























Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC -------***------- TIỂU LUẬN
Đề tài: Tư tưởng biện chứng trong triết học của
Heraclit. Phân tích giá trị và hạn chế. Họ và tên SV: Phạm Anh Tuấn Mã sinh viên: CH301135 Lớp:
Triết học_(121)_13_C_K30S GV hướng dẫn:
TS.Nghiêm Thị Châu Giang
HÀ NỘI, THÁNG 1, NĂM 2022 1 Lời cảm ơn
Trước hết em xin cảm ơn đến TS.Nghiêm Thị Châu Giang đã tận tình truyền đạt
nhưng kiến thức quý báu trong xuyên suốt quá trình học. Mặc dù đã vận dụng kiến
thức cô giảng kèm theo tham khảo tác tài liệu, song chắc chắc bài tiểu luận vẫn sẽ còn
nhiều sai sót và hạn chế. Em rất mong được nhận những góp ý của cô để em có thể
hoàn thiện được bài tiểu luận của mình một cách hoàn thiện hơn. 2 Mục lục 3 Mở đầu
Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao
mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác – xít của triết học Mác – Lênin. Phương
pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Phương pháp biện chứng phản
ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện chứng trở thành
công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Trong lịch sử triết học, phép biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời
sống tinh thần xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện
chứng sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của
tư duy biện chứng của nhân loại.
Một trong những nhà triết học điển hình có tư tưởng biện chứng thời cổ đại là
Heraclit. Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác – Lênin thì Heraclit là người sáng
lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện chứng dựa
trên lập trường duy vật. Tuy lý luận nhận thức của Heraclit còn mang tính chất duy vật
và biện chứng sơ khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ
thống triết học khác không có được tư tưởng biện chứng sâu sắc như vậy. Chính là
những tư tưởng biện chứng sơ khai của Heraclit sau này đã được các nhà biện chứng
cổ điển Đức kế thừa và các nhà sáng lập triết học Macxít đánh giá cao. C.Mác và
Ph.Ănghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị triết học của Heraclit và coi ông là
đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại: “ Quan niệm về thế giới một
cách nguyên thủy, ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà Hy
Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Heraclit”.
Chính vì lẽ đó em chọn đề tài: “Tư tưởng biện chứng trong triết học của Heraclit.
Phân tích giá trị và hạn chế” để phân tích và làm rõ. 4
Chương 1: Phép biện chứng và lịch sử phép biện chứng Hy Lạp cổ đại 1.1.
Nguồn gốc và khái niệm của phép biện chứng
Biện chứng (hay phương pháp biện chứng, phép biện chứng) là một phương pháp
luận, đây là phương pháp tồn tại ở cả nền triết học phương Đông và phương Tây trong
thời cổ đại. Từ biện chứng có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là “dialektica” và trở nên
phổ biến qua những cuộc đối thoại kiểu Socrates của Platon. Biện chứng có nền tảng
từ những cuộc đối thoại giữa hai hay nhiều người với những ý kiến, tư tưởng khác
nhau và cùng mong muốn thuyết phục người khác. Phương pháp này khác với hùng
biện, trong đó một bài diễn thuyết tương đối dài do một người đưa ra - một phương
pháp được những người ngụy biện ủng hộ. Nhiều dạng khác nhau của biện chứng nổi
lên ở phương Đông và phương Tây theo những thời kỳ lịch sử khác nhau như trường phái Socrates đạo , Hindu đạo ,
Phật, biện chứng Trung cổ, trường phái Hegel và chủ nghĩa Marx.
Phép biện chứng là một phương pháp triết học, cụ thể hơn, tư duy con người – phát
triển theo một cách thức được đặc trưng bởi cái gọi là ba đoạn biện chứng:
Chính đề: đầu tiên có một ý tưởng, hoặc một lý thuyết, hoặc một xu hướng vận
động nào đó được gọi là một "chính đề"; một chính đề như thế thường sẽ tạo ra cái đối
lập, do là, giống như hầu hết các sự vật tồn tại trên trời đất, có lẽ nó sẽ có giá trị hạn
chế và sẽ có các điểm yếu
Phản đề: ý tưởng hoặc xu hướng vận động đối lập được gọi là "phản đề", bởi vì nó
nhằm phản đối lại cái trước tiên, tức chính đề. Cuộc tranh đấu giữa chính đề và phản
đề diễn ra cho tới khi đạt được một giải pháp nào đó mà, theo một nghĩa nhất định,
vượt lên trên cả chính đề và phản đề do nó phát hiện ra được các giá trị riêng của
chúng và do nó cố gắng bảo tồn các tinh hoa và tránh các hạn chế của cả hai.
Hợp đề: giải pháp đạt được ở bước thứ ba này được gọi là "hợp đề". Đến khi đạt
được, hợp đề đến lượt nó có thể lại trở thành bước thứ nhất trong một của ba đoạn
biện chứng mới khác, và quá trình sẽ lại tiếp diễn như thế nếu hợp đề cụ thể vừa đạt
được lại trở nên thiếu thuyết phục, hoặc trở nên không thỏa mãn. Trong trường hợp
này, mặt đối lập sẽ lại nổi lên, và điều này có nghĩa là cái hợp đề vừa đạt được có thể 5
được mô tả như là một chính đề mới, cái chính đề tạo ra một phản đề mới. Do đó, ba
đoạn biện chứng sẽ lại diễn ra ở một trình độ cao hơn, và nó có thể đạt tới cấp độ cao
hơn khi một hợp đề khác xuất hiện.
Phép biện chứng trải qua 3 giai đoạn phát triển[1]:
Phép biện chứng cổ đại: là phép biện chứng xuất hiện trong triết học thời cổ đại.
Các nhà triết học ở phương Đông lẫn phương Tây thời cổ đại đã xem thế giới khách
quan thay đổi trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà
biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Phép biện chứng duy tâm: biện chứng được bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh
thần, thế giới hiện thực chỉ là biểu hiện của các ý niệm nên biện chứng của các nhà
triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức cơ bản này được
thể hiện trong triết học cổ điển Đức, mà người khởi đầu là nhà triết học Kant (1724-
1804) và người hoàn thiện là nhà triết học Hegel
. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử
phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ
thống những nội dung quan trọng nhất của phép biện chứng.
Phép biện chứng duy vật: được thể hiện trong triết học do Karl Heinrich
Marx và Friedrich Engels xây dựng[2]. Karl Marx và Friedrich Engels đã kế thừa
những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng
duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Hai
ông cho rẳng phép biện chứng là quy luật vận động của thế giới khách quan chứ
không phải chỉ là sự vận động của tư tưởng. 1.2.
Phép biện chứng duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại
Phép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong triết học của các nhà
triết học về tự nhiên, xã hội và con người với những đại diện như: Talét,
Anaximăngđrơ, Hêraclit, …
Tư tưởng biện chứng sơ khai đầu tiên của Triết học cổ đại Hy Lạp đó là tư tưởng
của Talét. Theo Talét, vật chất tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó sinh ra thì biến đổi
không ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong
đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nền tảng là nước. Tuy nhiên, các quan điểm triết
học duy vật của Talét mới dừng lại ở mức độ mộc mạc, thô sơ, cảm tính. 6
Còn theo Ananimăngđrơ, khi giải quyết vấn đề bản thể luận triết học, ông cho rằng
cơ sở hình thành vạn vật trong vũ trụ là từ một dạng vật chất đơn nhất, vô định hình,
vô hạn và tồn tại vĩnh viễn mà người ta không thể trực quan thấy được. Nếu so với
Talét thì Ananimăngđrơ có bước tiến xa hơn trong sự khái quát trừu tượng về phạm trù vật chất.
Một trong những nhà triết học điển hình có tư tưởng biện chứng là Hêraclit. Theo
đánh giá của các nhà kinh điển Mác – Lênin thì Heraclit là người sáng lập ra phép
biện chứng dựa trên lập trường duy vật.
Còn đối với Pácmênít, ông cho rằng bản chất của mọi vật trong thế giới là tồn tại.
Học thuyết về tồn tại của Pácmênít đánh dấu một bước tiến mới trong sự phát triển
của tư tưởng triết học Hy Lạp, mang tính khái quát cao.Tuy nhiên, hạn chế trong học
thuyết về tồn tại của ông là ở chỗ ông đã đồng nhất tuyệt đối giữa tư duy và tồn tại.
Nó mang tính chất siêu hình vì ông cho rằng tồn tại là bất biến.
Đêmôcrít là một trong những người đã phát triển thuyết nguyên tử lên một trình độ
mới. Một mặt, ông tán thành lý thuyết tồn tại duy nhất và bất biến của Pácmênít khi
coi các nguyên tử là bất biến, mặc khác, ông kế thừa quan điểm của Hêraclit cho rằng
một sự vật biến đổi không ngừng. Ông cho rằng còn khoảng trống hay còn “chân
không” trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrít đã không
lý giải được nguồn gốc của vận động. Về mặt bản thể luận, Đêmôcrít đã có công đưa
lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới. Khác với nhiều nhà triêt học trước đó,
phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hóa vai trò của nhận thức lý tính,
Đêmôcrit đã chia nhận thức thành hai dạng là nhận thức cảm tính và nhận thức chân
lý. Mặc dù triết học của Đêmôcrít còn mang tính chất thô sơ, chất phác song những
đóng góp của ông về các tư tưởng biện chứng và thế giới quan duy vật là rất đang ghi nhận.
Sau Đêmôcrít là Arixtốt, xu hướng duy vật và tư tưởng biện chứng trong triết học
tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi,
không có bản chất của sự vật tồn tại bên ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một
hệ thống và có quan hệ với các sự vật khác. Ông cho rằng vận động gắn liền với các
vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận động là
không thể bị tiêu diệt “đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động”. Arixtốt là người 7
đầu tiên đã hệ thống hóa các hình thức vận động thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt,
thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí. Tuy nhiên Arixtốt lại rơi vào duy tâm
vì cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động.
Tóm lại, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa biện
chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm. Với các thành tựu nổi bật như thuyết nguyên tử của Đêmôcrít,
phép biện chứng duy tâm của Xôcrát, Platôn và phép biện chứng chất phác của
Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã bao chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về
sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện chứng trong lịch sử triết học nhân loại.
Chính vì vậy, Lênin coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là khởi
nguyên của phép biện chứng. 8
Chương 2: Tư tưởng biện chứng trong triết học của Heraclit
2.1. Tiểu sử của Heraclit
Hêraclit (khoảng 540-475 tr.CN) xuất thân từ nhà nước thị thành Ephèse thuộc
vùng Tiểu Á của Hy Lạp - mộ trung tâm triết học lớn sao Milet. Ông sống trong thời
kỳ lịch sử căng thẳng của các nhà nước thị thành Hy Lạp, khi mà dân thường đã dành
được thắng lợi trong cuộc đấu tranh gay gắt với tầng lớp quý tộc dòng dõi. Ông
trưởng thành và sự nghiệp sáng tác của ông rơi vào giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh
Hy Lạp - Ba Tư nổ ra, đó là thời điểm trọng đại của lịch sử Plada cổ đại. Sinh thời
Hêraclít là một nhà đại quý tộc thuộc dòng dõi Côđơriđốp. Theo luật, ông là con trai
đầu nên được thừa kế chức Badin, nhưng ông đã nhường đặc quyền ấy cho em trai của
mình để đi du lịch khắp nơi và dành thời gian nghiên cứu về triết học. Như vậy,
Hêraclít vốn là người có nguồn gốc đại quý tộc nhưng ông đã tự tách mình ra, lựa
chọn một con đường đi riêng biệt. Tuy nhiên, ông cũng không thuộc giai cấp đang lên.
Tư tưởng triết học của ông thể hiện sự tiến bộ ở chỗ có phản ánh phong trào nhân dân,
có nội dung nhân dân thông qua những mâu thuẫn chia rẽ của giai cấp quý tộc. Ông
trưởng thành và sự nghiệp sáng tạo của ông rơi vào giai đoạn đầu cuộc chiến tranh Hy
Lạp - Ba Tư nổ ra, đó là thời điểm trọng đại của lịch sử Elada cổ đại. Để bảo vệ nềm
độc lập và sự tự do của mình, các nhà nước thị thành Hy Lạp nhỏ bé đã tiến hành cuộc
chiến tranh giải phóng chống lại đế quốc Ba Tư. Ông là người tích cực ủng hộ cho
cuộc kháng chiến chống lại người Ba Tư, vì chủ quyền của nhà nước - thị thành Hy
Lạp. Và chính điều đó đã giúp ông có được nguồn cảm hứng để ca ngợi về cái chết
vinh quang nơi chiến trường, ca ngợi sự tự do chiến tranh mà có và nói lên lòng căm
thù chế độ nô lệ. Hêraclit say mê nghiên cứu khoa học, tính ông trầm lặng, là người
trung thực, ghét những gì giả tạo không thực chất. Theo ông, người thông minh phải là
người nắm bắt được bản chất và tính tất yếu của những sự vật, hiểu được cái Logos -
tức quy luật thế giới. Ông viết nhiều, có nhiều phát biểu nhưng tới nay người ta vẫn
không tìm thấy một tác phẩm nào nguyên vẹn mà chỉ sưu tầm, ghi chép được 130
đoạn. Bởi sau khi phái chủ nô dân chủ thắng thế, Hêraclit từ chối tham gia hoạt động
nhà nước, về sống đơn độc. Trong thời kỳ này, ông nhờ đền thờ Di-an, bảo quản toàn 9
bộ tác phẩm của mình nhưng ở đó người ta đã không giữ được để truyền lại cho thế hệ
sau. Đó là những đoạn viết về triết học tự nhiên và những quan niệm bản chất rất khó
hiểu. Vì thế, người đương thời gọi ông là nhà triết học tối nghĩa. Thực ra, những lời
phát biểu của ông đã có chứa đựng những tư tưởng lớn của phép biện chứng mà bằng
con mắt trực quan người ta không thể hiểu được tại sao cái một và cái nhiều lại thống
nhất, cái này vừa lại là nó lại không phải là nó, cùng một vật vừa tốt lại vừa không tốt,
vừa đẹp lại vừa xấu. Nghĩa là tất cả đều vừa tồn tại vừa không tồn tại. Những tư tưởng
biện chứng sơ khai đó của Hêraclit đã được các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa
và các nhà sáng lập triết học macxit đánh giá cao. Như vậy, với xuất thân từ tầng lớp
quý tộc và bộ óc thông minh cùng niềm say mê đã giúp Hêraclit tập trung được vào
việc nghiên cứu khoa học, đặc biệt là triết học mà nổi bật là tư tưởng biện chứng sơ khai.
2.2. Điều kiện ra đời và tiền đề lý luận của sự hình thành tư tưởng biện chứng trong
triết học của Hêraclit
2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của sự hình thành tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclit.
Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng
thuộc Châu Âu, nhiều hòn đảo ở biển Êghiê và cả miền ven biển bán đảo Tiểu Á. Điều
kiện đại lý thuận lợi cho nên từ sớm ngành công nghiệp và thủ công nghiệp, thương
nghiệp tại đây đã rất phát triển. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ IX trước công nguyên, chế
độ công sản nguyên thủy ở Hy Lạp cổ đại tan rã và hình thành đế chế chiếm hữu nô lệ.
Thời kỳ này xảy ra biến động lớn về kinh tế và thiết chế trong xã hội. Quá trình này
gắn liền với sự hình thành và phát triển kinh tế xã hội và tư tưởng triết học của Hy
Lạp thời kỳ cổ đại. Sự phát triển của sản xuất đã dẫn đến các quan hệ và tổ chức xã
hội cũ bị đảo lộn. Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ VI trước công
nguyên. Cơ sở kinh tế của triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô với tư liệu sản xuất
và người nô lệ. Nếu như trong xã hội cũ, cuộc sống của mỗi người hòa vào cuộc sống
cộng đồng, thì bây giờ khi xuất hiện chế độ tư hữu về tài liệu của cải, buộc mỗi người
phải ý thức về bản thân mình, cần phải có một quan điểm sống phù hợp với hoàn
cảnh. Nhu cầu đòi hỏi triết học ra đời. Xôcrat đã nhận thấy điều đố khi ông coi triết
học là sự ý thức của con người về chính bản thân mình. Xã hội phân chia giai cấp, có 10
sự phân công giữa lao động tri thức và lao động chân tay, dẫn tới sự hình thành một bộ
phận các nhà tri thức chuyên nghiên cứu triết học khoa học, làm phá vỡ ý thức thần
thoại tôn giáo nguyên thủy thống trị thời đó vì thế ngay từ khi ra đời các tư tưởng triết
học đã tính giai cấp sâu sắc. Các thế giới quan của giai cấp chủ nô, các nhà tri thức
triết học dần trở thành các nhà tư tưởng thống trị trong xã hội nô lệ. Tuy nhiên tất cả
những điều đó được thể hiện ở các tư tưởng triết học thời cổ đại một cách tự phát,
chúng không được các nhà triết học cổ đại ý thức một cách tự giác. Dưới con mắt của
họ, triết học ra đời tư nhu cầu cần hiểu biết của con người. Lúc đầu họ ngạc nhiên bởi
những điều trực tiếp làm họ băn khoăn, sau đó họ dần dần đặt ra những vấn đế cơ bản
hơn như sự thay đổi vị trí của mặt trăng, mặt trời hay nguồn gốc của vũ trụ. Quan
niệm trên mặc gù thể hiện dưới ý thức ngây thơ, phù hợp với nhận thức con người cổ
đại, nhưng n đề cập một khía cạnh sâu sắc về cơ sở nhận thức luận của việc hình thành
triết học cổ đại Hy Lạp. Nhu cầu thực tiễn của nền công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp và hàng hải thời đó đã quyết định sự phát triển của những tri thức về thiện
viên, khí tượng, toán học và vật lý học. Chính sự xuất hiện của tri thức khóa học sơ
khai đã tạo điều kiện lớn cho sự hình thành triết học – tự nhiên. Khoa học lúc đố chưa
phân ngành, các nhà triết học đồng thời là các nhà toán học, vật lý học, thiên văn học.
Như vậy từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại đã gắn với nhu cầu thực tiễn của khoa
học. Những khám phá khoa học đầu tiên của con người đã cho thấy sự giả dối của bức
tranh vụ trụ và nhân sinh quan của các tôn giáo và thần thoại, đồi hỏi con người phải
có cách lý giải mới về thế giới xung quang và cuộc sống của mình, sự quan sát các
hiện tượng tư nhiên một cách trực tiếp như một khối duy nhất và lòng mong muốn giải
thích chúng một cách khoa học đã góp phần quyết định và làm phát triển thế giới quan
duy vật tự phát và biện chứng sơ khai của triết học Hy Lạp cổ đại.
2.2.2. Tiền đề lý luận của sự hình thành tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclit
Trong giai đoạn cộng sản nguyên thủy, ở Hy Lạp cổ đại, mặc dù chưa có triết học
những đã có những mầm mống của những tử tưởng triết họ thể hiện qua văn hóa dân
gian, thần thoại, tín ngưỡng và diễn ra sự phân công lao động trí óc và lao động chân
tay. Để triết học ra đời, cần có những điều kiện tất yếu về mặt xã hội và mặt tư duy.
Triết học với tu cách là hệ thống những quan điểm của con người về thế giới, chỉ thực
sự ra đời vào khoảng thời gian thế kỷ VI TCN khi chế độ chiếm hữu nô lệ đã được xác 11
lập và ổn định, tức là những tiền đề kinh tế, xã hội, nhận thức cần thiết cho nó đã chín
muồi. Những nhu cầu thực tiễn của nền thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp
và hàng hải ở Hy Lạp cổ đại cũng là tiền đề của sự phát sinh và phát triển mạnh mẽ
của khoa học về thiên văn, vật lý, toán học, khí tượng. Những tri thức sơ khai này đều
được trình bày trong một hệ thống triết học tự nhiên của các nhà triết học cổ đại. Vào
lúc khoa học phát sinh ở Hy Lạp thì Phương Đông đã tích lũy được những tri thức
đáng kế về thiên văn học, hình học, đại số, y học. Các nhà bác học lớn của Hy Lạp
phần nhiều đã tới một số nước ở phương Đông nghiên cứu và học tập. Sự xuất hiện và
phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại lại có liên hệ mật thiết và chịu ảnh hưởng của
triết học Phương Đông cổ đại. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp
cổ đại cũng phản ánh cuộc đấu tranh giữa tri thức khoa học và mê tín, giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tinh
thần, tư tưởng trong xã hội chiếm hữu nô lệ của Hy Lạp mà cuộc đấu tranh gay gắt
nhất là cuộc đấu tranh giữa 2 phái chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật; giữa tầng
lớp chủ nô quý tộc bảo vệ mê tín, phản tiến bộ và phái dân chủ chủ nô ủng hộ những
tiến bộ khoa học. Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại ngày nay từ khi ra đời đã gắn liền
với thực tiễn, gắn liền với khoa học tự nhiên và nhu cầu phát triển của tư nhiên. Và
trong điều kiện còn hạn chế đó, các nhà triết học có xu hướng tiến bộ của Hy Lạp
cũng đã có những đóng góp nhất định trong lịch sử triết học trong đó có tư tưởng biện
chứng sơ khai của nhà triết học Hêraclit.
2.2.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclit
2.2.3.1. Quan niệm về bản nguyên của vũ trụ
Đứng vững trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề về bản nguyên của thế
giới, Hêraclít cho rằng, bản nguyên của thế giới chính là lửa, thế giới vật chất cái
không do một thần và một người nào tạo ra tức là không phải do thần thánh hay con
người sáng tạo ra mà là do chính vật chất sinh ra, giới tự nhiên bắt nguồn từ bản thân
tự nhiên. Theo ông, dạng vật chất đầu tiên sinh ra các dạng vật chất khác, là cơ sở duy
nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên chính là lửa. Hêraclít lấy
lửa để giải thích mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, ông cho rằng: “Bất cứ sự vật nào,
cũng như hàng hóa nào cũng có thể biến thành vàng và vàng cũng có thể biến thành
bất cứ hàng hóa nào”. Như vậy,chính sự trao đổi hàng hóa ở Hy Lạp vào thời kỳ này 12
đã giúp cho Hêraclít có căn cứ để so sánh. Theo ông các dạng vật chất, phần lớn là đất
sinh ra từ lửa. Dưới tác động của lửa, đất trở thành nước, nước trở thành không khí và
ngược lại. Như vậy là từ lửa và do tác động của lửa mà vật chất chuyển hóa thành các
thể hơi, thể lỏng, thể rắn và các dạng vật chất ấy lại chuyển hóa theo con đường ngược lại, quay về với lửa.
Theo Hêraclít, tùy thuộc theo nhiệt độ của lửa mà mọi vật có thể chuyển hóa từ trạng
thái này sang trạng thái khác theo hai cấp độ, còn gọi là theo hai con đường: “Con
đường đi xuống” (chính là sự phát sinh ra vũ trụ từ lửa) đồng thời là “sự thiếu hụt lửa”
được chuyển hóa theo trật tự: thể hơi (không khí) - thể lỏng (nước) - thể rắn (đất).
Nhưng “con đường đường đi xuống” đó phải được bù đắp bằng “con đường đi lên”
(chính là quá trình tất thảy vũ trụ biến thành lửa bởi một đám cháy trên quy mô toàn
vũ trụ) được chuyển hóa theo trật tự: lửa - thể rắn (đất) - thể lỏng (nước) - thể hơi (không khí).
Lửa là bản chất của mọi sự vật, của trạng thái vật chất, lửa tác động vào sự chuyển
hóa của vật chát từ trạng thái này sang trại thái khác theo hai con đường nói trên. Lửa
của Hêraclít không phải là hiện tượng tự nhiên, tự phát xa lạ vói logos, không tuân thủ
một độ nào, không phải là một lực lượng không được điều hành nào đó, không biết mình sáng tạo ra gì.
Toàn bộ thế giới theo cách gọi của Hêraclít là vũ trụ, đều tồn tại ở ngoài ý thức của
con người, đều là sản phẩm biến đổi của lửa. Vũ trụ không phải do một lực lượng siêu
nhân thần bí nào sáng tạo ra, mà nó “mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn
đang không ngừng bùng cháy và tàn lụi” hay vũ trụ này là một đối với mọi cái hiện
tồn, không do thần nào, người nào tạo dựng, mà mãi mãi, đã đang và sẽ là ngọn lửa
sống vĩnh cửu, bốc cháy và tắt đi theo “độ”. Như vậy, vũ trụ theo ông là không do ai
sáng tạo ra, mà là ngọn lửa sống động vĩnh cửu, bùng cháy và tắt đi theo quy luật của
mình. Lửa bao trùm và thiêu đốt vạn vạn, phán xét tất cả. Đám cháy vũ trụ sẽ là sự
phán xét vũ trụ, hiện tượng vật lý đồng thời là hiện tượng đạo lý.
Như vậy, lửa theo quan niệm của Hêraclít không phải là lửa theo nghĩa thong thường
mà là lửa vũ trụ, sản sinh ra không chỉ các sự vật vật chất mà cả những hiện tượng tinh
thần, kể cả linh hồn con người.
2.2.3.2. Logos với tư cách là thống nhất (hài hòa) và đấu tranh giữa các mặt đối lập 13
Trong tư tưởng biện chứng của mình, Hêraclít khẳng định rằng, chuẩn mực của chúng
phải tuân theo “logos”. Ở người Hy Lạp “logos” tùy thuộc vào văn cảnh ngôn ngữ đã
có ý nghĩa rất khác nhau, trong đó đại đa số đều thống nhất với nghĩa “từ ngữ”. Trong
triết học của mình thuật ngữ logos được Hêraclít sử dụng với tư cách là một trong các
khái niệm triết học cơ bản và trở nên rất phổ biến trong toàn bộ triết học cổ đại, đó là
“thuật ngữ”. Theo Hêraclít, logos cũng chính là lửa, nhưng dưới góc độ xem xét của
trí tuệ. Vì vậy, giữa logos và lửa không thể tách rời nhau, bởi thế giới chính là ngọn
lửa cháy vĩnh viễn, mà logos là trật tự thống trị thế giới, là quy luật của tồn tại, bảo
đảm cho sự phát triển hài hòa của thế giới.
Theo cách hiểu của Hêraclít, logos tồn tại cả dưới dạng khách quan và chủ quan.
Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi cái đang diễn ra trong thế giới, biến
cả thế giới thành một chỉnh thể thống nhất đầy sống động. Logos chủ quan là từ ngữ,
học thuyết, lời nói, được Hêraclít hiểu như là chuẩn mực của mọi hoạt động tư tưởng,
suy nghĩ của con người. Người nào càng tiếp cận được nó bao nhiêu thì càng thông
thái bấy nhiêu. Nhà biện chứng lỗi lạc thời cổ đã tiếp cận được với quan niệm đúng
đắn cho rằng về nguyên tắc thì logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan,
nhưng nó biểu hiện ở từng người có khác nhau. Phù hợp vói logos khách quan tức là
những quy luật vận động khách quan của thé giới được coi là tiêu chuẩn đánh giá mọi
hoạt động, suy nghĩ của con người.
Xuất phát từ quan điểm tư duy vốn có ở mọi người, mọi người đều có khả năng nhận
thức bản thân và suy xét . Ông cho rằng mọi sự vận động, phát triển không ngừng của
thế giới do quy luật khách quan (mà ông gọi là logos) quy định. Cả hai logos - logos
khách quan và logos chủ quan cấu thành nguyên lý hợp lý và chi phối mọi thứ, giống
như logos của vũ trụ, logos của tâm hồn là vũ trụ. Và theo ông dẫu sao thì logos của
những người tốt nhất, những người mà trong tâm hồn có yếu tố lửa (“ánh sáng khô”)
chiếm ưu thế đối với các yếu tố ẩm ướt, logos lửa của thế giới sự vật là không có sự
khác biệt về chất. Nếu logos của tâm hồn con người và logos của thế giới sự vật giống
nhau, trùng hợp nhau, nếu logos chủ quan của người tốt nhất một cách nào đó là đồng
nhất với logos khách quan của các sự vật thì từ đó suy ra rằng có thể bằng con đường
tự nhận thức “tôi nghiên cứu bản thân mình”. Bằng sự nỗ lực của chính bản thân là cái
duy nhất tạo ra thành phẩm, công lao (asete) cá nhân và nhận thức được logos của thế 14
giới bên ngoài. Việc tự nhận thức sẽ đưa con người từ thế giới nội tâm ra thế giới bên
ngoài và cũng từ đó tâm hồn con người sẽ ngày một phong phú, mở rộng hơn. Logos
tự phát triển là vốn có ở tâm hồn. Mặt khác, sau khi có quan hệ với thế giới bên ngoài,
con người sẽ hít vào mình logos thần thánh và chúng ta trở nên có “lý tính”. Vì logos
của tâm hồn con người (chủ quan) và logos của thế giới (khách quan) đồng nhất trong
sự khác biệt, tạo nên sự thống nhất của cái bên trong và cái bên ngoài mà cả hai
phương thức (bằng con đường tự nhận thức và hít vào logos của thế giới) khiến chúng
ta trở nên lý tính không loại trừ nhau mà phụ thuộc và giả định lẫn nhau. Trong quan
niệm về logos chủ quan, Hêraclít coi một cái gọi là sinh động và phát triển nội tại luôn
có mối liên hệ khăng khít với logos khách quan, chứ không phải một cách đứng im
nghĩa là logos thế giới con người (logos chủ quan) phải phù hợp với logos thế giới
(logos khách quan), mặc dù sự phù hợp ấy diễn ra không phải thường xuyên, liên tục
và nó biểu hiện ở từng người khác nhau. Từ đó, khi đánh giá về biểu hiện của logic
khách quan ở con người nhận thấy: “Người nào càng tiếp cận được với logos khách
quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu”, tức là nhờ tính tích cực này thì con
người mới có thể có lối thoát khỏi thế giới sự vật bên ngoài. Khi cảm thấy trong mình
có logos sáng tạo (“tự phát triển”, “tự nhân mình lên”) và thông qua logos đó thì con
người sẽ nhận được logos của thế giới. Logos là phổ biến, là vốn có ở sự vật nhưng
cũng nằm ở bên ngoài chúng, siêu thoát khỏi chúng cũng giống như nghĩa của một câu
nói nằm ở mỗi từ, nhưng lại không phải ở mỗi từ nằm riêng biệt. Nghĩa của một câu là
cái toàn vẹn, không tách biệt. Và thế giới với tư cách vũ trụ - chỉnh thể hài hòa và duy
nhất. Tính cân đối hài hòa của thế giới được quy định bởi logos thần thánh là cái
thống trị và chiếm ưu thế đối với một sự vật. Như vậy có thể nhận thấy, trong sự thống
nhất, mâu thuẫn giữa logos và sự đa dạng của sự vật, biện chứng của cái đơn nhất và
cái số nhiều nói chung thì “Hêraclít đã vạch ra một cách rất độc đáo”.
2.2.3.3 Tư tưởng biện chứng về sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập
Nếu như ở Hy Lạp cổ đại các nhà triết học thuộc trường phái Milê và đặc biệt là
Anaximenđrơ đã có công đầu trong việc xây dựng những tư tưởng sơ khai đầu tiên về
sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập, sự phân đôi thống nhất của các mặt đối
lập, thì Hêraclít là là người nói đến sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập 15
nhiều nhất. Ở Hêraclít quan điểm của ông về sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của
các mặt đối lập được thể hiện rõ ở những điểm sau.
Thứ nhất, sự thống nhất có nghĩa là sự đồng nhất của cái đa dạng, là sự hài hòa của
các mặt đối lập “bất đồng với nhau”.
Đồng ý với quan điểm của hầu hết các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng thế giới là
một chỉnh thể “tuyệt đẹp” bao gồm các sự vật đa dạng phong phú, thì Hêraclít đã nhìn
nhận sự thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng. Tuy nhiên, Hêraclít còn khác với
phần đông các nhà triết học Hy Lạp cổ đại còn cho rằng sự thống nhất không chỉ đơn
giản là sự đồng nhất của cái đa dạng mà trong sự thống nhất luôn bao hàm trong nó
các mặt đối lập “bất đồng” với nhau. Theo Hêraclít có những sự thật hiển nhiên, hết
sức rõ ràng mà ai cũng biết như ngày và đêm, thiện và ác; hòa bình và đấu tranh...
song giống như mọi sự đối lập khác chúng tạo thành một chỉnh thể thì lại là điều không phải ai cũng biết.
Như vậy, ở đây Hêraclít mới chỉ nêu ra các ví dụ từ hiện thực cuộc sống để so sánh,
minh hoạ các mặt đối lập và sự thống nhất của các mặt đối lập. Còn những khái niệm:
mặt đối lập, khái niệm đồng nhất, khái niệm mâu thuẫn thì ông chưa đi tới rõ ràng.
Không chỉ cho rằng các mặt đối lập tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng,
Hêraclít còn thấy được rằng, trong sự thống nhất của các mặt đối lập, các mặt đối lập
còn có mối quan hệ giả định lẫn nhau và không thể có được nếu thiếu nhau. Chúng là
điều kiện cho nhau tồn tại, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm
tiền đề, chúng tồn tại thông qua nhau.
Hêraclít còn cho rằng các mặt đối lập giả định lẫn nhau và không thể có được nếu
thiếu nhau. Ông cũng đưa ra ví dụ minh họa: không thể quý sức khỏe nếu không biết
mặt đối lập của nó là bệnh tật “bệnh tật làm cho sức khỏe trở nên quý giá và ngọt
ngào, đói - no, mệt mỏi - nghỉ ngơi”.
Hêraclít cho rằng trong vũ trụ bao hàm sự đa dạng của các sự vật thì tính tương đối
các thuộc tính của sự vật cần phải được xét trong mối quan hệ của nó. Các thuộc tính
của sự vật trực tiếp đối lập với nhau tùy thuộc vào công việc của chúng có quan hệ với
chất nào, vật nào. Ông nói: “Con vượn đẹp nhất nhưng xấu xí so với loài người. Con
người sáng suốt nhất nhưng cũng chỉ là con vượn so với thượng đế xét về sự anh
minh, sắc đẹp và về mọi thứ khác”. 16
Thứ hai, mỗi sự vật, hiện tượng trong quá trình biến đổi đều trải qua các trạng thái đối
lập và chuyển thành các mặt đối lập với nó.
Vẫn là lối văn phong giàu hình ảnh, ông đã làm rõ quan điểm này của mình bằng
những ví dụ: sống trở thành chết; thức trở thành ngủ; trẻ trở thành già... nhưng cũng
có thể nói ngược lại rằng: chết thành sống; ngủ thành thức; già trở thành trẻ. Ông nói:
“cùng ở một thứ trong ta như sống và chết; thức và ngủ; già và trẻ vì sau khi biến đổi
cái này trở thành cái kia, và ngược lại”.
Thứ ba, đấu tranh của các mặt đối lập là sự liên hệ thống nhất của các mặt đối lập.
Đấu tranh là phổ biến, là điều kiện của sự tồn tại.
Sự hoàn hảo, tính hài hoà này của vũ trụ theo quan niệm của Hêraclít, là sự thống nhất
nội tại, là sự hoà hợp, sự cân bằng các mặt đối lập cấu thành chỉnh thể. Chính sự hoàn
hảo và hài hoà ấy đã đem lại cho mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ này tính xác
định, tính vững chắc và tính ổn định: sẽ không có âm thanh hài hoà nếu thiếu sự kết
hợp thống nhất giữa các âm cao và âm thấp cũng như không có chỉnh thể hài hoà
thống nhất vũ trụ, nếu thiếu các bộ phận khác nhau, và ngược lại không có các bộ
phận ở bên ngoài vũ trụ thống nhất... Những sự kết hợp hình thành từ tất cả và không
phải tất cả, cái giống nhau và khác nhau, cái hoà nhịp và cái không hoà nhịp, cái thống
nhất xuất hiện từ tất cả và tất cả từ cái thống nhất”.
Trái với quan điểm đương thời xem cuộc đấu tranh như một hiện tượng hoàn toàn tiêu
cực, như là sự xung đột giữa các lực lượng mù quáng bất đồng mang tính chất phá huỷ
thì Hêraclít lại cho rằng đấu tranh là vốn có ở bản chất của các sự vật, là quy luật phổ
biến của sự tồn tại của chúng. Đấu tranh là nguồn gốc của sự sống là chân lý, là lẽ
phải của sự sống. Ông có một câu nói rất hay: con người sẽ không cảm thấy tốt hơn
nếu mọi ý nguyện của mình sẽ trở thành hiện thực.
Tư tưởng này của Hêraclít hoàn toàn khác biệt và đối lập với quan niệm của liên minh
Pitago. Khi Pitago và liên minh Pitago thừa nhận thế giới bao gồm một số mặt đối lập,
thừa nhận sự thống nhất cuả các mặt đối lập. Tuy nhiên sự thống nhất của các mặt đối
lập, sự hài hoà hoàn toàn loại trừ sự đấu tranh, theo đó sự hài hoà là bất biến không
đổi mới. Họ cho rằng không phải là sự đấu tranh tạo ra sự hài hoà mà do sự thiếu hụt
của mặt đối lập tạo ra sự hài hoà,vũ trụ là sự hoà bình, hoà hợp. Hêraclít khẳng định: ở 17
đâu không có sự khác biệt thì không có sự thống nhất, không có sự bất hoà thì không có gì phải hoà hợp.
Trên quan điểm về sự thống nhất (hài hoà) và đấu tranh của các mặt đối lập, Hêraclít
đã có những quan điểm về con người, xã hội. Con người theo Hêraclít là một thực thể
gồm phần thể xác và linh hồn. Trong phần linh hồn của con người được cấu thành từ
yếu tố lửa (năng động), mỗi linh hồn đều có phần “ẩm ướt” và phần “khô ráo”. “Ẩm
ướt” và “khô ráo” là hai mặt đối lập thống nhất trong linh hồn của con người. Nếu
trong linh hồn của một người nào đó yếu tố “khô ráo” chiếm ưu thế thì người đó sẽ có
được trí tuệ thông minh, sẽ dễ dàng hiểu được cái Logos - quy luật của thế giới.
Xã hội trong quan niệm của Hêraclít cũng chứa đựng những mặt đối lập, những mặt
trái ngược nhau và do đó xã hội vận động theo xu thế đấu tranh, bài trừ của các mặt
đối lập. Ông cho rằng trong xã hội con người sẽ không cảm thấy tốt hơn nếu mọi ý
nguyện của mình trở thành hiện thực. Cũng trên quan điểm đó Hêraclít diễn đạt tư
tưởng của ông về “chiến tranh”; “chiến tranh là cha đẻ của mọi thứ, là hoàng đế của
mọi thứ. Chiến tranh có thể biến một số người thành thần thánh, số khác là người, nó
biến một số người thành nô lệ, số khác là người tự do”. Chiến tranh tạo ra một trật tự hài hoà mới.
Có thể nói rằng trong tư tưởng của Hêraclít về thống nhất (hài hoà) và các mặt đối lập,
ông đã làm nổi rõ những quan điểm sau: thống nhất là sự hoà hợp của cái bất đồng của
các mặt đối lập; trong quá trình biến đổi của sự vật đều trải qua các trạng thái đối lập
và chuyển hoá thành các mặt đối lập. Đấu tranh của các mặt là phổ biến, là điều kiện
của tồn tại. Với Hêraclít thế giới là sự hài hoà của các mặt đối lập, là sự thống nhất
(hài hoà) và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật phổ biến của thế giới, nhận thức
thế giới là nhận thức quy luật đó, nhận thức là sự phân đôi nội tại của quy luật.
2.3.3.4. Quan niệm về nhận thức và con người
Hêraclít được thừa nhận với tư cách là người sáng lập ra phép biện chứng không chỉ
bởi những quan niệm về vũ trụ, tính thống nhất của vũ trụ, về vận động phổ biến, về
tính thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập mà còn bởi quan niệm độc đáo của ông về nhận thức.
Theo Hêraclít, người ta chỉ có thể nhận biết được cái chung, cái phổ biến khi tìm ra
được những biểu hiện đa dạng, cụ thể của nó ở các sự vật, hiện tượng đơn nhất, cá biệt 18
bằng cách so sánh, đối chiếu các sự vật, hiện tượng đơn nhất cá biệt này với cái
chung, cái phổ biến. Nhiều nhà triết học có tên tuổi trong đó có những nhà sáng lập ra
chủ nghĩa Mác đã coi đó là phương pháp “đằng sau cây nhận thấy rừng” - đằng sau
hiện tượng nhận thấy bản chất, còn đằng sau bản chất nhận thấy hiện tượng. Ông có
một câu châm ngôn nổi tiếng: “biết nhiều thứ chưa làm cho người ta thông minh,
người thông minh phải là người nắm được bản chất và tính tất yếu của sự vật, hiểu
được cái logos của vũ trụ”. Theo quan điểm của ông, người biết nhiều thứ, đa tri thức
của một người mà không hiểu được cái logos của vũ trụ thì nhiều lắm cũng chỉ được
coi là người hiểu biết chứ chưa phải là người thông minh, chưa phải là nhà thông thái.
Biết nhiều thứ đa tri thức, theo ông cũng chỉ là những mánh lới của nhận thức, mà
mánh lới của nhận thức thì ai cũng có, “mọi người ai cũng có khả năng nhận thức”.
Người thông minh, nhà thông thái không chỉ là những người biết nhiều, đa tri thức mà
còn phải nắm được cái Logos của vũ trụ, nắm được cái quy luật tất yếu của vũ trụ.
Theo Hêraclít, để nắm được mối quan hệ biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng, nắm
được bản chất quy luật phổ biến của thế giới, nắm được logos của vũ trụ, chủ thể nhận
thức trước hết phải có năng lực quan sát và sự sáng suốt của trí tuệ. Sự sáng suốt của
trí tuệ không phải là một cái gì thần bí mà nó là cái logos vốn có ở mỗi con người, là
năng lực nhận thức độc lập của con người về bản chất của các sự vật, hiện tượng mà
họ đang quan sát chiêm nghiệm. Sự sáng suốt của trí tuệ đó có khả năng nhận thức
được tính thống nhất của vũ trụ, nhận thức được sự thống nhất của các mặt đối lập,
nhận thức được logos của vũ trụ.
Với quan niệm đó, Hêraclít coi sự sáng suốt của trí tuệ, cái logos chủ quan, sự thông
thái của con người cũng là đối tượng của nhận thức lý tính. Hêraclít đã chỉ ra những
đặc trưng của cái logos chủ quan đó là: tính khách quan, tính vĩnh hằng, là quy luật
bất biến, là cái linh hồn vốn có tự nó phát triển. Chính do tính chất khách quan, do cái
phổ biến nên nó có ở mọi người và là cái có thể nhận thức, và một khi con người nhận
thức được nó con người sẽ trở nên thông thái.
Nét độc đáo trong quan niệm của Hêraclít đó là đã coi logos chủ quan cũng là đối
tượng của nhận thức, của con người. Song sự khác biệt của Hêraclít so với các nhà
triết học đương thời còn ở chỗ ông luôn coi tự nhiên mới là đối tượng của nhận thức,
nhận thức của thế giới phải là cái nhận thức được cái Logos khách quan. 19
Ưu điểm lớn nhất của trí tuệ là nói lên được chân lý và hành động theo tự nhiên, nghe
theo tiếng nói của tự nhiên. Song không phải ai cũng nhận thức được thế giới tự nhiên,
không phải ai cũng nhận thức được Logos khách quan của thế giới, bởi lẽ “tự nhiên
yêu thích sự ẩn dấu mình”. Chỉ có những người có trí tuệ “sáng sủa” nhất, có “linh
hồn khô ráo” nhất mới có thể nhận thức được cái Logos khách quan của tự nhiên. Và
để có được sự nhận thức đúng đắn này thì nhận thức của con người kể cả những người
có trí tuệ anh minh nhất phải bắt đầu từ nhận thức cảm tính, “bởi mắt và tai là những
người thầy tốt nhất”. Song mắt và tai lại là những nhân chứng tồi nhất đối với con
người nếu người đó có linh hồn “ẩm ướt”. Điều đó cũng có nghĩa là, để nhận thức
được cái Logos khách quan của tự nhiên thì con người phải đi từ trực quan cảm tính
đến trực giác trí tuệ, từ sự nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Đây là một quan
điểm hết sức tiến bộ của Hêraclít. Sau này các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cũng
khẳng định: con đường của nhận thức là đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng trở lại với thực tiễn.
Từ sự trình bày nói trên có thể thấy được rằng Hêraclít đã có những quan điểm biện
chứng trong nhận thức, đặc biệt khi ông xây dựng nguyên lý sự thống nhất giữa Logos
khách quan và Logos chủ quan, mối quan hệ giữa nhận thức thế giới và khả năng nhận
thức thế giới của con người, biện chứng giữa cái chung và cái đơn nhất. Mặc dù
những tư tưởng đó còn chưa thật rõ ràng nhưng đó là những tư tưởng biện chứng hết
sức có ý nghĩa cho việc phát triển phép biện chứng sau này.
Chương 3: Những đóng góp và hạn chế của tư tưởng biện chứng
trong triết học Heraclit đối với lịch sử phát triển của phép biện chứng
3.1. Những đóng góp của tư tưởng biện chứng trong triết học Heraclit đối với lịch sử
phát triển của phép biện chứng. 20
Có thể nhận xét chung rằng, trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử nhân loại với cách
nhìn biện chứng về thế giới thì trên phương diện thế giới quan, các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại đã vượt bỏ những ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại và tôn giáo, đem
lại cho loài người người một phương pháp tư duy mới – tư duy triết học. Tư tưởng
biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại đã mở đầu cho sự phát triển tư tưởng biện
chứng phương Tây. Những vấn đề được các nhà triết học Hy Lạp đặt ra là những viên
đá tảng tạo tiền đề cho sự phát triển tư tưởng biện chứng trong triết học sau này.
Các nhà triết học thuộc trường phái Mile và Hêraclit là những người đã đặt nền móng
cho sự phát triển triết học trên lập trường duy vật. Với phương pháp tư duy độc đáo
của mình, với cách nhìn biện chứng, mà hình thức đầu tiên là nhìn nhận thế giới trong
sự thống nhất, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã truy tìm nguồn gốc của thế giới, tính
thống nhất của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Với Talet là nước, Anaximen là
không khí, Anaximanđrơ là Apâyrôn…, còn đối với Hêraclit là lửa. Tư tưởng biện
chứng trên lập trường duy vật về bản thể luận này càng về sau càng được phát triển
trừu tượng hơn trong thuyết nguyên tử của Đêmôcrit… Sau này, định nghĩa vật chất
của Lênin đã đưa lập trường duy vật lên đỉnh cao của sự hoàn thiện và triệt để.
Hêraclit là người đầu tiên trình bày quy luật thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của các
mặt đối lập. Trong đó, ông cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất tuyệt đẹp bao
gồm các mặt đối lập. Hơn thế nữa, ông còn khẳng định được rằng đấu tranh của các
mặt đối lập là quy luật phổ biến của thế giới, là điều kiện để tồn tại. Nhận thức thế
giới là nhận thức quy luật thống nhất (hài hòa) và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Trong “Bút ký triết học”, V.I.Lênin đã đánh giá rằng, tư tưởng này của ông khiến nhà
triết học lỗi lạc của Hy Lạp cổ đại là Arixtốt phải nát óc “đấu tranh” lại.
Trong quan điểm nhận thức, ông có những tư tưởng biện chứng cực kỳ sâu sắc. Ông
đưa ra quan điểm của mình về phương pháp nhận thức: khi nhận thức cái chung, cái
phổ biến, khi tìm ra được những biểu hiện đa dạng của nó trong các sự vật đơn lẻ thì
cần đối chiếu, so sánh các sự vật cá biệt, đơn lẻ với cái chung, cái phổ biến. Với quan
điểm nhận thức này, ông đã có cái nhìn đúng đắn đầu tiên về cặp phạm trù cái chung
và cái riêng. Ông cũng là người đưa ra khái niệm logos chủ quan và logos khách quan,
theo đó, logos chủ quan của con người có mối quan hệ biện chứng với logos khách 21
quan của thế giới. Nhận thức của con người là một quá trình đi từ logos chủ quan đến
logos khách quan hay nói cách khác nhận thức là một quá trình đi từ nhận thức cảm
tính đến tư duy trí tuệ. Bản chất của nhận thức thế giới là nhận thức logos khách quan.
Trong học thuyết về dòng chảy phổ biến, Heraclit cũng đưa ra những tư tưởng biện
chứng của mình. Một câu nói nổi tiếng của ông là: “ Không ai có thể tắm hai lần trên
một dòng sông”. Điều này khẳng đinh vận động, biến đổi là phổ biến, vĩnh cửu. Tuy
nhiên, ông cũng khẳng định vận động và đứng im là sự thống nhất mâu thuẫn của các mặt đối lập.
Có thể thấy rằng, Hêraclit đã đưa triết học duy vật cổ đại lên một bước mới với những
quan điểm duy vật và những yếu tố biện chứng. Triết học của ông có một vai trò nhất
định trong nền triết học nói chung và lịch sử phát triển phép biện chứng nói riêng. Học
thuyết của ông sau này đã được các nhà triết học cận đại hiện đại kế thừa. Mỗi nhà
triết học từ lập trường triết học của mình đã tiếp cận và đánh giá khác nhau về triết
học Hêraclit. Ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại.
3.1.2. Những hạn chế của tư tưởng biện chứng trong triết học Heraclit
Bên cạnh những đóng góp đối với lịch sử phát triển của phép biện chứng
thì tư tưởng biện chứng của Hêraclít không thể tránh khỏi những hạn chế của những
nhà triết học thời trước đó là sự ngây thơ, chất phác, cảm tính trong những quan niệm
của mình. Ở tư tưởng biện chứng của Hêraclít, thống nhất mới chỉ được quan niệm ở
nguồn gốc chung của sự vật mà vẫn chưa thấy được sự thống nhất giữa các sự vật
trong những mối liên hệ cụ thể, hay như sự vận động cũng chỉ là vận động trong một
vòng khép kín. Vận động trong quan niệm của ông còn đơn giản, chưa đi đến được
quan niệm vận động tạo nên sự đa dạng và phong phú của các sự vật và hiện tượng,
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng theo nấc thang đi lên.
Mặc khác, tư tưởng biện chứng của Hêraclít hầu hết được thể hiện qua
những câu văn giàu hình ảnh, châm ngôn nhiều ẩn dụ, đa nghĩa. Điều này
tạo nên tính không nhất quán trong các tư tưởng, quan điểm, luận điểm của ông. 22 Kết luận 23 Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nhà xuất bản
Chính Trị Quốc Gia, xuất bản năm 2015, trang 62, 63, 64, 65, 66.
2. Bộ giáo dục và Đào Tạo. Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên Cao học và
Nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học). Hà Nội – 2005. Trang 158 24