Tư tưởng đoàn kết & tư tưởng nhân văn cao cả | Tài liệu môn tư tưởng Hồ Chí Minh Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh

Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Bác đề cập đến vấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”. Trong bản Di chúc, chỉ có chưa đầy 20 dòng nói về Đảng nhưng đã có đến 5 lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến đoàn kết. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Tư tưởng đoàn kết
Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Bác đề cập đến
v ấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại
đoàn kết”. Trong bản Di chúc, chỉ có chưa đầy 20 dòng nói về Đảng nhưng đã có
đến 5 lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến đoàn kết.
Suốt cuộc đời mình, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là vấn đề đoàn kết
nhằm tập hợp lực lượng, phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức
mạnh quốc tế, vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng
trên được thể hiện rõ nét qua Di chúc của Người. Ba mươi năm đã qua, kể từ k hi
Hồ Chí Minh viết những dòng cuối cùng của bản Di chúc lịch sử. Đây là thời gian
thích hợp nhất để toàn Đảng, toàn dân và mỗi người chúng ta suy ngẫm về tư
tưởng đoàn kết trong di sản cuối cùng mà Người để lại cho dân tộc Việt Nam.
a. Về đoàn kết trong Đảng
Trong Di chúc để lại, điều đầu tiên Bác nói về Đảng, Bác căn dặn: Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần phải "giữ gìn sự đoàn kết của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình". PGS.TS Bùi Đình Phong, Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ cho biết, nghiên cứu Di chúc Bác Hồ mỗi năm, ông lại phát hiện
thêm những nét mới. Sau những dòng chữ này là những tổng kết kinh nghiệm
cả một đời hoạt động vì nước vì dân của Bác. Không chỉ c ăn dặn toàn Đảng
giữ gìn sự đoàn kết, Bác cũng chỉ rõ cách thức, phương pháp để thực hiện
đoàn kết trong Đảng: "Bác nói nguyên lý đoàn kết: Không thực hiện dân chủ
thì không đoàn kết được, nhất là dân chủ trong Đảng. Vì Đảng ta cầm quyền,
không dân chủ tro ng Đảng thì làm sao dân chủ trong dân được. Bác dạy phải
thường xuyên phê bình, phát triển đoàn kết, tức là không phải hôm nay làm,
mai không làm". Theo TS Chu Đức Tính, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, gần
30 năm nghiên cứu về Bác, nhận thấy ý nghĩa gốc rễ, có tính nền tảng của
nửa dòng chữ duy nhất Bác viết thêm vào Di chúc năm 1966: Bác viết: "Phải
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Bác dạy Đảng ta: “Phê bình việc chứ
không phê bình người. Học tập Chủ nghĩa Mác là phải sống với nhau có tình
có lý. Ta xử lý dựa trên nguyên tắc, điều lệ Đảng, nhưng thấm đẫm tình
người...”.
Cũng theo TS Chu Đức Tính, vấn đề mất đoàn kết luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh
giải quyết một cách bao dung, nhẹ nhàng mà thấm thía. Đây vẫn sẽ là một bài
học quý báu trong xử lý vấn đề mất đoàn kết trong Đảng đang diễn ra ở một số
nơi hiện nay. “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng đã đoàn
kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác”. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nhờ đoàn kết chặt chẽ mà mới
tròn một tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên cao trào cách mạng 1930
-1931; 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách m
ạng Tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhờ
đoàn kết, thống nhất mà Đảng đã tập hợp được lực lượng, phát huy được sức
mạnh của cả dân tộc và thời đại vào cuộc kháng chiến trường kỳ suốt 30 năm,
đánh thắng hai đế quốc là Pháp và Mỹ, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh
giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Cũng chính nhờ sự đoàn kết, thống
nhất ấy mà Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi sự nghiệp Đổi mới.
Đã 41 năm Bác Hồ không cùng cả nước vui ngày Quốc khánh. Nhớ Người, chúng
ta càng thấm thía: Hạnh phúc của Đảng ta là có người Chủ tịch Đảng nghiêm
khắc với bản thân, mà hết sức bao dung, nhân ái vì sự đoàn kết trong Đảng vì
thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
b. Về đoàn kết toàn dân
Theo Hồ Chí Minh ''…chỉ đoàn kết trong Đảng cách mạng cũng không thành
công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã
nhận thấy một trong những truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt
Nam là đoàn kết. Trên cơ sở khối đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng mà Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng mọi ý đồ xâm lược, phá vỡ
khối đoàn kết dân tộc sẽ bị đánh bại: ''Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà''. Khi đất nước bước vào
thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: dựa vào lực lượng vĩ đại
của khối đoàn kết dân tộc, chúng ta sẽ giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu
khổng lồ, cuộc chiến đấu chống nghèo nàn, lạc hậu xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên toàn đất nước Việt Nam. Sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam
không chỉ là phép tính giản đơn của sự đoàn kết trong Đảng cộng với khối
đoàn kết của những người ngoài Đảng, mà chính là sức mạnh tổng hợp của sự
đoàn kết, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Chính truyền thống đoàn kết
của dân tộc đã được nhữ ng người cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển, tạo
nên một truyền thống mới Hồ Chí Minh viết: Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta''. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã đặt trọn
niềm tin vào truyền thống đó. Với Hồ Chí Minh, tương la i của đất nước, vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được quyết định bởi chính truyền thống
đoàn kết, ý cuối cùng, những dòng Di chúc cuối cùng của Hồ Chí Minh được
viết ra với tâm nguyện: ''Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới''.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, khối đoàn kết dân tộc được quyết định bởi sự
quan tâm, tinh thần tận t uỵ phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên Hồ Chí
Minh gọi đó là ''công việc đối với con người''. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã để lại
những lời căn dặn không chỉ về quan điểm tư tưởng mà cả những chỉ dẫn khá cụ
thể, tỉ mỉ. Đó không chỉ là việc đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình liệt
sĩ mà còn là lựa chọn những người đã trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận đưa đi
đào tạo, bồi dưỡng để họ trở thành ''đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta''. Đối với những người ở hậu phương, nông
nhân, công dân, thanh niên, phụ nữ… sự quan tâm đó cũng chu đáo đầy đủ. Hồ
Chí Minh là người đầu tiên đã nghĩ đến và có giải pháp thích hợp để biến chủ
nghĩa anh hùng trong chiến đấu thành tinh thần phấn đấu, niềm say mê trong
xây dựng hoà bình. Di chúc của Người có đoạn: ''Trong bao năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào
nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp
của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn
thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã
nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy
mạnh sản xuất''. Sự nghiệp xây dựng đất nước cần có khối đoàn kết đông đảo
rộng rãi, mạnh mẽ và chắc chắn. Khối đoàn kết đó không chỉ gồm toàn bộ những
người từ phía ''bên này'' mà có cả người của phía “bên kia”. Người cho rằng sự
nghiệp xây dựng đất nước cần đến lực lượng của tất cả mọi người ''không để sót
một người nào''. Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: ''Đối với những nạn nhân của
chế độ cũ, thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải
tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện''. Đây không chỉ là
quan điểm tập hợp lực lư ợng hết sức rộng rãi mà còn thể hiện sâu sắc tư tưởng
bao dung, nhân ái Hồ Chí Minh.
c. Về đoàn kết quốc tế
Theo Hồ Chí Minh, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều do Đảng Cộng
sản lãnh đạo với sự đoàn kết, thống nhất về đường lối đúng đắn, sáng tạo;
toàn dân đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất; nhân dân thế giới đoàn
kết ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Người kết luận: ''Đó là ba bài học
lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm
mãi''. Đoàn kết quốc tế là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó
được Người đề cập khá đậm nét trong Di chúc. Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng
định, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt
Nam không thể tách rời sự đoàn kết, sự ủng hộ, giúp đỡ tận tình của các nước
xã hội chủ nghĩa và bầu bạn khắp năm châu. Vì vậy, một trong những dự kiến
đầu tiên, ngay sau khi chiến tranh kết thúc của Hồ Chí Minh là thay mặt nhân
dân ta, Người sẽ đi thăm, cảm ơn và mở rộng hơn nữa khối đoàn kết quốc tế
đối với Việt Nam. Trước khi qua đời, điều Hồ Chí Minh băn khoăn, day dứt nhất
là sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế. Thực tế cho thấy, với uy tín
nhiệt tình cách mạng và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, ngay từ những năm
1920, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan trọng vào sự đoàn kết, thống
nhất giữa các lực lượng cách mạng trên thế giới. Khi đi vào cõi vĩnh hằng,
chắc Hồ Chí Minh cũng thấy yên lòng, bởi vì, tuân theo Di chúc của Người.
''trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có
tình''
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đang và sẽ tiếp tục làm hết sức
mình vì hoà bình, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí
Minh gắn bó trọn vẹn với dân tộc, với Đảng Cộng sản Việt Nam: với nhân dân và
bạn bè quốc tế. Cũng suốt đời mình, Người phấn đấu, cống hiến cho sự đoàn kết
thống nhất của Đảng của dân tộc và quốc tế. Vì vậy, trước khi qua đời Người ''để
lại muôn vàn tình thân yêu” cho toàn Đảng, toàn dân toàn quân cho các cháu
thanh niên, nhi đồng Việt Nam và cho đồng chí bầu bạn, thanh niên, nhi đồng
quốc tế. Những tư tưởng, quan điểm nêu trên của Hồ Chí Minh vẫn được Đảng,
nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đón nhận suy ngẫm và vận dụng. Tư tưởng
Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về đoàn kết được để hiện sâu sắc trong Di
chúc của Người vẫn sống động cùng nhân dân đất nước và thời đại. Xây dựng và
chỉnh đốn Đảng Trong Di chúc để lại cho dân tộc ta, vấn đề “trước hết” được Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề cập là về Đảng. Như vậy, vấn đề xây dựng Đảng được Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm không chỉ sinh thời mà còn đặc biệt lưu ý, căn dặn
lại cho toàn Đảng ta trước khi đi xa. Vượt qua ngôn ngữ, hình thức của một bản
Di chúc thông thường, những vấn đề viết về xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong Di chúc mang tầm lý luận sâu sắc. Như chúng ta đã biết, từ những
ngày đầu mới thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ của
chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam
trong mỗi thời kỳ cụ thể của Cách mạng. Bác Hồ chính là nhà chiến lược và sách
lược tài tình, nhà tổ chức lực lượng thiên tài, nhà cổ động chính trị vĩ đại, người
có công rèn luyện, giáo dục bao lớp cán bộ ưu tú của Đảng, Người đã đưa chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin trong những điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Thực
hiện Di chúc của Người, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác -Lênin là nền
tảng tư tưởng chính trị của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ một Đảng Cộng
sản cầm quyền, sau Lênin, đã nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản trở thành đảng
cầm quyền cùng những lo lắng, răn đe. Không phải chỉ trong Di chúc, mà hầu hết
những tác phẩm của Hồ Chí Minh từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản bắt đầu cầm
quyền sau Cách mạng tháng Tám, ngay sự cầm quyền ấy chưa hoàn toàn trong
phạm vi cả nước, vừa xây dựng chính quyền vừa kháng chiến, Người đã luôn luôn
nhắc đến việc chính quyền do Đảng Cộng sản phải là chính quyền vì dân, do dân,
gắn bó với dân, trung thành với dân, người đầy tớ trung thành của dân. Bức thư
đầu tiên Người gửi các đồng chí Bắc Bộ năm 1947, khi kháng chiến chống Pháp
mới bắt đầu vài tháng và khi mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa chưa ai cảnh giác
con đường hiểm nguy của Đảng Cộng sản cầm quyền mà thoát ly nguyên lý cộng
sản cơ bản - tức phục vụ dân, lấy dân làm gốc - thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo
động với ý thức và lời lẽ vừa thiết tha vừa nghiêm khắc, lấy sự việc ngay trong
đời sống hằng ngày. Cho nên, bài học lớn nhất mà chúng ta rút ra từ Di chúc của
Người chính là phần cốt lõi này. Đảng ta là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất,
đoàn kết, gắn bó với nhân dân, đại diện cho quyền lợi của giai cấp và của dân
tộc, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, ủng hộ, giúp đỡ. Muốn có được sự đoàn kết
nhất trí đó, như Bác đã nói là ngay trong Đảng cần phải thực hành dân chủ rộng
rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Là một người theo
chủ nghĩa cộng sản, là người phương Đông đồng thời cũng là người con của đất
Việt, lịch sử hàng ngàn năm đã đặt cho trí tuệ của Người sự suy nghĩ có chiều
sâu, bao quát bởi bao nhiêu triều đại ngả nghiêng khi không hiểu lời của Nguyễn
Trãi: Dân nâng thuyền và dân có thể lật thuyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm
nhuần lời dạy của người xưa: Tu thân, tề gia, trị quốc. Đảng Cộng sản cầm quyền
mà không coi trọng tu thân thì khó tề gia, càng khó trị quốc. Đảng lãnh đạo gồm
năng lực tiên phong và đạo đức tiên phong. Bài học này đâu cũng có, lúc nào
cũng có. Đảng không gương mẫu, nặng tư lợi, nặng chức quyền thì Đảng chỉ còn
là một hàng hội. Đảng viên háo danh, tự ca ngợi mình mà tham lam, lợi dụng
chức quyền, dung túng cho vợ con thân thuộc phạm các tội lừa đảo, ăn hối lộ,
buôn lậu... tức vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội thì còn tệ hơn một tội phạm
thường dân. Tiên phong là làm gương, lãnh đạo là dẫn đường - không làm gương
thì chẳng thể dẫn đường đúng. Chúng ta luôn ghi nhớ rằng, tư cách, phẩm chất
đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi công dân không phân biệt bất
cứ ai mà Bác thường xuyên căn dặn, nhắc nhở là cần kiệm, liêm chính, chí công,
vô tư. Theo Bác Hồ: Người có nhân là người có tấm lòng nhân hậu, tình thương
yêu, giúp đỡ đồng bào, đồng chí. Nhân là tâm và tâm là nhân. Người có nghĩa là
người có chí khí, lòng dạ ngay thẳng, không có tư tâm, tà tâm, không lắt léo,
không uốn công cuộc đời, không lu ồn cúi, xu nịnh, xu thời. Trọng nghĩa là đức
tính của con người. Người có trí là người có đầu óc sáng suốt, trong sạch, biết
xem người, biết xét việc, biết nhân tình thế thái mà liệu bề ứng xử. Người có
dũng là người dũng cảm, gan góc, có gan bảo vệ lẽ phải, có gan đấu tranh với
những việc làm sai trái, không sợ khó, không sợ khổ, có gan chịu đựng để mưu
cầu việc lớn. Người có liêm là người không tham địa vị, tiền tài, sự quyến rũ mềm
yếu, quan minh chính đại, sống cuộc đời liêm khiết, tử tế, đàng hoàng. Cần là
cần cù, cần mẫn trong công việc, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương, lao
động vì lợi ích chung và lợi ích riêng mình. Kiệm là tiết kiệm, không xa hoa lãng
phí, không tiêu xài bừa bãi, không lấy của công làm của riêng; tiết kiệm nhưng
không bủn xỉn, cái gì đáng tiêu dù phải mất số tiền lớn cũng phải tiêu, cái gì
không đáng tiêu dù chỉ là một đồng cũng không được tiêu. Bác căn dặn cho cán
bộ, đảng viên một luận điểm quan trọng như sau: “Trước mặt quần chúng không
phải ta cứ viết lên trán chữ cộng s ản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước”, “Nếu chính mình tham ô bảo người ta
liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng trong
sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”... Bác Hồ có nhắc nhở
rằng trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của
từng người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm, bất
chính, lãng phí, tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vì lợi
ta hại người… còn lẩn khuất đâu đó bằng sự dối trá với chính mình, với tập thể và
cộng đồng thì đó là “kẻ thù nội xâm” nguy hiểm khôn lường.
Như Bác đã dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng
chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã.
Trước hết, mình phải làm gương. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và
văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành
công. Muốn làm được ta phải: quyết tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy,
thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất cả các đồng chí phải thành công”.
Mục đích xây dựng một xã hội đạo đức, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bộ là
lý tưởng sống của Hồ Chí Minh. Người lo sợ về một xã hội vô đạo đức, lo sợ cho
một đội ngũ cán bộ vô đạo đức, thoái hóa, biến chất, vì vộ đạo đức sẽ đẻ ra biết
bao tai họa mà chính Người đã được chứng kiến nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy,
vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức con người là một vấn đề mà Người suốt đời quan
tâm. Xây dựng chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau “Đoàn viên và
thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại
khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo g iáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết.” Người đã chỉ ra rằng muốn giáo dục cộng sản cho
đoàn viên thanh niên phải gắn liền việc học tập, rèn luyện của họ với cuộc đấu
tranh chung của xã hội. Người nói: "Đoàn thanh niên cộng sản chỉ xứng đáng với
danh hiệu của nó là đoàn thể của thế hệ cộng sản trẻ tuổi, nếu biết gắn từng
bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình với việc tham gia cuộc đấu tranh
chung của những người lao động chống lại bọn bóc lột". Cũng với quan điểm ấy,
Bác Hồ đã dạy: "Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ
với những cuộc đấu tranh của xã hội". Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dành rất nhiều tình cảm lớn lao cho thế hệ trẻ, thế hệ mà Người khẳng định sẽ
là người chủ tương lai, là rường cột của nước nhà. Điều đó thể hiện rất rõ qua các
cuộc gặp gỡ và qua nhiều bài viết của Người dành cho thế hệ trẻ (theo Người, thế
hệ trẻ bao gồm: thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trong đó thanh niên là lực
lượng quan trọng nhất), đồng thời chính Người tổ chức huấn luyện, lãnh đạo và
rèn luyện phát triển lực lượng thanh niên cách mạng Việt Nam. Ngay từ thời niên
thiếu, được trực tiếp chứng kiến các phong trào yêu nước của nhân dân dân ta
đầu thế kỷ XX như: phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục,
phong trào Duy Tân, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Người đã thấy rõ sự
đóng góp của tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn và phát triển bền vững của
dân tộc. Họ là lực lượng tham gia đông đảo và nhiệt tình nhất, hùng hậu nhất,
dũng cảm nhất trong các cuộc chống xâm lăng, là những con người có lý tưởng,
giàu đức hy sinh, sẵn sàng xả thân và trở thành một lực lượng chủ yếu của cách
mạng. Tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nhận ra rằng cách mạng muốn
thành công, trước hết phải tập hợp lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng này
giác ngộ cách mạng, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vai trò của lực
lượng thanh niên được Người khẳng định là rất quan trọng. Tháng 6/1925, Người
thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, qui tụ tất cả những
thanh niên Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết vào trong một tổ chức thống nhất.
Từ đây, những hoạt động của Hội chính là nhân tố quan trọng và ảnh hưởng đến
việc ra đời các tổ chức cộng sản và việc thành lập Đảng sau này. Chủ tịch Hồ Chí
Minh không những chỉ ra khả năng cách mạng to lớn của tuổi trẻ trong cách
mạng mà Người còn chỉ ra tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến
thiết xây dựng nước nhà. Trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Người gửi gắm
niềm tin tưởng của mình vào thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tư ơi đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập
của các em”. Năm 1947, Ngư khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của
nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do
các thanh niên”. Hồ Chí Minh xem xét thanh niên một cách toàn diện, thấy rõ vị
trí, vai trò của thanh niên: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ
thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”,
vì vậy, Người yêu cầu, đòi hỏi thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng
học tập, xung phong gương mẫu trong công việc. Gắn yêu cầu đặt ra đối với
thanh niên, hiểu rõ vị trí, vai trò to lớn của thanh niên, Người đặc biệt quan tâm
đến việc giáo dục cho thanh niên và chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục, bồi
dưỡng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong Di
chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cho Đảng đối với công tác giáo dụ c
thanh niên và xem đây là trách nhiệm của Đảng, các cơ quan giáo dục, đến các
đoàn thể quần chúng: “Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ,
đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”
vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết”. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp lâu dài khó khăn và
là trách nhiệm của nhiều thế hệ. Vì vậy, việc bàn giao thế hệ không chỉ là trao lại
những gì đã có mà điều quan trọng và khó khăn hơn nhiều là chuẩn bị và trang bị
cho thế hệ sau những điều cần thiết, định hướng cho thanh niên những công việc
phải làm để họ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Chính vì
vậy, vấn đề quan tâm, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ chính là thực hiện theo quy
luật khách quan nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của đất nước không ngừng phát
triển. Vấn đề quan tâm hàng đầu của bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người căn dặn thanh niên
phải: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa
học và yêu kỷ luật”. Việc giáo dục, bồi dưỡng cho một thế hệ là công việc hết sức
công phu và bền bỉ, vì vậy, Người quan niệm việc giáo dục, đào tạo và rèn luyện
cho thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng người” và Người nêu tư tưởng chiến lược: “Vì
lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm trồng người”. Công tác giáo dục phải
tạo nên một thế hệ vừa giỏi chuyên môn, có trình độ cao, phù hợp với sự phát
triển của xã hội; đồng thời phải có đạo đức c ách mạng, phải trở thành là lực
lượng “vừa hồng, vừa chuyên”. Hồ Chủ tịch cho rằng giáo dục bồi dưỡng cho thế
hệ trẻ phải chú ý đến cả hai yếu tố đạo đức và tài năng trong đó lấy đạo đức làm
gốc. Đức – Tài là hai nhân tố làm cho cán bộ nói riêng, con người nói chung trở
lên hữu ích đối với xã hội, không thể tách rời cũng không thể tuyệt đối hoá mặt
này mà phủ nhận hay xem nhẹ mặt kia.
Tư tưởng nhân văn cao cả
Ánh sáng của các tư tưởng nhân văn cao cả trong Di chúc của Người đã,đang và
sẽ mãi tiếp tục soi sáng các mục tiêu, những bước đường của nhân dân ta đi đến
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
a. Quan điểm vì con người và giải phóng con người
Trong Di chúc của Người, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao và mang ý
nghĩa cải tạo thực tiễn sâu sắc là quan điểm vì con người và giải phóng con
người. Xuyên suốt trong Di chúc của Người đó là tình yêu thương đối với tất cả
mọi tầng lớp trong xã hội. Việc đầu tiên mà Người quan tâm ngay sau cuộc
chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi là "công việc đối
với con người”. Người chỉ rõ, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc
Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man đã gây ra biết bao đau
thương cho mỗi người dân Việt Nam; "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân". Theo Người, đó là công rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất vẻ
vang, bởi nó luôn mang nội dung tư tưởng nhân văn cao cả là chiến đấu
chống lại những gì đã cũ, hư hỏng đem lại cho xã hội và mọi người những cái
mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Người đã căn dặn phải có những chính sách,
việc làm cụ thể đối với từng đối tượng, từ những anh hùng liệt sĩ, thương binh
và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ đến những chiến sĩ trẻ tuổi trong
các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong và các lực lượng
thanh, thiếu niên, phụ nữ đã đóng góp xương máu và công sức cho thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tư tưởng nhân văn cao cả trong vĩ đại của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở
đó, bởi đối tượng quan tâm của Người còn là “những nạn nhân của chế độ xã
hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng
vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những
người lao động lương thiện".
Đối với các liệt sĩ, Người căn dặn phải làm những việc cần thiết nhất để “ghi
sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ”, đồng thời “để đời đời giáo dục tinh thần
yêu nước cho nhân dân ta”.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và
túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã
cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp,
quyết không để họ bị đói, bị rét.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình
trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, Người căn dặn:
chúng ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, phải mở
những lớp dạy nghề thích hợp cho họ, để họ có được hành trang cần thiết
bước vào cuộc sống tự lập, tự lực cánh sinh.
Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh
niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu Người yêu cầu "Đảng và
Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các
ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật
giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc", làm cho họ trở thành lực
lượng nòng cốt xây dựng thành cô ng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Để xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh và văn minh
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người thường nhắc nhở chúng ta:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa ”. Do đó Đảng và Chính phủ phải luôn chăm lo công tác giáo dục,
đào tạo, rèn luyện cho lớp người trẻ tuổi để kế tục sự nghiệp cách mạng,
trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Người chỉ rõ cần phải sửa đổi chế độ
giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên,
đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa
“hồng” vừa “chuyên”.
Đối với phụ nữ, Người luôn dành sự quan tâm chăm lo đặc biệt, trong Di chúc
Người chỉ rõ mục tiêu vươn tới mang tính nhân văn cao cả của người phụ nữ
trong chế độ mới: "Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật
sự cho phụ nữ". Người yêu cầu: "Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo". Mang trong mình đạo lý truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của người Việt
Nam, với đối tượng là nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một
năm để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào ta đã ra sức góp
của, góp người, chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Theo Người, chủ nghĩa xã
hội không phải là cái gì khác mà chính là làm mọi người được ăn no, mặc ấm,
được sung sướng và tự do. Chủ tịch Hồ Chí minh khẳng định: “Nếu nước nhà
độc lập mà dân không không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Vì vậy, suốt cuộc đời hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, trước lúc đi xa, mong muốn cuối cùng của Người là: "Toàn Đảng
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới". Triết lý nhân sinh của Người là sự gắn kết giữa chủ nghĩa
nhân đạo cao cả với tư tưởng nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa
nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là truyền thống nhân ái ca dân tộc Việt
Nam kết hợp với truyền thống nhân ái của nhân loại. Nội dung cốt lõi của chủ
nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là lòng thương yêu, quý trọng con
người gắn với lòng yêu nước, yêu dân nồng nàn. Mục tiêu cao cả của chủ
nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di
chúc là chủ nghĩa nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản.
b. Bao trùm nhất, quan trọng nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được
thể hiện trong Di chúc là sự quan tâm đến người cộng sản, đến Đảng. Đây
thực sự là nét độc đáo trong tư tưởng nhân văn của Người. Tháng 5/1968,
k hi soạn thảo Di chúc, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên
là chỉnh đốn lại Đảng”. Quan tâm đến Đảng đầu tiên, hướng đến việc hoàn
thiện công việc lãnh đạo của Đảng, Người đặc biệt nêu lên ý nghĩa nhân
văn trong việc Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành với nhân dân. Xã hội mới theo hướng lấy con người làm trung tâm ở
nước ta trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng sản là chống áp bức, bóc lột, mang những
giá trị chân chính của con người trả lại cho con người. Bản chất của xã hội
lấy con người làm trung tâm hoà quyện và thống nhất với mục đích lý
tưởng của Đảng. Với lý tưởng tiền tiến và đạo đức cao đẹp, nhân cách
người cộng sản phải trở thành biểu tượng trung tâm của xã hội mới. Đó là
những con người biết đặt lợi ích của Đảng của nhân dân lên trên hết và
trước hết. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xã hội lấy con người làm
trung tâm đòi hỏi trước hết: “Mỗi đảng viên là cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ,
đảng viên có đạo đức cách mạng là những người có văn hoá; phải xung
phong gương mẫu làm trước thiên hạ và phải hưởng bổng lộc sau thiên hạ;
cái gì lợi cho Đảng, cho dân thì khó mấy cũng làm, cái gì hại đến Đảng,
đến dân thì kiên quyết chống lại. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng:
Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ trưởng,
thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân
dân, chứ không phải làm quan cách mạng”. Là người đầy tớ trung thành
của nhân dân thì những người lãnh đạo phải thực hiện tốt quyền và nghĩa
vụ lao động của mình.
Tư tưởng bình đẳng, bác ái và niềm tin ở con người
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, nghiên cứu, kế thừa những tư
tưởng lớn của Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn
Dân quyền và Nhân quyền của cách mạng Pháp năm 1791,... Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt
Nam, về quyền bình đẳng của tất cả mọi người, đồng thời Người cũng
khẳng định quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của
nhân dân Việt Nam. Đó là chân lý bất tử, là quyền sống, quyền tự do
không ai có thể bác bỏ, xâm phạm[17]. Tuy nhiên, trong suốt hơn 8 thập
niên độ hộ Việt Nam, thực dân Pháp đã tìm mọi cách chia rẽ về chính trị,
xóa bỏ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Cùng với đó, về kinh tế thực
dân Pháp đã “bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân nghèo
nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”[18].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người luôn thấm đượm triết luận, chất
nhân văn Á Đông. Theo Người, tính thiện, ác trong mỗi con người không
phải bản tính tự nhiên mà là do xã hội, chế độ giáo dục quy định nên. Hơn
thế, bản tính của con người cũng có thể biến đổi theo thời gian do những
tác nhân xã hội và để thích ứng với môi trường sống, xu thế xã hội. “Người
tôn trọng từ bi của đạo Phật như cái gốc của đạo đức... và tình cảm ấy hòa
hợp với lòng yêu nước, thương dân”[19]. Lúc hoạt động ở nước ngoài cũng
như khi về nước, Hồ Chí Minh luôn tích cực, chủ động tiếp thu tinh hoa các
nền văn hóa để làm giàu thêm vốn tri thức, tinh thần nhân văn và sự hiểu
biết về con người. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến vấn đề con người, nhân dân, đất nước và chính Người đã dâng hiến cả
cuộc đời cho nhân dân, đất nước[20].
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng yêu thương con người là giá trị bao trùm,
quán xuyến toàn bộ tư tưởng, suy nghĩ và hành động. Bản Di chúc là sự
chưng cất những suy nghĩ, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và vì
con người. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là
nhân tố trung tâm, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để
thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc cần phải có những
con người toàn diện. Đó là những người vừa có đức vừa có tài, trong đó
đức là gốc. Người từng chỉ rõ: “Đạo đức có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải
trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. Hồ Chí
Minh cho rằng, bất kỳ lúc nào, ở đâu, làm việc gì người cán bộ, đảng viên
cũng cần “phải thấm nhuần đạo đức cách mạng”. Khi Đảng trở thành Đảng
cầm quyền thì vấn đề đạo đức càng trở nên quan trọng. Đảng viên, cán bộ
phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân. Năng lực, đạo đức của người cán bộ phải được thể hiện cụ thể trong
mọi suy nghĩ, hành động; phải luôn tiên phong, sẵn sàng gánh nhận việc
khó khăn, gian khổ, phải đặt lợi ích của đất nước, tập thể lên trên hết và
phải thụ hưởng sau mọi người.
Trải qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, quan điểm của
Hồ Chí Minh về con người ngày càng phát triển, toàn diện. Ở nhiều bài
viết, Người luôn coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cánh mạng.
Tầm nhìn Hồ Chí Minh về con người không chỉ là giải phóng nhân dân
thoát khỏi xích xiềng nô lệ mà còn là việc bảo đảm cơm no, áo ấm, trang
bị tri thức và hạnh phúc thực sự cho người dân. Đó chính là giá trị đích
thực của nền độc lập, tự do mà bao thế hệ chiến sĩ cách mạng, nhân dân
đã phải hy sinh, đổ máu để giành đoạt lại. Hồ Chí Minh nhìn thấy rõ quy
luật vận động, phát triển của lịch sử và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi theo quy luật ấy. Nhiều nhà nghiên cứu trong nước, quốc tế từng luận
bàn về phong cách an nhiên tự tại, phong độ Hồ Chí Minh. Có thể hiểu:
Phong độ ung dung của Hồ Chí Minh là phong độ của người nhận thức
được quy luật của lịch sử, tin ở nhân dân và có nhân dân, con người biết
mình muốn gì và đi đến đâu, biết tránh thác ghềnh, biết thắng quân địch,
con người tĩnh như núi, động như biển, nắm vững nghệ thuật của điều có
thể và không ngừng mở rộng giới hạn của điều có thể”[21].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ở bất cứ thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam,
con người cũng luôn giữ vị trí trung tâm. Đào luyện con người là nhiệm vụ
trọng tâm, hàng đầu của mọi kế hoạch, chiến lược phát triển. Theo Đại
tướng Võ Nguyên Giáp: “Cái vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã nhìn thấy
ở nhân dân lực lượng quyết định thắng lợi cách mạng. Người nói: “Nước lấy
dân làm gốc. Dân chúng (công, nông) là gốc cách mạng. Có lực lượng của
dân, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Lý tưởng cách mạng
đã đi vào lòng của đông đảo nhân dân thì biến thành sức mạnh vật chất,
không máy bay, đại bác nào chống lại được… Với quan điểm dựa vào sức
mạnh của toàn dân thì có thể chiến thắng mọi kẻ thù. Người đã lãnh đạo
quân và dân cả nước làm nên chiến tranh nhân dân Việt Nam: Lấy chính
nghĩa thắng phi nghĩa, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, một nước nhỏ
mà thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ”[22]. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn thương nhớ da diết miền Nam, nhớ tới cán bộ, chiến sĩ, đồng
bào đã và đang quên mình chiến đấu, hy sinh nơi thành đồng Tổ quốc.
Người từng băn khoăn về việc chưa làm trọn trách nhiệm cách mạng với
đồng bào miền Nam và mong ước được sớm vào Nam sau ngày đất nước
hoàn toàn độc lập.
Trong Di chúc, Người thể hiện niềm tin, tình cảm lớn lao với con người bởi
sự nghiệp cách mạng, chống đế quốc xâm lược, “giải phóng gông cùm nô
lệ cho đồng bào”, là “việc chung của cả dân chúng”. Mọi việc lớn nhỏ của
đất nước đều phải dựa vào dân, dân là gốc, là nhân tố tạo nên mọi thành
công. Nhìn rộng ra, “Hồ Chí Minh là con người có lòng tin không gì lay
chuyển nổi vào tương lai dân tộc và loài người, vào chủ nghĩa xã hội: Đó là
chất không bao giờ biến đổi để ứng phó linh hoạt với muôn vàn biến đổi
của một sự nghiệp đầy sóng gió”[23]. Trong nhiều bài viết, Người luôn
dành sự quan tâm đặc biệt đến những đóng góp, hy sinh thầm lặng của
nhân dân. “Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có lòng thương yêu vô hạn đối
với nhân dân. Điểm nổi bật ở người là sự tôn trọng nhân dân và niềm tin
tuyệt đối vào sức mạnh vô hạn của nhân dân. Đối với Người, cách mạng
không phải là sự ban ơn cho nhân dân, mà trước hết là sự nghiệp của nhân
dân và do nhân dân. Người nhấn mạnh tinh thần dân chủ trong sinh hoạt
chính trị. Người đã tiến hành không mệt mỏi công tác tuyên truyền và giáo
dục nhằm thức tỉnh toàn dân tộc trước sự nghiệp chung, phát huy cao nhất
sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực của hàng triệu con người”[24].
Một trong những điểm cốt lõi, nổi bật trong Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh là sự tin tưởng tuyệt đối vào con người, vào sức mạnh, phẩm giá cao
quý của con người. Con người, tự trong bản chất, là những sinh thể sáng
tạo, luôn khát khao vươn tới cái đẹp, quyền sống và chân lý t do. Thấu
hiểu những di chứng nặng nền của chế độ thống trị thực dân và những
thảm họa do chiến tranh gây ra, Hồ Chí Minh luôn tin tưởng tuyệt đối vào
phẩm giá, tính sáng tạo và bản lĩnh của con người Việt Nam. Chính những
giá trị đó đã làm nên những phẩm cách của một Dân tộc anh hùng.
Triết lý nhân văn, tình yêu con người của Hồ Chí Minh đã vượt lên đường
biên của một quốc gia để đạt đến tầm mức, giá trị nhân bản phổ quát của
nhân loại. Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến những ngày về với “thế giới
người hiền”, Hồ Chí Minh luôn coi Việt Nam là một bộ phận của thế giới,
cách mạng Việt Nam là một thành tố gắn bó hữu cơ với cách mạng thế
giới. Vì thế, tất cả các cộng đồng dân tộc trên thế giới, dù thuộc màu da,
ngôn ngữ, địa vị kinh tế, xã hội nào... Người luôn bày tỏ sự quý mến, tôn
trọng. Là người tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống
xâm lược Mỹ, nhưng Hồ Chí Minh luôn quý trọng nhân dân Pháp, nhân dân
Mỹ và tất cả những ai yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Tư duy chính trị
vừa có sự phân lập, vừa minh định của Người và của Chính phủ Việt Nam
khiến nhân dân thế giới luôn nhận thấy những giá trị đích thực, sự chân
tình vì thế đã tin cậy, quý mến, ủng hộ mạnh mẽ cho sự nghiệp đấu tranh
chính nghĩa của Việt Nam.
Trong những lời dạy của Người cũng như trong Di chúc, Hồ Chí Minh luôn
coi trọng, đề cao phẩm giá con người, kể cả những người có sai khuyết,
lầm lạc. Hồ Chí Minh luôn tin rằng, bằng sức cảm hóa, giáo dục, bằng tấm
lòng bao dung chân thành, những con người đó hoàn toàn có thể sửa chữa
những sai lầm, khuyết điểm để trở thành những công dân có ích cho
hội. Hồ Chí Minh luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với tổ chức, với từng công
việc nhưng cũng có thái độ khoan dung với những cán bộ dưới quyền,
nhân viên phục vụ khi họ mắc sai lầm, khuyết điểm[25]. Thời chống Pháp,
giữa mùa đông giá lạnh, lãnh tụ của cuộc kháng chiến đã từng cởi chiếc áo
ấm của mình cho một tù binh... Lòng nhân ái Hồ Chí Minh rộng lớn, sâu sắc
nhưng cũng rất dung dị. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hằng ngày ai
cũng có thể thấy Bác Hồ yêu trẻ, kính già, trọng phụ nữ. Bác Hồ rất quý
trọng phụ nữ bởi theo quan điểm của Người, ở Việt Nam xây dựng chủ
nghĩa xã hội mà không có phụ nữ thì chỉ xây dựng một nửa chủ nghĩa xã
hội. Việt Nam là một đất nước rất coi trọng phụ nữ[26].
Với con người, Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng việc đào tạo cán bộ, huấn
luyện chiến sĩ; thương yêu, chăm lo cho đồng bào miền núi, các dân tộc
thiểu số vùng Trường Sơn - Tây Nguyên từng manh áo, bát cơm, hạt muối,
… Hồ Chí Minh còn là một biểu tượng sinh động về tính nêu gương. Trong
Di chúc, Người từng viết: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc,
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Thấm nhuần triết lý cổ kim, Đông
Tây, hiểu rõ hoàn cảnh kinh tế của đất nước, Người đề cao tư tưởng: Cần,
kiệm, liêm, chính và coi đó là những phẩm cách cốt yếu của người cán bộ
cách mạng. Tác giả Việt Phương viết: Không một thứ gì hơi đài các là có
thể tồn tại trong nơi ở và làm việc của Người. “Gường của Bác nằm bao giờ
cũng chỉ có chiếu trơn. Ngoài cái chiếu trơn, đầu gường có một cái gối trơn
không thêu gì cả, một cái chăn đơn và một chăn len Bác dùng mùa
rét”[27]. Nhà nghiên cứu Ấn Độ T.N.Kaul cũng có chung nhận xét: “Khi tôi
đến thăm Người lần đầu năm 1957 tại cơ quan của Người ở Hà Nội, tôi rất
ngạc nhiên về cách ăn mặc giải dị của Người. Người mặc bộ đồ bằng vải ka
ki, chân đi dép cao su. Người đưa tôi đi thăm căn nhà mà Người đang ở. Đó
là một căn nhà gỗ nhỏ bé, tiện nghi sơ sài, đầy cây xanh. Mặc dù giữ chức
vụ cao, Hồ Chí Minh vẫn duy trì một nếp sống giản dị, làm cho Người có
điều kiện gần gũi với quần chúng và quần chúng cũng đồng cảm với
Người”[28].
Tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính được thể hiện nhất quán, sâu sắc trong
toàn bộ cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh và có sức lan tỏa mạnh mẽ
đến nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên. Lúc sắp qua đời, là người lãnh đạo
Đảng và nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn muốn tiết kiệm thời gian, tiền
bạc của nhân dân. Người muốn được thực hiện thể thức hỏa táng truyền
thống để được về với nhân dân ba miền Bắc - Trung - Nam; được về với
thiên nhiên trên những ngọn đồi thoáng mát, tiếp tục góp phần phát triển
kinh tế, bảo vệ thế giới tự nhiên, hệ sinh thái và được xum vầy với các
tầng lớp nhân dân, với các cụ cao tuổi. Con người và thiên nhiên là hai
người bạn đời luôn gần gũi, gắn bó mật thiết với Người.
Trong Di chúc, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người hòa quyện với khái
niệm nhân dân, đất nước; với các thành phần xã hội, đồng bào miền xuôi,
miền ngược; với các cụ già, con trẻ, thanh niên, phụ nữ; với nhân dân châu
Á và thế giới... Ở đó, mỗi con người là một nhân cách, phẩm giá. Nếu tin
tưởng giao nhiệm vụ cho họ, biết đoàn kết, hợp tụ họ lại, khích lệ tinh thần
và năng lực của họ thì tất cả mọi cá nhân trong cộng đồng dân tộc ấy sẽ
dốc lòng, dốc sức đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đi đến thành
công.
[17] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4 (1945-1946), Nxb. Chính trị Quốc gia, H.,
2011, tr.1.
[18] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4 (1945-1946), Sđd, tr.2.
[19] Hà Minh Đức: Hồ Chí Minh – Anh hùng dân tộc và tầm thời đại của
Người, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2018, tr.271.
[20] Trả lời phóng viên Mácta Rôhát (Cu Ba) ngày 14-7-1969, Người từng
nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15
(1966-1969), Sđd, tr.674-677.
[21] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Con người, Sđd, tr.65.
[22] Võ Nguyên Giáp: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.15.
[23] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Con người, Sđd, tr.64.
[24] Nguyễn Văn Linh: Lời chào mừng tại Hội thảo Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí
Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.10.
[25] Vũ Kỳ: Bác Hồ viết di chúc (Thế Kỷ ghi), Nxb. Chính trị Quốc gia, H.,
1999, tr.65.
[26] Đại tướng cho rằng, việc tôn trọng phụ nữ là một trong những tiêu chí
căn bản thể hiện tư duy mới và khác biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh so với
quan niệm Nho giáo truyền thống. Võ Nguyên Giáp: Phát biểu tổng kết Hội
thảo Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa lớn, Sđd, tr.244-245.
[27] Việt Phương: Một số mẩu chuyện về đời sống hàng ngày của Bác Hồ,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2000, tr.18-19.
[28] T.N. Kaul: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà ái quốc Việt Nam vĩ đại, người
bạn lớn của nhân dân Ấn Độ và toàn nhân loại, trong Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.24.
| 1/13

Preview text:

Tư tưởng đoàn kết
Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Bác đề cập đến
v ấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại
đoàn kết”. Trong bản Di chúc, chỉ có chưa đầy 20 dòng nói về Đảng nhưng đã có
đến 5 lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến đoàn kết.
Suốt cuộc đời mình, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là vấn đề đoàn kết
nhằm tập hợp lực lượng, phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức
mạnh quốc tế, vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng
trên được thể hiện rõ nét qua Di chúc của Người. Ba mươi năm đã qua, kể từ k hi
Hồ Chí Minh viết những dòng cuối cùng của bản Di chúc lịch sử. Đây là thời gian
thích hợp nhất để toàn Đảng, toàn dân và mỗi người chúng ta suy ngẫm về tư
tưởng đoàn kết trong di sản cuối cùng mà Người để lại cho dân tộc Việt Nam. a.
Về đoàn kết trong Đảng
Trong Di chúc để lại, điều đầu tiên Bác nói về Đảng, Bác căn dặn: Đoàn kết là
một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta. Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần phải "giữ gìn sự đoàn kết của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình". PGS.TS Bùi Đình Phong, Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ cho biết, nghiên cứu Di chúc Bác Hồ mỗi năm, ông lại phát hiện
thêm những nét mới. Sau những dòng chữ này là những tổng kết kinh nghiệm
cả một đời hoạt động vì nước vì dân của Bác. Không chỉ c ăn dặn toàn Đảng
giữ gìn sự đoàn kết, Bác cũng chỉ rõ cách thức, phương pháp để thực hiện
đoàn kết trong Đảng: "Bác nói nguyên lý đoàn kết: Không thực hiện dân chủ
thì không đoàn kết được, nhất là dân chủ trong Đảng. Vì Đảng ta cầm quyền,
không dân chủ tro ng Đảng thì làm sao dân chủ trong dân được. Bác dạy phải
thường xuyên phê bình, phát triển đoàn kết, tức là không phải hôm nay làm,
mai không làm". Theo TS Chu Đức Tính, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, gần
30 năm nghiên cứu về Bác, nhận thấy ý nghĩa gốc rễ, có tính nền tảng của
nửa dòng chữ duy nhất Bác viết thêm vào Di chúc năm 1966: Bác viết: "Phải
có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Bác dạy Đảng ta: “Phê bình việc chứ
không phê bình người. Học tập Chủ nghĩa Mác là phải sống với nhau có tình
có lý. Ta xử lý dựa trên nguyên tắc, điều lệ Đảng, nhưng thấm đẫm tình người...”.
Cũng theo TS Chu Đức Tính, vấn đề mất đoàn kết luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh
giải quyết một cách bao dung, nhẹ nhàng mà thấm thía. Đây vẫn sẽ là một bài
học quý báu trong xử lý vấn đề mất đoàn kết trong Đảng đang diễn ra ở một số
nơi hiện nay. “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng đã đoàn
kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác”. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, nhờ đoàn kết chặt chẽ mà mới
tròn một tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên cao trào cách mạng 1930
-1931; 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Cách m
ạng Tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhờ
đoàn kết, thống nhất mà Đảng đã tập hợp được lực lượng, phát huy được sức
mạnh của cả dân tộc và thời đại vào cuộc kháng chiến trường kỳ suốt 30 năm,
đánh thắng hai đế quốc là Pháp và Mỹ, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh
giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Cũng chính nhờ sự đoàn kết, thống
nhất ấy mà Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi sự nghiệp Đổi mới.
Đã 41 năm Bác Hồ không cùng cả nước vui ngày Quốc khánh. Nhớ Người, chúng
ta càng thấm thía: Hạnh phúc của Đảng ta là có người Chủ tịch Đảng nghiêm
khắc với bản thân, mà hết sức bao dung, nhân ái vì sự đoàn kết trong Đảng vì
thắng lợi cuối cùng của cách mạng. b. Về đoàn kết toàn dân
Theo Hồ Chí Minh ''…chỉ đoàn kết trong Đảng cách mạng cũng không thành
công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã
nhận thấy một trong những truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt
Nam là đoàn kết. Trên cơ sở khối đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng mà Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng mọi ý đồ xâm lược, phá vỡ
khối đoàn kết dân tộc sẽ bị đánh bại: ''Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà''. Khi đất nước bước vào
thời kỳ xây dựng, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: dựa vào lực lượng vĩ đại
của khối đoàn kết dân tộc, chúng ta sẽ giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu
khổng lồ, cuộc chiến đấu chống nghèo nàn, lạc hậu xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên toàn đất nước Việt Nam. Sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam
không chỉ là phép tính giản đơn của sự đoàn kết trong Đảng cộng với khối
đoàn kết của những người ngoài Đảng, mà chính là sức mạnh tổng hợp của sự
đoàn kết, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Chính truyền thống đoàn kết
của dân tộc đã được nhữ ng người cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển, tạo
nên một truyền thống mới Hồ Chí Minh viết: Đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta''. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã đặt trọn
niềm tin vào truyền thống đó. Với Hồ Chí Minh, tương la i của đất nước, vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được quyết định bởi chính truyền thống
đoàn kết, ý cuối cùng, những dòng Di chúc cuối cùng của Hồ Chí Minh được
viết ra với tâm nguyện: ''Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới''.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, khối đoàn kết dân tộc được quyết định bởi sự
quan tâm, tinh thần tận t uỵ phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên Hồ Chí
Minh gọi đó là ''công việc đối với con người''. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã để lại
những lời căn dặn không chỉ về quan điểm tư tưởng mà cả những chỉ dẫn khá cụ
thể, tỉ mỉ. Đó không chỉ là việc đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình liệt
sĩ mà còn là lựa chọn những người đã trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận đưa đi
đào tạo, bồi dưỡng để họ trở thành ''đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta''. Đối với những người ở hậu phương, nông
nhân, công dân, thanh niên, phụ nữ… sự quan tâm đó cũng chu đáo đầy đủ. Hồ
Chí Minh là người đầu tiên đã nghĩ đến và có giải pháp thích hợp để biến chủ
nghĩa anh hùng trong chiến đấu thành tinh thần phấn đấu, niềm say mê trong
xây dựng hoà bình. Di chúc của Người có đoạn: ''Trong bao năm kháng chiến
chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào
nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp
của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã hoàn toàn
thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã
nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy
mạnh sản xuất''. Sự nghiệp xây dựng đất nước cần có khối đoàn kết đông đảo
rộng rãi, mạnh mẽ và chắc chắn. Khối đoàn kết đó không chỉ gồm toàn bộ những
người từ phía ''bên này'' mà có cả người của phía “bên kia”. Người cho rằng sự
nghiệp xây dựng đất nước cần đến lực lượng của tất cả mọi người ''không để sót
một người nào''. Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: ''Đối với những nạn nhân của
chế độ cũ, thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải
tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện''. Đây không chỉ là
quan điểm tập hợp lực lư ợng hết sức rộng rãi mà còn thể hiện sâu sắc tư tưởng
bao dung, nhân ái Hồ Chí Minh. c. Về đoàn kết quốc tế
Theo Hồ Chí Minh, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều do Đảng Cộng
sản lãnh đạo với sự đoàn kết, thống nhất về đường lối đúng đắn, sáng tạo;
toàn dân đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất; nhân dân thế giới đoàn
kết ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Người kết luận: ''Đó là ba bài học
lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm
mãi''. Đoàn kết quốc tế là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó
được Người đề cập khá đậm nét trong Di chúc. Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng
định, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt
Nam không thể tách rời sự đoàn kết, sự ủng hộ, giúp đỡ tận tình của các nước
xã hội chủ nghĩa và bầu bạn khắp năm châu. Vì vậy, một trong những dự kiến
đầu tiên, ngay sau khi chiến tranh kết thúc của Hồ Chí Minh là thay mặt nhân
dân ta, Người sẽ đi thăm, cảm ơn và mở rộng hơn nữa khối đoàn kết quốc tế
đối với Việt Nam. Trước khi qua đời, điều Hồ Chí Minh băn khoăn, day dứt nhất
là sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế. Thực tế cho thấy, với uy tín
nhiệt tình cách mạng và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, ngay từ những năm
1920, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan trọng vào sự đoàn kết, thống
nhất giữa các lực lượng cách mạng trên thế giới. Khi đi vào cõi vĩnh hằng,
chắc Hồ Chí Minh cũng thấy yên lòng, bởi vì, tuân theo Di chúc của Người.
''trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình''
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đang và sẽ tiếp tục làm hết sức
mình vì hoà bình, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí
Minh gắn bó trọn vẹn với dân tộc, với Đảng Cộng sản Việt Nam: với nhân dân và
bạn bè quốc tế. Cũng suốt đời mình, Người phấn đấu, cống hiến cho sự đoàn kết
thống nhất của Đảng của dân tộc và quốc tế. Vì vậy, trước khi qua đời Người ''để
lại muôn vàn tình thân yêu” cho toàn Đảng, toàn dân toàn quân cho các cháu
thanh niên, nhi đồng Việt Nam và cho đồng chí bầu bạn, thanh niên, nhi đồng
quốc tế. Những tư tưởng, quan điểm nêu trên của Hồ Chí Minh vẫn được Đảng,
nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đón nhận suy ngẫm và vận dụng. Tư tưởng
Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về đoàn kết được để hiện sâu sắc trong Di
chúc của Người vẫn sống động cùng nhân dân đất nước và thời đại. Xây dựng và
chỉnh đốn Đảng Trong Di chúc để lại cho dân tộc ta, vấn đề “trước hết” được Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề cập là về Đảng. Như vậy, vấn đề xây dựng Đảng được Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm không chỉ sinh thời mà còn đặc biệt lưu ý, căn dặn
lại cho toàn Đảng ta trước khi đi xa. Vượt qua ngôn ngữ, hình thức của một bản
Di chúc thông thường, những vấn đề viết về xây dựng Đảng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong Di chúc mang tầm lý luận sâu sắc. Như chúng ta đã biết, từ những
ngày đầu mới thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ của
chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam
trong mỗi thời kỳ cụ thể của Cách mạng. Bác Hồ chính là nhà chiến lược và sách
lược tài tình, nhà tổ chức lực lượng thiên tài, nhà cổ động chính trị vĩ đại, người
có công rèn luyện, giáo dục bao lớp cán bộ ưu tú của Đảng, Người đã đưa chủ
nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin trong những điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Thực
hiện Di chúc của Người, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác -Lênin là nền
tảng tư tưởng chính trị của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ một Đảng Cộng
sản cầm quyền, sau Lênin, đã nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản trở thành đảng
cầm quyền cùng những lo lắng, răn đe. Không phải chỉ trong Di chúc, mà hầu hết
những tác phẩm của Hồ Chí Minh từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản bắt đầu cầm
quyền sau Cách mạng tháng Tám, ngay sự cầm quyền ấy chưa hoàn toàn trong
phạm vi cả nước, vừa xây dựng chính quyền vừa kháng chiến, Người đã luôn luôn
nhắc đến việc chính quyền do Đảng Cộng sản phải là chính quyền vì dân, do dân,
gắn bó với dân, trung thành với dân, người đầy tớ trung thành của dân. Bức thư
đầu tiên Người gửi các đồng chí Bắc Bộ năm 1947, khi kháng chiến chống Pháp
mới bắt đầu vài tháng và khi mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa chưa ai cảnh giác
con đường hiểm nguy của Đảng Cộng sản cầm quyền mà thoát ly nguyên lý cộng
sản cơ bản - tức phục vụ dân, lấy dân làm gốc - thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo
động với ý thức và lời lẽ vừa thiết tha vừa nghiêm khắc, lấy sự việc ngay trong
đời sống hằng ngày. Cho nên, bài học lớn nhất mà chúng ta rút ra từ Di chúc của
Người chính là phần cốt lõi này. Đảng ta là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất,
đoàn kết, gắn bó với nhân dân, đại diện cho quyền lợi của giai cấp và của dân
tộc, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, ủng hộ, giúp đỡ. Muốn có được sự đoàn kết
nhất trí đó, như Bác đã nói là ngay trong Đảng cần phải thực hành dân chủ rộng
rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Là một người theo
chủ nghĩa cộng sản, là người phương Đông đồng thời cũng là người con của đất
Việt, lịch sử hàng ngàn năm đã đặt cho trí tuệ của Người sự suy nghĩ có chiều
sâu, bao quát bởi bao nhiêu triều đại ngả nghiêng khi không hiểu lời của Nguyễn
Trãi: Dân nâng thuyền và dân có thể lật thuyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm
nhuần lời dạy của người xưa: Tu thân, tề gia, trị quốc. Đảng Cộng sản cầm quyền
mà không coi trọng tu thân thì khó tề gia, càng khó trị quốc. Đảng lãnh đạo gồm
năng lực tiên phong và đạo đức tiên phong. Bài học này đâu cũng có, lúc nào
cũng có. Đảng không gương mẫu, nặng tư lợi, nặng chức quyền thì Đảng chỉ còn
là một hàng hội. Đảng viên háo danh, tự ca ngợi mình mà tham lam, lợi dụng
chức quyền, dung túng cho vợ con thân thuộc phạm các tội lừa đảo, ăn hối lộ,
buôn lậu... tức vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội thì còn tệ hơn một tội phạm
thường dân. Tiên phong là làm gương, lãnh đạo là dẫn đường - không làm gương
thì chẳng thể dẫn đường đúng. Chúng ta luôn ghi nhớ rằng, tư cách, phẩm chất
đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi công dân không phân biệt bất
cứ ai mà Bác thường xuyên căn dặn, nhắc nhở là cần kiệm, liêm chính, chí công,
vô tư. Theo Bác Hồ: Người có nhân là người có tấm lòng nhân hậu, tình thương
yêu, giúp đỡ đồng bào, đồng chí. Nhân là tâm và tâm là nhân. Người có nghĩa là
người có chí khí, lòng dạ ngay thẳng, không có tư tâm, tà tâm, không lắt léo,
không uốn công cuộc đời, không lu ồn cúi, xu nịnh, xu thời. Trọng nghĩa là đức
tính của con người. Người có trí là người có đầu óc sáng suốt, trong sạch, biết
xem người, biết xét việc, biết nhân tình thế thái mà liệu bề ứng xử. Người có
dũng là người dũng cảm, gan góc, có gan bảo vệ lẽ phải, có gan đấu tranh với
những việc làm sai trái, không sợ khó, không sợ khổ, có gan chịu đựng để mưu
cầu việc lớn. Người có liêm là người không tham địa vị, tiền tài, sự quyến rũ mềm
yếu, quan minh chính đại, sống cuộc đời liêm khiết, tử tế, đàng hoàng. Cần là
cần cù, cần mẫn trong công việc, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương, lao
động vì lợi ích chung và lợi ích riêng mình. Kiệm là tiết kiệm, không xa hoa lãng
phí, không tiêu xài bừa bãi, không lấy của công làm của riêng; tiết kiệm nhưng
không bủn xỉn, cái gì đáng tiêu dù phải mất số tiền lớn cũng phải tiêu, cái gì
không đáng tiêu dù chỉ là một đồng cũng không được tiêu. Bác căn dặn cho cán
bộ, đảng viên một luận điểm quan trọng như sau: “Trước mặt quần chúng không
phải ta cứ viết lên trán chữ cộng s ản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ
quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước”, “Nếu chính mình tham ô bảo người ta
liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng trong
sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”... Bác Hồ có nhắc nhở
rằng trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của
từng người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm, bất
chính, lãng phí, tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vì lợi
ta hại người… còn lẩn khuất đâu đó bằng sự dối trá với chính mình, với tập thể và
cộng đồng thì đó là “kẻ thù nội xâm” nguy hiểm khôn lường.
Như Bác đã dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng
chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã.
Trước hết, mình phải làm gương. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và
văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành
công. Muốn làm được ta phải: quyết tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy,
thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất cả các đồng chí phải thành công”.
Mục đích xây dựng một xã hội đạo đức, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bộ là
lý tưởng sống của Hồ Chí Minh. Người lo sợ về một xã hội vô đạo đức, lo sợ cho
một đội ngũ cán bộ vô đạo đức, thoái hóa, biến chất, vì vộ đạo đức sẽ đẻ ra biết
bao tai họa mà chính Người đã được chứng kiến nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy,
vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức con người là một vấn đề mà Người suốt đời quan
tâm. Xây dựng chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau “Đoàn viên và
thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại
khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo g iáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
“hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết.” Người đã chỉ ra rằng muốn giáo dục cộng sản cho
đoàn viên thanh niên phải gắn liền việc học tập, rèn luyện của họ với cuộc đấu
tranh chung của xã hội. Người nói: "Đoàn thanh niên cộng sản chỉ xứng đáng với
danh hiệu của nó là đoàn thể của thế hệ cộng sản trẻ tuổi, nếu biết gắn từng
bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình với việc tham gia cuộc đấu tranh
chung của những người lao động chống lại bọn bóc lột". Cũng với quan điểm ấy,
Bác Hồ đã dạy: "Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ
với những cuộc đấu tranh của xã hội". Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dành rất nhiều tình cảm lớn lao cho thế hệ trẻ, thế hệ mà Người khẳng định sẽ
là người chủ tương lai, là rường cột của nước nhà. Điều đó thể hiện rất rõ qua các
cuộc gặp gỡ và qua nhiều bài viết của Người dành cho thế hệ trẻ (theo Người, thế
hệ trẻ bao gồm: thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trong đó thanh niên là lực
lượng quan trọng nhất), đồng thời chính Người tổ chức huấn luyện, lãnh đạo và
rèn luyện phát triển lực lượng thanh niên cách mạng Việt Nam. Ngay từ thời niên
thiếu, được trực tiếp chứng kiến các phong trào yêu nước của nhân dân dân ta
đầu thế kỷ XX như: phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục,
phong trào Duy Tân, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Người đã thấy rõ sự
đóng góp của tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn và phát triển bền vững của
dân tộc. Họ là lực lượng tham gia đông đảo và nhiệt tình nhất, hùng hậu nhất,
dũng cảm nhất trong các cuộc chống xâm lăng, là những con người có lý tưởng,
giàu đức hy sinh, sẵn sàng xả thân và trở thành một lực lượng chủ yếu của cách
mạng. Tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nhận ra rằng cách mạng muốn
thành công, trước hết phải tập hợp lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng này
giác ngộ cách mạng, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vai trò của lực
lượng thanh niên được Người khẳng định là rất quan trọng. Tháng 6/1925, Người
thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, qui tụ tất cả những
thanh niên Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết vào trong một tổ chức thống nhất.
Từ đây, những hoạt động của Hội chính là nhân tố quan trọng và ảnh hưởng đến
việc ra đời các tổ chức cộng sản và việc thành lập Đảng sau này. Chủ tịch Hồ Chí
Minh không những chỉ ra khả năng cách mạng to lớn của tuổi trẻ trong cách
mạng mà Người còn chỉ ra tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến
thiết xây dựng nước nhà. Trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Người gửi gắm
niềm tin tưởng của mình vào thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tư ơi đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập
của các em”. Năm 1947, Ngư khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của
nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do
các thanh niên”. Hồ Chí Minh xem xét thanh niên một cách toàn diện, thấy rõ vị
trí, vai trò của thanh niên: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ
thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”,
vì vậy, Người yêu cầu, đòi hỏi thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng
học tập, xung phong gương mẫu trong công việc. Gắn yêu cầu đặt ra đối với
thanh niên, hiểu rõ vị trí, vai trò to lớn của thanh niên, Người đặc biệt quan tâm
đến việc giáo dục cho thanh niên và chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục, bồi
dưỡng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong Di
chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cho Đảng đối với công tác giáo dụ c
thanh niên và xem đây là trách nhiệm của Đảng, các cơ quan giáo dục, đến các
đoàn thể quần chúng: “Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ,
đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”
vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết”. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp lâu dài khó khăn và
là trách nhiệm của nhiều thế hệ. Vì vậy, việc bàn giao thế hệ không chỉ là trao lại
những gì đã có mà điều quan trọng và khó khăn hơn nhiều là chuẩn bị và trang bị
cho thế hệ sau những điều cần thiết, định hướng cho thanh niên những công việc
phải làm để họ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Chính vì
vậy, vấn đề quan tâm, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ chính là thực hiện theo quy
luật khách quan nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của đất nước không ngừng phát
triển. Vấn đề quan tâm hàng đầu của bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người căn dặn thanh niên
phải: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa
học và yêu kỷ luật”. Việc giáo dục, bồi dưỡng cho một thế hệ là công việc hết sức
công phu và bền bỉ, vì vậy, Người quan niệm việc giáo dục, đào tạo và rèn luyện
cho thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng người” và Người nêu tư tưởng chiến lược: “Vì
lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm trồng người”. Công tác giáo dục phải
tạo nên một thế hệ vừa giỏi chuyên môn, có trình độ cao, phù hợp với sự phát
triển của xã hội; đồng thời phải có đạo đức c ách mạng, phải trở thành là lực
lượng “vừa hồng, vừa chuyên”. Hồ Chủ tịch cho rằng giáo dục bồi dưỡng cho thế
hệ trẻ phải chú ý đến cả hai yếu tố đạo đức và tài năng trong đó lấy đạo đức làm
gốc. Đức – Tài là hai nhân tố làm cho cán bộ nói riêng, con người nói chung trở
lên hữu ích đối với xã hội, không thể tách rời cũng không thể tuyệt đối hoá mặt
này mà phủ nhận hay xem nhẹ mặt kia.
Tư tưởng nhân văn cao cả
Ánh sáng của các tư tưởng nhân văn cao cả trong Di chúc của Người đã,đang và
sẽ mãi tiếp tục soi sáng các mục tiêu, những bước đường của nhân dân ta đi đến
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. a.
Quan điểm vì con người và giải phóng con người
Trong Di chúc của Người, điều làm nên giá trị tinh thần lớn lao và mang ý
nghĩa cải tạo thực tiễn sâu sắc là quan điểm vì con người và giải phóng con
người. Xuyên suốt trong Di chúc của Người đó là tình yêu thương đối với tất cả
mọi tầng lớp trong xã hội. Việc đầu tiên mà Người quan tâm ngay sau cuộc
chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi là "công việc đối
với con người”. Người chỉ rõ, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc
Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man đã gây ra biết bao đau
thương cho mỗi người dân Việt Nam; "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân". Theo Người, đó là công rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất vẻ
vang, bởi nó luôn mang nội dung tư tưởng nhân văn cao cả là chiến đấu
chống lại những gì đã cũ, hư hỏng đem lại cho xã hội và mọi người những cái
mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Người đã căn dặn phải có những chính sách,
việc làm cụ thể đối với từng đối tượng, từ những anh hùng liệt sĩ, thương binh
và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ đến những chiến sĩ trẻ tuổi trong
các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong và các lực lượng
thanh, thiếu niên, phụ nữ đã đóng góp xương máu và công sức cho thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tư tưởng nhân văn cao cả trong vĩ đại của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở
đó, bởi đối tượng quan tâm của Người còn là “những nạn nhân của chế độ xã
hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng
vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những
người lao động lương thiện".
Đối với các liệt sĩ, Người căn dặn phải làm những việc cần thiết nhất để “ghi
sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ”, đồng thời “để đời đời giáo dục tinh thần
yêu nước cho nhân dân ta”.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và
túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã
cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp,
quyết không để họ bị đói, bị rét.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình
trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, Người căn dặn:
chúng ta phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, phải mở
những lớp dạy nghề thích hợp cho họ, để họ có được hành trang cần thiết
bước vào cuộc sống tự lập, tự lực cánh sinh.
Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh
niên xung phong đã được rèn luyện trong chiến đấu Người yêu cầu "Đảng và
Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các
ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật
giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc", làm cho họ trở thành lực
lượng nòng cốt xây dựng thành cô ng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Để xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa, giàu mạnh và văn minh
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người thường nhắc nhở chúng ta:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa ”. Do đó Đảng và Chính phủ phải luôn chăm lo công tác giáo dục,
đào tạo, rèn luyện cho lớp người trẻ tuổi để kế tục sự nghiệp cách mạng,
trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Người chỉ rõ cần phải sửa đổi chế độ
giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới, đặc biệt là chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên,
đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa
“hồng” vừa “chuyên”.
Đối với phụ nữ, Người luôn dành sự quan tâm chăm lo đặc biệt, trong Di chúc
Người chỉ rõ mục tiêu vươn tới mang tính nhân văn cao cả của người phụ nữ
trong chế độ mới: "Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật
sự cho phụ nữ". Người yêu cầu: "Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo". Mang trong mình đạo lý truyền
thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của người Việt
Nam, với đối tượng là nông dân, Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một
năm để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất, sau nhiều năm
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng bào ta đã ra sức góp
của, góp người, chịu đựng mọi khó khăn gian khổ vì sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Theo Người, chủ nghĩa xã
hội không phải là cái gì khác mà chính là làm mọi người được ăn no, mặc ấm,
được sung sướng và tự do. Chủ tịch Hồ Chí minh khẳng định: “Nếu nước nhà
độc lập mà dân không không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Vì vậy, suốt cuộc đời hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, trước lúc đi xa, mong muốn cuối cùng của Người là: "Toàn Đảng
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới". Triết lý nhân sinh của Người là sự gắn kết giữa chủ nghĩa
nhân đạo cao cả với tư tưởng nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa
nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là truyền thống nhân ái của dân tộc Việt
Nam kết hợp với truyền thống nhân ái của nhân loại. Nội dung cốt lõi của chủ
nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là lòng thương yêu, quý trọng con
người gắn với lòng yêu nước, yêu dân nồng nàn. Mục tiêu cao cả của chủ
nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện trong Di
chúc là chủ nghĩa nhân văn cách mạng sáng ngời lý tưởng cộng sản. b.
Bao trùm nhất, quan trọng nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được
thể hiện trong Di chúc là sự quan tâm đến người cộng sản, đến Đảng. Đây
thực sự là nét độc đáo trong tư tưởng nhân văn của Người. Tháng 5/1968,
k hi soạn thảo Di chúc, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên
là chỉnh đốn lại Đảng”. Quan tâm đến Đảng đầu tiên, hướng đến việc hoàn
thiện công việc lãnh đạo của Đảng, Người đặc biệt nêu lên ý nghĩa nhân
văn trong việc Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành với nhân dân. Xã hội mới theo hướng lấy con người làm trung tâm ở
nước ta trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Lý tưởng của Đảng Cộng sản là chống áp bức, bóc lột, mang những
giá trị chân chính của con người trả lại cho con người. Bản chất của xã hội
lấy con người làm trung tâm hoà quyện và thống nhất với mục đích lý
tưởng của Đảng. Với lý tưởng tiền tiến và đạo đức cao đẹp, nhân cách
người cộng sản phải trở thành biểu tượng trung tâm của xã hội mới. Đó là
những con người biết đặt lợi ích của Đảng của nhân dân lên trên hết và
trước hết. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xã hội lấy con người làm
trung tâm đòi hỏi trước hết: “Mỗi đảng viên là cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ,
đảng viên có đạo đức cách mạng là những người có văn hoá; phải xung
phong gương mẫu làm trước thiên hạ và phải hưởng bổng lộc sau thiên hạ;
cái gì lợi cho Đảng, cho dân thì khó mấy cũng làm, cái gì hại đến Đảng,
đến dân thì kiên quyết chống lại. Trước đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng:
“Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ trưởng,
thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ. Làm đầy tớ cho nhân
dân, chứ không phải làm quan cách mạng”. Là người đầy tớ trung thành
của nhân dân thì những người lãnh đạo phải thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ lao động của mình.
Tư tưởng bình đẳng, bác ái và niềm tin ở con người
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, nghiên cứu, kế thừa những tư
tưởng lớn của Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn
Dân quyền và Nhân quyền của cách mạng Pháp năm 1791,... Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt
Nam, về quyền bình đẳng của tất cả mọi người, đồng thời Người cũng
khẳng định quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của
nhân dân Việt Nam. Đó là chân lý bất tử, là quyền sống, quyền tự do
không ai có thể bác bỏ, xâm phạm[17]. Tuy nhiên, trong suốt hơn 8 thập
niên độ hộ Việt Nam, thực dân Pháp đã tìm mọi cách chia rẽ về chính trị,
xóa bỏ quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Cùng với đó, về kinh tế thực
dân Pháp đã “bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân nghèo
nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”[18].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người luôn thấm đượm triết luận, chất
nhân văn Á Đông. Theo Người, tính thiện, ác trong mỗi con người không
phải bản tính tự nhiên mà là do xã hội, chế độ giáo dục quy định nên. Hơn
thế, bản tính của con người cũng có thể biến đổi theo thời gian do những
tác nhân xã hội và để thích ứng với môi trường sống, xu thế xã hội. “Người
tôn trọng từ bi của đạo Phật như cái gốc của đạo đức... và tình cảm ấy hòa
hợp với lòng yêu nước, thương dân”[19]. Lúc hoạt động ở nước ngoài cũng
như khi về nước, Hồ Chí Minh luôn tích cực, chủ động tiếp thu tinh hoa các
nền văn hóa để làm giàu thêm vốn tri thức, tinh thần nhân văn và sự hiểu
biết về con người. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến vấn đề con người, nhân dân, đất nước và chính Người đã dâng hiến cả
cuộc đời cho nhân dân, đất nước[20].
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, lòng yêu thương con người là giá trị bao trùm,
quán xuyến toàn bộ tư tưởng, suy nghĩ và hành động. Bản Di chúc là sự
chưng cất những suy nghĩ, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và vì
con người. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là
nhân tố trung tâm, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để
thực hiện thành công sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc cần phải có những
con người toàn diện. Đó là những người vừa có đức vừa có tài, trong đó
đức là gốc. Người từng chỉ rõ: “Đạo đức có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải
trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. Hồ Chí
Minh cho rằng, bất kỳ lúc nào, ở đâu, làm việc gì người cán bộ, đảng viên
cũng cần “phải thấm nhuần đạo đức cách mạng”. Khi Đảng trở thành Đảng
cầm quyền thì vấn đề đạo đức càng trở nên quan trọng. Đảng viên, cán bộ
phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân. Năng lực, đạo đức của người cán bộ phải được thể hiện cụ thể trong
mọi suy nghĩ, hành động; phải luôn tiên phong, sẵn sàng gánh nhận việc
khó khăn, gian khổ, phải đặt lợi ích của đất nước, tập thể lên trên hết và
phải thụ hưởng sau mọi người.
Trải qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, quan điểm của
Hồ Chí Minh về con người ngày càng phát triển, toàn diện. Ở nhiều bài
viết, Người luôn coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cánh mạng.
Tầm nhìn Hồ Chí Minh về con người không chỉ là giải phóng nhân dân
thoát khỏi xích xiềng nô lệ mà còn là việc bảo đảm cơm no, áo ấm, trang
bị tri thức và hạnh phúc thực sự cho người dân. Đó chính là giá trị đích
thực của nền độc lập, tự do mà bao thế hệ chiến sĩ cách mạng, nhân dân
đã phải hy sinh, đổ máu để giành đoạt lại. Hồ Chí Minh nhìn thấy rõ quy
luật vận động, phát triển của lịch sử và đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi theo quy luật ấy. Nhiều nhà nghiên cứu trong nước, quốc tế từng luận
bàn về phong cách an nhiên tự tại, phong độ Hồ Chí Minh. Có thể hiểu:
“Phong độ ung dung của Hồ Chí Minh là phong độ của người nhận thức
được quy luật của lịch sử, tin ở nhân dân và có nhân dân, con người biết
mình muốn gì và đi đến đâu, biết tránh thác ghềnh, biết thắng quân địch,
con người tĩnh như núi, động như biển, nắm vững nghệ thuật của điều có
thể và không ngừng mở rộng giới hạn của điều có thể”[21].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ở bất cứ thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam,
con người cũng luôn giữ vị trí trung tâm. Đào luyện con người là nhiệm vụ
trọng tâm, hàng đầu của mọi kế hoạch, chiến lược phát triển. Theo Đại
tướng Võ Nguyên Giáp: “Cái vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã nhìn thấy
ở nhân dân lực lượng quyết định thắng lợi cách mạng. Người nói: “Nước lấy
dân làm gốc. Dân chúng (công, nông) là gốc cách mạng. Có lực lượng của
dân, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Lý tưởng cách mạng
đã đi vào lòng của đông đảo nhân dân thì biến thành sức mạnh vật chất,
không máy bay, đại bác nào chống lại được… Với quan điểm dựa vào sức
mạnh của toàn dân thì có thể chiến thắng mọi kẻ thù. Người đã lãnh đạo
quân và dân cả nước làm nên chiến tranh nhân dân Việt Nam: Lấy chính
nghĩa thắng phi nghĩa, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, một nước nhỏ
mà thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ”[22]. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn thương nhớ da diết miền Nam, nhớ tới cán bộ, chiến sĩ, đồng
bào đã và đang quên mình chiến đấu, hy sinh nơi thành đồng Tổ quốc.
Người từng băn khoăn về việc chưa làm trọn trách nhiệm cách mạng với
đồng bào miền Nam và mong ước được sớm vào Nam sau ngày đất nước hoàn toàn độc lập.
Trong Di chúc, Người thể hiện niềm tin, tình cảm lớn lao với con người bởi
sự nghiệp cách mạng, chống đế quốc xâm lược, “giải phóng gông cùm nô
lệ cho đồng bào”, là “việc chung của cả dân chúng”. Mọi việc lớn nhỏ của
đất nước đều phải dựa vào dân, dân là gốc, là nhân tố tạo nên mọi thành
công. Nhìn rộng ra, “Hồ Chí Minh là con người có lòng tin không gì lay
chuyển nổi vào tương lai dân tộc và loài người, vào chủ nghĩa xã hội: Đó là
chất không bao giờ biến đổi để ứng phó linh hoạt với muôn vàn biến đổi
của một sự nghiệp đầy sóng gió”[23]. Trong nhiều bài viết, Người luôn
dành sự quan tâm đặc biệt đến những đóng góp, hy sinh thầm lặng của
nhân dân. “Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có lòng thương yêu vô hạn đối
với nhân dân. Điểm nổi bật ở người là sự tôn trọng nhân dân và niềm tin
tuyệt đối vào sức mạnh vô hạn của nhân dân. Đối với Người, cách mạng
không phải là sự ban ơn cho nhân dân, mà trước hết là sự nghiệp của nhân
dân và do nhân dân. Người nhấn mạnh tinh thần dân chủ trong sinh hoạt
chính trị. Người đã tiến hành không mệt mỏi công tác tuyên truyền và giáo
dục nhằm thức tỉnh toàn dân tộc trước sự nghiệp chung, phát huy cao nhất
sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực của hàng triệu con người”[24].
Một trong những điểm cốt lõi, nổi bật trong Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh là sự tin tưởng tuyệt đối vào con người, vào sức mạnh, phẩm giá cao
quý của con người. Con người, tự trong bản chất, là những sinh thể sáng
tạo, luôn khát khao vươn tới cái đẹp, quyền sống và chân lý tự do. Thấu
hiểu những di chứng nặng nền của chế độ thống trị thực dân và những
thảm họa do chiến tranh gây ra, Hồ Chí Minh luôn tin tưởng tuyệt đối vào
phẩm giá, tính sáng tạo và bản lĩnh của con người Việt Nam. Chính những
giá trị đó đã làm nên những phẩm cách của một Dân tộc anh hùng.
Triết lý nhân văn, tình yêu con người của Hồ Chí Minh đã vượt lên đường
biên của một quốc gia để đạt đến tầm mức, giá trị nhân bản phổ quát của
nhân loại. Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến những ngày về với “thế giới
người hiền”, Hồ Chí Minh luôn coi Việt Nam là một bộ phận của thế giới,
cách mạng Việt Nam là một thành tố gắn bó hữu cơ với cách mạng thế
giới. Vì thế, tất cả các cộng đồng dân tộc trên thế giới, dù thuộc màu da,
ngôn ngữ, địa vị kinh tế, xã hội nào... Người luôn bày tỏ sự quý mến, tôn
trọng. Là người tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống
xâm lược Mỹ, nhưng Hồ Chí Minh luôn quý trọng nhân dân Pháp, nhân dân
Mỹ và tất cả những ai yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Tư duy chính trị
vừa có sự phân lập, vừa minh định của Người và của Chính phủ Việt Nam
khiến nhân dân thế giới luôn nhận thấy những giá trị đích thực, sự chân
tình vì thế đã tin cậy, quý mến, ủng hộ mạnh mẽ cho sự nghiệp đấu tranh
chính nghĩa của Việt Nam.
Trong những lời dạy của Người cũng như trong Di chúc, Hồ Chí Minh luôn
coi trọng, đề cao phẩm giá con người, kể cả những người có sai khuyết,
lầm lạc. Hồ Chí Minh luôn tin rằng, bằng sức cảm hóa, giáo dục, bằng tấm
lòng bao dung chân thành, những con người đó hoàn toàn có thể sửa chữa
những sai lầm, khuyết điểm để trở thành những công dân có ích cho xã
hội. Hồ Chí Minh luôn chặt chẽ, nghiêm khắc với tổ chức, với từng công
việc nhưng cũng có thái độ khoan dung với những cán bộ dưới quyền,
nhân viên phục vụ khi họ mắc sai lầm, khuyết điểm[25]. Thời chống Pháp,
giữa mùa đông giá lạnh, lãnh tụ của cuộc kháng chiến đã từng cởi chiếc áo
ấm của mình cho một tù binh... Lòng nhân ái Hồ Chí Minh rộng lớn, sâu sắc
nhưng cũng rất dung dị. Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hằng ngày ai
cũng có thể thấy Bác Hồ yêu trẻ, kính già, trọng phụ nữ. Bác Hồ rất quý
trọng phụ nữ bởi theo quan điểm của Người, ở Việt Nam xây dựng chủ
nghĩa xã hội mà không có phụ nữ thì chỉ xây dựng một nửa chủ nghĩa xã
hội. Việt Nam là một đất nước rất coi trọng phụ nữ[26].
Với con người, Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng việc đào tạo cán bộ, huấn
luyện chiến sĩ; thương yêu, chăm lo cho đồng bào miền núi, các dân tộc
thiểu số vùng Trường Sơn - Tây Nguyên từng manh áo, bát cơm, hạt muối,
… Hồ Chí Minh còn là một biểu tượng sinh động về tính nêu gương. Trong
Di chúc, Người từng viết: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc,
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Thấm nhuần triết lý cổ kim, Đông
Tây, hiểu rõ hoàn cảnh kinh tế của đất nước, Người đề cao tư tưởng: Cần,
kiệm, liêm, chính và coi đó là những phẩm cách cốt yếu của người cán bộ
cách mạng. Tác giả Việt Phương viết: Không một thứ gì hơi đài các là có
thể tồn tại trong nơi ở và làm việc của Người. “Gường của Bác nằm bao giờ
cũng chỉ có chiếu trơn. Ngoài cái chiếu trơn, đầu gường có một cái gối trơn
không thêu gì cả, một cái chăn đơn và một chăn len Bác dùng mùa
rét”[27]. Nhà nghiên cứu Ấn Độ T.N.Kaul cũng có chung nhận xét: “Khi tôi
đến thăm Người lần đầu năm 1957 tại cơ quan của Người ở Hà Nội, tôi rất
ngạc nhiên về cách ăn mặc giải dị của Người. Người mặc bộ đồ bằng vải ka
ki, chân đi dép cao su. Người đưa tôi đi thăm căn nhà mà Người đang ở. Đó
là một căn nhà gỗ nhỏ bé, tiện nghi sơ sài, đầy cây xanh. Mặc dù giữ chức
vụ cao, Hồ Chí Minh vẫn duy trì một nếp sống giản dị, làm cho Người có
điều kiện gần gũi với quần chúng và quần chúng cũng đồng cảm với Người”[28].
Tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính được thể hiện nhất quán, sâu sắc trong
toàn bộ cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh và có sức lan tỏa mạnh mẽ
đến nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên. Lúc sắp qua đời, là người lãnh đạo
Đảng và nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn muốn tiết kiệm thời gian, tiền
bạc của nhân dân. Người muốn được thực hiện thể thức hỏa táng truyền
thống để được về với nhân dân ba miền Bắc - Trung - Nam; được về với
thiên nhiên trên những ngọn đồi thoáng mát, tiếp tục góp phần phát triển
kinh tế, bảo vệ thế giới tự nhiên, hệ sinh thái và được xum vầy với các
tầng lớp nhân dân, với các cụ cao tuổi. Con người và thiên nhiên là hai
người bạn đời luôn gần gũi, gắn bó mật thiết với Người.
Trong Di chúc, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người hòa quyện với khái
niệm nhân dân, đất nước; với các thành phần xã hội, đồng bào miền xuôi,
miền ngược; với các cụ già, con trẻ, thanh niên, phụ nữ; với nhân dân châu
Á và thế giới... Ở đó, mỗi con người là một nhân cách, phẩm giá. Nếu tin
tưởng giao nhiệm vụ cho họ, biết đoàn kết, hợp tụ họ lại, khích lệ tinh thần
và năng lực của họ thì tất cả mọi cá nhân trong cộng đồng dân tộc ấy sẽ
dốc lòng, dốc sức đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đi đến thành công.
[17] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4 (1945-1946), Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2011, tr.1.
[18] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4 (1945-1946), Sđd, tr.2.
[19] Hà Minh Đức: Hồ Chí Minh – Anh hùng dân tộc và tầm thời đại của
Người, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2018, tr.271.
[20] Trả lời phóng viên Mácta Rôhát (Cu Ba) ngày 14-7-1969, Người từng
nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 15 (1966-1969), Sđd, tr.674-677.
[21] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Con người, Sđd, tr.65.
[22] Võ Nguyên Giáp: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.15.
[23] Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh - Con người, Sđd, tr.64.
[24] Nguyễn Văn Linh: Lời chào mừng tại Hội thảo Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí
Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.10.
[25] Vũ Kỳ: Bác Hồ viết di chúc (Thế Kỷ ghi), Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 1999, tr.65.
[26] Đại tướng cho rằng, việc tôn trọng phụ nữ là một trong những tiêu chí
căn bản thể hiện tư duy mới và khác biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh so với
quan niệm Nho giáo truyền thống. Võ Nguyên Giáp: Phát biểu tổng kết Hội
thảo Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa lớn, Sđd, tr.244-245.
[27] Việt Phương: Một số mẩu chuyện về đời sống hàng ngày của Bác Hồ,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2000, tr.18-19.
[28] T.N. Kaul: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà ái quốc Việt Nam vĩ đại, người
bạn lớn của nhân dân Ấn Độ và toàn nhân loại, trong Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Sđd, tr.24.