lOMoARcPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGOẠI NGỮ KINH TẾ
BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI :
Từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình đ
phát triển của lực lượng sản xuất, làm rõ vai trò của
người lao động trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Sinh viên thực hiện : Trương Thị Hảo
Lớp : LLNL1105(221)_20
Mã sinh viên : 11216421
NỘI Giáo viên hướng dẫn : TS.Nghiêm Thị Châu Giang – 2022
MỤC
LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................1
A. LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................2
lOMoARcPSD| 44985297
1
B. PHẦN NỘI
DUNG..............................................................................................3
1. Các khái niệm cơ bản........................................................................................3
1.1. Lực lượng sản xuất.....................................................................................3
1.2. Quan hệ sản xuất........................................................................................3
1.3. Cách mạng công nghiệp 4.0.......................................................................4
2. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất........................................................................................................6
2.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất.........6
2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.........7
2.3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội....................................................................8
3. Vai trò của người lao động trong cuộc cách mạng 4.0......................................9
3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nhân tố con người với phát
triển.9
3.2. Con người chủ thể, nguồn lực chủ yếu, mục tiêu của sự phát triển
trongcuộc cách mạng công nghiệp
4.0....................................................................11 C. KẾT
LUẬN........................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................16
A. LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử loài người, tất yếu diễn ra hoạt động lao động sản xuất, làm ra
của cải vật chất để duy trì cuộc sống con người thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là
hoạt động căn bản bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa định
hình các hình thái kinh tế-xã hội. Xét về phương diện sản xuất, lịch sử đã trải qua các
phương thức sản xuất hội khác nhau như những nấc thang phát triển văn minh:
văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp. Thế giới cũng chứng kiến các cuộc
cách mạng công nghiệp: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (chế tạo máy cơ khí);
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (điện khí hóa); Cách mạng công nghệ thông tin
hiện nay Cách mạng công nghiệp lần thứ với sphát triển trí tuệ nhân tạo
(4.0). Trong quá trình lao động sản xuất đòi hỏi không ngừng phát triển lực lượng
sản xuất (trước hết công cụ lao động), phát triển khoa học, kthuật, trình độ người
lao động.
Thực tiễn cũng đã làm rõ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất từ đó khẳng định sự tồn tại của quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất tạo động lực cho kinh tế phát triển. Lực lượng sản
lOMoARcPSD| 44985297
2
xuất phát triển đòi hỏi quan hệ sản xuất phù hợp. Sự vận động phát triền của lực
lượng sản xuất quyết định làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
Ngược lại, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập và tác động trở lại sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng khi
quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc phát triển vượt trội hơn so với lực lượng sản xuất sẽ
làm kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 thì vai trò của người lao động là cùng quan trọng ảnh hưởng to
lớn đến tiến trình cũng như là hiệu quả của nó. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học,
tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới tác động sâu sắc đến đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế chỉ ra rằng, cuộc
cách mạng này có thể mang lại sự bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là ở khả năng phá
vỡ thị trường lao động. Khi tđộng hóa thay thế người lao động bằng máy móc
thể làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giữa lợi nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận
so với sức lao động. Đây chính minh chứng cho mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất
lực lượng sản xuất. cũng nảy sinh ra vấn đề vai trò của người lao động trong
cuộc cách mạng 4.0 hiện nay. Do trình độ của em còn hạn chế nên khó thể tránh
khỏi những thiếu sót trong bài tiểu luận. Rất mong giáo viên bộ môn góp ý bổ sung
để em có thể hoàn thiện kiến thức và rút kinh nghiệm cho những bài tập sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất sự kết hợp giữa người lao động với liệu sản xuất,
tạo ra sức sản xuất năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới
tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc
về người lao động, (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao động) cùng các
liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ
trợ của quá trình sản xuất,…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất
của các quá trình sản xuất.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, nhân tngười lao động là nhân
tố giữ vai trò quyết định. Bởi vì, suy đến cùng tcác liệu sản xuất chỉ sản phẩm
lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất
phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động.
lOMoARcPSD| 44985297
3
Mặt khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản
ánh rõ nhất trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện tiêu biểu trình độ con người
chinh phục giới tự nhiên.
Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nội dung vật chất của
quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra thiếu một trong
hai nhân tố người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng chỉ có lực lượng sản xuất
vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được mà cần phải có những quan
hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy.
Người lao động là con người tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của hội. Người lao động là
chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng của mọi của cải vật chất xã hội. Đây
nguồn lực bản, tận, đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất
xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và
lao động trí tuệ ngày càng tăng lên.
1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người và con người trong quá trình
sản xuất vật chất. Theo một nghĩa chung nhất thì quan hệ sản xuất là một yếu tố của
phương thức sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất
quan hệ kinh tế của một hình thái kinh tế hội nhất định. Mối quan hệ giữa con
người và con người trong quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính chất, bản chất
của quan hlao động dưới góc độ chung nhất nó thể hiện bản chất kinh tế của một
hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất mang tính khách quan độc lập
với ý thức của con người.
Kết cấu của quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt quan hệ cơ bản sau:
- Quan hệ sở hữu về liệu sản xuất. Xét về mặt lịch sử quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản, đó là sở hữu tư nhân
và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Quan hnày hoàn toàn phụ thuộc vào
quan hshữu đối với liệu sản xuất. Bởi vì, những chủ thể hội nào nắm tư liệu
sản xuất chủ yếu của hội, thì họ sẽ người nắm vai trò tổ chức quản sản
xuất vật chất của xã hội.
- Quan hphân phối sản phẩm lao động. Quan hệ này phụ thuộc vào quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bới vì, chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất thì
đồng thời họ người mức hưởng thụ nhiều hơn, và người quyền quyết định
phân phối sản phẩm vật chất của xã hội.
lOMoARcPSD| 44985297
4
Trong ba mặt quan hệ của quan hệ sản xuất đều sự tác động qua lại lẫn nhau.
Nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ giữ vai trò quyết định trong quan
hệ sản xuất. Đồng thời quan hệ sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội là sự khác nhau về
bản chất và có tính chất đối lập.
1.3. Cách mạng công nghiệp 4.0
Theo Gartner (Công ty nghiên cứu vấn CNTT), năm 2013 thuật ngữ
“Industrie 4.0” xuất hiện trong một tờ báo của chính phủ Đức. Khái niệm cơ bản của
“Industrie 4.0” là kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra
sự hội tụ kỹ thuật sgiữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng quy trình bên
trong.
Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế
Giới mang đến cái nhìn đơn giản hơn về “industrie 4.0” như sau: "Cách mạng công
nghiệp đầu tiên sdụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc
cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách
mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ,
cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết
hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số sinh
học." Tóm lại, một cách hiểu đơn giản hơn: Công nghiệp 4.0 là quá trình tích hợp tất
cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình và phương thức sản xuất, kinh
doanh.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra trên 3 lĩnh vực chính:
Kỹ thuật số
Công nghệ sinh học
Vật lý
Yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong công nghiệp 4.0 là:
Ttuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI): Được hiểu như một ngành của
khoa học máy tính liên quan đến việc tđộng hóa các hành vi thông minh. AI là trí
tuệ do con người lập trình tạo nên với mục tiêu giúp máy tính có thể tự động hóa các
hành vi thông minh như con người. Ttuệ nhân tạo khác với việc lập trình logic
trong các ngôn ngữ lập trình việc ứng dụng các hệ thống học máy (machine
learning) để phỏng trí tuệ của con người trong các xử con người làm tốt
hơn máy tính. Cụ thể, trí tuệ nhân tạo giúp máy tính được những trí tuệ của con
người như: biết suy nghĩ và lập luận để giải quyết vấn đề, biết giao tiếp do hiểu ngôn
ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi. v.v…
lOMoARcPSD| 44985297
5
Hiện nay, trí tuệ nhân tạo đã được áp dụng nhiều hơn trong các lĩnh vực như y
học, kinh tế, quân sự, các ngành kĩ thuật cũng như trong các trò chơi điện tử và phần
mềm máy tính thông dụng.
Vạn vật kết nối (Internet Of Things - IoT): Theo định nghĩa của Wikipedia IoT
được ví von như một kịch bản thế giới, mỗi đồ vật, con người được định danh riêng
khả năng truyền tải, trao đổi những dữ liệu, thông tin thông qua một mạng
Internet không phụ thuộc vào khả năng tương tác giữa người với người hoặc
người với thiết bị máy tính. IoT đã phát triển từ sự hội tụ của công nghệ không dây,
công nghệ vi cơ điện tử Internet. Nói đơn giản là một tập hợp các thiết bị có khả
năng kết nối với nhau, với Internet và với thế giới bên ngoài để thực hiện một công
việc nào đó.
Trong những năm vừa qua, IoT được ứng dụng nhiều trong thực tiễn, điển hình
các ngành nghề chế tạo máy, chăm sóc sức khỏe, nhà thông minh...
Dữ liệu lớn (Big Data): Theo định nghĩa của Gartner, “Big Data tài sản thông
tin, những thông tin này có khối lượng dữ liệu lớn, tốc độ cao và dữ liệu đa dạng,
đòi hỏi phải công nghệ mới để xử hiệu quả nhằm đưa ra được các quyết định
hiệu quả, khám phá được các yếu tẩn sâu trong dữ liệu tối ưu hóa được quá trình
xử lý dữ liệu”.
Điện toán đám mây (Cloud): việc sử dụng các dịch vụ như nền tảng phát
triển phần mềm, máy chủ, lưu trữ phần mềm qua internet, thường được gọi đám
mây. Data mining biến dliệu thô thành cái nhìn sâu sắc để đưa ra quyết định kinh
doanh tốt hơn.
2. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượngsản xuất
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất quan hsản xuất quy định
sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất hai mặt của một phương thức sản xuất tác động biện
chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hsản
xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
2.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
lOMoARcPSD| 44985297
6
Sự vận động phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nội dung của quá trình sản xuất tính
năng động, cách mạng, thường xuyên vận động phát triển, quan hệ sản xuất
hình thức hội của quá trình sản xuất tính ổn định tương đối. Trong sự vận động
của mâu thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. sở
khách quan quy định sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là
do biện chứng giữa sản xuất nhu cầu của con người: do tính năng động cách
mạng của sphát triển công cụ lao động; do vai trò của người lao động chủ thể
sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của sự phát triển
lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử.
Sự phù hợp của quan hsản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động phát triển không
ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản
xuất từ chlà “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất
trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu
của nền sản xuất xã hội phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển. C.Mác đã
nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các
mối quan hệ hội:”Những quan hệ hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương
thức sản xuất của mình, và do đó thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sông của
mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ hội của mình. Cái cối xay bằng
quay tay đưa lại xã hộilãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại hội
có nhà tư bản công nghiệp.”
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hsản xuất mới
trong lịch sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Con người
bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự
phù hợp mới làm cho quá trính sản xuất phát triển đạt tới một nấ thang cao hơn.
2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan
hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện
chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hsản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất “hình thức phát triển”
của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự
lOMoARcPSD| 44985297
7
phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất;
sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hsản xuất; sự kết hợp đúng đắn
giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất. Sự phì hợp bao gồm cả việc tạo điều
kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo
điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả
vật chất, tinh thần của lao động.
Nếu quan hệ sản xuất đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đều là không phù hợp. Sự phù hợp không nghĩa là đông nhất tuyệt
đối chỉ tương đối, trong đó chứa đựng cả sự khác biệt. Sự phợp diễn ra trong
sự vận động phát triển, một quá trình thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn giải
quyết mâu thuẫn.
Sự phợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục đích,
xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống lao động thúc đẩy
sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều
hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan
hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng,
quy mô sản xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng
nhanh chóng; người lao động nhiệt tình hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động
được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không
phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên sự kìm hãm
đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.
Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất
quan hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở
trình độ cao hơn. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải
quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt
tới một nấc thanh cao hơn. C.Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó
của chúng, các lực lượng sản xuất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất
hiện có...trong đó từ trước tới nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ ch
các hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng
xã hội.”
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch snhân loại. Sự tác
động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch shội
loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản
xuất cộng sản nguyên thủy qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức
lOMoARcPSD| 44985297
8
sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất bản chủ nghĩa đang phát triển đến
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy định,
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất những đặc
điểm tác động riêng. Sự phợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu thiết lập chế độ công hữu về liệu sản xuất chủ
yếu. Sự phù hợp không diễn ra tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận
thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất quan hệ
sản xuấttrong hội chủ nghĩa thể b“biến dạng” do nhận thức vận dụng không
đúng quy luật. 2.3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển
kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng
lao động công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một mối quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên bên xuống,
từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tùy tiện,
chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Nhận thức đúng đắn quy luật này ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt,
vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là sở khoa học để nhận thức sâu sắc
sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng
Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức vận dụng đúng đắn
sáng tạo quy luật này, đã đen lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa hình kinh tế tổng quát, sự vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát
triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Vai trò của người lao động trong cuộc cách mạng 4.0
3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nhân tố con người với phát triển
Sau khi thực hiện tổng kết quá trình phát triển 10 năm từ 1976-1986, với việc
nhận định nhiều điểm hạn chế mang tính duy ý chí, nóng vội, chưa đạt kết quả như
mong đợi, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại
hội của đường lối Đổi mới Việt Nam, 1986) đã phân tích một cách biện chứng mối
quan hệ giữa phát huy nhân tố con người với phát triển. Tư duy về mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và mục tiêu con người được cụ thể hơn, hiện thực, rõ nét hơn khi
lOMoARcPSD| 44985297
9
gắn mối quan hệ đó trong chính sách xã hội. Theo đó, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: trình độ phát triển kinh tế điều kiện vật chất để thực hiện chính sách
hội, nhưng mục tiêu hội lại mục tiêu của hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn
khổ ca hoạt động kinh tế, chính sách hội có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để phát triển sản xuất. Do đó,
cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được những nhiệm vụ, mục tiêu
phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Việc phát huy yếu tố con
người lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động. Cùng
với việc tiến tới xóa bỏ sở kinh tế hội của sự bất công hội, phải đấu tranh
kiên quyết chống những hiện tượng tiêu cực, làm cho những nguyên tắc công bằng
hội lối sống lành mạnh được khẳng định trong cuộc sống hằng ngày của hội.
Việc chăm lo con người trong phát triển không chỉ nhấn mạnh khía cạnh chung,
vấn đề đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc, bình đẳng giới cũng được Đại hội VI
nêu ra. một quốc gia có nhiều cộng đồng các tộc người, nên việc quan tâm đầy đủ
quyền lợi quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc được coi một trọng tâm trong mục
tiêu phát triển con người. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương:
Trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu
số, cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn giữa
các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau; kết hợp phát triển
kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm lo đời sống con người, kể cả
những người từ nơi khác đến dân tại chỗ. Trên cơ sở đó, giải pháp về sự kết hợp
giữa phát triển kinh tế với chăm lo phát triển con người, lấy con người làm mục tiêu
và con người là động lực phát triển kinh tế được Đại hội VI đề xuất: hơn bao giờ hết,
chúng ta luôn phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với xã hội, hội với kinh tế. Mục tiêu
ổn định tình hình, giải phóng năng lực sản xuất không chỉ là phát triển sản xuất, xây
dựng sở vật chất - kỹ thuật mới còn giải quyết các vấn đề hội, từ công
việc làm đến đời sống vật chất và văn hóa, bồi dưỡng sức dân, xây dựng các quan hệ
xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, thực hiện công bằng xã hội, với ý thức người lao
động là lực lượng sản xuất lớn nhất, là chủ thể của xã hội.
Trên cơ sở tư duy Đổi mới của Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội toàn quốc lần
thứ VII của Đảng thông qua đề ra chủ trương đầy đủ hơn nữa về con người vừa
mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế. Cương lĩnh nhấn mạnh yêu cầu phát
huy nhân tố con người trên sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi
nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống
vật chất đời sống tinh thần của nhân dân; giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với
chăm lo lợi ích lâu dài; giữa nhân với tập thể cộng đồng hội; bảo vệ tự do
lOMoARcPSD| 44985297
10
tôn giáo, tín ngưỡng và chống lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng làm tổn hại đến lợi
ích T quốc và nhân dân.
Trong đường lối phát triển kinh tế của Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nguồn lực con người trở thành động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đại hội khẳng định: Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố bản cho
sự phát riển nhanh bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước,
không ngừng tăng tích lũy cho đầu phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải
thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
hội, bảo vệ môi trường. Con người văn hóa trở thành thành tố mục tiêu động
lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - hội. Cụ thhơn, Đảng
Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ công
bằng hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng
hội phải thể hiện ở khâu phân phối hợp tư liệu sản xuất lẫn ở khâu kết quả sản xuất,
ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực
của mình. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo.
Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân
tộc, các tầng lớp dân cư.
Trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, con người được
khẳng định nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Như vậy, về vai trò của nhân tố con người trong phát triển kinh tế,
từ chỗ được xác định là quan trọng, chủ yếu, nền tảng thì đến Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam, con người trở thành động lực quyết định đến sự phát triển. Con
người đã được đặt đúng vào vị trí đối với quá trình phát triển. Trong phát triển kinh
tế, con người được quan tâm chu đáo hơn. Giải quyết việc làm là một chính sách xã
hội bản. Bằng nhiều giải pháp, tạo nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao
động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế
mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ khả năng sử dụng nhiều lao
động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng
chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển các
làng nghề, đẩy mạnh phong trào lập nghiệp của thanh niên đào tạo lao động
nghề. Tổ chức quản chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao động nước ngoài. Khẩn
trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội an sinh họi. Sớm xây dựng chính
sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp. Đó là những giải pháp cụ thể được
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nhằm hiện thực hóa hơn nữa phương
châm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát triển kinh tế.
lOMoARcPSD| 44985297
11
3.2. Con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu, mục tiêu của sự phát triển trong cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quyết
định đối với sự phát triển kinh tế - hội của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng Nhà nước ta càng
đặc biệt coi trọng việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hội nhập
quốc tế hiện nay.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp
cận kinh tế tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế - xã hội chưa cao thì yêu cầu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự
nghiệp đổi mới. Đảng ta xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực
làm yếu tố bản cho sự phát triển nhanh bền vững; điều kiện để rút ngắn
khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển bền vững; là điều kiện hội nhập
quốc tế sâu rộng.
Do đó, trong chiến lược phát triển đất nước, nguồn nhân lực phải được quan
tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí niềm tin...
Nguồn nhân lực chất lượng cao, với số lượng cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu
ý chí và khát vọng, có lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước
ta bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay
Ông cha ta thường căn dặn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. C. Mác cho
rằng, con người yếu tsố một của lực lượng sản xuất. Nhà tương lai học người
Mỹ, Alvin Toffler nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: “Tiền bạc tiêu mãi cũng
hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những
không mất đi mà còn lớn lên”.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, svật chất - kỹ
thuật, khoa học - công nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong đó
nguồn nhân lực được xem năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn
nhân lực với yếu tố hàng đầu trí tuệ, chất xám ưu thế nổi bật không bị cạn
kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác
nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp
với nguồn nhân lực một cách hiệu quả. Nguồn nhân lực nhân tố quyết định việc
khai thác, sử dụng, bảo vệ tái tạo các nguồn lực khác; trong đó nguồn nhân lực
lOMoARcPSD| 44985297
12
chất lượng cao quyết định quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế - hội của mỗi
quốc gia.
Thực tế chứng minh rằng, một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều
kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi, nhưng kinh tế thể tăng trưởng nhanh
phát triển bền vững nếu quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn, biết tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội n
trí thức xứng tầm; lực lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đông đảo các
doanh nhân tài ba.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri
thức và trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực, đặc biệt
nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Các thuyết
tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức
cao đều phải dựa trên ít nhất ba trcột bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết
cấu htầng hiện đại nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan
trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính con người, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tức là những người được đầu tư phát triển, kỹ năng, kiến
thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con
người, vốn nhân lực”. Trong bối cảnh thế giới nhiều biến động cạnh tranh quyết
liệt, phần thắng sẽ thuộc vnhững quốc gia nguồn nhân lực chất lượng cao,
môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một môi trường chính trị - hội ổn định.
Đại hội XII khẳng định, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị
văn hóa hệ chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; tạo môi trường để hoàn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân
thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật,
mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các giá
trị cao thượng, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn,
lạc hậu, chống các quan điểm hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu làm tha hóa
con người. giải pháp khắc phục sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những
mặt hạn chế của con người Việt Nam.
Nhấn mạnh thêm về con người là động lực của sự phát triển, Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định con người
nền văn hóa Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng và tạo môi trường và điều kiện hội thuận
lợi nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng
phát triển, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam trung tâm, mục tiêu
lOMoARcPSD| 44985297
13
động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đi đôi với đường lối tiếp tục đổi
mới phát triển kinh tế, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát huy giá trị văn
hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Trong đó, Đại hội nêu bật chủ trương: Tập trung
nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa
chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong
thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu
niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng thào dân tộc, truyền thống
lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất thanh
niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp
về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy
các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo
dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt thế hệ trẻ. Từng
bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người
Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống giá trị
hiện đại. chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật s
trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện thụ hưởng văn hóa của nhân dân. Phát huy
ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, quy định, quy ước xã
hội, bảo đảm công bằng về hội thụ hưởng văn hóa. Khắc phục sự chênh lệch
về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội,
đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các
khu công nghiệp... Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và
ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng và thực hiện các chuẩn
mực văn hóa trong lãnh đạo quản lý. Chú trọng y dựng môi trường văn hóa công
sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, phái, mất đoàn
kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và
kinh doanh.
Cụ thể hóa tinh thần đó, Chiến lược phát triển đất nước 10 năm 2021-2030
khẳng định nội dung về phát huy nhân tố con người trong snghiệp phát triển Việt
Nam là: Xây dựng con người Việt Nam phat triển toàn diện, sức khỏe, trình độ,
có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực, nhất nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
lOMoARcPSD| 44985297
14
C. KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có sự phù hợp.
Do đó phải nắm bắt tốt quy luật để chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ
thể. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quy luật phổ biến trong tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên
của lịch sử loài người tchế đcông nguyên thủy qua chế độ chiếm hữu lệ,
chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa đến hội cộng sản tương lai do
sự tác động của các hệ thống quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Lực lượng
sản xuất nhân tthường xuyên biến đổi, ngược lại quan hsản xuất thường tính
ổn định, tuy nhiên, sự ổn định đó chỉ mang tính tạm thời và cũng cần có sự thay đổi
cho phù hợp. Nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
một cách toàn diện rộng khắp trên mọi lĩnh vực kinh tế. thế việc cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới hội chủ nghĩa gắn liền với
quá trình công nghiệp, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất vô cùng quan trọng.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh
tế tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế - xã hội chưa cao thì yêu cầu nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi
mới. Đảng ta xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; là điều kiện đrút ngắn khoảng cách tụt
hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước nhằm phát triển bền vững; là điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng.
Do đó, trong chiến lược phát triển đất nước, nguồn nhân lực phải được quan
tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí niềm tin...
Nguồn nhân lực chất lượng cao, với số lượng cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu
ý chí và khát vọng, có lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước
ta bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, XII,
XII
2. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VIII, IX
3. Giáo trình triết học Mác – Lênin
4. Tạp chí cộng sản (21/2/2020)
5. Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung Ương (9/7/2021)

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGOẠI NGỮ KINH TẾ BÀI TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI :
Từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, làm rõ vai trò của
người lao động trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Sinh viên thực hiện : Trương Thị Hảo Lớp : LLNL1105(221)_20 Mã sinh viên : 11216421
NỘI Giáo viên hướng dẫn :
TS.Nghiêm Thị Châu Giang – 2022 MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................1
A. LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................2 lOMoAR cPSD| 44985297 B. PHẦN NỘI
DUNG..............................................................................................3
1. Các khái niệm cơ bản........................................................................................3
1.1. Lực lượng sản xuất.....................................................................................3
1.2. Quan hệ sản xuất........................................................................................3
1.3. Cách mạng công nghiệp 4.0.......................................................................4
2. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất........................................................................................................6
2.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất.........6
2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.........7
2.3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội....................................................................8
3. Vai trò của người lao động trong cuộc cách mạng 4.0......................................9
3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nhân tố con người với phát triển.9
3.2. Con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu, mục tiêu của sự phát triển trongcuộc cách mạng công nghiệp
4.0....................................................................11 C. KẾT
LUẬN........................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................16 A. LỜI NÓI ĐẦU
Trong lịch sử loài người, tất yếu diễn ra hoạt động lao động sản xuất, làm ra
của cải vật chất để duy trì cuộc sống con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là
hoạt động căn bản bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa định
hình các hình thái kinh tế-xã hội. Xét về phương diện sản xuất, lịch sử đã trải qua các
phương thức sản xuất xã hội khác nhau như những nấc thang phát triển văn minh:
văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp. Thế giới cũng chứng kiến các cuộc
cách mạng công nghiệp: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (chế tạo máy cơ khí);
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (điện khí hóa); Cách mạng công nghệ thông tin
và hiện nay là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển trí tuệ nhân tạo
(4.0). Trong quá trình lao động sản xuất đòi hỏi không ngừng phát triển lực lượng
sản xuất (trước hết là công cụ lao động), phát triển khoa học, kỹ thuật, trình độ người lao động.
Thực tiễn cũng đã làm rõ mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất từ đó khẳng định sự tồn tại của quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất tạo động lực cho kinh tế phát triển. Lực lượng sản 1 lOMoAR cPSD| 44985297
xuất phát triển đòi hỏi có quan hệ sản xuất phù hợp. Sự vận động phát triền của lực
lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
Ngược lại, quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập và tác động trở lại sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng khi
quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc phát triển vượt trội hơn so với lực lượng sản xuất sẽ
làm kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 thì vai trò của người lao động là vô cùng quan trọng ảnh hưởng to
lớn đến tiến trình cũng như là hiệu quả của nó. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học,
tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đến đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế chỉ ra rằng, cuộc
cách mạng này có thể mang lại sự bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là ở khả năng phá
vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế người lao động bằng máy móc có
thể làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giữa lợi nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận
so với sức lao động. Đây chính là minh chứng cho mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất. Và nó cũng nảy sinh ra vấn đề vai trò của người lao động trong
cuộc cách mạng 4.0 hiện nay. Do trình độ của em còn hạn chế nên khó có thể tránh
khỏi những thiếu sót trong bài tiểu luận. Rất mong giáo viên bộ môn góp ý bổ sung
để em có thể hoàn thiện kiến thức và rút kinh nghiệm cho những bài tập sau.
Em xin chân thành cảm ơn! B. PHẦN NỘI DUNG
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới
tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc
về người lao động, (như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao động) cùng các
tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ
trợ của quá trình sản xuất,…). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất
của các quá trình sản xuất.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, nhân tố người lao động là nhân
tố giữ vai trò quyết định. Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm
lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất
phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động. 2 lOMoAR cPSD| 44985297
Mặt khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản
ánh rõ nhất trình độ của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người
chinh phục giới tự nhiên.
Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nội dung vật chất của
quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra thiếu một trong
hai nhân tố người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng chỉ có lực lượng sản xuất
vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được mà cần phải có những quan
hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và
năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là
chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng của mọi của cải vật chất xã hội. Đây
là nguồn lực cơ bản, vô tận, và đặc biệt của sản xuất. Ngày nay, trong nền sản xuất
xã hội, tỷ trọng lao động cơ bắp đang có xu thế giảm, trong đó lao động có trí tuệ và
lao động trí tuệ ngày càng tăng lên. 1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người và con người trong quá trình
sản xuất vật chất. Theo một nghĩa chung nhất thì quan hệ sản xuất là một yếu tố của
phương thức sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất là
quan hệ kinh tế của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Mối quan hệ giữa con
người và con người trong quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính chất, bản chất
của quan hệ lao động và dưới góc độ chung nhất nó thể hiện bản chất kinh tế của một
hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất mang tính khách quan độc lập
với ý thức của con người.
Kết cấu của quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt quan hệ cơ bản sau: -
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Xét về mặt lịch sử quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất đã được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản, đó là sở hữu tư nhân
và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. -
Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ này hoàn toàn phụ thuộc vào
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bởi vì, những chủ thể xã hội nào nắm tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội, thì họ sẽ là người nắm vai trò tổ chức và quản lý sản
xuất vật chất của xã hội. -
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ này phụ thuộc vào quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bới vì, chủ thể xã hội nào nắm tư liệu sản xuất thì
đồng thời họ là người có mức hưởng thụ nhiều hơn, và là người có quyền quyết định
phân phối sản phẩm vật chất của xã hội. 3 lOMoAR cPSD| 44985297
Trong ba mặt quan hệ của quan hệ sản xuất đều có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Nhưng quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ giữ vai trò quyết định trong quan
hệ sản xuất. Đồng thời quan hệ sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội là sự khác nhau về
bản chất và có tính chất đối lập.
1.3. Cách mạng công nghiệp 4.0
Theo Gartner (Công ty nghiên cứu và tư vấn CNTT), năm 2013 thuật ngữ
“Industrie 4.0” xuất hiện trong một tờ báo của chính phủ Đức. Khái niệm cơ bản của
“Industrie 4.0” là kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra
sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong.
Klaus Schwab, người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế
Giới mang đến cái nhìn đơn giản hơn về “industrie 4.0” như sau: "Cách mạng công
nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc
cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách
mạng lần 3 sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ,
cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết
hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh
học." Tóm lại, một cách hiểu đơn giản hơn: Công nghiệp 4.0 là quá trình tích hợp tất
cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình và phương thức sản xuất, kinh doanh.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra trên 3 lĩnh vực chính: • Kỹ thuật số • Công nghệ sinh học • Vật lý
Yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong công nghiệp 4.0 là:
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI): Được hiểu như một ngành của
khoa học máy tính liên quan đến việc tự động hóa các hành vi thông minh. AI là trí
tuệ do con người lập trình tạo nên với mục tiêu giúp máy tính có thể tự động hóa các
hành vi thông minh như con người. Trí tuệ nhân tạo khác với việc lập trình logic
trong các ngôn ngữ lập trình là ở việc ứng dụng các hệ thống học máy (machine
learning) để mô phỏng trí tuệ của con người trong các xử lý mà con người làm tốt
hơn máy tính. Cụ thể, trí tuệ nhân tạo giúp máy tính có được những trí tuệ của con
người như: biết suy nghĩ và lập luận để giải quyết vấn đề, biết giao tiếp do hiểu ngôn
ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi. v.v… 4 lOMoAR cPSD| 44985297
Hiện nay, trí tuệ nhân tạo đã được áp dụng nhiều hơn trong các lĩnh vực như y
học, kinh tế, quân sự, các ngành kĩ thuật cũng như trong các trò chơi điện tử và phần
mềm máy tính thông dụng.
Vạn vật kết nối (Internet Of Things - IoT): Theo định nghĩa của Wikipedia IoT
được ví von như một kịch bản thế giới, mỗi đồ vật, con người được định danh riêng
và có khả năng truyền tải, trao đổi những dữ liệu, thông tin thông qua một mạng
Internet mà không phụ thuộc vào khả năng tương tác giữa người với người hoặc
người với thiết bị máy tính. IoT đã phát triển từ sự hội tụ của công nghệ không dây,
công nghệ vi cơ điện tử và Internet. Nói đơn giản là một tập hợp các thiết bị có khả
năng kết nối với nhau, với Internet và với thế giới bên ngoài để thực hiện một công việc nào đó.
Trong những năm vừa qua, IoT được ứng dụng nhiều trong thực tiễn, điển hình
các ngành nghề chế tạo máy, chăm sóc sức khỏe, nhà thông minh...
Dữ liệu lớn (Big Data): Theo định nghĩa của Gartner, “Big Data là tài sản thông
tin, mà những thông tin này có khối lượng dữ liệu lớn, tốc độ cao và dữ liệu đa dạng,
đòi hỏi phải có công nghệ mới để xử lý hiệu quả nhằm đưa ra được các quyết định
hiệu quả, khám phá được các yếu tố ẩn sâu trong dữ liệu và tối ưu hóa được quá trình xử lý dữ liệu”.
Điện toán đám mây (Cloud): là việc sử dụng các dịch vụ như nền tảng phát
triển phần mềm, máy chủ, lưu trữ và phần mềm qua internet, thường được gọi là đám
mây. Data mining biến dữ liệu thô thành cái nhìn sâu sắc để đưa ra quyết định kinh doanh tốt hơn. 2.
Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượngsản xuất
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định
sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác động biện
chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản
xuất tác động trở lại to lớn đối với lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đây là quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
2.1. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất 5 lOMoAR cPSD| 44985297
Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất có tính
năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển, quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động
của mâu thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cơ sở
khách quan quy định sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là
do biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu của con người: do tính năng động và cách
mạng của sự phát triển công cụ lao động; do vai trò của người lao động là chủ thể
sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của sự phát triển
lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động phát triển không
ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản
xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất
trở thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu
của nền sản xuất xã hội là phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển. C.Mác đã
nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các
mối quan hệ xã hội:”Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương
thức sản xuất của mình, và do đó thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sông của
mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay bằng
quay tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội
có nhà tư bản công nghiệp.”
Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới
trong lịch sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Con người
bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự
phù hợp mới làm cho quá trính sản xuất phát triển đạt tới một nấ thang cao hơn.
2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập
tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan
hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện
chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển”
của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự 6 lOMoAR cPSD| 44985297
phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất;
sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; sự kết hợp đúng đắn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự phì hợp bao gồm cả việc tạo điều
kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo
điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả
vật chất, tinh thần của lao động.
Nếu quan hệ sản xuất “ đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất đều là không phù hợp. Sự phù hợp không có nghĩa là đông nhất tuyệt
đối mà chỉ là tương đối, trong đó chứa đựng cả sự khác biệt. Sự phù hợp diễn ra trong
sự vận động phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục đích,
xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống lao động thúc đẩy
sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều
hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan
hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng,
quy mô sản xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng
nhanh chóng; người lao động nhiệt tình hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động
được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không
phù hợp sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên sự kìm hãm
đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.
Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở
trình độ cao hơn. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải
quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt
tới một nấc thanh cao hơn. C.Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó
của chúng, các lực lượng sản xuất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất
hiện có...trong đó từ trước tới nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là
các hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.”
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác
động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sự xã hội
loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản
xuất cộng sản nguyên thủy qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức 7 lOMoAR cPSD| 44985297
sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Trong xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy định,
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có những đặc
điểm tác động riêng. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất đòi hỏi tất yếu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu. Sự phù hợp không diễn ra “ tự động”, đòi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận
thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuấttrong xã hội chủ nghĩa có thể bị “biến dạng” do nhận thức và vận dụng không
đúng quy luật. 2.3. Ý nghĩa trong đời sống xã hội
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển
kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng
lao động và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một mối quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên bên xuống,
mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tùy tiện,
chủ quan, duy tâm, duy ý chí.
Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt,
vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc
sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng
Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn
sáng tạo quy luật này, đã đen lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát
triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Vai trò của người lao động trong cuộc cách mạng 4.0
3.1. Mối quan hệ biện chứng giữa phát huy nhân tố con người với phát triển
Sau khi thực hiện tổng kết quá trình phát triển 10 năm từ 1976-1986, với việc
nhận định nhiều điểm hạn chế mang tính duy ý chí, nóng vội, chưa đạt kết quả như
mong đợi, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại
hội của đường lối Đổi mới ở Việt Nam, 1986) đã phân tích một cách biện chứng mối
quan hệ giữa phát huy nhân tố con người với phát triển. Tư duy về mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và mục tiêu vì con người được cụ thể hơn, hiện thực, rõ nét hơn khi 8 lOMoAR cPSD| 44985297
gắn mối quan hệ đó trong chính sách xã hội. Theo đó, Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách
xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục tiêu của hoạt động kinh tế. Ngay trong khuôn
khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để phát triển sản xuất. Do đó,
cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được những nhiệm vụ, mục tiêu
phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Việc phát huy yếu tố con
người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động. Cùng
với việc tiến tới xóa bỏ cơ sở kinh tế xã hội của sự bất công xã hội, phải đấu tranh
kiên quyết chống những hiện tượng tiêu cực, làm cho những nguyên tắc công bằng
xã hội và lối sống lành mạnh được khẳng định trong cuộc sống hằng ngày của xã hội.
Việc chăm lo con người trong phát triển không chỉ nhấn mạnh khía cạnh chung,
vấn đề đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc, bình đẳng giới cũng được Đại hội VI
nêu ra. Là một quốc gia có nhiều cộng đồng các tộc người, nên việc quan tâm đầy đủ
quyền lợi và quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc được coi là một trọng tâm trong mục
tiêu phát triển con người. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương:
Trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu
số, cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa
các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau; kết hợp phát triển
kinh tế và phát triển xã hội, đẩy mạnh sản xuất và chăm lo đời sống con người, kể cả
những người từ nơi khác đến và dân tại chỗ. Trên cơ sở đó, giải pháp về sự kết hợp
giữa phát triển kinh tế với chăm lo phát triển con người, lấy con người làm mục tiêu
và con người là động lực phát triển kinh tế được Đại hội VI đề xuất: hơn bao giờ hết,
chúng ta luôn phải kết hợp chặt chẽ kinh tế với xã hội, xã hội với kinh tế. Mục tiêu
ổn định tình hình, giải phóng năng lực sản xuất không chỉ là phát triển sản xuất, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới mà còn là giải quyết các vấn đề xã hội, từ công
việc làm đến đời sống vật chất và văn hóa, bồi dưỡng sức dân, xây dựng các quan hệ
xã hội tốt đẹp, lối sống lành mạnh, thực hiện công bằng xã hội, với ý thức người lao
động là lực lượng sản xuất lớn nhất, là chủ thể của xã hội.
Trên cơ sở tư duy Đổi mới của Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội toàn quốc lần
thứ VII của Đảng thông qua đề ra chủ trương đầy đủ hơn nữa về con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của phát triển kinh tế. Cương lĩnh nhấn mạnh yêu cầu phát
huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ công dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân; giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với
chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội; bảo vệ tự do 9 lOMoAR cPSD| 44985297
tôn giáo, tín ngưỡng và chống lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng làm tổn hại đến lợi
ích Tổ quốc và nhân dân.
Trong đường lối phát triển kinh tế của Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nguồn lực con người trở thành động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đại hội khẳng định: Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho
sự phát riển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước,
không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải
thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường. Con người và văn hóa trở thành thành tố mục tiêu và động
lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể hơn, Đảng
Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã
hội phải thể hiện ở khâu phân phối hợp tư liệu sản xuất lẫn ở khâu kết quả sản xuất,
ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực
của mình. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo.
Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân
tộc, các tầng lớp dân cư.
Trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, con người được
khẳng định là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Như vậy, về vai trò của nhân tố con người trong phát triển kinh tế,
từ chỗ được xác định là quan trọng, chủ yếu, nền tảng thì đến Đại hội IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam, con người trở thành động lực quyết định đến sự phát triển. Con
người đã được đặt đúng vào vị trí đối với quá trình phát triển. Trong phát triển kinh
tế, con người được quan tâm chu đáo hơn. Giải quyết việc làm là một chính sách xã
hội cơ bản. Bằng nhiều giải pháp, tạo nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao
động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế
mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao
động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng
chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển các
làng nghề, đẩy mạnh phong trào lập nghiệp của thanh niên và đào tạo lao động có
nghề. Tổ chức quản lý chặt chẽ hoạt động xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Khẩn
trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã họi. Sớm xây dựng chính
sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp. Đó là những giải pháp cụ thể được
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nhằm hiện thực hóa hơn nữa phương
châm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát triển kinh tế. 10 lOMoAR cPSD| 44985297
3.2. Con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu, mục tiêu của sự phát triển trong cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0
Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quyết
định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta càng
đặc biệt coi trọng việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp
cận kinh tế tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế - xã hội chưa cao thì yêu cầu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự
nghiệp đổi mới. Đảng ta xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; là điều kiện để rút ngắn
khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển bền vững; là điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng.
Do đó, trong chiến lược phát triển đất nước, nguồn nhân lực phải được quan
tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí và niềm tin...
Nguồn nhân lực có chất lượng cao, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu
ý chí và khát vọng, có lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay
Ông cha ta thường căn dặn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. C. Mác cho
rằng, con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Nhà tương lai học người
Mỹ, Alvin Toffler nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: “Tiền bạc tiêu mãi cũng
hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những
không mất đi mà còn lớn lên”.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ
thuật, khoa học - công nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong đó
nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác và quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn
nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật là không bị cạn
kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác dù
nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp
với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định việc
khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác; trong đó nguồn nhân lực 11 lOMoAR cPSD| 44985297
chất lượng cao quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Thực tế chứng minh rằng, một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều
kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi, nhưng kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và
phát triển bền vững nếu quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn, biết tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ
trí thức xứng tầm; lực lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đông đảo và có các doanh nhân tài ba.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri
thức và trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực, đặc biệt
là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Các lý thuyết
tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức
cao đều phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết
cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan
trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tức là những người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến
thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con
người, vốn nhân lực”. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết
liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, có
môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một môi trường chính trị - xã hội ổn định.
Đại hội XII khẳng định, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị
văn hóa và hệ chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; tạo môi trường để hoàn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân
thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật,
mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.
Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các giá
trị cao thượng, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn,
lạc hậu, chống các quan điểm hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu làm tha hóa
con người. Có giải pháp khắc phục sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những
mặt hạn chế của con người Việt Nam.
Nhấn mạnh thêm về con người là động lực của sự phát triển, Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định con người
và nền văn hóa Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển
đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng và tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận
lợi nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng
phát triển, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và 12 lOMoAR cPSD| 44985297
động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đi đôi với đường lối tiếp tục đổi
mới phát triển kinh tế, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát huy giá trị văn
hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Trong đó, Đại hội nêu bật chủ trương: Tập trung
nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và
chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong
thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu
niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống
và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh
niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp
về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy
các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo
dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng
bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người
Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị
hiện đại. Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật sự
trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện thụ hưởng văn hóa của nhân dân. Phát huy
ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, quy định, quy ước xã
hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hóa. Khắc phục sự chênh lệch
về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội,
đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các
khu công nghiệp... Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và
ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng và thực hiện các chuẩn
mực văn hóa trong lãnh đạo quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công
sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn
kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh.
Cụ thể hóa tinh thần đó, Chiến lược phát triển đất nước 10 năm 2021-2030
khẳng định nội dung về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển Việt
Nam là: Xây dựng con người Việt Nam phat triển toàn diện, có sức khỏe, trình độ,
có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. 13 lOMoAR cPSD| 44985297 C. KẾT LUẬN
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có sự phù hợp.
Do đó phải nắm bắt tốt quy luật để chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp cụ
thể. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến trong tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên
của lịch sử loài người từ chế độ công xã nguyên thủy qua chế độ chiếm hữu nô lệ,
chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do
sự tác động của các hệ thống quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Lực lượng
sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản xuất thường có tính
ổn định, tuy nhiên, sự ổn định đó chỉ mang tính tạm thời và cũng cần có sự thay đổi
cho phù hợp. Nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
một cách toàn diện và rộng khắp trên mọi lĩnh vực kinh tế. Vì thế mà việc cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa gắn liền với
quá trình công nghiệp, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất là vô cùng quan trọng.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh
tế tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế - xã hội chưa cao thì yêu cầu nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi
mới. Đảng ta xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt
hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước nhằm phát triển bền vững; là điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng.
Do đó, trong chiến lược phát triển đất nước, nguồn nhân lực phải được quan
tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí và niềm tin...
Nguồn nhân lực có chất lượng cao, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu
ý chí và khát vọng, có lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, XII, XII
2. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VIII, IX
3. Giáo trình triết học Mác – Lênin
4. Tạp chí cộng sản (21/2/2020)
5. Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung Ương (9/7/2021) 14