách quan, từ đó con người có khả năng tìm ra phương pháp, xác định
mục tiêu, lựa chọn các thiết bị, công cụ, v.v. phục vụ cho việc hoàn thiện mục tiêu đã đề ra.
Như vậy, có thể thấy ý thức đã tác động lên vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của
loài người. Đó là những sự tác động hết sức mãnh liệt. Ví dụ, nếu tâm trạng của một nhân
viên không được ổn định sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều tới tiến độ làm việc của một khâu nào đó trong tập đoàn.
Khi ý thức phản ánh hiện thực khách quan một cách chính xác, những hoạt động
thực tiễn trong quá trình thay đổi thế giới vật chất của con người sẽ được tác động và phát
triển mạnh mẽ: vốn hiểu biết của con người được mở rộng, có thể hiểu được bản chất những
sự vật, hiện tượng trong cuộc sống vận động theo quy luật nào.
Ý thức tác động trở lại vật chất diễn ra theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực.
Nếu con người có hiểu biết đúng đắn, có tri thức khoa học, có nghị lực, ý chí vươn lên hành
động thì khi ấy sự tác động trở lại vật chất của ý thức là tích cực. Dựa vào các kiến thức và
tri thức khoa học ấy, con người có thể xác định mục tiêu, kế hoạch phù hợp, vượt qua những
trở ngại, khó khăn, thử thách trên con đường chinh phục mục tiêu của mình và cải tạo được
thế giới vật chất. Tuy nhiên, nếu con người có những tri thức sai lầm, phản khoa học, đi
ngược lại với hiện thực thì hành động của con người cũng sẽ trái ngược với những quy luật
ấy, dẫn tới sự phát triển của thế giới vật chất bị con người kìm hãm. Đây chính là mặt tiêu
cực của ý thức khi tác động lên vật chất.
Như vậy, khi nói đến sự tác động trở lại vật chất của ý thức, có thể kết luận rằng: ý
thức thông qua hoạt động thực tiễn của con người mà tác động lên vật chất; ý thức có thể
chi phối, điều khiển hoạt động của con người, quyết định xem hành động đó tốt hay xấu,
đúng hay sai, hiệu quả hay không hiệu quả. Page | 14 lOMoAR cPSD| 44985297 CHƯƠNG II.
SỰ VẬN DỤNG Ý THỨC CỦA SINH VIÊN CAO THANH TRANG.
2.1 - Định hướng vận dụng ý thức cho bản thân
Ý thức là phạm trù tác động trở lại vật chất nên chúng ta cần phát huy tính năng động
chủ quan, hay nói cách khác đó chính là cần phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo
của ý thức. Trước mỗi tiết học, nên chủ động tìm hiểu kiến thức thông qua sách vở hoặc
các tài liệu có liên quan, nghiên cứu trước những điều mà thầy cô sẽ giảng trong buổi học
tới, từ đó có thể nắm bắt được tổng quát bài học của ngày hôm sau và tìm ra những kiến
thức còn mông lung, chưa hiểu rõ ràng. Trong các tiết học trên lớp, em cần có thái độ tích
cực học tập, tập trung cao độ để có thể lĩnh hội được nhiều kiến thức bổ ích, đặc biệt là
những phần mình còn chưa hiểu, năng nổ xung phong phát biểu xây dựng bài, đóng góp
nhiều ý kiến của mình cho những bài giảng của thầy cô và cho tập thể lớp, chủ động hỏi
thầy cô những vấn đề mình còn băn khoăn để hiểu được tường tận nội dung bài học. Ngoài
ra, cần lưu ý chọn lọc thật cẩn thận và kĩ lưỡng những thông tin mà mình cần tiếp nhận từ
vô số các nguồn tin ở bên ngoài. Trong thời buổi công nghệ hiện đại ngày nay, có rất nhiều
các thiết bị đưa tin, truyền tin, những bài viết được đăng tải lên các trang mạng thật giả lẫn
lộn, nhiều vô kể, vậy nên em cần giữ một trí óc tỉnh táo để nhận biết và tiếp thu những
thông tin đúng đắn và bổ ích cho bản thân mình.
Yếu tố quan trọng nhất trong kết cấu của ý thức đó chính là tri thức, là phương thức
vận động và tồn tại của ý thức. Vì vậy, em nhận thấy mình cần phải nâng cao tri thức của
bản thân, mà việc đầu tiên có thể làm để có thể nâng cao tri thức, đó chính là nỗ lực thật
nhiều trong quá trình học tập, bản thân cần chủ động tìm tòi, khám phá và tích cực khai
thác các vấn đề liên quan tới ngành học của mình, không nên quá phụ thuộc vào các bài
giảng của giảng viên trên lớp, mà thay vào đó nên học cách tư duy, suy nghĩ và tiếp thu
những kiến thức ấy theo cách của riêng mình. Galileo đã từng nói: “Anh không thể dạy cho
người khác bất cứ điều gì, mà anh chỉ có thể giúp người tìm ra chân lý”. Vì vậy, mỗi khi
tiếp nhận được những kiến thức mới, ngoài việc đọc và nghiên cứu trong giáo trình cung
như lăng nghe thầy cô giảng trên lớp, bản thân em thường tìm đến trang thư viện trực tuyến
của trường hoặc tham khảo có chọn lọc những tài liệu trên các trang mạng để mở rộng vốn Page | 15 lOMoAR cPSD| 44985297
kiến thức của bản thân. Tuy nhiên, nếu chỉ tiếp thu những tri thức từ bài giảng trên lớp thôi
vẫn chưa đủ, em cần trang bị cho mình một vốn kỹ năng mềm dày dặn, ví dụ như các kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng lãnh đạo, hoạt động nhóm, kỹ năng lắng nghe,
chia sẻ, v.v. Tất cả những kỹ năng ấy sẽ giúp em trưởng thành hơn, và chúng vô cùng có
ích trong việc xây dựng các mối quan hệ hay làm việc trong môi trường doanh nghiệp ở
tương lai mai sau. Muốn rèn được như vậy, ngay từ khi đi học, ngoài thời gian học tập thì
em sẽ dành một khoảng thời gian nhất định để tham gia vào các câu lạc bộ, các hoạt động
tình nguyện của nhà trường hay các tổ chức trong phạm vi sinh sống của mình, hoặc tự tìm
kiếm một công việc làm thêm phù hợp để vừa có thể trau dồi thêm những kiến thức, kỹ
năng sống, vừa kiếm thêm một phần thu nhập nhỏ cho bản thân mình.
Tình cảm là những cảm xúc, những rung động của con người trong các mối quan hệ
với thế giới xung quanh. Tình cảm tạo nên sức mạnh cho tri thức để từ đó tri thức trở thành
cơ sở cho hành động. Có thể nói, vai trò của tình cảm là vô cùng quan trọng, nó góp phần
thúc đẩy chúng ta đến gần hơn với sự thành công. Là một sinh viên Kinh tế, để có thể gặt
hái những thành tích tốt trong học tập cũng như đạt được những thành tựu lớn trong tương
lai, bản thân em cần có niềm say mê, yêu thích, sự hứng thú với các môn học, bất kể là môn
đại cương hay môn chuyên ngành, vì cho dù là môn nào đi chăng nữa, dù ít hay nhiều,
chúng chắc chắn sẽ giúp ích cho em trong tương lai về sau. Ví dụ, khi học môn Triết học,
em đã có những hiểu biết thêm về nhân sinh quan, thể giới quan, mối quan hệ giữa con
người với con người và với thế giới khách quan, hình thành cho mình khả năng suy nghĩ
logic hơn; môn Tâm lý học giúp em am hiểu hơn về cơ chế hình thành, bản chất, chức năng
của những trạng thái tâm lý, hành vi khác nhau của con người; môn Quản trị kinh doanh
trang bị cho em những kiến thức căn bản về kinh tế, cách xây dựng và vận hành một doanh
nghiệp cho tới các chiến lược kinh doanh hiệu quả của những tập đoàn lớn, v.v. Trong quá
trình học tập, em cần giữ một tinh thần thoải mái và vui vẻ, không bị ép buộc, gò bó bởi
các tác nhân bên ngoài, từ đó bản thân em mới có những hứng thú, hăng say tìm tòi, nghiên
cứu kiến thức mới mẻ. Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến tình cảm gia đình, những
tình yêu thương, sự kỳ vọng của bố mẹ dành cho em, họ không ngại khó khăn, vất vả, đi
sớm về khuya để trang trải thu nhập, cho em có cơ hội được tiếp cận với những kiến thức
một cách đầy đủ như các bạn bè đồng trang lứa. Chính thứ tình cảm thiêng liêng ấy đã tạo
cho em những động lực rất mãnh liệt, mạnh mẽ, giúp bản thân có thể vượt qua những trở
ngại, khó khăn để tiếp tục sự nghiệp học tập của mình. Page | 16 lOMoAR cPSD| 44985297
Niềm tin là sự cảm nhận, tin tưởng vào điều gì đó của con người, góp phần thúc đẩy
những suy nghĩ, hành động của họ. Để có thể trở thành một sinh viên giỏi, bản thân em cần
phải học cách đặt niềm tin của mình vào nhiều điều. Trên hết, em cần tin tưởng vào bản
thân mình, vạch sẵn cho bản thân những ước mơ, hoài bão và chuẩn bị những kế hoạch cụ
thể, chắc chắn để hiện thực hoá những ước mơ ấy. Khi đã có niềm tin, bản thân em chắc
chắn sẽ có động lực để cố gắng phấn đấu đạt được những mục tiêu mà mình đã đề ra. Hiện
tại, mục tiêu của em chính là phải học tập thật tốt, đạt được những kết quả cao để có thể tốt
nghiệp với một tấm bằng giỏi, bên cạnh đó cần phải trau dồi thêm những kỹ năng mềm để
phục vụ cho cuộc sống cũng như công việc trong tương lai. Như vậy, bước đầu để có thể
biến những mục tiêu này thành hiện thực đó chính là phải lập ra cho bản thân một thời gian
biểu học tập cụ thể, tìm cho mình một phương pháp học đúng đắn và điều quan trọng nhất
đó chính là không được nhụt chí, từ bỏ mà phải có niềm tin vào bản thân rằng mình nhất
định sẽ hoàn thành được những ước mơ này.
Ý chí là sức mạnh tinh thần của con người, giúp chúng ta quyết tâm vượt qua những
khó khăn, trở ngại để có thể hoàn thành được những mục tiêu đề ra. Khi đủ tuổi trưởng
thành, em sẽ phải rời xa vòng tay bao bọc của bố mẹ, một mình đặt chân tới một thành phố
mới, đối mặt với một môi trường mới - môi trường đại học. Nơi đây ẩn chứa biết bao những
thử thách, cám dỗ, vì thế cần tạo dựng cho mình một ý chí kiên cường, một bộ óc thật tỉnh
táo để nhận biết và tránh xa những thói hư tật xấu. Cuộc sống sinh viên không có bố mẹ,
gia đình quản lý như trước kia, bắt buộc bản thân em phải tự đặt ra bộ quy tắc của riêng
mình để giữ vững lập trường trước những cạm bẫy đang rình rập xung quanh: không được
nghỉ học, trốn học chỉ vì lười biếng, ham chơi hay đơn giản là vì không muốn dậy sớm;
chưa học xong bài chưa được ngủ, chưa học bài đủ chưa được chơi; không sa đà vào rượu
bia, nhậu nhẹt, các tệ nạn xã hội nguy hiểm; không nên chạy theo những công việc làm
thêm chỉ sinh ra món lợi tức thời mà quên đi sự nghiệp học hành, v.v.
Cần phải chống lại căn bệnh chủ quan duy ý chí, áp đặt, bảo thủ. Trong quá trình
học tập cũng như trao đổi, làm việc nhóm, em cần phải lắng nghe, chọn lọc và tiếp thu
những kiến thức mới, không nên quy chụp, áp đặt quan điểm cá nhân của mình lên những
người xung quanh. Ví dụ như sau những lần thảo luận hoặc những bài thuyết trình, em cần
lắng nghe ý kiến, góp ý của giảng viên và của cả lớp để có thể nhận ra điểm yếu của mình
và tìm cách khắc phục. Khi đứng trước mọi tình huống, em phải có một góc nhìn thực tế, Page | 17 lOMoAR cPSD| 44985297
đa chiều, xem xét mọi việc thật thận trọng rồi mới bắt tay vào hành động, không được chủ
quan, coi thường chúng để rồi phải nhận lại những hậu quả đáng tiếc. Ví dụ như khi chuẩn
bị có đợt kiểm tra, dù là môn học dễ thì vẫn cần rà soát, ôn tập lại kiến thức thật cẩn thận,
tuyệt đối không được có những suy nghĩ “bài này dễ nên không cần phải ôn”. Ngoài ra, có
một căn bệnh cũng không kém phần nghiêm trọng, cần phải tránh xa để bản thân không bị
mắc phải, đó chính là sự trì trệ. Trước mỗi đầu bài tập, đầu công việc, em cần thiết lập cho
mình giới hạn thời gian nhất định, tự đặt ra những quy tắc cho bản thân và điều quan trọng
nhất đó chính là cần phải có ý thức kỷ luật. Công việc của ngày nào cần phải hoàn thành
ngay trong ngày hôm đó, việc hôm nay chớ để ngày mai.
Khi lí giải về các hiện tượng xã hội, cần xét đến các yếu tố tinh thần cũng như điều
kiện vật chất, cả yếu tố khách quan lẫn điều kiện khách quan. Điển hình như trong khoảng
thời gian đăng ký học phần, bản thân em cần phải xem xét năng lực học tập của mình, điều
kiện kinh tế - tài chính của gia đình, sắp xếp quỹ thời gian cá nhân để có thể đăng ký lớp
học phần một cách hợp lý, không nên đăng ký tham lam, bừa bãi chỉ với mục đích học vượt
hay tốt nghiệp sớm, tránh trường hợp trong quá trình học tập bị bị quá tải kiến thức, không
thể theo kịp chương trình, như vậy rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc bị lãng phí, mà
bản thân lại không đạt được kết quả như ý muốn; hay khi có ý định tham gia vào các tiểu
đội, các câu lạc bộ ở trường, hoặc tìm kiếm một công việc làm thêm để kiếm thêm thu nhập,
em cần xem xét kĩ định hướng, mục tiêu, văn hoá của các câu lạc bộ, các công ty có phù
hợp với bản thân mình không, khi tham gia thì mình có học hỏi thêm được điều gì bổ ích
hay không, để sau khi gia nhập vào câu lạc bộ hay trở thành thành viên của công ty, em có
thể vừa cống hiến công sức của mình cho các hoạt động của họ, vừa được nhận lại những
kiến thức có giá trị cho bản thân mình.
2.2 - Thực trạng vận dụng ý thức cho bản thân
Sau khi hoàn thành xong kỳ thi Tốt nghiệp Trung học phổ thông Quốc gia năm 2021,
em đã chính thức khép lại quãng thời gian là một học sinh và chuyển sang một giai đoạn
mới với tư cách là một sinh viên đại học. Và càng vui sướng, phấn khởi hơn khi em chính
là một trong 6000 sinh viên có cơ hội trúng tuyển vào Trường Đại học Kinh tế Quốc dân -
một ngôi trường mà em mơ ước trong những năm tháng cấp 3 của mình. Page | 18 lOMoAR cPSD| 44985297
Khi bước vào năm học đầu tiên của thời sinh viên, do đã có sự chuẩn bị và tìm hiểu
kỹ càng từ trước nên em biết rằng khối lượng kiến thức mà mình được dạy ở đại học sẽ
nhiều hơn cấp 3 rất nhiều, đặc biệt là trong mỗi buổi học, các thầy cô có thể dạy hết một
chương là điều vô cùng bình thường, nên em đã thay đổi phương pháp học tập của mình.
Nếu như ở cấp 3, em học một cách vô cùng thụ động, trước khi lên lớp không hề đọc trước
sách giáo khoa, có chăng thì chỉ đọc lướt qua vài ba trang nhưng cũng không đọng lại được
bao nhiêu trong đầu, luôn luôn phụ thuộc vào bài giảng của các giáo viên, thầy cô giảng gì
thì tiếp thu cái đó nhưng sau cùng cũng không thể ứng dụng được gì cho bản thân mình, thì
khi lên đại học, em đã cố gắng phát huy được tính tích cực và năng động của ý thức trong
học tập của mình bằng cách cố gắng tìm hiểu trước ở nhà những nội dung mà hôm sau sẽ
được học, đồng thời gạch chân những ý mà mình vẫn còn băn khoăn chưa hiểu rõ, để ngày
hôm sau lên lớp có thể theo kịp được mạch giảng bài của các giảng viên, cũng như có thể
tập trung chú ý nghe giảng hơn vào những phần mình chưa nắm rõ.
Nhưng chỉ tiếp thu những kiến thức trên giảng đường thôi là chưa đủ, để có được
một vốn sống phong phú, am hiểu nhiều thêm nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, em luôn
tìm cách để nâng cao tri thức của bản thân mình, bởi trong kết cấu của ý thức thì tri thức
chính là thứ quan trọng nhất. Sau khi được thầy cô truyền đạt những kiến thức mới mẻ, em
sẽ cố gắng tìm kiếm thêm những thông tin trên các trang mạng, diễn đàn chính thống có
liên quan tới kiến thức ấy để mở mang tầm mắt của mình. Bên cạnh đó, em cũng tham gia
vào các tổ đội, câu lạc bộ của trường, cụ thể là Ban Chương trình & Hỗ trợ Sự kiện để tăng
thêm sự linh hoạt cũng như rèn luyện thêm cho mình những kỹ năng mềm mà chắc chắn sẽ
cần dùng đến trong tương lai sau này. Hơn nữa, em rất chú trọng nâng cao khả năng ngoại
ngữ - Tiếng Anh của bản thân. Đều đặn mỗi ngày, 3 tiếng chính là khoảng thời gian em
dành ra làm các bộ đề thi tiếng Anh quốc tế, trò chuyện cùng bạn bè để tăng khả năng phản
xạ tiếng Anh. Khi có thời gian rảnh, những chương trình về thiên nhiên khoa học của Âu
Mỹ sản xuất là sự lựa chọn hàng đầu của em, vừa học thêm được nhiều kiến thức, vừa có
thể luyện được kỹ năng nghe bằng tiếng Anh của mình.
Bên cạnh đó, khi trở thành sinh viên đại học đồng nghĩa với việc sẽ không được bố
mẹ bao bọc, che chở như những ngày còn trẻ con, không còn những sự giám sát chặt chẽ,
nhắc nhở từng li từng tí nữa. Em phải tự mình bước chân ra xã hội, tự trải nghiệm và rút ra
những kinh nghiệm, bài học đầu đời của mình. Nhưng xã hội thì đâu có đơn giản như vậy, Page | 19