-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Từ Đại hội VI (1986), Đại hội VII (1991), trình bày nội dung liên hệ thực tiễn hiện nay | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Từ Đại hội VI (1986), Đại hội VII (1991), trình bày nội dung liên hệ thực tiễn hiện nay | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45470709
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ooo0ooo BÀI TẬP LỚN
Đề bài: Từ Đại hội VI (1986), Đại hội VII (1991), trình bày nội dung liên hệ thực tiễn hiện nay. Họ và tên: Mã sinh viên: Lớp học phần: Hà Nội, 2023 MỤC LỤC lOMoAR cPSD| 45470709
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
NỘI DUNG .................................................................................................................... 1
1. Nội dung1.1. Thời kỳ 1976 – 1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu bao ........................................................................................................................ 1
cấp ............................................................................................................................ 1
1.2. Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986): Thực hiện . 3
đường lối đổi mới về kinh tế .................................................................................. 3
2. Thực tiễn: những thành tựu về phát triển kinh tế của đất nước từ sau khi ... 3
tiến hành đổi mới đến nay ......................................................................................... 3
2.1. Giai đoạn 1986 – 1990 ..................................................................................... 3
2.2. Giai đoạn 1991 – 1995 ..................................................................................... 4
2.3. Giai đoạn 1996 – 2000 ..................................................................................... 4
2.4. Giai đoạn 2001 – 2005 ..................................................................................... 5
2.5. Giai đoạn 2006 – 2010 ..................................................................................... 5
2.6. Giai đoạn 2011 – 2015 ..................................................................................... 5
2.7. Giai đoạn 2016 – 2020 ..................................................................................... 7
2.8. Giai đoạn từ 2021 đến nay .............................................................................. 7
2.9. Tổng kết thành tựu về phát triển kinh tế của đất nước qua 35 năm đổi
mới ........................................................................................................................... 9
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 13 lOMoAR cPSD| 45470709 MỞ ĐẦU
Sau năm 1960, miền Bắc nước ta đã đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ đó tiến
hành xây dựng đất nước theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp và cũng
đã từ đó gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, theo thời gian cùng với sự đổi mới
của thế giới và trong nước, cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp cũng đã lộ
rõ nhiều hạn chế và từ đó, đặt ra nhu cầu đổi mới toàn diện hệ thống kinh tế Việt Nam.
Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, diễn ra tại Hà Nội từ
ngày 15 đến 18/12/1986, đã xác định đường lối Đổi Mới, tạo ra bước ngoặt cho nền
kinh tế Việt Nam. Tư duy kinh tế thị trường ngày càng dứt khoát, mạch lạc, thể hiện
trong nhiều chủ trương cụ thể: xóa bỏ quan liêu bao cấp không chỉ với lĩnh vực đời
sống mà còn với lĩnh vực sản xuất, phân phối nguồn lực, trao quyền tự chủ cho xí
nghiệp quốc doanh hạch toán kinh doanh, khắc phục tình trạng “lãi giả - lỗ thật”.
Sau 35 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng.
Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng
đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia
thu nhập trung bình thấp. Những thành tựu to lớn mà nền kinh tế Việt Nam đạt được
hiện nay làm rõ nét hơn tầm quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước, nhất là đổi
mới về tư duy kinh tế do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Sự nghiệp đổi mới mang
tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự
nghiệp cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thực hiện thành
công. Việt Nam đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát
triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. NỘI DUNG 1. Nội dung 1.1.
Thời kỳ 1976 – 1985: Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu
pháp lệnh được giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn
1977 - 1985 tăng 4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp
tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc
doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%.
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm
nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này), nhưng 1 lOMoAR cPSD| 45470709
chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có
mức tăng khá hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng trong toàn nền kinh tế còn thấp (chiếm
39,74% GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất cân đối cung – cầu (thiếu hụt nguồn cung),
đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào năm 1985, là những nguyên
nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.
Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công
nhân viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập
bình quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ
18,7 đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
Tóm lại, Nhà nước ta xây dựng các chỉ tiêu một cách chủ quan, sau đó sẽ đưa
các chỉ tiêu đó xuống cho các doanh nghiệp và cả các hợp tác xã đều cùng thực hiện.
Việc cấp phát vốn, vật tư, giao nộp sản phẩm cho Nhà nước trong cơ chế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp cũng đều nằm trong chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao cho.
Điều này cũng sẽ buộc các doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ chỉ được quan tâm đến một
vấn đề duy nhất đó là thực hiện việc hoàn thành chỉ tiêu.
Cơ quan hành chính quốc gia trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao
cấp cũng thường sẽ can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp. Những thiệt hại về vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì
Ngân sách Nhà nước sẽ có trách nhiệm cần phải gánh chịu.
Bên cạnh đó thì Nhà nước ta cũng thường sẽ chỉ coi trọng kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể, việc chỉ coi trọng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể cũng sẽ làm
hạn chế đối với sự phát triển và đóng góp vào nền kinh tế của các thành phần kinh tế
khác. Hậu quả đó là sẽ khiến các cơ quan quản lý Nhà nước làm thay chức năng quản
lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quan hệ hàng hóa – tiền tệ của các chủ thể cũng sẽ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức,
quan hệ hiện vật là chủ yếu. Trong thời kỳ khi cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp xuất hiện, các công cụ cụ thể như giá cả, lãi suất, tiền lương sẽ chỉ áp dụng để
nhằm mục đích có thể tính toán một cách hình thức. Giá cả sẽ không phản ánh quan hệ cung cầu.
Mặt khác, tiền lương được quy định theo cấp bậc hành chính và thâm niên, tính
theo chủ nghĩa bình quân, không được tính theo hiệu quả lao động của mỗi chủ thể.
Tất cả những điều đó trên thực tế cũng đã dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng hóa
khiến cuộc sống chật vật không những về số lượng mà cả về chất lượng của nhiều mặt hàng khác. 2 lOMoAR cPSD| 45470709
1.2. Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986): Thực hiện
đường lối đổi mới về kinh tế
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một
số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, chủ trương chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đảng VI (1986) đã khẳng định " Cơ chế quản lý kinh tế,
quản lý khoa học - kỹ thuật phải đòi hỏi và khuyến khích việc sáng tạo và ứng dụng
rộng rãi các thành tựu khoa học - kỹ thuật, đưa lại hiệu quả thiết thực".
Với việc đổi mới công tác kế hoạch hoá kinh tế, chuyển sang hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, nâng cao quyền chủ động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, cơ chế quản lý kinh tế cũng như quản lý khoa học – công nghệ trong giai đoạn
chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có những thay đổi
rất quan trọng; đối tượng, phạm vi cũng như nội dung quản lý được mở rộng buộc phải
nhanh chóng đổi mới chế độ quản lý, phương thức quản lý, tổ chức bộ máy quản lý
Nhà nước một cách đồng bộ, toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước đã được Đại hội VI, VII khẳng định. 2.
Thực tiễn: những thành tựu về phát triển kinh tế của đất nước từ sau khi
tiến hành đổi mới đến nay
2.1. Giai đoạn 1986 – 1990
Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết
thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu
bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng
bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất
hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm1. Việc
thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm
phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là
giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một
bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực
lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
1 Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 -
2005), trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 141. 3 lOMoAR cPSD| 45470709
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn sản xuất với thị trường. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã
chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả
kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng
nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm
2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm
2005. Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất
thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với
khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất
khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao
trên thế giới. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với
tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát
triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
2.2. Giai đoạn 1991 – 1995
Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được
tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện,
hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng
12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng
27% so với giai đoạn 1986 - 19902. Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng
trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm
trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được
tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước3”.
2.3. Giai đoạn 1996 – 2000
Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của
khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm
trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy
nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai
đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và
2 Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 143.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 1996, tr. 12. 4 lOMoAR cPSD| 45470709
xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2%4. “Nếu tính cả giai đoạn 1991 -
2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm
2000 tăng hơn hai lần56”.
2.4. Giai đoạn 2001 – 2005
Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân
7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp
và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm
trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm
1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt
mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD)7. Từ một
nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam
đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất
thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ tư về cao su;…
2.5. Giai đoạn 2006 – 2010
Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế
tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã
trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị
tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008),
nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực
hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và
tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với
giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so
với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010
tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 20008.
2.6. Giai đoạn 2011 – 2015
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp
4 Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 144.
5 Hà Đăng: Đổi mới - Những thành tựu lớn, trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Sđd, tr. 6 .
7 Võ Hồng Phúc: Sđd, tr. 146
8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 151. 5 lOMoAR cPSD| 45470709
hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực9.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới
nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm
2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm) (9).
Do bối cảnh quốc tế và trong nước đặc biệt khó khăn, Việt Nam buộc phải điều
chỉnh chiến lược và mục tiêu phát triển. Bản thân nền tài chính lần đầu tiên xuất hiện
nguy cơ hụt thu so với dự toán (2013, 2015), thu NSNN giảm mạnh so với thời kỳ
trước nhưng tài chính đã hoàn thành tốt 2 nhiệm vụ cơ bản: (1) Thực hiện có kết quả
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thúc đẩy sự phục hồi của nền kinh
tế; (2) Đảm bảo được nhiệm vụ chi mà không cần đến tài chính từ nguồn cổ phần hóa;
đồng thời huy động được nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển, góp phần thay đổi căn
bản diện mạo hạ tầng giao thông, thực hiện nghiêm nguyên tắc vay chỉ dành cho đầu tư phát triển quốc gia.
Những nỗ lực cải cách, nhất là tài chính cùng với tiền tệ đã góp phần tạo ra
động lực cho kinh tế Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, đảo ngược tình thế, vươn
tới thành tựu ngày càng cao và toàn diện. Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP vượt
trội hơn các nước khác ở Đông Nam Á và đang đi ngược lại xu hướng kinh tế trì trệ
phổ biến trong khu vực, sự phục hồi tăng trưởng kéo dài 6 năm qua của kinh tế toàn
cầu đang bị đuối sức, còn Trung Quốc tiếp tục xu thế giảm tốc mạnh và đang đối diện
với nguy cơ khủng hoảng.
Mặc dù có chỉ tiêu không đạt (thâm hụt NSNN cao hơn mục tiêu là 4,5% GDP),
song về tổng thể nền tài chính Việt Nam cơ bản là lành mạnh, tiềm lực tài chính lớn
mạnh về quy mô, an ninh tài chính được đảm bảo. Đây là thành công lớn nếu xét trong
bối cảnh phát triển và nhìn ra thế giới: Trạng thái thâm hụt NSNN, nợ công cao diễn ra
ở nhiều nơi, nhiều quốc gia lâm vào khủng hoảng tài chính. Kết thúc giai đoạn 2011 -
2015, Việt Nam đã tạo ra được cục diện kinh tế - tài chính, môi trường kinh doanh
thuận lợi hơn cho thời kỳ phát triển mới.
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa
dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả
năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và
9 Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2012 và 5 năm 2011 - 2015, chinhphu.vn 6 lOMoAR cPSD| 45470709
mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp
mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
2.7. Giai đoạn 2016 – 2020
Đến năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào
trạng thái suy thoái do tác động của dịch COVID-19 nhưng kinh tế của Việt Nam vẫn
tăng trưởng dương 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm qua tăng trung bình
5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới.
Trong 5 năm từ 2016-2020, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã cùng nhau tạo
ra hơn 1.200 tỷ USD giá trị GDP, nền kinh tế nước ta đã tạo ra được hơn 8 triệu việc
làm mới cho người dân, thu nhập bình quân của người dân tăng gần 145%. Quy mô
nền kinh tế tăng 1,4 lần so với đầu nhiệm kỳ, trở thành nền kinh tế có quy mô đứng
thứ 4 trong ASEAN. Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2016 - 2020 tăng từ 176,58 tỷ
USD năm 2016 lên gần 281,5 tỷ USD năm 2020. Tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn
2016 -2020 đạt trung bình khoảng 11,7%/năm, cao hơn mục tiêu 10% đề ra tại Văn
kiện Đại 12 của Đảng. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; năng suất lao động tăng
bình quân 5,8%/năm, cao hơn nhiều so với giai đoạn 2011-2015. Nợ công giảm từ
63,7% GDP đầu nhiệm kỳ xuống còn 55% năm 2019, dưới ngưỡng an toàn do Quốc
hội quy định. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020 được xếp thứ
42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập. Xếp hạng về phát
triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao
hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.
2.8. Giai đoạn từ 2021 đến nay
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều sâu, hoàn
thiện mô hình tăng trưởng đồng bộ trên cả phương diện kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã
hội và kinh tế - sinh thái, thúc đẩy phát triển trên nền tảng đổi mới sáng tạo, nâng cao
năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế.
Năm 2021, GDP năm 2021 tăng 2,58%. Trong mức tăng chung của toàn nền
kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%; khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 4,05%; khu vực dịch vụ tăng 1,22%, khu vực công nghiệp và xây dựng,
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,37%. Năm 2021, trong bối cảnh nền kinh
tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã điều hành lãi suất phù hợp, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục
giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn
định; thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu
năm 2021 tăng 45,5% so với cuối năm 2020. Tính đến ngày 24-12-2021, tổng phương 7 lOMoAR cPSD| 45470709
tiện thanh toán tăng 8,93% so với cuối năm 2020; huy động vốn của các tổ chức tín
dụng tăng 8,44%; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,97%10. Theo Tổng cục
Thống kê, bình quân năm 2021, CPI tăng 1,84% so với năm 2020, mức tăng thấp nhất
kể từ năm 2016. Lạm phát cơ bản 12 tháng tăng 0,81%.
Sự bùng phát của đại dịch COVID-19 lần thứ tư khiến hoạt động sản xuất, kinh
doanh và tinh thần khởi nghiệp của người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Theo báo
cáo của Cục Đăng ký kinh doanh, trong năm 2021 có 116.839 doanh nghiệp đăng ký
mới, giảm 13,4% so với năm 2020, là mức thấp nhất kể từ năm 2017 đến nay. Số vốn
đăng ký thành lập trong năm 2021 cũng chỉ đạt 1.611.109 tỷ đồng, giảm 27,9% so với
năm 2020. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2021 là
43.116 doanh nghiệp, giảm 2,2% so với năm 2020.
Tăng trưởng xuất, nhập khẩu là gam màu sáng nhất trong bức tranh kinh tế vĩ
mô năm 2021. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng
19% so với năm 2020. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất
khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đối với nhập khẩu, năm
2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo
giá hiện hành năm 2021 tăng 3,2% so với năm 2020. Và theo báo cáo của Cục Đầu tư
nước ngoài, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam năm 2021 đạt 19,74 tỷ USD, giảm 1,2% so với năm 2020.
Năm 2022, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 tăng 8,02%11 so với
năm trước, đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-202212 do nền kinh tế khôi
phục trở lại. GDP năm 2022 tăng 8,02%. Trong mức tăng của tổng giá trị tăng thêm
toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, đóng góp 5,11%;
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%, đóng góp 38,24%; khu vực dịch vụ
tăng 9,99%, đóng góp 56,65%.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm
tỷ trọng 11,88%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,26%; khu vực dịch vụ
chiếm 41,33%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53%.
10 Ngân hàng Nhà nước: Báo cáo chính sách tín dụng - tiền tệ tháng 12 và cả năm 2021.
11 GDP quý I tăng 5,05% so với cùng kỳ năm trước; quý II tăng 7,83%; quý III tăng 13,71%; quý IV tăng 5,92%.
12 Tốc độ tăng GDP các năm 2011-2022 lần lượt là: 6,41%; 5,50%; 5,55%; 6,42%;
6,99%; 6,69%; 6,94%; 7,47%; 7,36%; 2,87%; 2,56%; 8,02%. 8 lOMoAR cPSD| 45470709
Về sử dụng GDP năm 2022, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,18% so với năm 2021,
đóng góp 49,32% vào tốc độ tăng chung; tích lũy tài sản tăng 5,75%, đóng góp
22,59%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 4,86%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
tăng 2,16%; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đóng góp 28,09%.
GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu
đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021. Năng suất lao
động của toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá hiện hành ước tính đạt 188,1 triệu
đồng/lao động (tương đương 8.083 USD/lao động, tăng 622 USD so với năm 2021).
Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2022 tăng 4,8% 13do trình độ của người lao
động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2022 đạt
26,2%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với năm 2021). 2.9.
Tổng kết thành tựu về phát triển kinh tế của đất nước qua 35 năm đổi mới
Tại Việt Nam trong suốt 35 năm Đổi mới, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cùng chuyển động
trên quỹ đạo của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng xoay trên một quỹ đạo
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đối với
thành phần kinh tế nhà nước trong đó có doanh nghiệp nhà nước, sau
35 năm phát triển nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển đáng kể. Hiện doanh
nghiệp nhà nước số lượng không lớn, chỉ chiếm khoảng 0,07% số doanh nghiệp cả
nước, nhưng đóng góp tới 7% tổng tài sản, 10% tổng vốn các doanh nghiệp trên thị
trường và 30% GDP, chưa kể tới đóng góp về lao động, việc làm và vai trò điều tiết,
ổn định thị trường khi có bất ổn, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng - an
ninh…Những cái tên như: Viettel, EVN, PVN; Tập đoàn Dệt may Việt Nam,... đang
phát triển lớn mạnh không chỉ ở Việt Nam mà đã vươn ra thế giới.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, qua 35 năm đổi
mới, kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng 39 - 40%
GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng
trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng
13 Năng suất lao động năm 2021 đạt 172,8 triệu đồng/lao động, tăng 4,6% so với năm trước. 9 lOMoAR cPSD| 45470709
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, tạo việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội,...
Thực tế những tên tuổi của các thương hiệu như Sungroup, Vingroup, Masan,
TH True milk, Thaco, Vinfast... đã khẳng định được vị thế của sản phẩm Việt Nam,
mang tầm quốc tế và có ảnh hưởng lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Ngoài các mặt
hàng nông sản như gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều... thì nhiều sản phẩm thuộc nhóm
hàng công nghiệp của Việt Nam đã được thế giới biết tên, trong đó, ôtô Vinfast là một minh chứng.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng về kinh tế, vị thế của kinh tế tư nhân
ngày càng được nâng cao trong đời sống chính trị, xã hội.
Quảng Ninh, địa phương điển hình với sự tham gia của khu vực tư nhân trong
việc thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn đã giúp Quảng Ninh tạo đột
phát kinh tế. Trong đó phải kể đến Tập đoàn Sun Group tham gia xây dựng sân bay
Vân Đồn - sân bay tư nhân đầu tiên ở Việt Nam, với tốc độ nhanh chóng khi chỉ mất
gần 2 năm xây dựng với số vồn đầu tư khủng lên tới 7.463 tỷ đồng. Sân bay Vân Đồn
không những vượt mặt nhiều sân bay khác về tốc độ thi công nhanh chóng, hiệu quả
và chuyên nghiệp mà còn xuất sắc trở thành một trong chín sân bay quốc tế hiện đại nhất Việt Nam.
Ở địa phương khác, Hải Phòng đang có những bứt phá mạnh về mọi mặt khiến
đất cảng chuyển biến thần kỳ, trong đó không thể không kể đến sự hiện diện của
những dự án bất động sản đình đám, nhà máy sản xuất hiện đại thuộc Tập đoàn Vingroup.
Không chỉ riêng Quảng Ninh, Hải Phòng, trên cả nước, rất nhiều dự án lớn và
khó, mang dấu ấn các doanh nghiệp tư nhân đã được hình thành nhiều năm qua. Có thể
kể đến một số dự án hạ tầng như hầm đường bộ Đèo Cả (26 nghìn tỷ đồng), hầm Hải
Vân 2 (7.200 tỷ đồng), cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (45 nghìn tỷ đồng), cầu Bạch Đằng (7.200 tỷ đồng)…
Không chỉ các dự án hạ tầng và ô tô, một ngành khó khai thác khác là hàng
không cũng mang đậm dấu ấn của các doanh nghiệp tư nhân. Kể từ khi bắt đầu cất
cánh vào cuối năm 2011, Vietjet Air đã giúp định vị lại ngành này và vươn lên trở
thành hãng hàng không lớn thứ hai Đông Nam Á.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp sản xuất của tư nhân cũng đạt kim ngạch xuất
khẩu hàng triệu USD, đóng góp lớn vào tăng trưởng, thu ngân sách và giải quyết việc làm.
Một trong những quốc gia thu hút FDI thành công nhất trong khu vực
Trong hơn 30 năm thu hút vốn FDI, Việt Nam đã thu hút trung bình hơn 7 tỷ
USD/năm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/02/2023, tổng vốn đăng ký 10 lOMoAR cPSD| 45470709
cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước
ngoài đạt gần 3,1 tỷ USD. Trong xu hướng đầu tư toàn cầu có nhiều dịch chuyển, vốn
đầu tư FDI tiếp tục duy trì kết quả khả quan cho thấy, Việt Nam tiếp tục được lựa chọn
là điểm đến hấp dẫn và an toàn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngay trong bối cảnh dịch COVID-19, vẫn có hàng loạt công ty công nghệ lớn
trên thế giới như Foxconn, Luxshare, Pegatron..., những nhà sản xuất cung ứng linh
kiện, sản phẩm hàng đầu cho các "ông lớn" công nghệ toàn cầu Apple, Sony, Microsoft
đã đến đầu tư tại Bắc Giang, Hải Phòng, những tên tuổi lớn này có thể tạo ra làn sóng
đầu tư mới vào Việt Nam thời gian tới.
Mặc dù đạt những thành tựu nhất định, tuy nhiên trước yêu cầu đổi mới của nền
kinh tế để đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, Đảng và Nhà nước đang nghiên
cứu, xem xét những vấn đề đặt ra để hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trách nhiệm xã hội là thước đo của thành công
Hiệu quả, thành công của các thành phần kinh tế không chỉ được đo bằng hiệu
quả kinh tế, mà còn được đo đếm bằng trách nhiệm xã hội, bằng tiềm năng và cơ hội
cho tương lai dài rộng. Các doanh nghiệp nhà nước bên cạnh việc hoạt động vì mục
đích lợi nhuận thì còn vì nhiều mục tiêu để phục vụ, nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc
sống của người dân, của nền kinh tế nước nhà và là củng cố chắc chắn hơn nữa diện
mạo quốc gia. Từ đó cho thấy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước là rất lớn.
Các doanh nghiệp nước ngoài cũng ngày càng phát huy trách nhiệm với người
tiêu dùng, môi trường, xã hội hay các nhân viên tham gia lao động trong các doanh nghiệp của mình.
Minh chứng rõ nét nhất cho việc sẵn sàng gánh vác trách nhiệm xã hội phải kể
đến là đóng góp của khối kinh tế tư nhân. Trách nhiệm xã hội của khu vực tư nhân thể
hiện rõ nét trong trường hợp Sân bay Vân Đồn trong mùa dịch COVID-19.
Khi dịch bệnh nguy hiểm bùng phát tại Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam bằng
rất nhiều nỗ lực đã quyết định thực hiện những chuyến bay “giải cứu” đồng bào về
nước. Khi ấy, sân bay Vân Đồn là một trong những cái tên “tiên phong” sẵn sàng nhận
nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm chưa từng có tiền lệ này.
Hay việc chủ trương xã hội hóa vaccine giảm thiểu áp lực cho ngân sách của
Đảng và Chính phủ phát động cũng đã ghi nhận sự đóng góp tích cực của các doanh
nghiệp tư nhân. Bộ Tài chính cho biết đã tiếp nhận 300 tỷ đồng từ Tập đoàn Sun
Group, 160 tỷ đồng từ Vingroup; Vinamilk ủng hộ 10 tỷ đồng… Việc ủng hộ của các
doanh nghiệp đã thể hiện tình cảm, tinh thần trách nhiệm cao vì cộng đồng, cùng cả 11 lOMoAR cPSD| 45470709
nước tập trung phòng chống dịch bệnh COVID-19, góp phần bảo đảm an sinh xã hội,
an toàn đời sống và sức khỏe nhân dân.
Vingroup là một trong những doanh nghiệp tiên phong đi đầu trong các hoạt
động tài trợ phòng, chống dịch như: Dự án sản xuất máy thở, hỗ trợ các gói trang thiết
bị y tế, máy và hóa chất xét nghiệm virus SARS-CoV-2; tài trợ cho 3 dự án nghiên cứu
ứng phó nhanh với dịch COVID-19; tri ân các bác sỹ tuyến đầu chống dịch... với số
tiền lên tới trên 1.277 tỷ đồng trong năm 2020. Tập đoàn Vingroup còn mong muốn
đầu tư đưa công nghệ sản xuất vaccine vào Việt Nam để có thể chủ động trong sản xuất vaccine.
Hay ở một khía cạnh khác về trách nhiệm xã hội đó là Chương trình "Quỹ 1
triệu cây xanh cho Việt Nam" do Vinamilk phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường
triển khai từ năm 2012. Sau 9 năm triển khai, Quỹ 1 triệu cây xanh cho Việt Nam và
Vinamilk đã chính thức cán đích với 1.121.000 cây được trồng tại 56 địa điểm thuộc
20 tỉnh, thành phố với tổng giá trị 12,5 tỷ đồng trong hành trình phủ xanh Việt Nam.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có hệ thống kênh rạch chằng chịt, việc đi lại
sinh hoạt của bà con nông còn khó khăn đã diễn ra nhiều năm. Khi phát động chương
trình Cầu Nông thôn nhằm xây dựng hàng loạt cầu bê tông tại tỉnh Long An, Công ty
Ô tô Trường Hải (Thaco) đã cùng nhiều doanh nghiệp khác nhiệt tình hưởng ứng để
góp phần phát triển cơ sở hạ tầng giao thông tại những xã còn kém phát triển về hạ tầng.
Đó chỉ là một vài những chương trình, hành động cụ thể trong hàng trăm, hàng
nghìn các chương trình mà các doanh nghiệp tư nhân đã thực hiện vì trách nhiệm với cộng đồng. KẾT LUẬN
Công cuộc đổi mới của đất nước ta sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(1986) của Đảng không chỉ đạt được những thành tựu to lớn qua 35 năm thực hiện, mà
còn tiếp tục được đẩy mạnh với những nguồn lực phong phú và hết sức to lớn, trong
đó có những nguồn lực không bao giờ cạn. Những thành tựu to lớn đó đã đánh dấu
một bước tiến chưa từng thấy trên con đường xây dựng, phát triển đất nước, minh
chứng thuyết phục cho tính chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta đang xây dựng. Ý nghĩa to lớn của những thành tựu đó không đơn thuần ở
những con số mà quan trọng hơn là ở những nỗ lực cao nhất mà Đảng và Nhà nước ta
đã tập trung một cách hiệu quả trong một thời gian không dài, trong những điều kiện
rất khó khăn, phức tạp, để cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho
nhân dân. Đó cũng là cơ sở niềm tin để khơi dậy khát vọng của nhân dân ta về một xã
hội xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hạnh phúc, vì hạnh phúc của nhân dân. 12 lOMoAR cPSD| 45470709
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Phạm Minh Chính, & Vương Quân Hoàng (2009). Kinh tế Việt Nam: Thăng
trầm và đột phá. Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật. 2.
Báo Điện tử Chính phủ (2023), ‘2 tháng đầu năm 2023, tổng vốn FDI vào Việt
Nam đạt gần 3.1 tỷ USD’, truy cập ngày 08 tháng 03 năm 2023, từ
gan-31-ty-usd-102230227142308202.htm>. 3.
Bộ Khoa học và Công nghệ, Thời kỳ 1986 – 1992, Hà Nội. 4.
Đặng Quang Định (2022). Những thành tựu to lớn của đất nước sau 35 năm
thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, truy cập ngày 08
tháng 03 năm 2023, từ datnuoc-sau-35-nam-thuc-hien-duong-loi-doi-moi-do-dang-khoi-xuong-va- lanhdao-duk15671.aspx>. 5.
Lê Minh Nghĩa (2018). Đổi mới tư duy kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, truy cập
ngày 08 tháng 03 năm 2023, từ < https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-
doi/doimoi-tu-duy-kinh-te-trong-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-
chu-nghiaviet-nam-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien.html>. 6.
Tổng Cục Thuế - Bộ Tài chính (2011), Giai đoạn 1976 - 1985: Thời kỳ thống
nhất đất nước - trước cải cách hệ thống chính sách thuế, Hà Nội. 7.
Tổng Cục Thống kê (2020), Những dấu ấn quan trọng về kinh tế – xã hội trong
hành trình 75 năm thành lập và phát triển đất nước qua số liệu thống kê, Hà Nội. 8.
Bùi Quang Tuấn & Hà Huy Ngọc (2022). ‘Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển
vọng năm 2022’, Tạp chí Cộng sản, truy cập lần cuối ngày 08 tháng 03 năm
2023, từ < https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinhte/-
/2018/825002/kinh-te-viet-nam-nam-2021-va-trien-vong-nam-2022.aspx>. 9.
Tổng Cục Thống kê (2022), Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế – xã hội quý
IV và năm 2022, thông cáo báo chí, ngày 29 tháng 12, Hà Nội. 10.
Đỗ Thị Thảo & Nguyễn Thị Phong Lan (2013). ‘Những thành tựu cơ bản về
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay’, Tạp chí Cộng
sản, truy cập lần cuối ngày 08 tháng 03 năm 2023, từ <
https://tapchicongsan.org.vn/en/chinh-tri-xay-dung-dang/-
/2018/21694/nhungthanh-tuu-co-ban-ve-phat-trien-kinh-te---xa-hoi-cua-viet-
nam-tu-khi-doi-moiden-nay.aspx>. 11.
Lê Hải Mơ (2016). Những thành tựu cơ bản trong đổi mới và phát triển kinh tế
- tài chính Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 08 tháng 03 năm 2023, từ < 13 lOMoAR cPSD| 45470709
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=MOFUCM088742>. 12.
Báo Điện tử VTV (2021), ‘Nhiệm kỳ 2016 – 2020: Việt Nam đạt nhiều thành
tựu kinh tế đặc biệt, nâng cao vị thế đất nước’, ngày 13 tháng 01. 13.
Võ Hồng Phúc (2006). Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới
(1986 - 2005), trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 1996. 15.
Hà Đăng: Đổi mới - Những thành tựu lớn, trong Việt Nam 20 năm đổi mới. 16.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011. 17.
Chính phủ (2011), Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2012 và 5 năm 2011 - 2015, Hà Nội. 18.
Ngân hàng Nhà nước (2021), Báo cáo chính sách tín dụng - tiền tệ tháng 12 và
cả năm 2021 , Hà Nội. 19.
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Dành cho bậc đại học hệ không
chuyên lý luận chính trị (2021), Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội. 14