Tư tưởng chính trị Nho gia sơ kì – Sự du nhập và tác động đến đời sống chính trị Việt Nam | Tiểu luận Lịch sử tư tưởng chính trị

Nho gia là một hình thái ý thức xã hội có quá trình ra đời và phát triển lâu dài trải qua mấy nghìn năm lịch sử. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, Nho gia đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều xã hội, nhiều quốc gia. Nhiều thời kỳ lịch sử, Nho gia đã thành nền tảng tinh thần cho xã hội, thành mục tiêu trọng tâm trong các kỳ khoa cử. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
30 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tư tưởng chính trị Nho gia sơ kì – Sự du nhập và tác động đến đời sống chính trị Việt Nam | Tiểu luận Lịch sử tư tưởng chính trị

Nho gia là một hình thái ý thức xã hội có quá trình ra đời và phát triển lâu dài trải qua mấy nghìn năm lịch sử. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, Nho gia đã có sự ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều xã hội, nhiều quốc gia. Nhiều thời kỳ lịch sử, Nho gia đã thành nền tảng tinh thần cho xã hội, thành mục tiêu trọng tâm trong các kỳ khoa cử. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

7 4 lượt tải Tải xuống
MỞ ĐẦU
1.. Lý do lựa chọn đề tài
Nho gia là một hình thái ý thức xã hội có quá trình ra đời và phát triển lâu dài trải
qua mấy nghìn năm lịch sử. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, Nho gia đã có sự ảnh
hưởng sâu sắc đến nhiều xã hội, nhiều quốc gia. Nhiều thời kỳ lịch sử, Nho gia đã
thành nền tảng tinh thần cho xã hội, thành mục tiêu trọng tâm trong các kỳ khoa
cử. Nói đến nền văn minh cổ đại Trung Quốc thì quả là rộng lớn. Biết bao nhiêu hệ
tư tưởng xuất hiện và tồn tại mãi cho đến ngày nay. Từ thuyết âm dương ngũ hành,
học thuyết của Khổng Tử, Lão tử… Thế nhưng trong các học thuyết ấy, không ai
có thể chối cãi được rằng học thuyết Nho gia. Nhà người phát khởi phát là Khổng
tử là có vị trí quan trọng hơn hết trong lịch sử phát triển của Trung Quốc nói chung
và các nước Đông Nam Á nói riêng. Hệ tư tưởng Nho gia thừa nhận sự thống trị
của giai cấp phong kiến, đứng đầu là thiên tử, có sự phân chia đẳng cấp xã hội:
người lao động chỉ là hạng tiểu nhân, hèn kém; tầng lớp trên là hạng quân tử, cao
sang. Chính vì cốt lõi tư tưởng đó, hệ tư tưởng Nho gia được giai cấp phong kiến
Trung quốc, qua các thời đại sử dụng làm tư tưởng thống trị.
Nho gia đã góp phần đắc lực cho việc quản lý đời sống chính trị - xã hội. Ở mỗi
thời kỳ lịch sử, Nho gia được bổ sung thêm những giá trị mới phù hợp với lợi ích
của giai cấp cầm quyền, với thời đại. Chính vì lẽ đó mà Nho gia vẫn có sức sống
“trường tồn” cùng với sự phát triển của các quốc gia.
Ở Việt Nam đã có những thời kỳ Nho gia đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời
sống xã hội. Nho gia đã hòa cùng với văn hóa, tín ngưỡng dân tộc và các tôn giáo
khác để tham gia xây dựng giá trị nền tảng tinh thần cho cộng đồng, điều chỉnh các
hoạt động xã hội. Đồng thời Nho gia cũng có tác động nhiều chiều đến việc tiếp
thu các giá trị mới tiến bộ. Trong những năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã mang lại nhiều thành tựu quan
trọng. Đất nước đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo để bước vào vị thế mới: nước
có thu nhập trung bình. Song hành với quá trình phát triển của đất nước, Nho gia
đã có sự tác động tích cực nhất định đến mọi mặt của đời sống xã hội như: kinh tế,
chính trị, văn hoá, giáo dục… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đó thì
hàng loạt những ảnh hưởng tiêu cực của Nho gia cản trở đến sự phát triển xã hội
như bệnh bảo thủ, tính gia trưởng, quan liêu…
Do vậy, trong đường lối chung để thực hiện mục tiêu đó, bên cạnh việc phải phát
huy những giá trị của Nho gia, chúng ta không thể không khắc phục những ảnh
hưởng tiêu cực của nó trên con đường phát triển, để Nho gia còn có thể đóng vai
trò quan trọng trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng
chính là lý do tôi chọn vấn đề “Tư tưởng chính trị Nho gia sơ kì – Sự du nhập
và tác động đến đời sống chính trị Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình. Đây
là vấn đề khó, đòi hỏi nghiên cứu chuyên sâu và có thực tiễn xã hội do vâỵ dù đã
có nhiều cố gắng, nỗ lực của tác giả song tiểu luận chắc chắn còn những thiếu sót,
kính mong sự quan tâm hướng dẫn, góp ý, bổ sung của quý thầy cô giáo và các
bạn!
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích:
- Tiểu luận làm rõ tư tưởng chính trị của Nho gia sơ kì và ảnh hưởng cả tích cực và
tiêu cực của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó tiểu
luận sẽ xây dựng những giải pháp nhằm phát huy những giá trị của Nho gia, đồng
thời loại bỏ những hạn chế của nó trong đời sống chính trị nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ:
- Tiểu luận khái quát làm rõ nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển và những tư
tưởng chính trị của Nho gia.
- Sự du nhập Nho gia vào Việt Nam cùng những ảnh hưởng của tư tưởng chính trị
Nho gia với đời sống chính trị nước ta.
- Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của Nho gia với đời sống chính trị ở Việt Nam,
tiểu luận xây dựng những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao những ảnh hưởng tích
cực, hạn chế những tác động tiêu cực của Nho gia.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Những tư tưởng chính trị của Nho gia và sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam hiện
nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Tiểu luận chỉ tập trung làm rõ tư tưởng chính trị của Nho giáo được du nhập vào
Việt Nam, những ảnh hưởng của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể chủ yếu được sử dụng trong luận văn là: lịch sử và lôgíc;
phân tích và tổng hợp, phương pháp quan sát xã hội…
5. Kết cấu tiểu luận:
Chương I: Tư tưởng chính trị của Nho gia sơ kì
CHƯƠNG I : TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NHO GIA SƠ KỲ
1. SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG TIÊU BIỂU CỦA NHO GIA
1.1. Khái lược về Nho gia trong lịch sử triết học Trung Quốc
Nho gia được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu
Công Đán, còn gọi là Chu Công„Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử
(551 TCN) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá
các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho
gia.
Nói đến nền văn hóa truyền thống Trung Quốc không thể không nói đến một
nhân vật đó là Khổng Tử. Trong thập niên 70 của thế kỷ trước, một học giả Mỹ đã
xếp Khổng Tử ở ngôi vị thứ năm, chỉ sau chúa Giê-xu, Thính-ca-mâu-ni... trong s
100 nhân vật có ảnh hưởng trong lịch sử. Khổng Tử là người sáng lập học thuyết
Nho gia ở Trung Quốc. Hơn hai nghìn năm qua, tư tưởng của Nho gia ảnh hưởng
đối với Trung Quốc không chỉ về chính trị, văn hoá...mà còn thể hiện trong hành vi
và phương thức tư duy của mỗi con người Trung Quốc. Có học giả nước ngoài
thậm chí coi tư tưởng của Nho gia là tư tưởng tôn giáo của Trung Quốc. Trong
thực tế trường phái Nho gia chỉ là một trong rất nhiều trường phái thời cổ Trung
Quốc, nó là một tư tưởng triết học chứ không phải là tôn giáo, chẳng qua là do
được coi là tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở
Trung Quốc và có ảnh hưởng tới một số nước ở châu Á nói chung.
* Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ
kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử,
dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là
Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của
ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho
giáo thời nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo
hay “tư tưởng Khổng - Mạnh“.
* Thời Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
học thuyết của Nho gia lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất
nước về tư tưởng. Và từ đây, học thuyết của Nho gia trở thành hệ tư tưởng chính
thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho gia thời
kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán
Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng “lễ trị” để
che đậy “pháp trị”.
* Thời Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách
gối đầu giường của các nhà Nho. Nho gia thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với
các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. Phương Tây
gọi Tống nho là “Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với học thuyết
Nho gia trước đó là việc bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các
yếu tố “siêu hình” (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Các tư tưởng triết học của Nho gia không phải từ thời Khổng Tử mới hình
thành, mà đã có từ trước đó rất lâu, những tư tưởng ban đầu của Nho gia chỉ là học
thuyết mang tính chính trị - xã hội. Chữ “Nho” lúc đầu được dùng để chỉ những
người đọc sách thánh hiền, thông hiểu qui luật tự nhiên của đất trời, con người, vạn
vật. Những người này có thể giúp mọi người hiểu rõ đạo ăn ở, đối nhân xử thế, họ
thường là nhà giáo, người trị quốc. Tuy nhiên các tư tưởng Nho gia này mới chỉ tồn
tại rải rác, chưa thành hệ thống. Chỉ đến khi Khổng Tử và sau này là các đại biểu
Mạnh Tử, Tuân Tử, Đổng Trọng Thư thì được hệ thống hóa, và sáng tạo thêm để
thành một học thuyết hoàn chỉnh. Trong đó bàn về các vấn đề cơ bản như: quan
niệm về thế giới – bàn về lẽ tự nhiên, trời đất; quan niệm về con người – xây dựng
những quy tắc, chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh hành vì của con người trong xã
hội; quan niệm về chính trị xã hội – nêu lên đạo trị nước và mô hình xã hội lý
tưởng.
1.2. Các nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu
Nho gia là học thuyết của xã hội phong kiến, bản thân Nho gia cũng nêu lên một số
nguyên lý, nguyên tắc, đường lối và phương pháp nhằm bảo đảm cho xã hội một
sự ổn định và vận hành để phát triển. Mục đích lý tưởng của Nho gia là xây dựng
một nhà nước chuyên chế mạnh, duy trì kỷ cương, tông pháp, đẳng cấp, quyền lực
tuyệt đối thuộc về vua. Người cai trị dùng đạo đức, lễ tiết để làm gương cho dân
chúng, dùng pháp luật có mức độ, dân chúng thì tự giác làm tròn bổn phận của
mình.
1.2. Một số chính trị gia tiêu biểu của Nho gia:
1.2.1. Khổng Tử (551 - 479 TCN)
1.2.1.1 Vài nét về Khổng Tử và bộ sách của nhà Nho
Khổng Tử tên Khâu, tự Trọng Ni, người nước Lỗ, nay thuộc làng Xương
Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khổng Tử từng giữ các chức
quan nhỏ. Suốt thời gian làm quan, ông chăm lo chính sự làm cho nước Lỗ ổn
định. Nước Tề lập kế để vua Lỗ mải vui chơi quên việc triều chính. Ông can gián
nhưng vua Lỗ không nghe, nên cùng học trò bỏ vua Lỗ đi.
Khổng Tử nhiều lần đi sang các nước khác mong muốn áp dụng học thuyết
của mình vào việc trị nước, nhưng không được xã hội trọng dụng. Sau 14 năm du
thuyết không thành, ông quay về nước Lỗ viết sách và dạy học, học trò theo học rất
đông trong đó có 72 học trò giỏi (thất thập nhị hiền), sau này đã có nhiều học trò
và thế hệ học trò tiếp tục sự nghiệp Nho học mà thầy là người có công tập đại
thành.
Kinh điển của Nho giáo bao gồm Tứ thư và Ngũ kinh:
Học thuyết của Khổng Tử được gọi là học thuyết chính trị - đạo đức. Những
vấn đề cơ bản của chính trị được bàn đến ở đây như: quyền lực, bang giao, phẩm
chất của người cai trị…
1.2.1.2 Những tư tưởng chính trị cơ bản
Quan niệm về chính trị:
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là bàn về sự bình ổn xã hội, một
xã hội thái bình thịnh trị. Theo ông, chính trị là chính đạo, là ngay thẳng. Đạo của
người làm chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân chúng. Theo
ông xã hội loạn là do không chính danh là loạn danh tôi không ra tôi, vua không ra
vua; con không ra con, cha không ra cha; vợ không ra vợ, chồng chẳng ra chồng...
Do đó, chính trị có nhiệm vụ lập lại trật tự xã hội cho chính danh. Chính danh
(đúng tên gọi) ở đây nhằm để: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử... Chính trị có
nhiệm vụ làm cho xã hội nề nếp, kỷ cương, trật tự.
Khổng Tử cho rằng nguyên nhân mỗi người không ở đúng danh vị của mình
(việt vị) là do trong xã hội điều Lễ bị xem nhẹ. Do đó, chính trị làm cho thiên hạ có
Đạo, quay về Lễ, phải củng cố điều Nhân, coi trọng lễ nghĩa, mỗi người phải hành
động trong khuôn khổ của mình, từ đó xã hội sẽ ổn định.
Quan niệm chung về chính trị cũng như lý tưởng chính trị được ông triển
khai theo phương pháp “nhất dĩ nhi quán chi” (lấy cái bao trùm những cái khác) và
các nội dung cụ thể khác như dùng “lễ”, “chính danh” và đạo “nhân” để cai trị.
Bên cạnh đó, theo ông nhà nho phải tham gia chính trị, phải có trách nhiệm
với sơn hà xã tắc. Chính vì vậy mà đương thời Khổng Tử đã đi khắp nơi (sớm Sở,
tối Tần) để giao giảng học thuyết của mình nhằm giúp cho xã hội bình ổn. Tuy
nhiên, học thuyết của ông không được xã hội lúc bấy giờ trọng dụng.
Quan niệm về phẩm chất của người cầm quyền và người bị cầm quyền:
Theo tư tưởng của Khổng Tử, khi người ta đã quần tụ với nhau thành xã hội
thì tất phải có quyền tối cao để giữ kỷ cương chung. Cái quyền ấy gọi là Quân
quyền, tức là quyền tối thượng trong một quốc gia. Quân quyền phải để một người
nắm giữ cho thống nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế vương. Đế vương là thiên
tử, vâng mệnh trời xuống để nhận dân, trị dân và hưởng dân. Thiên tử phải lo việc
trị nước, lo cuộc sống sinh hoạt, dạy dỗ và mở mang cho muôn dân.
Theo Khổng Tử xã hội loạn là do người điều hành, người đứng đấu chứ
không phải do chế độ xã hội đương thời. Người hành chính mà có tài, có đức thì
nước được trị; người hành chính không có tài, không có đức, thì nước phải loạn.
Dẫu chính thể (thể chế chính trị) hay đến đâu mà người điều hành không ra gì, thì
cũng hoá dở. Khổng Tử nói: “Văn Vũ chi chính bố tại phương sách, kỳ nhân tồn,
tắc kỳ chính cử, kỳ nhân vong, tắc kỳ chính tức: việc chính trị của vua Văn, vua
bày ra ở trong sách. Nếu những người như vua Văn, vua Vũ còn thì cái chính trị ấy
thi hành ra, nếu những người ấy mất, thì cái chính trị ấy hư hỏng” [26, tr.152]. Do
vậy, việc chính trị hay dở cốt ở người hành chính. Bởi thế cho nên Khổng Tử muốn
lúc nào người cầm quyền hành chính cũng phải kính cẩn, lo sửa mình cho ngay
chính, để dùng người hiền mà làm việc nước, việc dân.
Chính vì vậy, người cầm quyền phải có những phẩm chất nhất định, phải
giữ mình cho ngay chính và làm việc gì cũng phải giữ cái danh cho chính. Người
quân tử điều gì mà chưa biết rõ thì đừng nói vội. Danh không chính thì nói không
xuôi, nói không xuôi thì việc không thành (Danh bất chính tắc ngôn bất thuận,
ngôn bất thuận tắc sự bất thành). Cho nên quân tử danh chính ắt là khá nói được,
nói được ắt là khá làm được.
Theo Khổng Tử, nhân và lễ là đạo làm người được trời phú cho, nhưng
không phải là tất cả mọi người đều có nhân và lễ. Khổng Tử phân chia con người
trong xã hội thành hai hạng: quân tử và tiểu nhân. Quân tử là những người thuộc
các tầng lớp quý tộc, quan lại, trí thức thuộc giai cấp thống trị. Tiểu nhân là những
người lao động chân tay, thuộc giai cấp bị trị. Ông xem nhân và lễ là đức tính của
người quân tử, còn tiểu nhân thì tuyệt đối không thể có nhân cách ấy, mặc dù ông
nói: “Tính tương cận, tập tương viễn” (Tính người là gần nhau nhưng do tập nhiễm
mà xa nhau).
Khổng Tử khẳng định: chỉ khi nào thu phục được lòng dân thì mới có quốc
gia hưng thịnh. Chủ trương dùng “lễ”, “nhân”, “chính danh”, nêu gương và noi
theo đều nhằm mục đích thu phục lòng dân.
Học thuyết Nhân, Lễ, Chính danh:
Đây là học thuyết cơ bản của Khổng Tử. Trong học thuyết này Nhân là
phạm trù trung tâm, nhân là thước đo, chuẩn mực quyết định thành hay bại, tốt hay
xấu của chính trị. Nội dung điều Nhân rất rộng, bao hàm các vấn đề đạo đức, luân
lý của xã hội. Khổng Tử nói đến 79 lần về điều Nhân, tùy theo căn cơ, trình độ,
tâm tính của từng học trò khi hỏi về điều Nhân mà thầy trả lời cho học trò hiểu
được. Nhân là nhân đạo, là tính người, là nhân bản, là ái nhân. Nhân thể hiện ở các
nội dung sau: Thương yêu con người (ái nhân), trong đó thương yêu người thân
của mình (thân thân) và yêu người nhân đức (thân nhân). Từ thương người, Khổng
Tử đi đến hai nguyên tắc: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân: Điều mình không muốn
làm thì đừng đối xử với người” và “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt
nhân: Mình muốn thành đạt thì giúp cho người khác thành đạt”. Và để giữ được
điều nhân thì “Khắc kỷ, phục lễ vi nhân: Tu dưỡng bản thân, sửa mình theo lễ là
Nhân”. Nhân là chuẩn mực ứng xử giữa người với người nâng lên thành một giá trị
đạo đức xã hội.
Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận
hoá, biến Lễ thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, được thể
hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà cửa...
Lễ bao gồm hai nội dung cơ bản là tam cương và Ngũ luân.
Tam cương và Ngũ luân là những quan hệ cơ bản để điều chỉnh các hoạt
động xã hội. Bản thân Khổng Tử là người giữ nghiêm Lễ. Ông bỏ vua Lỗ Định
Công mà đi, vì vua Lỗ không thực hiện đúng Lễ, mặc dù ông đang giữ chức Đại
Tư khấu.
Chính danh là xác định và phân biệt quan hệ danh phận, đẳng cấp giữa các
giai cấp, thực chất là khẳng định tính hợp lý của giai cấp quý tộc trong việc thực
thi quyền lực của mình. Nó vừa là điều kiện, vừa là mục đích của chính trị.
Theo Khổng Tử, muốn cai trị trước hết phải chính danh, nghĩa là mọi vật cần
phải hợp với cái danh nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và
bổn phận phù hợp với danh ấy. Chính danh là xác định đúng trật tự cai trị, thứ bậc,
trách nhiệm xã hội. Ông cho rằng, chính danh là hợp với tự nhiên, “mệnh trời”:
“Vật các đắc kỳ sở” (vật đều có chỗ xác định của nó). Ông xác định rằng, một
trong những nguyên nhân của sự rối loạn trật tự xã hội là do mỗi người không xác
định đúng vị trí của mình, ngược lại còn tiếm quyền, tiếm lễ.
Trong học thuyết này Nhân là gốc, là nội dung cơn bản; Lễ là hình thức của
Nhân; Chính danh là con đường để đạt được điều Nhân.
Quan niệm về biện pháp cai trị:
Khổng Tử muốn lấy đạo đức mà thu phục người hơn là dùng hình pháp mà
trị xã hội. Ông nói: dùng chính trị mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhất thì dân
khỏi tội, nhưng không có lòng hổ thẹn; dùng đức mà khiến, dùng lễ mà tề nhất, thì
dân có lòng hổ thẹn, mà lại cố làm điều hay. Điều này cho thấy mong muốn của
Khổng Tử về cách cai trị. Chỉ khi nào dùng đức mà không hoá được, thì mới dùng
đến hình, dùng hình là bất đắc dĩ để trừng trị những kẻ không thể hoá được. Vậy
nên Khổng Tử nói: Thánh nhân trị dân và hoá dân là phải dùng cả chính lẫn hình.
Bậc thái thượng lấy đức dạy dân, mà lấy lễ tề dân. Bậc thứ nhì lấy chính sự mà
khiến dân, và lấy hình mà ngăn cấm: hình đặt ra nhưng không dùng đến. Chỉ có lúc
hoá dân mà dân không theo, để đến hại nghĩa nát tục, thì bấy giờ mới phải dùng
hình vậy.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử rất thích hợp với chủ nghĩa hoà bình, nhân
đạo. Ông nói: người làm vua làm chúa không lo ít người mà lo không đều, không
lo nghèo mà lo không an. Hễ đã đều là không có sự nghèo, đã hoà thuận là không
có ít người, đã an là không có sự khuynh nguy. Ông cho rằng lấy nhân ái mà trị
dân, giữ cho dân được hoà bình an lạc, đó mới thật là chính sách của vương đạo.
Nếu xưa nay các nhà vua, ai cũng theo cách cai trị đó thì nhân dân tránh khỏi được
bao nhiêu những việc chính trị hà khắc, làm cho dân khỏi phải lầm than cực khổ.
Phải thấy rằng, lý tưởng chính trị của Khổng Tử có giá trị nhân đạo cao.
Nhưng trong thực tế, tư tưởng đó không phù hợp với xã hội đương thời đang loạn
lạc.
Các môn đệ của ông sau này phát triển tư tưởng của ông theo nhiều hướng
khác nhau, tạo thành tư tưởng Nho gia trên nền tảng thừa nhận giai cấp thống trị
phong kiến. Với nguyên tắc chính trị đó, các triều đại phong kiến Trung Quốc sau
này lấy Nho gia làm tư tưởng chính thống là hoàn toàn có cơ sở.
1.2.2. Mạnh Tử (372 - 289 TCN)
1.2.2.1 Vài nét về Mạnh Tử
Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, người nước Lỗ. Ông là học trò của Khổng Cấp
(cháu nội Khổng Tử, Khổng Cấp là học trò của Tăng Sâm, Tăng Sâm là học trò của
Khổng Tử). Lên 3 tuổi, cha mất, Mạnh Tử được mẹ hiền nuôi dạy và hướng theo
học đạo của Khổng Tử. Ông có tài hùng biện, thường đi các nước: Lương, Tống,
Tề, Đằng... để thuyết phục vua các nước theo đạo thánh nhân. Nhưng các nước chỉ
lo chiến tranh, không lo nhân nghĩa nên đạo của ông không được thi hành, bản thân
ông không được trọng dụng.
Khi về già, ông cùng môn đệ viết sách, nội dung ghi lại những điều đối đáp
của ông với các vua chư hầu và môn đệ. Sách Mạnh Tử là tác phẩm của ông và là
một cuốn trong bộ kinh điển Tứ thư của nhà nho.
1.2.2.2 Tư tưởng chính trị cơ bản
Quan niệm về quyền lực chính trị
Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử ít bàn đến cách thức tổ chức thể chế chính trị
mà thường bàn nhiều về phương pháp cai trị. Ông thường lên án “bá đạo” (cai trị
bằng bạo lực, làm bá chủ chư hầu), ca ngợi lựa chọn “vương đạo” để cai trị (cai trị
bằng đạo đức). Ông chủ trương theo các đời vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ.
Mạnh Tử lý giải nguồn gốc quyền lực mang tính duy tâm thần bí với ba yếu
tố: ý trời - lòng dân - nhân đức. Theo ông ba yếu tố này có quan hệ với nhau. Theo
ông, sở dĩ các vua: Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ... trở thành thiên tử là do ý trời. Trời
trao ngôi thiên tử cho người đức hạnh, nhưng trao một cách ngấm ngầm, bí mật mà
biểu hiện bề ngoài là lòng dân. Theo ông ngôi thiên tử khi lòng dân thuận, là trời
đã trao, lòng dân không thuận, là trời không ưng và khi đó trời mượn tay người mà
trừ bỏ ngôi thiên tử. Đồng thời với việc thừa nhận chính thể phong kiến, Mạnh Tử
coi ngôi thiên tử là của chung thiên hạ. Tiêu chuẩn ngôi thiên tử là được lòng dân,
mà không nhất thiết theo dòng họ. Ai đủ tiêu chuẩn thì được trời trao. Ông thường
lấy ví dụ: vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn (Thuấn là con rể của Nghiêu),
Thuấn lại nhường ngôi cho con của Nghiêu là Vũ, Vũ lại nhường cho con là Khải.
Họ là người hiền, trời đồng ý, nên “quốc thái, dân an”. Ông phê phán một số vua
chư hầu bề ngoài thì sợ sự ô nhục nhưng bên trong vẫn ăn ở bất nhân.
Hiểu dân còn là biết nhu cầu chính đáng của dân mà đáp ứng. Cái dân cần
trước hết là đủ ăn, có dư thừa để phòng lúc đói kém, nuôi được cha mẹ để làm việc
kính. Nhưng để có cái ăn thì không phải đem cho dân mà là tổ chức sản xuất, thu
thuế nhẹ. Mạnh Tử còn đặt vấn đề giải quyết quan hệ chính trị thu phục lòng người
bằng biện pháp kinh tế. Ông cho rằng, phải chia ruộng đất cho dân cày để họ sản
xuất, sai khiến dân phải tránh thời vụ sản xuất. Ông phản đối phép chia đất hiện
hành vì nó không khuyến khích sản xuất. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử mong
muốn có một xã hội đạo đức, vua chăm lo cho dân để người già có lụa mặc, có thịt
ăn và dân không đói, không rét.
Mạnh Tử cũng đề cao việc giáo hoá dân. Ông phân tích cái hại của việc dân
không được giáo hoá, do đó khờ khạo mà phạm phải pháp luật và ông kết luận, đó
là lỗi của người cai trị.
Một nội dung trong tư tưởng chính trị của Mạnh Tử được đánh giá cao là
ông đã đề cập đến dân, đề cao dân, có thể đây được xem là tư tưởng dân chủ sơ
khai. Bằng cách diễn đạt dưới các hình thức khác nhau, ông nêu các khía cạnh
khác nhau của dân chủ trong lĩnh vực chính trị.
Học thuyết “nhân chính” của Mạnh Tử có nhiều nhân tố tiến bộ hơn so với
Khổng Tử. Tuy vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, nhưng ông đã nhìn
thấy được sức mạnh của nhân dân, chủ trương thi hành nhân chính, vương đạo.
Tuy nhiên, điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời và tính thần bí trong lý
giải vấn đề quyền lực.
Quan hệ vua - tôi và thần dân:
Theo Mạnh Tử, quan hệ vua tôi đã bớt đi tính hà khắc, một chiều. Ông cho
rằng vua coi bề tôi như thế nào thì bề tôi cũng có cách xử sự tương ứng: “Vua coi
bề tôi như chân tay, bề tôi coi vua như ruột thịt; vua coi bề tôi như chó ngựa, bề tôi
coi vua như người dưng; vua coi bề tôi như cỏ rác, bề tôi coi vua như thù địch”
[26, tr.232]. Bề tôi có thể bỏ vua mà đi nếu vua không nghe lời can gián đúng.
Hoặc bề tôi có thể giết vua bạo ngược như Kiệt, Trụ mà không có tội, mà đó là
thay trời hành đạo.
Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng dân. Tuy nhiên tư
tưởng coi trọng dân chỉ là thủ đoạn chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi. Trong
điều kiện chế độ quân chủ, những quan niệm dân chủ của Mạnh Tử đưa ra dẫu
không thực hiện được, nhưng đó là những quan niệm tiến bộ.
Ngoài ra, Mạnh Tử còn nêu ra những vấn đề chính trị khác như tổ chức thể
chế chính trị thời Tây Chu; quan hệ bang giao hợp mệnh trời giữa nước lớn và
nước nhỏ...
Sau Mạnh Tử, Nho gia bị đứt đoạn một thời gian. Một thời gian sau đó Tuân
Tử tiếp thu và phát triển Nho gia theo một hướng khác. Những vấn đề chính trị
được luận giải thêm những nội dung mới.
1.2.3. Tuân Tử (315 - 230 TCN)
* Vài nét về Tuân Tử
Tuân Tử tên Huống, tự là Khanh, người nước Triệu. Ông sống vào cuối thời
Chiến Quốc, đây là thời kỳ cục diện chiến tranh Thất hùng (bảy nước) đi vào giai
đoạn cuối. Xã hội càng loạn lạc, dân lành khổ sở vì chiến tranh. Ông là môn khách
của Xuân Thân Quân nước Sở, từng giữ một số chức quan như quan Tế Tửu nước
Tề, Huyện lệnh Lan Lăng nước Sở. Khi Xuân Thân Quân mất, ông bỏ quan về nhà
dạy học, viết sách. Ông có hai học trò nổi tiếng là Lý Tư (từng làm Tể tướng nước
Tần) và Hàn Phi (một học giả nổi tiếng của phái gia). Tuân Tử theo Nho học, phát
triển Nho học theo hướng đối lập với Mạnh Tử về một số nội dung chính trị. Trong
số di sản ông để lại có cuốn Tuân Tử gồm 32 chương bàn về những vấn đề chính
trị, triết học, nhận thức.
* Tư tưởng chính trị cơ bản:
Quan niệm về quyền lực chính trị
Khác với các nhà tư tưởng Nho gia đời trước, Tuân Tử chủ trương nền cai trị
vương đạo, theo “Pháp hậu vương” (theo các đời vua Hạ, Thương, Vũ). Ông phân
loại có 3 nền cai trị khác nhau về phương pháp, mục đích và kết quả, đó là vương
đạo, bá đạo và vong quốc chi đạo.
Các nhà nho đời trước đều lấy những thánh vương nhà Nghiêu, Thuấn làm
tiêu chuẩn. Tuân Tử thì cho những thánh vương Ngũ đế cùng với thánh vương đời
Tam đại không có gì khác nhau, vì các vương giả đời nào cũng theo một đạo cả.
Ông còn phân tích vua có quyền thế như vậy nên vua có đạo thì nước được yên,
ngôi vua cũng được vững, ngược lại vua vô đạo thì cả dân lẫn vua đều nguy khốn.
Quan niệm về phương pháp cai trị
Tuân Tử coi trọng việc cai trị bằng lễ và bằng pháp luật. Trước hết, ông cho
rằng điều “lễ” được sử dụng là tất yếu. Ông so sánh “lễ” trong việc trị quốc cũng
như quả cân với cán cân, như dây mực với đường cong. Cơ sở khách quan để ông
đề cao lễ là từ cuộc sống hiện thực của con người, được ông xác định bằng quan hệ
nhân quả: Dục (ham muốn) - Tranh (tranh đoạt) - Loạn (chiến tranh) - Cùng
(không còn gì). Để tránh “loạn” và “cùng”, ông cho rằng, dùng “lễ” để phân biệt ra
trật tự, định rõ giới hạn, để hành động của dân chúng có kỷ cương.
Vương giả dùng lễ để cai trị thiên hạ, song nếu còn có người không chịu
theo giáo hoá thì tất là phải dùng đến hình phạt tức là pháp luật. Ông cho rằng:
phạt người có tội là để khiến những kẻ gian ác đừng làm những điều phi pháp và
sự thưởng sự phạt của vương giả bao giờ cũng phải cho công minh và xứng đáng.
Ông cho rằng dùng hình pháp mà đáng tội thì có uy; không đáng tội thì người dưới
khinh nhờn, ban thưởng tước lộc mà đáng cho kẻ hiền tài thì quý, không đáng thì
không quý. Đời xưa dùng hình pháp không quá cái tội, ban thưởng tước lộc không
vượt quá cái đức, cho nên có khi giết cha mà dùng con làm tôi, giết anh mà dùng
em làm tôi. Người thiện kẻ ác phân biệt, ai nấy đều lấy cái trung thành mà thông
đạt, không bị sự khuất trệ. Ấy là để khuyên kẻ làm thiện và răn kẻ không làm thiện,
hình phạt thì giảm bớt mà cái uy quyền thi hành ra như nước chảy, chính lệnh rất
phân minh mà việc hoá đổi như thần.
Trước Tuân Tử có nhiều người bàn đến việc cai trị bằng pháp luật, nhưng
đến ông có sự bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Cụ thể ông quan niệm pháp luật
theo tinh thần “vương đạo”. Pháp luật có thưởng, có phạt, nhưng phải công bằng,
thưởng không quá đức, phạt không quá tội. Ông coi hình luật là tất nhiên, nhưng
không chỉ có mục đích xử tội kẻ phạm pháp mà có ý nghĩa sâu xa là giáo dục, răn
đe, ngăn cấm. Đối với việc canh coi pháp luật, ông cho rằng phải thận trọng có bàn
bạc kỹ lưỡng, xem xét công khai, không có mưu ngầm khi nghị tội, không bỏ sót
điều thiện thì “trăm việc không sai”.
Quan niệm về người cầm quyền
Thiên hạ trọng bậc nhân quân tức là trọng cái đẹp chung và cái lợi chung của
mình. Mà bậc nhân quân giữ cái ngôi mình là giữ cái chung của thiên hạ chứ
không phải là của riêng một nhà một họ nào. Đây là ý tưởng rất trọng yếu của Nho
gia. Người làm vua phải lấy cái đức mà thu phục thiên hạ, dùng cái trí công chính
mà làm lợi cho thiên hạ, như vậy thì tất yếu thiên hạ phải tôn phải quý. Nếu người
nào giữ ngôi vua mà lại chỉ biết có một cái quyền lợi của mình và làm những điều
dâm tàn bạo ngược thì là trái với quân đạo, không phải là bậc nhân quân nữa.
Nhìn chung ở góc độ nhất định, tư tưởng chính trị của Tuân Tử có bước tiến
quan trọng so với Khổng Tử và Mạnh Tử, đó là: việc đề cao quân quyền, đề cao
“lễ”; chủ trương cai trị bằng pháp luật.
Sau Tuân Tử một thời kỳ dài, Nho gia không được xã hội đương thời s
dụng làm sách trị quốc. Tuy nhiên, nhiều nội dung của Nho gia được các nhà tư
tưởng phát triển theo một số học phái khác.
Năm 221 TCN, khi Tần Thuỷ Hoàng lên ngôi thống nhất cục diện Thất hùng, mở
ra thời kỳ mới, thời kỳ phong kiến trung ương tập quyền. Nhà Tần đã thực hiện
chính sách Đốt sách, chôn Nho. Lúc này Nho gia bị một đòn chí mạng. Phải đến
đời nhà Hán, địa vị của Khổng Tử và Nho gia mới được phục hưng và có ảnh
hưởng to lớn đến đời sống chính trị ở xã hội phong kiến này.
2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIA Ở TRUNG QUỐC QUA CÁC THỜI KỲ
LỊCH SỬ
2.1. Thời nhà Hán (206 TCN - 220 SCN)
Do chính sách cai trị hà khắc chủ yếu bằng hình pháp, nhà Tần chỉ tồn tại 15
năm (221 - 206 TCN) ngắn ngủi, nhà Hán đã lên thay. Không như nhà Tần trị
nước, bằng binh hùng, tướng mạnh, gươm sắc, giáo nhọn, Lưu Bang rất cần có một
học thuyết chính trị để quản lý xã hội đương thời, cùng với Nho gia cũng có nhiều
học thuyết như “vô vi” của Lão Đam, “kiêm ái” của Mặc Địch tồn tại nhưng Lưu
Bang đã chấp nhận Nho gia, khéo léo kết hợp pháp trị và đức trị. Nho gia đã dần
dần được phục hồi, trở thành vũ khí tinh thần quan trọng của nhà Hán. Trong Tam
giáo ở thời Hán này thì Nho gia đứng vị trí số một.
Đến đời nhà Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế
đưa Nho gia lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho gia trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Quốc trong suốt một thời gian dài. Nho giáo thời kỳ này được gọi là
Hán Nho.
Điểm khác biệt của Hán Nho là đề cao quyền lực của giai cấp thống trị,
Thiên Tử là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”. Thời kỳ này, Nho gia
được bổ sung nhiều giá trị, gắn với tên tuổi của các bậc danh Nho. Tiêu biểu cho
thời kỳ này có Đổng Trọng Thư. Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời này
được tiến hành theo xu hướng:
Hệ thống hoá kinh điển và chuẩn mực hoá những quan điểm triết học Nho
gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai
cấp phong kiến. Đổng Trọng Thư, người mở đầu xu hướng này đã đẩy Nho gia đến
mức cực đoan để bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị. Tính khắc nghiệt một chiều trong
các quan hệ tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức luôn luôn được nhấn mạnh.
Thực chất của các quan hệ tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức là giáo
dục người dân tuyệt đối phục tùng bề trên, trói buộc ý thức nông dân vào luân lý
Nho gia để dễ bề cai trị họ.
Thời Hán đã xem Nho gia là học thuyết độc tôn, chính vì lẽ đó Nho gia bị
đẩy đến mức cực đoan, các quan hệ xã hội, gia đình bị cứng nhắc hóa, địa vị của
người phụ nữ bị hạ thấp.
2.2. Thời nhà Tống (960 - 1279)
Từ cuối thời Đường, Trung Quốc bị giặc đánh phá. Sau đó đến đời Ngũ Quí,
chiến tranh không lúc nào yên, thiên hạ loạn lạc, Nho giáo không được chú ý
nhiều. Đến khi nhà Tống lên, vua Thái tổ thấy nguyên nhân loạn lạc thuở ấy
thường do các võ tướng không có học mà lại có nhiều quyền thế, mới tìm văn thần
để thay võ tướng. Đó là nguyên nhân làm cho văn học hưng thịnh lên.
Do đó, thời các triều đại nhà Đường thì Nho gia không chiếm vị trí đáng kể
(Phật giáo được đề cao) nhưng đến nhà Tống thì Nho gia lại được khôi phục và đề
cao. Đến đời Tống Nho, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng
với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ thư. Lúc đó, Tứ thư và Ngũ kinh là sách
gối đầu giường của các nhà Nho. Nho gia thời kỳ này được gọi là Tống nho.
Điểm khác biệt của Tống Nho với Nho gia trước đó là việc bổ sung các yếu
tố tâm linh (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố siêu hình (lấy từ Đạo giáo). Việc bổ
sung những giá trị mới này nhằm phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị xã
hội.
Đời nhà Tống, các vua rất sùng bái Khổng Tử và Mạnh Tử cho nên thời kỳ
này Nho gia lại được phục hưng. Thời Tống đã xuất hiện những danh nho tiêu biểu
như: Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di... Đến đời Nam
Tống thì có Chu Hy (Chu Tử), Lục Cử Uyên. Thời này đã chia phái lý học ra làm
đạo vấn học và tôn đức tính.
Từ đây, tư tưởng Nho gia lại phục hồi và phát triển. Sự phát triển này đã làm
cho Nho học đời Tống khác với đời Hán và đời Đường. Trình độ và vị trí của Nho
gia được nâng cao ngang với Lão giáo và Phật giáo.
Ở thời kỳ này Nho gia có sự phát triển mạnh mẽ để phục vụ cho chế độ xã
hội phong kiến đang trong giai đoạn hưng thịnh. Do vậy mà tư tưởng chính trị ở
thời kỳ này được mở rộng đến toàn xã hội. Nho gia trở thành nội dung chính cho
các kỳ thi tuyển nhằm để lựa chọn quan lại phục vụ cho nền chính trị phong kiến.
Nho gia thời Tống được kết hợp thêm những yếu tố phù hợp của Phật giáo
và lão giáo để trở thành hệ tư tưởng chính thống.
CHƯƠNG II: SỰ DU NHẬP CỦA NHO GIA VÀO VIỆT NAM
1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam khi Nho gia du nhập vào
Nho gia từ quê hương Trung Quốc, do những điều kiện lịch sử khác nhau mà
đã được du nhập vào Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam… để hình thành một vành
đai Nho gia của khu vực. Nho gia được truyền vào Việt Nam thời Hán từ những
năm cuối trước công nguyên, bằng những con đường khác nhau:
Một là: Thông qua con đường của những đội quân xâm lược được trang bị
hệ tư tưởng Nho gia;
Hai là: Thông qua con đường truyền giáo có tổ chức của đội ngũ quan chức
người Trung Quốc được các triều đình phong kiến Trung Quốc đánh phá thực hiện
ách thống trị Bắc thuộc ở Việt Nam, trong đó có Quang Tích, Nhâm Diên, Sĩ
Nhiếp… là những quan lại đã có nhiều nỗ lực trong việc truyền bá Nho gia tới Việt
Nam;
Ba là: Con đường của những thương nhân theo đường biển đưa Nho gia tới
Việt Nam;
Bốn là: Thông qua con đường của những dân cư tự do người Trung Quốc có
hành động chống lại triều đình và bị truy đuổi đã di cư tới Việt Nam để sinh sống.
Sự di cư của những người dân Trung Quốc này cũng góp phần đưa tư tưởng Nho
gia vào Việt Nam.
Trong các cách thức du nhập của Nho gia vào Việt Nam thì con đường
truyền giáo có tổ chức của đội ngũ những quan lại người Trung Quốc trong suốt
thời kỳ Bắc thuộc là chủ yếu. Vì nó nằm trong chính sách chủ động âm mưu đồng
hoá của các triều đình phong kiến Trung Quốc đối với Việt Nam.
Sau khi xâm chiếm nước ta, giai cấp phong kiến Trung Quốc đã ra sức củng
cố chế độ nô dịch của chúng, tạo ra những bước chuyển lớn trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội, tư tưởng.
Trên lĩnh vực tư tưởng, Trung Quốc đã truyền bá và phát triển Nho gia, biến
nó thành hệ tư tưởng chính thống và là xiềng xích nô dịch dân ta. Ngay từ thời Tây
Hán, Nho gia đã xâm nhập vào xã hội ta từ buổi đầu công nguyên qua hai thái thú
là Tích Quan và Nhâm Diêm. Quan lại Trung Quốc đã dựng học hiệu để dạy lễ
nghĩa ở Giao Chỉ, Cửu Chân. Các sách kinh điển của Nho gia như Tứ thư, Ngũ
kinh đã bắt đầu được giảng dạy cho con em một số tầng lớp trên của xã hội Việt
Nam. Số này nếu đỗ đạt một phần được cử làm quan một số được đưa về Trung
quốc để sử dụng.
Sau khi giành được độc lập, giai cấp phong kiến Việt Nam củng cố nền
thống trị trên mọi lĩnh vực. Giai cấp phong kiến Việt Nam tổ chức lại nền giáo dục,
củng cố Nho gia, Phật giáo và Đạo giáo.
Thời kỳ nhà Lý, nhà Trần, Nho gia đứng thứ yếu sau Phật giáo. Mặc dù thời
kỳ này Phật giáo có thể là quốc giáo, nhưng không vì thế mà Nho gia mất đi, Nho
gia vẫn có chỗ đứng trong đời sống xã hội, chi phối các quan hệ cộng đồng. Trong
quá trình xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tầng lớp thống trị Việt Nam
cảm thấy không thể chỉ dựa và Phật giáo mà cần phải có một học thuyết tích cực
hơn. Và rõ ràng chỉ có Nho gia với cả hệ thống tư tưởng quân chủ, cổ vũ cho việc
tôn thờ nhà vua, mới có tác dụng tích cực bảo vệ chế độ phong kiến và tôn ti trật tự
của nó. Vì thế các triều đại sau này đã dần phát triển Nho gia.
Nho gia phát triển, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo, đại bộ phận tầng lớp
quan lại trong triều đều xuất thân từ nho sĩ. Việc công kích Phật giáo và Đạo giáo
càng phát triển mạnh. Từ thời nhà Lê trở đi, Nho gia đã trở thành quốc giáo của
chế độ phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, Đạo giáo và Phật giáo cũng không mất đi
hay bài xích Nho gia mà ba giáo phái này lại gắn kết, hòa hợp với nhau. Có những
thời tam giáo này đã cùng đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Chế độ phong kiến ngày được củng cố và phát triển. Nhà nước vẫn đào tạo
những người đắc lực và tích cực phục vụ cho nó. Phật giáo và Đạo giáo không thể
đảm nhiệm được việc ấy, chỉ có Nho gia với cả hệ thống tư tưởng tuyên truyền và
cổ vũ cho việc tôn thờ nhà vua, mới có tác dụng tích cực bảo vệ chế độ phong kiến
và tôn ti trật tự của nó. Vì thế, các nhà vua dần cho phép Nho gia có điều kiện phát
triển.
2. Những nội dung tư tưởng chính trị cơ bản của Nho gia khi hòa nhập vào Việt
Nam
Sự hình thành và phát triển Nho gia ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng
thịnh của các triều đại. Là hệ tư tưởng gắn liền với giai cấp thống trị, do đó Nho
gia có sự đồng hành mật thiết với các triều đại phong kiến, Nho gia là chỗ dựa cơ
bản về mặt tư tưởng cho giai cấp địa chủ.
Sự du nhập Nho gia vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các
thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn việc
thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Sự du nhập Nho
gia Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực hiện bởi
các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng đỡ, vì thế
Nho gia không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Cho nên,
trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho gia vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn
trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh
giành độc lập dân tộc đã nổ ra, nhưng hầu như không có sự tham gia của các nhà
nho.
Đến thời Lý, các nhà sư có vai trò to lớn và quan trọng trong việc tham gia
triều chính. Nhà Lý là đánh dấu sự ra đời nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở
nước ta. Do nhu cầu quản lý nhà nước, xã hội một cách tập trung và mạnh mẽ mà
nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho gia. Vào thời điểm này sự đóng góp của các
nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho gia dần dần thay
thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu
thờ Chu Công, Khổng Tử được xem như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức
Nho gia trên bình diện cả nước. Sang thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) Nho gia
được phát triển và cũng từ đó về sau Nho gia thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày
càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, phong tục, tập quán… qua hệ thống
giáo dục, pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ XX (năm 1919) khoa cử Nho
học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài
đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này.
Nho gia thống lĩnh tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, suốt hai
triều đại Lê, Nguyễn. Nho gia Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho gia Trung
Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những
biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho gia trong đời
sống chính trị - xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến hết sức sáng tạo của
người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo
nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của Việt Nam.
Nho gia với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các
nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một
hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế
quốc gia.
Trong lịch sử nhiều quốc gia trên thế giới, sự xung đột giữa các hệ tư tưởng,
tôn giáo không phải là ít. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa từng xảy ra với ba học
thuyết du nhập vào sớm đó là: Nho, Phật, Lão trong Tam giáo đồng nguyên. Ngược
lại các học thuyết trong tam giáo đồng nguyên đã bổ sung cho nhau những thiếu
hụt, hạn chế để cùng với những giá trị truyền thống tham gia điều hành quốc gia,
quản lý xã hội. Chính những điều trên tác động dẫn đến nguyên nhân làm cho Nho
gia ở Việt Nam có sự khác biệt với Nho Trung Quốc.
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIA ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ
VIỆT NAM
1. Ảnh hưởng tích cực
Nho gia du nhập vào nước ta và đã có những đóng góp rất lớn cho chế độ
phong kiến, mọi trật tự do Nho gia thiết lập đã có những đóng góp quan trọng cho
sự duy trì sự ổn định trật tự của hằng nghìn năm phong kiến. Những thiết chế chính
trị mà Nho gia làm linh hồn, làm kim chỉ nam đã tạo một sự bền chặt của một
chỉnh thể với những quan hệ trật tự, trên dưới được xác lập rõ ràng.
Tuy nhiên, trật tự đẳng cấp phương Đông khắc nghiệt đó đã không thể duy
trì lâu hơn được khi nền văn minh phương Tây mới tiến bộ đại diện cho phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nã pháo vào thành trì cố thủ của chế độ
phong kiến đã trở nên lỗi thời. Nho gia đã bất lực trước sức mạnh của tư tưởng
phương Tây hiện đại. Trật tự đẳng cấp khắt khe của phong kiến Nho giáo đã lạc
hậu trước những giá trị tự do, dân chủ phương Tây. Nhưng chủ động tiếp nhận văn
minh và các giá trị tiến bộ của phương Tây thì quan quân triều Nguyễn không
màng tới. Để duy trì địa vị và lợi ích ích kỷ của mình, triều Nguyễn đã đi từ
nhượng bộ này đến nhượng bộ khác và rốt cục, cả đất nước chìm trong cảnh lầm
than nô lệ.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân Việt Nam mà đội tiên phong là đảng Cộng sản đã giành được thắng lợi.
Chế độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập với một nền chính trị mới tiến bộ được thiết
lập lên từ nhân dân, vì nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa là con đường và mục
tiêu tất yếu mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn. Nền chính trị mới dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu này hoàn toàn đối lập với chế độ chính trị
| 1/30

Preview text:

MỞ ĐẦU
1.. Lý do lựa chọn đề tài
Nho gia là một hình thái ý thức xã hội có quá trình ra đời và phát triển lâu dài trải
qua mấy nghìn năm lịch sử. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, Nho gia đã có sự ảnh
hưởng sâu sắc đến nhiều xã hội, nhiều quốc gia. Nhiều thời kỳ lịch sử, Nho gia đã
thành nền tảng tinh thần cho xã hội, thành mục tiêu trọng tâm trong các kỳ khoa
cử. Nói đến nền văn minh cổ đại Trung Quốc thì quả là rộng lớn. Biết bao nhiêu hệ
tư tưởng xuất hiện và tồn tại mãi cho đến ngày nay. Từ thuyết âm dương ngũ hành,
học thuyết của Khổng Tử, Lão tử… Thế nhưng trong các học thuyết ấy, không ai
có thể chối cãi được rằng học thuyết Nho gia. Nhà người phát khởi phát là Khổng
tử là có vị trí quan trọng hơn hết trong lịch sử phát triển của Trung Quốc nói chung
và các nước Đông Nam Á nói riêng. Hệ tư tưởng Nho gia thừa nhận sự thống trị
của giai cấp phong kiến, đứng đầu là thiên tử, có sự phân chia đẳng cấp xã hội:
người lao động chỉ là hạng tiểu nhân, hèn kém; tầng lớp trên là hạng quân tử, cao
sang. Chính vì cốt lõi tư tưởng đó, hệ tư tưởng Nho gia được giai cấp phong kiến
Trung quốc, qua các thời đại sử dụng làm tư tưởng thống trị.
Nho gia đã góp phần đắc lực cho việc quản lý đời sống chính trị - xã hội. Ở mỗi
thời kỳ lịch sử, Nho gia được bổ sung thêm những giá trị mới phù hợp với lợi ích
của giai cấp cầm quyền, với thời đại. Chính vì lẽ đó mà Nho gia vẫn có sức sống
“trường tồn” cùng với sự phát triển của các quốc gia.
Ở Việt Nam đã có những thời kỳ Nho gia đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời
sống xã hội. Nho gia đã hòa cùng với văn hóa, tín ngưỡng dân tộc và các tôn giáo
khác để tham gia xây dựng giá trị nền tảng tinh thần cho cộng đồng, điều chỉnh các
hoạt động xã hội. Đồng thời Nho gia cũng có tác động nhiều chiều đến việc tiếp
thu các giá trị mới tiến bộ. Trong những năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng
Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã mang lại nhiều thành tựu quan
trọng. Đất nước đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo để bước vào vị thế mới: nước
có thu nhập trung bình. Song hành với quá trình phát triển của đất nước, Nho gia
đã có sự tác động tích cực nhất định đến mọi mặt của đời sống xã hội như: kinh tế,
chính trị, văn hoá, giáo dục… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đó thì
hàng loạt những ảnh hưởng tiêu cực của Nho gia cản trở đến sự phát triển xã hội
như bệnh bảo thủ, tính gia trưởng, quan liêu…
Do vậy, trong đường lối chung để thực hiện mục tiêu đó, bên cạnh việc phải phát
huy những giá trị của Nho gia, chúng ta không thể không khắc phục những ảnh
hưởng tiêu cực của nó trên con đường phát triển, để Nho gia còn có thể đóng vai
trò quan trọng trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng
chính là lý do tôi chọn vấn đề “Tư tưởng chính trị Nho gia sơ kì – Sự du nhập
và tác động đến đời sống chính trị Việt Nam” làm đề tài tiểu luận của mình. Đây
là vấn đề khó, đòi hỏi nghiên cứu chuyên sâu và có thực tiễn xã hội do vâỵ dù đã
có nhiều cố gắng, nỗ lực của tác giả song tiểu luận chắc chắn còn những thiếu sót,
kính mong sự quan tâm hướng dẫn, góp ý, bổ sung của quý thầy cô giáo và các bạn!
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 2.1. Mục đích:
- Tiểu luận làm rõ tư tưởng chính trị của Nho gia sơ kì và ảnh hưởng cả tích cực và
tiêu cực của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó tiểu
luận sẽ xây dựng những giải pháp nhằm phát huy những giá trị của Nho gia, đồng
thời loại bỏ những hạn chế của nó trong đời sống chính trị nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ:
- Tiểu luận khái quát làm rõ nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển và những tư
tưởng chính trị của Nho gia.
- Sự du nhập Nho gia vào Việt Nam cùng những ảnh hưởng của tư tưởng chính trị
Nho gia với đời sống chính trị nước ta.
- Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của Nho gia với đời sống chính trị ở Việt Nam,
tiểu luận xây dựng những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao những ảnh hưởng tích
cực, hạn chế những tác động tiêu cực của Nho gia.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Những tư tưởng chính trị của Nho gia và sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Tiểu luận chỉ tập trung làm rõ tư tưởng chính trị của Nho giáo được du nhập vào
Việt Nam, những ảnh hưởng của nó trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể chủ yếu được sử dụng trong luận văn là: lịch sử và lôgíc;
phân tích và tổng hợp, phương pháp quan sát xã hội… 5. Kết cấu tiểu luận:
Chương I: Tư tưởng chính trị của Nho gia sơ kì
CHƯƠNG I : TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NHO GIA SƠ KỲ
1. SỰ RA ĐỜI VÀ CÁC NHÀ TƯ TƯỞNG TIÊU BIỂU CỦA NHO GIA
1.1. Khái lược về Nho gia trong lịch sử triết học Trung Quốc
Nho gia được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu
Công Đán, còn gọi là Chu Công„Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử
(551 TCN) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá
các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho gia.
Nói đến nền văn hóa truyền thống Trung Quốc không thể không nói đến một
nhân vật đó là Khổng Tử. Trong thập niên 70 của thế kỷ trước, một học giả Mỹ đã
xếp Khổng Tử ở ngôi vị thứ năm, chỉ sau chúa Giê-xu, Thính-ca-mâu-ni... trong số
100 nhân vật có ảnh hưởng trong lịch sử. Khổng Tử là người sáng lập học thuyết
Nho gia ở Trung Quốc. Hơn hai nghìn năm qua, tư tưởng của Nho gia ảnh hưởng
đối với Trung Quốc không chỉ về chính trị, văn hoá...mà còn thể hiện trong hành vi
và phương thức tư duy của mỗi con người Trung Quốc. Có học giả nước ngoài
thậm chí coi tư tưởng của Nho gia là tư tưởng tôn giáo của Trung Quốc. Trong
thực tế trường phái Nho gia chỉ là một trong rất nhiều trường phái thời cổ Trung
Quốc, nó là một tư tưởng triết học chứ không phải là tôn giáo, chẳng qua là do
được coi là tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn năm ở
Trung Quốc và có ảnh hưởng tới một số nước ở châu Á nói chung. * Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ
kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử,
dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là
Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của
ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho
giáo thời nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo
hay “tư tưởng Khổng - Mạnh“. * Thời Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
học thuyết của Nho gia lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất
nước về tư tưởng. Và từ đây, học thuyết của Nho gia trở thành hệ tư tưởng chính
thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho gia thời
kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán
Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”. * Thời Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách
gối đầu giường của các nhà Nho. Nho gia thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với
các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. Phương Tây
gọi Tống nho là “Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với học thuyết
Nho gia trước đó là việc bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các
yếu tố “siêu hình” (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Các tư tưởng triết học của Nho gia không phải từ thời Khổng Tử mới hình
thành, mà đã có từ trước đó rất lâu, những tư tưởng ban đầu của Nho gia chỉ là học
thuyết mang tính chính trị - xã hội. Chữ “Nho” lúc đầu được dùng để chỉ những
người đọc sách thánh hiền, thông hiểu qui luật tự nhiên của đất trời, con người, vạn
vật. Những người này có thể giúp mọi người hiểu rõ đạo ăn ở, đối nhân xử thế, họ
thường là nhà giáo, người trị quốc. Tuy nhiên các tư tưởng Nho gia này mới chỉ tồn
tại rải rác, chưa thành hệ thống. Chỉ đến khi Khổng Tử và sau này là các đại biểu
Mạnh Tử, Tuân Tử, Đổng Trọng Thư thì được hệ thống hóa, và sáng tạo thêm để
thành một học thuyết hoàn chỉnh. Trong đó bàn về các vấn đề cơ bản như: quan
niệm về thế giới – bàn về lẽ tự nhiên, trời đất; quan niệm về con người – xây dựng
những quy tắc, chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh hành vì của con người trong xã
hội; quan niệm về chính trị xã hội – nêu lên đạo trị nước và mô hình xã hội lý tưởng.
1.2. Các nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu
Nho gia là học thuyết của xã hội phong kiến, bản thân Nho gia cũng nêu lên một số
nguyên lý, nguyên tắc, đường lối và phương pháp nhằm bảo đảm cho xã hội một
sự ổn định và vận hành để phát triển. Mục đích lý tưởng của Nho gia là xây dựng
một nhà nước chuyên chế mạnh, duy trì kỷ cương, tông pháp, đẳng cấp, quyền lực
tuyệt đối thuộc về vua. Người cai trị dùng đạo đức, lễ tiết để làm gương cho dân
chúng, dùng pháp luật có mức độ, dân chúng thì tự giác làm tròn bổn phận của mình.
1.2. Một số chính trị gia tiêu biểu của Nho gia:
1.2.1. Khổng Tử (551 - 479 TCN)
1.2.1.1 Vài nét về Khổng Tử và bộ sách của nhà Nho
Khổng Tử tên Khâu, tự Trọng Ni, người nước Lỗ, nay thuộc làng Xương
Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khổng Tử từng giữ các chức
quan nhỏ. Suốt thời gian làm quan, ông chăm lo chính sự làm cho nước Lỗ ổn
định. Nước Tề lập kế để vua Lỗ mải vui chơi quên việc triều chính. Ông can gián
nhưng vua Lỗ không nghe, nên cùng học trò bỏ vua Lỗ đi.
Khổng Tử nhiều lần đi sang các nước khác mong muốn áp dụng học thuyết
của mình vào việc trị nước, nhưng không được xã hội trọng dụng. Sau 14 năm du
thuyết không thành, ông quay về nước Lỗ viết sách và dạy học, học trò theo học rất
đông trong đó có 72 học trò giỏi (thất thập nhị hiền), sau này đã có nhiều học trò
và thế hệ học trò tiếp tục sự nghiệp Nho học mà thầy là người có công tập đại thành.
Kinh điển của Nho giáo bao gồm Tứ thư và Ngũ kinh:
Học thuyết của Khổng Tử được gọi là học thuyết chính trị - đạo đức. Những
vấn đề cơ bản của chính trị được bàn đến ở đây như: quyền lực, bang giao, phẩm
chất của người cai trị…
1.2.1.2 Những tư tưởng chính trị cơ bản Quan niệm về chính trị:
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là bàn về sự bình ổn xã hội, một
xã hội thái bình thịnh trị. Theo ông, chính trị là chính đạo, là ngay thẳng. Đạo của
người làm chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân chúng. Theo
ông xã hội loạn là do không chính danh là loạn danh tôi không ra tôi, vua không ra
vua; con không ra con, cha không ra cha; vợ không ra vợ, chồng chẳng ra chồng...
Do đó, chính trị có nhiệm vụ lập lại trật tự xã hội cho chính danh. Chính danh
(đúng tên gọi) ở đây nhằm để: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử... Chính trị có
nhiệm vụ làm cho xã hội nề nếp, kỷ cương, trật tự.
Khổng Tử cho rằng nguyên nhân mỗi người không ở đúng danh vị của mình
(việt vị) là do trong xã hội điều Lễ bị xem nhẹ. Do đó, chính trị làm cho thiên hạ có
Đạo, quay về Lễ, phải củng cố điều Nhân, coi trọng lễ nghĩa, mỗi người phải hành
động trong khuôn khổ của mình, từ đó xã hội sẽ ổn định.
Quan niệm chung về chính trị cũng như lý tưởng chính trị được ông triển
khai theo phương pháp “nhất dĩ nhi quán chi” (lấy cái bao trùm những cái khác) và
các nội dung cụ thể khác như dùng “lễ”, “chính danh” và đạo “nhân” để cai trị.
Bên cạnh đó, theo ông nhà nho phải tham gia chính trị, phải có trách nhiệm
với sơn hà xã tắc. Chính vì vậy mà đương thời Khổng Tử đã đi khắp nơi (sớm Sở,
tối Tần) để giao giảng học thuyết của mình nhằm giúp cho xã hội bình ổn. Tuy
nhiên, học thuyết của ông không được xã hội lúc bấy giờ trọng dụng.
Quan niệm về phẩm chất của người cầm quyền và người bị cầm quyền:
Theo tư tưởng của Khổng Tử, khi người ta đã quần tụ với nhau thành xã hội
thì tất phải có quyền tối cao để giữ kỷ cương chung. Cái quyền ấy gọi là Quân
quyền, tức là quyền tối thượng trong một quốc gia. Quân quyền phải để một người
nắm giữ cho thống nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế vương. Đế vương là thiên
tử, vâng mệnh trời xuống để nhận dân, trị dân và hưởng dân. Thiên tử phải lo việc
trị nước, lo cuộc sống sinh hoạt, dạy dỗ và mở mang cho muôn dân.
Theo Khổng Tử xã hội loạn là do người điều hành, người đứng đấu chứ
không phải do chế độ xã hội đương thời. Người hành chính mà có tài, có đức thì
nước được trị; người hành chính không có tài, không có đức, thì nước phải loạn.
Dẫu chính thể (thể chế chính trị) hay đến đâu mà người điều hành không ra gì, thì
cũng hoá dở. Khổng Tử nói: “Văn Vũ chi chính bố tại phương sách, kỳ nhân tồn,
tắc kỳ chính cử, kỳ nhân vong, tắc kỳ chính tức: việc chính trị của vua Văn, vua Vũ
bày ra ở trong sách. Nếu những người như vua Văn, vua Vũ còn thì cái chính trị ấy
thi hành ra, nếu những người ấy mất, thì cái chính trị ấy hư hỏng” [26, tr.152]. Do
vậy, việc chính trị hay dở cốt ở người hành chính. Bởi thế cho nên Khổng Tử muốn
lúc nào người cầm quyền hành chính cũng phải kính cẩn, lo sửa mình cho ngay
chính, để dùng người hiền mà làm việc nước, việc dân.
Chính vì vậy, người cầm quyền phải có những phẩm chất nhất định, phải
giữ mình cho ngay chính và làm việc gì cũng phải giữ cái danh cho chính. Người
quân tử điều gì mà chưa biết rõ thì đừng nói vội. Danh không chính thì nói không
xuôi, nói không xuôi thì việc không thành (Danh bất chính tắc ngôn bất thuận,
ngôn bất thuận tắc sự bất thành). Cho nên quân tử danh chính ắt là khá nói được,
nói được ắt là khá làm được.
Theo Khổng Tử, nhân và lễ là đạo làm người được trời phú cho, nhưng
không phải là tất cả mọi người đều có nhân và lễ. Khổng Tử phân chia con người
trong xã hội thành hai hạng: quân tử và tiểu nhân. Quân tử là những người thuộc
các tầng lớp quý tộc, quan lại, trí thức thuộc giai cấp thống trị. Tiểu nhân là những
người lao động chân tay, thuộc giai cấp bị trị. Ông xem nhân và lễ là đức tính của
người quân tử, còn tiểu nhân thì tuyệt đối không thể có nhân cách ấy, mặc dù ông
nói: “Tính tương cận, tập tương viễn” (Tính người là gần nhau nhưng do tập nhiễm mà xa nhau).
Khổng Tử khẳng định: chỉ khi nào thu phục được lòng dân thì mới có quốc
gia hưng thịnh. Chủ trương dùng “lễ”, “nhân”, “chính danh”, nêu gương và noi
theo đều nhằm mục đích thu phục lòng dân.
Học thuyết Nhân, Lễ, Chính danh:
Đây là học thuyết cơ bản của Khổng Tử. Trong học thuyết này Nhân là
phạm trù trung tâm, nhân là thước đo, chuẩn mực quyết định thành hay bại, tốt hay
xấu của chính trị. Nội dung điều Nhân rất rộng, bao hàm các vấn đề đạo đức, luân
lý của xã hội. Khổng Tử nói đến 79 lần về điều Nhân, tùy theo căn cơ, trình độ,
tâm tính của từng học trò khi hỏi về điều Nhân mà thầy trả lời cho học trò hiểu
được. Nhân là nhân đạo, là tính người, là nhân bản, là ái nhân. Nhân thể hiện ở các
nội dung sau: Thương yêu con người (ái nhân), trong đó thương yêu người thân
của mình (thân thân) và yêu người nhân đức (thân nhân). Từ thương người, Khổng
Tử đi đến hai nguyên tắc: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân: Điều mình không muốn
làm thì đừng đối xử với người” và “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt
nhân: Mình muốn thành đạt thì giúp cho người khác thành đạt”. Và để giữ được
điều nhân thì “Khắc kỷ, phục lễ vi nhân: Tu dưỡng bản thân, sửa mình theo lễ là
Nhân”. Nhân là chuẩn mực ứng xử giữa người với người nâng lên thành một giá trị đạo đức xã hội.
Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận
hoá, biến Lễ thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, được thể
hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà cửa...
Lễ bao gồm hai nội dung cơ bản là tam cương và Ngũ luân.
Tam cương và Ngũ luân là những quan hệ cơ bản để điều chỉnh các hoạt
động xã hội. Bản thân Khổng Tử là người giữ nghiêm Lễ. Ông bỏ vua Lỗ Định
Công mà đi, vì vua Lỗ không thực hiện đúng Lễ, mặc dù ông đang giữ chức Đại Tư khấu.
Chính danh là xác định và phân biệt quan hệ danh phận, đẳng cấp giữa các
giai cấp, thực chất là khẳng định tính hợp lý của giai cấp quý tộc trong việc thực
thi quyền lực của mình. Nó vừa là điều kiện, vừa là mục đích của chính trị.
Theo Khổng Tử, muốn cai trị trước hết phải chính danh, nghĩa là mọi vật cần
phải hợp với cái danh nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và
bổn phận phù hợp với danh ấy. Chính danh là xác định đúng trật tự cai trị, thứ bậc,
trách nhiệm xã hội. Ông cho rằng, chính danh là hợp với tự nhiên, “mệnh trời”:
“Vật các đắc kỳ sở” (vật đều có chỗ xác định của nó). Ông xác định rằng, một
trong những nguyên nhân của sự rối loạn trật tự xã hội là do mỗi người không xác
định đúng vị trí của mình, ngược lại còn tiếm quyền, tiếm lễ.
Trong học thuyết này Nhân là gốc, là nội dung cơn bản; Lễ là hình thức của
Nhân; Chính danh là con đường để đạt được điều Nhân.
Quan niệm về biện pháp cai trị:
Khổng Tử muốn lấy đạo đức mà thu phục người hơn là dùng hình pháp mà
trị xã hội. Ông nói: dùng chính trị mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhất thì dân
khỏi tội, nhưng không có lòng hổ thẹn; dùng đức mà khiến, dùng lễ mà tề nhất, thì
dân có lòng hổ thẹn, mà lại cố làm điều hay. Điều này cho thấy mong muốn của
Khổng Tử về cách cai trị. Chỉ khi nào dùng đức mà không hoá được, thì mới dùng
đến hình, dùng hình là bất đắc dĩ để trừng trị những kẻ không thể hoá được. Vậy
nên Khổng Tử nói: Thánh nhân trị dân và hoá dân là phải dùng cả chính lẫn hình.
Bậc thái thượng lấy đức dạy dân, mà lấy lễ tề dân. Bậc thứ nhì lấy chính sự mà
khiến dân, và lấy hình mà ngăn cấm: hình đặt ra nhưng không dùng đến. Chỉ có lúc
hoá dân mà dân không theo, để đến hại nghĩa nát tục, thì bấy giờ mới phải dùng hình vậy.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử rất thích hợp với chủ nghĩa hoà bình, nhân
đạo. Ông nói: người làm vua làm chúa không lo ít người mà lo không đều, không
lo nghèo mà lo không an. Hễ đã đều là không có sự nghèo, đã hoà thuận là không
có ít người, đã an là không có sự khuynh nguy. Ông cho rằng lấy nhân ái mà trị
dân, giữ cho dân được hoà bình an lạc, đó mới thật là chính sách của vương đạo.
Nếu xưa nay các nhà vua, ai cũng theo cách cai trị đó thì nhân dân tránh khỏi được
bao nhiêu những việc chính trị hà khắc, làm cho dân khỏi phải lầm than cực khổ.
Phải thấy rằng, lý tưởng chính trị của Khổng Tử có giá trị nhân đạo cao.
Nhưng trong thực tế, tư tưởng đó không phù hợp với xã hội đương thời đang loạn lạc.
Các môn đệ của ông sau này phát triển tư tưởng của ông theo nhiều hướng
khác nhau, tạo thành tư tưởng Nho gia trên nền tảng thừa nhận giai cấp thống trị
phong kiến. Với nguyên tắc chính trị đó, các triều đại phong kiến Trung Quốc sau
này lấy Nho gia làm tư tưởng chính thống là hoàn toàn có cơ sở.
1.2.2. Mạnh Tử (372 - 289 TCN)
1.2.2.1 Vài nét về Mạnh Tử
Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, người nước Lỗ. Ông là học trò của Khổng Cấp
(cháu nội Khổng Tử, Khổng Cấp là học trò của Tăng Sâm, Tăng Sâm là học trò của
Khổng Tử). Lên 3 tuổi, cha mất, Mạnh Tử được mẹ hiền nuôi dạy và hướng theo
học đạo của Khổng Tử. Ông có tài hùng biện, thường đi các nước: Lương, Tống,
Tề, Đằng... để thuyết phục vua các nước theo đạo thánh nhân. Nhưng các nước chỉ
lo chiến tranh, không lo nhân nghĩa nên đạo của ông không được thi hành, bản thân
ông không được trọng dụng.
Khi về già, ông cùng môn đệ viết sách, nội dung ghi lại những điều đối đáp
của ông với các vua chư hầu và môn đệ. Sách Mạnh Tử là tác phẩm của ông và là
một cuốn trong bộ kinh điển Tứ thư của nhà nho.
1.2.2.2 Tư tưởng chính trị cơ bản
Quan niệm về quyền lực chính trị
Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử ít bàn đến cách thức tổ chức thể chế chính trị
mà thường bàn nhiều về phương pháp cai trị. Ông thường lên án “bá đạo” (cai trị
bằng bạo lực, làm bá chủ chư hầu), ca ngợi lựa chọn “vương đạo” để cai trị (cai trị
bằng đạo đức). Ông chủ trương theo các đời vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ.
Mạnh Tử lý giải nguồn gốc quyền lực mang tính duy tâm thần bí với ba yếu
tố: ý trời - lòng dân - nhân đức. Theo ông ba yếu tố này có quan hệ với nhau. Theo
ông, sở dĩ các vua: Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ... trở thành thiên tử là do ý trời. Trời
trao ngôi thiên tử cho người đức hạnh, nhưng trao một cách ngấm ngầm, bí mật mà
biểu hiện bề ngoài là lòng dân. Theo ông ngôi thiên tử khi lòng dân thuận, là trời
đã trao, lòng dân không thuận, là trời không ưng và khi đó trời mượn tay người mà
trừ bỏ ngôi thiên tử. Đồng thời với việc thừa nhận chính thể phong kiến, Mạnh Tử
coi ngôi thiên tử là của chung thiên hạ. Tiêu chuẩn ngôi thiên tử là được lòng dân,
mà không nhất thiết theo dòng họ. Ai đủ tiêu chuẩn thì được trời trao. Ông thường
lấy ví dụ: vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn (Thuấn là con rể của Nghiêu),
Thuấn lại nhường ngôi cho con của Nghiêu là Vũ, Vũ lại nhường cho con là Khải.
Họ là người hiền, trời đồng ý, nên “quốc thái, dân an”. Ông phê phán một số vua
chư hầu bề ngoài thì sợ sự ô nhục nhưng bên trong vẫn ăn ở bất nhân.
Hiểu dân còn là biết nhu cầu chính đáng của dân mà đáp ứng. Cái dân cần
trước hết là đủ ăn, có dư thừa để phòng lúc đói kém, nuôi được cha mẹ để làm việc
kính. Nhưng để có cái ăn thì không phải đem cho dân mà là tổ chức sản xuất, thu
thuế nhẹ. Mạnh Tử còn đặt vấn đề giải quyết quan hệ chính trị thu phục lòng người
bằng biện pháp kinh tế. Ông cho rằng, phải chia ruộng đất cho dân cày để họ sản
xuất, sai khiến dân phải tránh thời vụ sản xuất. Ông phản đối phép chia đất hiện
hành vì nó không khuyến khích sản xuất. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử mong
muốn có một xã hội đạo đức, vua chăm lo cho dân để người già có lụa mặc, có thịt
ăn và dân không đói, không rét.
Mạnh Tử cũng đề cao việc giáo hoá dân. Ông phân tích cái hại của việc dân
không được giáo hoá, do đó khờ khạo mà phạm phải pháp luật và ông kết luận, đó
là lỗi của người cai trị.
Một nội dung trong tư tưởng chính trị của Mạnh Tử được đánh giá cao là
ông đã đề cập đến dân, đề cao dân, có thể đây được xem là tư tưởng dân chủ sơ
khai. Bằng cách diễn đạt dưới các hình thức khác nhau, ông nêu các khía cạnh
khác nhau của dân chủ trong lĩnh vực chính trị.
Học thuyết “nhân chính” của Mạnh Tử có nhiều nhân tố tiến bộ hơn so với
Khổng Tử. Tuy vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, nhưng ông đã nhìn
thấy được sức mạnh của nhân dân, chủ trương thi hành nhân chính, vương đạo.
Tuy nhiên, điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời và tính thần bí trong lý
giải vấn đề quyền lực.
Quan hệ vua - tôi và thần dân:
Theo Mạnh Tử, quan hệ vua tôi đã bớt đi tính hà khắc, một chiều. Ông cho
rằng vua coi bề tôi như thế nào thì bề tôi cũng có cách xử sự tương ứng: “Vua coi
bề tôi như chân tay, bề tôi coi vua như ruột thịt; vua coi bề tôi như chó ngựa, bề tôi
coi vua như người dưng; vua coi bề tôi như cỏ rác, bề tôi coi vua như thù địch”
[26, tr.232]. Bề tôi có thể bỏ vua mà đi nếu vua không nghe lời can gián đúng.
Hoặc bề tôi có thể giết vua bạo ngược như Kiệt, Trụ mà không có tội, mà đó là thay trời hành đạo.
Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng dân. Tuy nhiên tư
tưởng coi trọng dân chỉ là thủ đoạn chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi. Trong
điều kiện chế độ quân chủ, những quan niệm dân chủ của Mạnh Tử đưa ra dẫu
không thực hiện được, nhưng đó là những quan niệm tiến bộ.
Ngoài ra, Mạnh Tử còn nêu ra những vấn đề chính trị khác như tổ chức thể
chế chính trị thời Tây Chu; quan hệ bang giao hợp mệnh trời giữa nước lớn và nước nhỏ...
Sau Mạnh Tử, Nho gia bị đứt đoạn một thời gian. Một thời gian sau đó Tuân
Tử tiếp thu và phát triển Nho gia theo một hướng khác. Những vấn đề chính trị
được luận giải thêm những nội dung mới.
1.2.3. Tuân Tử (315 - 230 TCN) * Vài nét về Tuân Tử
Tuân Tử tên Huống, tự là Khanh, người nước Triệu. Ông sống vào cuối thời
Chiến Quốc, đây là thời kỳ cục diện chiến tranh Thất hùng (bảy nước) đi vào giai
đoạn cuối. Xã hội càng loạn lạc, dân lành khổ sở vì chiến tranh. Ông là môn khách
của Xuân Thân Quân nước Sở, từng giữ một số chức quan như quan Tế Tửu nước
Tề, Huyện lệnh Lan Lăng nước Sở. Khi Xuân Thân Quân mất, ông bỏ quan về nhà
dạy học, viết sách. Ông có hai học trò nổi tiếng là Lý Tư (từng làm Tể tướng nước
Tần) và Hàn Phi (một học giả nổi tiếng của phái gia). Tuân Tử theo Nho học, phát
triển Nho học theo hướng đối lập với Mạnh Tử về một số nội dung chính trị. Trong
số di sản ông để lại có cuốn Tuân Tử gồm 32 chương bàn về những vấn đề chính
trị, triết học, nhận thức.
* Tư tưởng chính trị cơ bản:
Quan niệm về quyền lực chính trị
Khác với các nhà tư tưởng Nho gia đời trước, Tuân Tử chủ trương nền cai trị
vương đạo, theo “Pháp hậu vương” (theo các đời vua Hạ, Thương, Vũ). Ông phân
loại có 3 nền cai trị khác nhau về phương pháp, mục đích và kết quả, đó là vương
đạo, bá đạo và vong quốc chi đạo.
Các nhà nho đời trước đều lấy những thánh vương nhà Nghiêu, Thuấn làm
tiêu chuẩn. Tuân Tử thì cho những thánh vương Ngũ đế cùng với thánh vương đời
Tam đại không có gì khác nhau, vì các vương giả đời nào cũng theo một đạo cả.
Ông còn phân tích vua có quyền thế như vậy nên vua có đạo thì nước được yên,
ngôi vua cũng được vững, ngược lại vua vô đạo thì cả dân lẫn vua đều nguy khốn.
Quan niệm về phương pháp cai trị
Tuân Tử coi trọng việc cai trị bằng lễ và bằng pháp luật. Trước hết, ông cho
rằng điều “lễ” được sử dụng là tất yếu. Ông so sánh “lễ” trong việc trị quốc cũng
như quả cân với cán cân, như dây mực với đường cong. Cơ sở khách quan để ông
đề cao lễ là từ cuộc sống hiện thực của con người, được ông xác định bằng quan hệ
nhân quả: Dục (ham muốn) - Tranh (tranh đoạt) - Loạn (chiến tranh) - Cùng
(không còn gì). Để tránh “loạn” và “cùng”, ông cho rằng, dùng “lễ” để phân biệt ra
trật tự, định rõ giới hạn, để hành động của dân chúng có kỷ cương.
Vương giả dùng lễ để cai trị thiên hạ, song nếu còn có người không chịu
theo giáo hoá thì tất là phải dùng đến hình phạt tức là pháp luật. Ông cho rằng:
phạt người có tội là để khiến những kẻ gian ác đừng làm những điều phi pháp và
sự thưởng sự phạt của vương giả bao giờ cũng phải cho công minh và xứng đáng.
Ông cho rằng dùng hình pháp mà đáng tội thì có uy; không đáng tội thì người dưới
khinh nhờn, ban thưởng tước lộc mà đáng cho kẻ hiền tài thì quý, không đáng thì
không quý. Đời xưa dùng hình pháp không quá cái tội, ban thưởng tước lộc không
vượt quá cái đức, cho nên có khi giết cha mà dùng con làm tôi, giết anh mà dùng
em làm tôi. Người thiện kẻ ác phân biệt, ai nấy đều lấy cái trung thành mà thông
đạt, không bị sự khuất trệ. Ấy là để khuyên kẻ làm thiện và răn kẻ không làm thiện,
hình phạt thì giảm bớt mà cái uy quyền thi hành ra như nước chảy, chính lệnh rất
phân minh mà việc hoá đổi như thần.
Trước Tuân Tử có nhiều người bàn đến việc cai trị bằng pháp luật, nhưng
đến ông có sự bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Cụ thể ông quan niệm pháp luật
theo tinh thần “vương đạo”. Pháp luật có thưởng, có phạt, nhưng phải công bằng,
thưởng không quá đức, phạt không quá tội. Ông coi hình luật là tất nhiên, nhưng
không chỉ có mục đích xử tội kẻ phạm pháp mà có ý nghĩa sâu xa là giáo dục, răn
đe, ngăn cấm. Đối với việc canh coi pháp luật, ông cho rằng phải thận trọng có bàn
bạc kỹ lưỡng, xem xét công khai, không có mưu ngầm khi nghị tội, không bỏ sót
điều thiện thì “trăm việc không sai”.
Quan niệm về người cầm quyền
Thiên hạ trọng bậc nhân quân tức là trọng cái đẹp chung và cái lợi chung của
mình. Mà bậc nhân quân giữ cái ngôi mình là giữ cái chung của thiên hạ chứ
không phải là của riêng một nhà một họ nào. Đây là ý tưởng rất trọng yếu của Nho
gia. Người làm vua phải lấy cái đức mà thu phục thiên hạ, dùng cái trí công chính
mà làm lợi cho thiên hạ, như vậy thì tất yếu thiên hạ phải tôn phải quý. Nếu người
nào giữ ngôi vua mà lại chỉ biết có một cái quyền lợi của mình và làm những điều
dâm tàn bạo ngược thì là trái với quân đạo, không phải là bậc nhân quân nữa.
Nhìn chung ở góc độ nhất định, tư tưởng chính trị của Tuân Tử có bước tiến
quan trọng so với Khổng Tử và Mạnh Tử, đó là: việc đề cao quân quyền, đề cao
“lễ”; chủ trương cai trị bằng pháp luật.
Sau Tuân Tử một thời kỳ dài, Nho gia không được xã hội đương thời sử
dụng làm sách trị quốc. Tuy nhiên, nhiều nội dung của Nho gia được các nhà tư
tưởng phát triển theo một số học phái khác.
Năm 221 TCN, khi Tần Thuỷ Hoàng lên ngôi thống nhất cục diện Thất hùng, mở
ra thời kỳ mới, thời kỳ phong kiến trung ương tập quyền. Nhà Tần đã thực hiện
chính sách Đốt sách, chôn Nho. Lúc này Nho gia bị một đòn chí mạng. Phải đến
đời nhà Hán, địa vị của Khổng Tử và Nho gia mới được phục hưng và có ảnh
hưởng to lớn đến đời sống chính trị ở xã hội phong kiến này.
2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIA Ở TRUNG QUỐC QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
2.1. Thời nhà Hán (206 TCN - 220 SCN)
Do chính sách cai trị hà khắc chủ yếu bằng hình pháp, nhà Tần chỉ tồn tại 15
năm (221 - 206 TCN) ngắn ngủi, nhà Hán đã lên thay. Không như nhà Tần trị
nước, bằng binh hùng, tướng mạnh, gươm sắc, giáo nhọn, Lưu Bang rất cần có một
học thuyết chính trị để quản lý xã hội đương thời, cùng với Nho gia cũng có nhiều
học thuyết như “vô vi” của Lão Đam, “kiêm ái” của Mặc Địch tồn tại nhưng Lưu
Bang đã chấp nhận Nho gia, khéo léo kết hợp pháp trị và đức trị. Nho gia đã dần
dần được phục hồi, trở thành vũ khí tinh thần quan trọng của nhà Hán. Trong Tam
giáo ở thời Hán này thì Nho gia đứng vị trí số một.
Đến đời nhà Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế
đưa Nho gia lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho gia trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Quốc trong suốt một thời gian dài. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho.
Điểm khác biệt của Hán Nho là đề cao quyền lực của giai cấp thống trị,
Thiên Tử là con trời, dùng “lễ trị” để che đậy “pháp trị”. Thời kỳ này, Nho gia
được bổ sung nhiều giá trị, gắn với tên tuổi của các bậc danh Nho. Tiêu biểu cho
thời kỳ này có Đổng Trọng Thư. Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời này
được tiến hành theo xu hướng:
Hệ thống hoá kinh điển và chuẩn mực hoá những quan điểm triết học Nho
gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của giai
cấp phong kiến. Đổng Trọng Thư, người mở đầu xu hướng này đã đẩy Nho gia đến
mức cực đoan để bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị. Tính khắc nghiệt một chiều trong
các quan hệ tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức luôn luôn được nhấn mạnh.
Thực chất của các quan hệ tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức là giáo
dục người dân tuyệt đối phục tùng bề trên, trói buộc ý thức nông dân vào luân lý
Nho gia để dễ bề cai trị họ.
Thời Hán đã xem Nho gia là học thuyết độc tôn, chính vì lẽ đó Nho gia bị
đẩy đến mức cực đoan, các quan hệ xã hội, gia đình bị cứng nhắc hóa, địa vị của
người phụ nữ bị hạ thấp.
2.2. Thời nhà Tống (960 - 1279)
Từ cuối thời Đường, Trung Quốc bị giặc đánh phá. Sau đó đến đời Ngũ Quí,
chiến tranh không lúc nào yên, thiên hạ loạn lạc, Nho giáo không được chú ý
nhiều. Đến khi nhà Tống lên, vua Thái tổ thấy nguyên nhân loạn lạc thuở ấy
thường do các võ tướng không có học mà lại có nhiều quyền thế, mới tìm văn thần
để thay võ tướng. Đó là nguyên nhân làm cho văn học hưng thịnh lên.
Do đó, thời các triều đại nhà Đường thì Nho gia không chiếm vị trí đáng kể
(Phật giáo được đề cao) nhưng đến nhà Tống thì Nho gia lại được khôi phục và đề
cao. Đến đời Tống Nho, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng
với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ thư. Lúc đó, Tứ thư và Ngũ kinh là sách
gối đầu giường của các nhà Nho. Nho gia thời kỳ này được gọi là Tống nho.
Điểm khác biệt của Tống Nho với Nho gia trước đó là việc bổ sung các yếu
tố tâm linh (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố siêu hình (lấy từ Đạo giáo). Việc bổ
sung những giá trị mới này nhằm phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị xã hội.
Đời nhà Tống, các vua rất sùng bái Khổng Tử và Mạnh Tử cho nên thời kỳ
này Nho gia lại được phục hưng. Thời Tống đã xuất hiện những danh nho tiêu biểu
như: Thiệu Ung, Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di... Đến đời Nam
Tống thì có Chu Hy (Chu Tử), Lục Cử Uyên. Thời này đã chia phái lý học ra làm
đạo vấn học và tôn đức tính.
Từ đây, tư tưởng Nho gia lại phục hồi và phát triển. Sự phát triển này đã làm
cho Nho học đời Tống khác với đời Hán và đời Đường. Trình độ và vị trí của Nho
gia được nâng cao ngang với Lão giáo và Phật giáo.
Ở thời kỳ này Nho gia có sự phát triển mạnh mẽ để phục vụ cho chế độ xã
hội phong kiến đang trong giai đoạn hưng thịnh. Do vậy mà tư tưởng chính trị ở
thời kỳ này được mở rộng đến toàn xã hội. Nho gia trở thành nội dung chính cho
các kỳ thi tuyển nhằm để lựa chọn quan lại phục vụ cho nền chính trị phong kiến.
Nho gia thời Tống được kết hợp thêm những yếu tố phù hợp của Phật giáo
và lão giáo để trở thành hệ tư tưởng chính thống.
CHƯƠNG II: SỰ DU NHẬP CỦA NHO GIA VÀO VIỆT NAM
1. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam khi Nho gia du nhập vào
Nho gia từ quê hương Trung Quốc, do những điều kiện lịch sử khác nhau mà
đã được du nhập vào Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam… để hình thành một vành
đai Nho gia của khu vực. Nho gia được truyền vào Việt Nam thời Hán từ những
năm cuối trước công nguyên, bằng những con đường khác nhau:
Một là: Thông qua con đường của những đội quân xâm lược được trang bị hệ tư tưởng Nho gia;
Hai là: Thông qua con đường truyền giáo có tổ chức của đội ngũ quan chức
người Trung Quốc được các triều đình phong kiến Trung Quốc đánh phá thực hiện
ách thống trị Bắc thuộc ở Việt Nam, trong đó có Quang Tích, Nhâm Diên, Sĩ
Nhiếp… là những quan lại đã có nhiều nỗ lực trong việc truyền bá Nho gia tới Việt Nam;
Ba là: Con đường của những thương nhân theo đường biển đưa Nho gia tới Việt Nam;
Bốn là: Thông qua con đường của những dân cư tự do người Trung Quốc có
hành động chống lại triều đình và bị truy đuổi đã di cư tới Việt Nam để sinh sống.
Sự di cư của những người dân Trung Quốc này cũng góp phần đưa tư tưởng Nho gia vào Việt Nam.
Trong các cách thức du nhập của Nho gia vào Việt Nam thì con đường
truyền giáo có tổ chức của đội ngũ những quan lại người Trung Quốc trong suốt
thời kỳ Bắc thuộc là chủ yếu. Vì nó nằm trong chính sách chủ động âm mưu đồng
hoá của các triều đình phong kiến Trung Quốc đối với Việt Nam.
Sau khi xâm chiếm nước ta, giai cấp phong kiến Trung Quốc đã ra sức củng
cố chế độ nô dịch của chúng, tạo ra những bước chuyển lớn trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội, tư tưởng.
Trên lĩnh vực tư tưởng, Trung Quốc đã truyền bá và phát triển Nho gia, biến
nó thành hệ tư tưởng chính thống và là xiềng xích nô dịch dân ta. Ngay từ thời Tây
Hán, Nho gia đã xâm nhập vào xã hội ta từ buổi đầu công nguyên qua hai thái thú
là Tích Quan và Nhâm Diêm. Quan lại Trung Quốc đã dựng học hiệu để dạy lễ
nghĩa ở Giao Chỉ, Cửu Chân. Các sách kinh điển của Nho gia như Tứ thư, Ngũ
kinh đã bắt đầu được giảng dạy cho con em một số tầng lớp trên của xã hội Việt
Nam. Số này nếu đỗ đạt một phần được cử làm quan một số được đưa về Trung quốc để sử dụng.
Sau khi giành được độc lập, giai cấp phong kiến Việt Nam củng cố nền
thống trị trên mọi lĩnh vực. Giai cấp phong kiến Việt Nam tổ chức lại nền giáo dục,
củng cố Nho gia, Phật giáo và Đạo giáo.
Thời kỳ nhà Lý, nhà Trần, Nho gia đứng thứ yếu sau Phật giáo. Mặc dù thời
kỳ này Phật giáo có thể là quốc giáo, nhưng không vì thế mà Nho gia mất đi, Nho
gia vẫn có chỗ đứng trong đời sống xã hội, chi phối các quan hệ cộng đồng. Trong
quá trình xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tầng lớp thống trị Việt Nam
cảm thấy không thể chỉ dựa và Phật giáo mà cần phải có một học thuyết tích cực
hơn. Và rõ ràng chỉ có Nho gia với cả hệ thống tư tưởng quân chủ, cổ vũ cho việc
tôn thờ nhà vua, mới có tác dụng tích cực bảo vệ chế độ phong kiến và tôn ti trật tự
của nó. Vì thế các triều đại sau này đã dần phát triển Nho gia.
Nho gia phát triển, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo, đại bộ phận tầng lớp
quan lại trong triều đều xuất thân từ nho sĩ. Việc công kích Phật giáo và Đạo giáo
càng phát triển mạnh. Từ thời nhà Lê trở đi, Nho gia đã trở thành quốc giáo của
chế độ phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, Đạo giáo và Phật giáo cũng không mất đi
hay bài xích Nho gia mà ba giáo phái này lại gắn kết, hòa hợp với nhau. Có những
thời tam giáo này đã cùng đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Chế độ phong kiến ngày được củng cố và phát triển. Nhà nước vẫn đào tạo
những người đắc lực và tích cực phục vụ cho nó. Phật giáo và Đạo giáo không thể
đảm nhiệm được việc ấy, chỉ có Nho gia với cả hệ thống tư tưởng tuyên truyền và
cổ vũ cho việc tôn thờ nhà vua, mới có tác dụng tích cực bảo vệ chế độ phong kiến
và tôn ti trật tự của nó. Vì thế, các nhà vua dần cho phép Nho gia có điều kiện phát triển.
2. Những nội dung tư tưởng chính trị cơ bản của Nho gia khi hòa nhập vào Việt Nam
Sự hình thành và phát triển Nho gia ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng
thịnh của các triều đại. Là hệ tư tưởng gắn liền với giai cấp thống trị, do đó Nho
gia có sự đồng hành mật thiết với các triều đại phong kiến, Nho gia là chỗ dựa cơ
bản về mặt tư tưởng cho giai cấp địa chủ.
Sự du nhập Nho gia vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các
thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn việc
thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Sự du nhập Nho
gia Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được thực hiện bởi
các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng đỡ, vì thế
Nho gia không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Cho nên,
trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho gia vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn
trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa đấu tranh
giành độc lập dân tộc đã nổ ra, nhưng hầu như không có sự tham gia của các nhà nho.
Đến thời Lý, các nhà sư có vai trò to lớn và quan trọng trong việc tham gia
triều chính. Nhà Lý là đánh dấu sự ra đời nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở
nước ta. Do nhu cầu quản lý nhà nước, xã hội một cách tập trung và mạnh mẽ mà
nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho gia. Vào thời điểm này sự đóng góp của các
nhà sư vào sự ổn định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho gia dần dần thay
thế Phật giáo càng thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu
thờ Chu Công, Khổng Tử được xem như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức
Nho gia trên bình diện cả nước. Sang thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) Nho gia
được phát triển và cũng từ đó về sau Nho gia thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày
càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực tư tưởng, phong tục, tập quán… qua hệ thống
giáo dục, pháp luật, chính quyền. Cho đến đầu thế kỷ XX (năm 1919) khoa cử Nho
học bị bãi bỏ, nhưng giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài
đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này.
Nho gia thống lĩnh tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, suốt hai
triều đại Lê, Nguyễn. Nho gia Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho gia Trung
Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những
biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho gia trong đời
sống chính trị - xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến hết sức sáng tạo của
người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo
nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của Việt Nam.
Nho gia với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các
nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một
hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc gia.
Trong lịch sử nhiều quốc gia trên thế giới, sự xung đột giữa các hệ tư tưởng,
tôn giáo không phải là ít. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa từng xảy ra với ba học
thuyết du nhập vào sớm đó là: Nho, Phật, Lão trong Tam giáo đồng nguyên. Ngược
lại các học thuyết trong tam giáo đồng nguyên đã bổ sung cho nhau những thiếu
hụt, hạn chế để cùng với những giá trị truyền thống tham gia điều hành quốc gia,
quản lý xã hội. Chính những điều trên tác động dẫn đến nguyên nhân làm cho Nho
gia ở Việt Nam có sự khác biệt với Nho Trung Quốc.
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIA ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM 1. Ảnh hưởng tích cực
Nho gia du nhập vào nước ta và đã có những đóng góp rất lớn cho chế độ
phong kiến, mọi trật tự do Nho gia thiết lập đã có những đóng góp quan trọng cho
sự duy trì sự ổn định trật tự của hằng nghìn năm phong kiến. Những thiết chế chính
trị mà Nho gia làm linh hồn, làm kim chỉ nam đã tạo một sự bền chặt của một
chỉnh thể với những quan hệ trật tự, trên dưới được xác lập rõ ràng.
Tuy nhiên, trật tự đẳng cấp phương Đông khắc nghiệt đó đã không thể duy
trì lâu hơn được khi nền văn minh phương Tây mới tiến bộ đại diện cho phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nã pháo vào thành trì cố thủ của chế độ
phong kiến đã trở nên lỗi thời. Nho gia đã bất lực trước sức mạnh của tư tưởng
phương Tây hiện đại. Trật tự đẳng cấp khắt khe của phong kiến Nho giáo đã lạc
hậu trước những giá trị tự do, dân chủ phương Tây. Nhưng chủ động tiếp nhận văn
minh và các giá trị tiến bộ của phương Tây thì quan quân triều Nguyễn không
màng tới. Để duy trì địa vị và lợi ích ích kỷ của mình, triều Nguyễn đã đi từ
nhượng bộ này đến nhượng bộ khác và rốt cục, cả đất nước chìm trong cảnh lầm than nô lệ.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân Việt Nam mà đội tiên phong là đảng Cộng sản đã giành được thắng lợi.
Chế độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập với một nền chính trị mới tiến bộ được thiết
lập lên từ nhân dân, vì nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa là con đường và mục
tiêu tất yếu mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn. Nền chính trị mới dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu này hoàn toàn đối lập với chế độ chính trị