Tư tưởng Hồ Chí Minh Quan điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do – Hạnh phúc qua câu nói “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
13 trang 1 năm trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Tư tưởng Hồ Chí Minh Quan điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do – Hạnh phúc qua câu nói “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

81 41 lượt tải Tải xuống
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Phần Nội dung
I, Quan điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập Tự do Hạnh phúc qua câu
nói: “Nếu nước độc lập dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng nghĩa gì”
1, Khái niệm chung
2, Chân thời đại qua câu nói: “Nếu nước độc lập dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa gì”
2.1, Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng sản tiền đề của
hạnh phúc tự do
2.2, Hạnh phúc, tự do thước đo giá trị của độc lập dân tộc
II, Ý nghĩa của quan điểm trên với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện
nay
Phần Kết luận
1
2
2
2
2
2
4
7
12
1
LỜI MỞ ĐẦU
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân. Nay phải từ biệt thế giới này, tôi không điều phải hối hận, chỉ
tiếc tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Đó những lời
đúc kết cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc năm 1969, chỉ vài
tháng trước ngày Bác đi xa. Người đã dâng hiến trọn vẹn cả cuộc đời sự nghiệp
mình cho dân tộc Việt Nam, hiện thân của khát vọng mãnh liệt giải phóng dân tộc,
phấn đấu đến cùng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Ðó
không chỉ mong muốn giải phóng còn mục tiêu phát triển, đưa dân tộc ta
thoát khỏi tình cảnh lệ, nước mất nhà tan, bị đọa đầy áp bức dưới ách thống trị của
đế quốc, thực dân, giành lại độc lập chủ quyền xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân
dân trở thành người chủ, cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Ước đó đã từng
bước được hiện thực hóa thông qua thành công của Cách mạng Tháng Tám dẫn đến
sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ
nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc chủ nghĩa hội. Tuy nhiên, thời điểm
ấy, đã xuất hiện một bộ phận nhỏ cán bộ tưởng công thần, hách dịch, vun vén
lợi ích nhân, thiếu sâu sát, quan tâm đến đời sống của quần chúng nhân dân. Trước
hiện tượng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm phát hiện Người viết bài đấu tranh, lên
án gay gắt; đồng thời nghiêm khắc chấn chỉnh. Nổi bật trong đó câu nói mang giá
trị chân được Bác nêu lên qua “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện
làng”, đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-10-1945: “Nếu nước độc lập dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa gì”.
Cho đến tận ngày hôm nay, đã gần một thế kỷ trôi qua, nhưng những lời
dạy của Bác vẫn nguyên vẹn ý nghĩa giá trị thực tiễn sâu sắc. Dưới sự soi lối, chỉ
đường của tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo tài tình của Đảng, cùng đường lối độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội, dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập
tiến lên xây dựng chủ nghĩa hội với những thành tựu to lớn.
Bài nghiên cứu dưới đây sẽ làm những luận điểm trong câu nói trên
của Bác, cũng như liên hệ với sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay.
2
PHẦN NỘI DUNG
I, Quan điểm của H Chí Minh về Độc lập Tự do Hạnh phúc qua câu
nói: “Nếu nước độc lập dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng nghĩa gì”
1, Khái niệm chung
Độc lập không còn khái niệm xa lạ đối với tất cả chúng ta. Đó quyền bất
khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc bởi chính người dân sinh
sống đó, nghĩa chủ quyền tối cao. Độc lập còn thể hiểu “sự không phụ
thuộc” từ nhân, tập thể, hội, quốc gia hay dân tộc nào vào nhân, tập thể,
hội, quốc gia hay dân tộc khác.
Độc lập thể tình trạng ban đầu của một quốc mới xuất hiện, nhưng
thường một sự giải phóng từ sự thống trị. Độc lập cũng thể nói theo nghĩa phủ
định: tình trạng không bị điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ
nghĩa thực dân, sự bành trướng hay chủ nghĩa đế quốc. Độc lập thể giành được nhờ
việc chống lại thực dân hóa, chống lại sự chia cắt.
Tự do khái niệm dùng để miêu tả tình trạng của một nhân thể hành
động theo đúng ý chí, nguyện vọng của chính mình không bị kiểm soát bởi một
thế lực khác.
Đứng trên cương vị một đất nước, độc lập tự do những phạm trù nền
tảng để hình thành nên một quốc gia đó con người quyền được sống phát
triển.
Cùng với đó, hạnh phúc được định nghĩa một trạng thái cảm xúc của con
người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu ợng. Đây một cảm
xúc bậc cao, được cho rằng chỉ loài người thường chịu tác động của trí.
Vậy nên thể nói, hạnh phúc chính đầu ra của quá trình nỗ lực phấn đấu của con
người hướng tới sự thỏa mãn.
2, Chân thời đại qua câu nói: “Nếu nước độc lập dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng nghĩa gì”
2.1, Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng sản tiền đề của hạnh
phúc tự do
3
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công cửa biển Đà
Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của thực dân phương Tây Việt Nam, uy hiếp cửa ngõ
phía Nam của kinh đô Huế, đe dọa sự tồn vong của triều đình nhà Nguyễn. Dưới sức
ép của thực dân Pháp, triều đình Huế buộc phải với chúng một loạt các hiệp ước,
đặc biệt hiệp ước ngày 6-6-1884 (còn gọi Hiệp ước Patenôtre) biến Việt Nam
căn bản trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau.
Trước sự chống cực yếu ớt thỏa hiệp của phần lớn bộ máy quan lại nhà Nguyễn,
các cuộc khởi nghĩa giành lại chủ quyền đã sớm nổ ra. Tuy nhiên, do chưa một
đường lối kháng chiến ràng, cũng như hệ tưởng không thống nhất khiến các
phong trào yêu nước thời kỳ bấy giờ không tránh khỏi sự thất bại bị thực dân Pháp
thẳng tay đàn áp trong biển máu.
Đau xót khi phải chứng kiến nỗi thống khổ, cảnh lầm than của nhân dân dưới
ách thống trị của thực dân Pháp, cũng như nhiều phu thanh niên trí thức yêu
nước lúc bấy giờ, Nguyễn Tất Thành đã sớm ý chí đánh đuổi kẻ thù, giải phóng
đồng o. Mặc rất khâm phục các phu dũng cảm tìm đường đấu tranh cứu dân,
cứu nước nhưng người thanh niên Nguyễn Tất Thành cũng sớm nhận ra những hạn
chế trong con đường của các bậc tiền bối. Người đã từng nhận xét rằng: Cụ Phan Chu
Trinh u cầu thực dân Pháp thực hiện cải lương, việc này “chẳng khác nào xin giặc
rủ lòng thương”; Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp ta đuổi Pháp cũng chẳng khác
“đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; Cụ Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, đã trực
tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng còn nặng cốt cách phong kiến, con đường theo
lập trường phong kiến thì đã hết thời… Để không lặp lại thất bại của những người đi
trước một điều khó khăn nhưng tìm ra một con đường mới phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử đ dân tộc giành được độc lập, tự do một điều còn khó khăn
hơn nhiều lần. Cuối cùng, sau một thời gian dài trăn trở, ngày 5/6/1911, trên con tàu
Amiral Latouche Tréville, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình
30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Với một sự nhạy cảm đặc biệt, Người không chọn đi sang Nhật hay tìm về
các nước châu Á Người đặt chân đến Pháp, đến tận đất nước đang cai trị mình, nơi
đang sự phát triển vượt bậc cả về kinh tế, văn hóa, chính trị để tìm hiểu xem người
ta làm như thế nào rồi trở về cứu giúp đồng bào. Cuộc hành trình của Nguyễn Tất
Thành tiếp tục đi qua nhiều châu lục khác cuối đến với chủ nghĩa Mác - Lênin dưới
ánh sáng của Cách mạng tháng Mười. Từ đây, Người đã sớm nhận thức được xu thế
phát triển tất yếu của lịch sử khám phá ra chân lý: “Muốn cứu ớc giải phóng
dân tộc, không con đường nào khác ngoài con đường cách mạng sản”, “Chỉ
chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc b áp bức
những người lao động trên thế giới khỏi ách lệ”.
4
Bằng tưởng đó, Người đã xác định được mục tiêu tiên quyết nhất phải
giành được độc lập, trong hoàn cảnh đó, độc lập cái bất biến số một hàng đầu”.
Phương châm ấy đã được Người khẳng định một cách đanh thép chắc chắn trước
sự đe dọa của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp: Cảm ơn Ngài! Cái tôi cần nhất trên
đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập… Kính ngài lại. Tôi xin
phép về”. Không dừng lại đó, ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập,
trong bản Chính cương văn tắt do Người soạn thảo đã làm sáng tỏ mối quan hệ hữu
giữa giải phóng dân tộc với con đường xây dựng chủ nghĩa hội, đặt nền móng cho
sự chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng hội chủ
nghĩa nước ta. Người khằng định: chỉ hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc
mới đủ điều kiện để tiến lên chủ nghĩa hội, chỉ cách mạng hội chủ
nghĩa mới giữa vững những thành quả do sự nghiệp giải phóng dân tộc mang lại. Từ
quan điểm trên, chúng ta thể thấy, Bác rất đề cao độc lập, độc lập thì mới tự
do, tự do gắn liền với độc lập chỉ khi đó người dân mới được hưởng hạnh phúc.
Tuy nhiên, khác với những quan điểm trước đó, độc lập dân tộc trong
tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới mẻ. Người không chấp nhận độc lập theo con
đường phong kiến, sản, hay độc lập giả hiệu, “bánh vẽ” hướng tới độc lập dân
tộc theo con đường cách mạng sản để làm tiền đề hướng tới hạnh phúc tự do.
2.2, Hạnh phúc, tự do thước đo giá trị của độc lập dân tộc
Trong điều kiện một nước thuộc địa như Việt Nam thì mục tiêu trước hết
phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, tuy nhiên, quan điểm của Hồ Chí Minh cho thấy
sự tiến bộ vượt bậc trong vấn đề tưởng khi không chỉ dừng lại mục tiêu đánh đuổi
kẻ thù xâm lược còn hướng tới xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Người đã nhiều lần khẳng định “Nếu nước độc lập dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì” hay “Dân chỉ biết giá trị của tự
do, của độc lập khi dân được ăn no mặc đủ”. Những quyền lợi chính đáng y đã
xuất hiện trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và một lần nữa được Chủ
tịch Hồ Chí Minh trích dẫn trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta năm 1945: “Tất
cả mọi người đều sinh ra quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, quyền được sống, quyền tự do
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đồng thời người cũng nhấn mạnh: muốn hạnh phúc,
tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa hội, chỉ trong chế độ chủ
nghĩa hội thì mỗi người mới điều kiện để nâng cao đời sống, phút huy năng lực
của mình phát triển toàn diện.
Việc lựa chọn hình chủ nghĩa hội xuất phát từ thực tiễn khách quan,
hiện thực vận động của lịch sử với đặc điểm nước ta một nước thuộc địa, nền nông
5
nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển tiến thẳng lên chủ nghĩa hội, bỏ
qua giai đoạn bản chủ nghĩa. Vậy nên, việc ban hành các chính sách không thể dựa
trên suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý chí phải dựa trên sở thực
tiễn của nước ta cũng như đặc điểm xu thế của thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đích đến cho chủ nghĩa xã hội: “Thay đổi cả
hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho hội không còn người bóc lột người, không
còn đói rét, mọi người đều được ấm no, hạnh phúc”. Do đó, mục tiêu phát triển đời
sống nhân dân trong tưởng Hồ Chí Minh được xác định trên cả hai phương diện:
đời sống vật chất đời sống tinh thần.
Trước hết, Người đã nhận định tăng trưởng kinh tế nền tảng cho chủ nghĩa
hội phát triển, mục đích của chủ nghĩa hội: “Mục đích của chủ nghĩa hội
không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. Bên cạnh đó, Người cũng không
quên nhấn mạnh: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa hội trước hết nhằm
làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người ng ăn việc
làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. Không chỉ vậy, “chủ nghĩa hội còn
làm sao cho nhân dân đủ ăn, đ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học,
ốm đau thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không
tốt dần dần được xóa bỏ”. thể thấy, với quan điểm này, ch nghĩa hội chính là
chìa khóa để giải phóng con người, hướng tới tạo nên một hội bình đẳng, không
còn áp bức bóc lột. đó, ai cũng phải lao động quyền lao động, người làm ít thì
hưởng ít, người làm nhiều thì hưởng nhiều, hoàn toàn công bằng. Tóm lại, vấn đề
chủ nghĩa hội hướng tới giải quyết làm sao cho “dân giàu nước mạnh”.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao thì
chưa thể gọi chủ nghĩa hội, mà nâng cao đời sống vật chất luôn phải đi cùng với
việc chăm lo cho đời sống tinh thần của người dân. Đặc biệt, trong hoàn cảnh nước ta
đã phải chịu sự đô hộ kéo dài của các thế lực ngoại xâm, bị chúng “kìm hãm trong
vòng ngu muội” để dễ bề cai trị thì lĩnh vực văn hóa, tinh thần phải đi trước, định
hướng, soi đường, thúc đẩy kinh tế - hội phát triển. Vậy nên, từ rất sớm Ch tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ ra động lực quan trọng nhất trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
hội con người; cần phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bởi chủ nghĩa
hội công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng
cầm quyền nhưng dân chủ để dân làm chủ. “Công việc đổi mới, xây dựng
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc công việc của dân” ; “Chủ
nghĩa hội nhằm nâng cao đời sống vật chất văn hóa của nhân dân do nhân
dân tự y dựng lấy”. Chỉ như vậy mới thể đảm bảo được quyền lợi phát huy
hết sự sáng tạo của con người. Bên cạnh đó, Bác cũng thể hiện lập trường của mình
trong việc thực hiện công bằng hội, không thể mục tiêu phát triển kinh tế
6
chấp nhận những bất công trong hội. Ngay cả trong những ngày đầu xây dựng chủ
nghĩa hội, mặc gặp phải khó khăn trăm bề nhưng Người vẫn không ngừng nhấn
mạnh: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân
không n”. Vậy nên, công bằng hội động lực quan trọng để phát huy sức mạnh
con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội, đồng thời khẳng định: chúng ta
xây dựng thành công hội mới hay không ph thuộc rất lớn vào việc công bằng
hội được nhận thức thực hiện như thế nào.
Để hiện thực hóa mục tiêu cao cả đó, ngay từ những ngày đầu chính quyền
mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã những biện pháp cấp thiết để xây
dựng lại bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương tới địa phương. Trên
phương diện chính trị, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, đồng bào ta được tự tay cầm
phiếu đi bầu cử, tự do lựa chọn người đứng đầu, đại diện cho mình quyết định vận
mệnh đất nước. lĩnh vực kinh tế - hội, ngay sau khi tuyên bố độc lập, đất nước ta
đã phải đối mặt với vàn khó khăn, chính quyền cách mạng còn non trẻ, ngân khố
quốc gia cạn kiệt, đời sống nhân dân khổ sở trong khi “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc
ngoại xâm” vẫn tiếp tục hoành hành. Trước tình thế đó, Bác đã ngay lập tức đề ra các
giải pháp cấp bách, các chương trình tương trợ để đồng bào cùng nhau vượt qua khó
khăn. Nổi bật trong đó một loạt các phong trào “Nhường cơm sẻ áo”, “Hũ gạo cứu
đói”, “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập” đến mở các lớp bình dân học vụ để xóa chữ.
Trong những phong trào đó, Bác không chỉ người khởi xướng, đề xuất còn
gương mẫu thực hiện với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa để san s gạo
cho người nghèo. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, trên tinh thần “tình làng
nghĩa xóm”, hoạn nạn nhau, chỉ sau một thời gian ngắn số lương thực cứu đói thu
được khá nhiều, giải quyết kịp thời nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân. Song
song với công tác cứu đói, chính quyền cách mạng còn phát động phong trào tăng gia
sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc. Kết quả sản lượng hoa màu đã tăng gấp bốn
lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong 5 tháng từ tháng 11-1945 đến tháng 5-1946
đã đạt 614.000 tấn, hoàn toàn thể đắp được số thiếu hụt của vụ a năm 1945.
Bằng chứng nhất dân không đói, giá thóc gạo không tăng lại giảm. Giặc đói
đã bị đánh lui. Bên cạnh đó, phong trào “Bình dân học vụ” cũng ra rất sôi nổi đặt
được những thành tựu đáng kể, góp phần giúp không ít người dân thoát khỏi nạn
chữ.
Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, các quan
đầu não của ta phải di chuyển lên chiến khu Việt Bắc để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ
cách mạng. Tại đây, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các vị lãnh đạo vẫn rất sát sao,
quan tâm đến người dân. Người đã nhiều lần trực tiếp ra chiến trường chỉ huy, động
viên lực lượng chiến tiền tuyến, đồng thời cử cán bộ về các địa phương để giúp
7
nhân dân đảm bảo quá trình sản xuất, dồn sức viện tr cho tuyến đầu chống giặc.
cuối cùng, sau 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp, từ một đất nước nghèo nàn, kiệt
quệ, dân tộc ta đã giành được chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu.
Sau thắng lợi đó, chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta bước
vào một giai đoạn mới, miền Bắc quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa hội, tăng gia
sản xuất để chia viện cho miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc xâm lược
chính quyền Sài Gòn. thời kỳ này, chính phủ hết sức quan tâm đến vẫn đề đời sống,
sản xuất, chiến đấu của nhân dân. Nhiều chủ trương chính sách được thực thi nhằm
giải quyết vấn đề ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày ruộng”, “Ruộng đất
về tay dân cày”. Để giúp củng cố niềm tin của người dân cũng như khuyến khích
phong trào sản xuất, mặc bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn về từng vùng
quê để thăm hỏi, động viên con nông dân tăng gia chiến đấu. Vậy nên, thể
nhận thấy, trong bất cứ khẩu hiệu hay phòng trào nào, Bác cũng thể hiện vai trò
trách nhiệm của người tiên phòng đi đầu, làm gương cho cán bộ nhân dân noi theo.
II, Ý nghĩa của quan điểm trên với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện
nay
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới, tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta
vận dụng sáng tạo, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh”, đồng thời ra sức phát triển kinh tế, văn hóa - hội, giữ vững độc lập chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công ch nghĩa hội, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
tiến bộ hội.
Sau nhiều năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn
diện ý nghĩa lịch sử, thay đổi đời sống mọi mặt của người dân.
3.1, Về chính trị
Trên phương diện chính trị, nước ta vẫn đang vững bước xây dựng đất nước
theo con đường hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, các cán bộ lãnh
đạo của Đảng tiếp tục đề cao hướng đến những chính sách chủ trương đúng đắn, thiết
thực sát sao đến đời sống của người dân.
Đối với các vấn đề liên quan đến chủ quyền dân tộc, Việt Nam luôn thể hiện
sự kiên trì kiên định với lập trường nhất quán về việc giải quyết các tranh chấp trên
biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên sở luật pháp quốc tế; kiên quyết đấu tranh
8
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán các lợi ích hợp pháp, chính
đáng của mình.
Với các vấn đề quốc tế, Việt Nam luôn thể hiện một thành viên chủ động,
tích cực, trách nhiệm cao sẵn sàng hợp tác, làm bạn với các dân tộc khác đúng
như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào
nhiều tổ chức quan trọng như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp
quốc… đang trở thành nước vị thế vai trò ngày càng cao khu vực, được
cộng đồng quốc tế tôn trọng.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các quan quan trọng
của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản
Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp
quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN Chủ tịch
AIPA, trong bối cảnh cùng khó khăn của đại dịch COVID-19 những thiệt hại
nặng nề do thiên tai bão lũ… song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực trên thế giới.
3.2, Về kinh tế
Trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa đã mang lại nhiều thành tựu cho nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta
từng bước thoát khỏi tình trạng bao cấp khủng hoảng. Quy mô, trình độ nền kinh tế
được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt
khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất tinh thần cũng cải
thiện rệt, bình quân thu nhập đầu người tăng lên đáng kể. Không chỉ vậy, những nỗ
lực đổi mới đã giúp cho môi trường đầu liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút
ngày càng nhiều hơn vốn đầu cả trong ngoài ớc cho phát triển. Mặc năm
2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19 nhưng tốc độ tăng
GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Đặc biệt, sự thay đổi lớn nhất phải kể đến, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở
thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất
khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ sản
phẩm từ gỗ… luôn duy trì mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng bước tiến
lớn. Tất cả những chuyển biến tích cực đó không chỉ đảm bảo cho người dân cái ăn,
cái mặc còn tạo ra rất nhiều công ăn việc làm, góp phần nâng cao đời sống cho
người lao động.
9
3.3, Về văn hóa - hội
Trên lĩnh vực văn hóa - hội, thực hiện đúng theo tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta luôn đảm bảo việc tăng trưởng kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa,
xây dựng con người, tiến bộ công bằng hội, bảo vệ tài nguyên môi trường.
đó, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ công bằng hội
ngay trong từng bước phát triển. Nhiều chuyển biến ch cực đã diễn ra, từ chỗ N
nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang
thiết lập chế, chính sách để các thành phần kinh tế người lao động đều thể
chủ động tham gia tìm kiếm việc làm; từ chỗ không chấp nhận sự phân hóa giàu-
nghèo đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói
giảm nghèo. Đặc biệt, công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành
tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% (1993) xuống 22% năm
2005; 9,45% (2010), 7% (2015) còn dưới 3% (2020).
Đi cùng với đó, công tác giáo dục cũng liên tục được chú trọng. Quy mô,
sở vật chất chất lượng đào tạo từng bước được nâng cao, đáp ứng yêu cầu về
nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao
trong khu vực, trong đó, tỷ lệ học sinh đi học hoàn thành chương trình tiểu học sau
5 năm đạt 92,08%, đứng top đầu trong khối ASEAN.
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh hội luôn được Đảng Nhà nước
quan tâm thực hiện. Trong 25 năm qua, ngành bảo hiểm hội đã giải quyết cho hơn
112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm hội. Ngoài ra, các phong trào
“Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ nguồn” do các cấp
các đoàn thể, các tổ chức hội, các doanh nghiệp toàn thể nhân dân thực hiện
hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, đóng góp đáng kể vào nâng cao sách an sinh hội cho nhân dân, nhất
người nghèo, vùng khó khăn.
Không chỉ vậy, những năm gần đây chứng kiến sự phát triển đáng kể trong
năng lực của hệ thống các sở y tế. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch
vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu
tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Cho đến hiện nay,
nhiều bệnh viện lớn trên cả nước đã làm chủ được các kỹ thuật công nghệ cao mang
tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận…; đồng thời thể hiện sự ứng phó nhanh
chóng trước nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó COVID-19.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên kết quả của quá trình phấn
đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta dưới sự soi đường của
tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, nước ta vững bước trên con đường xây dựng chủ
10
nghĩa hội, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ngày càng phát
triển về cả vật chất lẫn tinh thần. Đây chính tiền đề quan trọng, tạo ra tiềm lực, sức
mạnh, niềm tin vào sự phát triển nhanh bền vững của đất nước trong tương lai.
Bên cạnh những thành công đã đạt được kể trên, chúng ta vẫn thừa nhận một
số mặt hạn chế cần khắc phục kịp thời.
- Về chính trị, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm
coi trọng công tác y dựng Đảng. Tuy nhiên, việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng
Đảng chưa đạt được một số mục tiêu đề ra. Hiện nay, vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên rơi vào tình trạng suy thoái về tưởng chính trị đạo đức, lối sống,
gây nên hiện tượng quan liêu, tham nhũng, công thần, kiêu ngạo,... Không chỉ vậy,
những hiện tượng như “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thể gây ra nguy
hiểm khôn lường, xa rời mục tiêu, đi ngược lại với tưởng, sự nghiệp cách mạng của
Đảng dân tộc.
Đây những mặt hạn chế, cần phải được chấn chỉnh kịp thời. Muốn
vậy, một mặt, Đảng ta phải làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý, nhiệm vụ xây dựng
phát triển kinh tế - hội, bảo vệ Tổ quốc; mặt khác, phải tiếp tục đổi mới duy, đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu luận về chủ nghĩa hội, về đổi mới xây dựng
chủ nghĩa hội Việt Nam. Đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng trong
việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tưởng Hồ Chí Minh, học tập luận chính trị,
xiết chặt kỷ luật, kỷ cương trong dạy học luận tại các trường chính trị, các học viện,
trường đại học, cao đẳng trên cả nước.
- Về kinh tế, vào năm 2021, đặc biệt trong 6 tháng vừa qua, nước ta chứng
kiến sự bùng nổ lây lan của đại dịch COVID 19 trên khắp cả nước, gây thiệt hại nặng
nề đến nền kinh tế. Đảng Nhà nước đã liên tục thảo luận đưa ra các phương án để
hỗ trợ người dân doanh nghiệp vượt qua tình trạng khó khăn này. Tuy nhiên, một số
địa phương, nguồn ngân sách hỗ trợ của Chính phủ lại chưa được đưa đến tay người dân
một cách kịp thời. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều hộ gia đình phải vật lộn để xoay sở
cho những nhu cầu thiết yếu hàng ngày, nhiều doanh nghiệp phải tuyên bố dừng hoạt
động hay thậm chí giải thể. Theo số liệu thống kê, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị
trường trong 8 tháng đầu năm 2021 85.508 doanh nghiệp, tăng 24,2% so với cùng kỳ
năm 2020. Đây một tín đáng buồn của nền kinh tế khi mà dịch bệnh vẫn tiếp tục xu
hướng diễn biến phức tạp.
Để khắc phục tình trạng này, trước hết, chúng ta cần tập trung phòng chống,
đẩy lùi dịch bệnh một cách hiệu quả, đẩy nhanh công tác tiêm phòng vaccine trên cả
nước để th đạt được miễn dịch cộng đồng trong thời gian sớm nhất. Bên cạnh đó, các
cấp chính quyền cần ưu tiên đảm bảo cuộc sống cho người dân lao động bằng các biện
pháp hỗ trợ kịp thời và thiết thực, đặc biệt tài chính lương thực với mục tiêu “không
11
để ai bị bỏ lại phía sau”. Đi cùng với đó, các doanh nghiệp cũng rất cần nhận được s
quan tâm giữa hoàn cảnh khó khăn này. Những gói hỗ trợ nếu đến tay doanh nghiệp kịp
thời sẽ trở nên cùng giá trị, giúp họ tiếp tục duy trì được hoạt động sản xuất, đảm bảo
việc làm cho công nhân viên m được hướng đi phù hợp trong tương lai.
- Về vấn đề văn hóa - hội, với sự phát triển của hệ thống internet mạng
hội, việc chia sẻ lan truyền thông tin trở nên rất dễ dàng. Tuy nhiên, do chưa
chế kiểm soát chặt chẽ cũng như những hình thức xử phạt cụ thể, hiện tượng tin giả, tin
rác, nói xấu, xuyên tạc liên quan đến các vấn đề chính trị vẫn còn xuất hiện một cách
công khai tràn lan trên các diễn đàn. Điều này để lại hậu quả khó lường, tác động đến
mọi mặt trong cuộc sống. Lợi dụng kẽ hở của Luật an ninh mạng, các đối tượng phản
động thường xuyên chia sẻ những thông tin xuyên tạc, gây kích động về những vấn đề
xảy ra trong nước dưới vỏ bọc thể hiện tình yêu nước. Hậu quả của hành động này
gây ra sự chia rẽ giữa những người dân, sự mất niềm tin vào chính quyền. Bên cạnh đó,
một bộ phận giới trẻ cũng đang tưởng lệch lạc về vấn đề độc lập chủ quyền dân
tộc, đưa ra những quan điểm sai trái và đặt niềm tin quáng vào thần tượng.
Do những vấn đề trên thuộc về lĩnh vực tưởng, vậy nên, để giải quyết
một cách triệt để nhất thì chúng ta cần chú trọng tăng cường công tác tuyên truyền
giáo dục, đặc biệt đối với giới trẻ, nhằm nâng cao lòng yêu nước dựa trên sở nhận
thức tiếp thu thông tin chính xác. Bên cạnh đó, các quan thẩm quyền cũng cần
nhanh chóng ban hành các quy định, bộ luật cụ thể để ngăn chặn tình trạng tin giả, tin
độc lan truyền, mang đến một không gian mạng an toàn lành mạnh cho mọi người dân.
12
PHẦN KẾT LUẬN
“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” dòng tiêu ngữ luôn song hành cùng
quốc hiệu Việt Nam trong suốt 76 năm, từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Cộng hòa
hội chủ nghĩa Việt Nam, vẫn không hề thay đổi nội dung hình thức trình bày,
chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn về cả bản chất ý nghĩa lịch sử
thiêng liêng. Sáu chữ tuy đơn giản nhưng lại “ham muốn tột bậc” của người khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi đó "ba chính
sách", Người đã phát biểu rằng: "Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách:
Dân sinh, Dân quyền Dân tộc. Chúng ta không mong hơn nhưng chúng ta không
chịu kém". Cho đến tận ngày nay, dưới ánh sáng của tưởng Hồ Chí Minh, lớp
lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước trên con đường Người đã chọn. Đó
con đường của độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, con đường mang tầm nhìn vượt
thời gian đưa đất nước dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công
cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nước kém phát triển,
từng bước tiến lên “sánh vai với các cường quốc năm châu”, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
| 1/13

Preview text:

MỤC LỤC Trang Lời mở đầu 1 Phần Nội dung 2
I, Quan điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do – Hạnh phúc qua câu 2
nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” 1, Khái niệm chung 2
2, Chân lý thời đại qua câu nói: “Nếu nước độc lập mà dân không 2
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”
2.1, Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của 2 hạnh phúc tự do
2.2, Hạnh phúc, tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc 4
II, Ý nghĩa của quan điểm trên với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện 7 nay Phần Kết luận 12 LỜI MỞ ĐẦU
“Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ
tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Đó là những lời
đúc kết cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc năm 1969, chỉ vài
tháng trước ngày Bác đi xa. Người đã dâng hiến trọn vẹn cả cuộc đời và sự nghiệp
mình cho dân tộc Việt Nam, là hiện thân của khát vọng mãnh liệt giải phóng dân tộc,
phấn đấu đến cùng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Ðó
không chỉ là mong muốn giải phóng mà còn là mục tiêu phát triển, đưa dân tộc ta
thoát khỏi tình cảnh nô lệ, nước mất nhà tan, bị đọa đầy áp bức dưới ách thống trị của
đế quốc, thực dân, giành lại độc lập chủ quyền và xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân
dân trở thành người chủ, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Ước mơ đó đã từng
bước được hiện thực hóa thông qua thành công của Cách mạng Tháng Tám dẫn đến
sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ
nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ở thời điểm
ấy, đã xuất hiện một bộ phận nhỏ cán bộ có tư tưởng công thần, hách dịch, vun vén
lợi ích cá nhân, thiếu sâu sát, quan tâm đến đời sống của quần chúng nhân dân. Trước
hiện tượng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm phát hiện và Người viết bài đấu tranh, lên
án gay gắt; đồng thời nghiêm khắc chấn chỉnh. Nổi bật trong đó là câu nói mang giá
trị chân lý được Bác nêu lên qua “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng”, đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-10-1945: “Nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Cho đến tận ngày hôm nay, đã gần một thế kỷ trôi qua, nhưng những lời
dạy của Bác vẫn nguyên vẹn ý nghĩa và giá trị thực tiễn sâu sắc. Dưới sự soi lối, chỉ
đường của tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo tài tình của Đảng, cùng đường lối độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập và
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội với những thành tựu to lớn.
Bài nghiên cứu dưới đây sẽ làm rõ những luận điểm trong câu nói trên
của Bác, cũng như liên hệ với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. 1 PHẦN NỘI DUNG
I, Quan điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do – Hạnh phúc qua câu
nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì” 1, Khái niệm chung
Độc lập không còn là khái niệm xa lạ đối với tất cả chúng ta. Đó là quyền bất
khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc bởi chính người dân sinh
sống ở đó, có nghĩa có chủ quyền tối cao. Độc lập còn có thể hiểu là “sự không phụ
thuộc” từ cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc nào vào cá nhân, tập thể, xã
hội, quốc gia hay dân tộc khác.
Độc lập có thể là tình trạng ban đầu của một quốc mới xuất hiện, nhưng nó
thường là một sự giải phóng từ sự thống trị. Độc lập cũng có thể nói theo nghĩa phủ
định: là tình trạng không bị điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ
nghĩa thực dân, sự bành trướng hay chủ nghĩa đế quốc. Độc lập có thể giành được nhờ
việc chống lại thực dân hóa, chống lại sự chia cắt.
Tự do là khái niệm dùng để miêu tả tình trạng của một cá nhân có thể hành
động theo đúng ý chí, nguyện vọng của chính mình mà không bị kiểm soát bởi một thế lực khác.
Đứng trên cương vị là một đất nước, độc lập và tự do là những phạm trù nền
tảng để hình thành nên một quốc gia mà ở đó con người có quyền được sống và phát triển.
Cùng với đó, hạnh phúc được định nghĩa là một trạng thái cảm xúc của con
người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Đây là một cảm
xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người và thường chịu tác động của lý trí.
Vậy nên có thể nói, hạnh phúc chính là đầu ra của quá trình nỗ lực phấn đấu của con
người hướng tới sự thỏa mãn.
2, Chân lý thời đại qua câu nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”
2.1, Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh phúc tự do 2
Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công cửa biển Đà
Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của thực dân phương Tây ở Việt Nam, uy hiếp cửa ngõ
phía Nam của kinh đô Huế, đe dọa sự tồn vong của triều đình nhà Nguyễn. Dưới sức
ép của thực dân Pháp, triều đình Huế buộc phải ký với chúng một loạt các hiệp ước,
đặc biệt là hiệp ước ký ngày 6-6-1884 (còn gọi là Hiệp ước Patenôtre) biến Việt Nam
căn bản trở thành thuộc địa của thực dân Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau.
Trước sự chống cực yếu ớt và thỏa hiệp của phần lớn bộ máy quan lại nhà Nguyễn,
các cuộc khởi nghĩa giành lại chủ quyền đã sớm nổ ra. Tuy nhiên, do chưa có một
đường lối kháng chiến rõ ràng, cũng như hệ tư tưởng không thống nhất khiến các
phong trào yêu nước thời kỳ bấy giờ không tránh khỏi sự thất bại và bị thực dân Pháp
thẳng tay đàn áp trong biển máu.
Đau xót khi phải chứng kiến nỗi thống khổ, cảnh lầm than của nhân dân dưới
ách thống trị của thực dân Pháp, cũng như nhiều sĩ phu và thanh niên trí thức yêu
nước lúc bấy giờ, Nguyễn Tất Thành đã sớm có ý chí đánh đuổi kẻ thù, giải phóng
đồng bào. Mặc dù rất khâm phục các sĩ phu dũng cảm tìm đường đấu tranh cứu dân,
cứu nước nhưng người thanh niên Nguyễn Tất Thành cũng sớm nhận ra những hạn
chế trong con đường của các bậc tiền bối. Người đã từng nhận xét rằng: Cụ Phan Chu
Trinh yêu cầu thực dân Pháp thực hiện cải lương, việc này “chẳng khác nào xin giặc
rủ lòng thương”; Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp ta đuổi Pháp cũng chẳng khác
gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; Cụ Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, đã trực
tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng còn nặng cốt cách phong kiến, mà con đường theo
lập trường phong kiến thì đã hết thời… Để không lặp lại thất bại của những người đi
trước là một điều khó khăn nhưng tìm ra một con đường mới phù hợp với quy luật
phát triển của lịch sử để dân tộc giành được độc lập, tự do là một điều còn khó khăn
hơn nhiều lần. Cuối cùng, sau một thời gian dài trăn trở, ngày 5/6/1911, trên con tàu
Amiral Latouche Tréville, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình
30 năm tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Với một sự nhạy cảm đặc biệt, Người không chọn đi sang Nhật hay tìm về
các nước châu Á mà Người đặt chân đến Pháp, đến tận đất nước đang cai trị mình, nơi
đang có sự phát triển vượt bậc cả về kinh tế, văn hóa, chính trị để tìm hiểu xem người
ta làm như thế nào rồi trở về cứu giúp đồng bào. Cuộc hành trình của Nguyễn Tất
Thành tiếp tục đi qua nhiều châu lục khác và cuối đến với chủ nghĩa Mác - Lênin dưới
ánh sáng của Cách mạng tháng Mười. Từ đây, Người đã sớm nhận thức được xu thế
phát triển tất yếu của lịch sử và khám phá ra chân lý: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”, “Chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. 3
Bằng lý tưởng đó, Người đã xác định được mục tiêu tiên quyết nhất là phải
giành được độc lập, và trong hoàn cảnh đó, độc lập “ là cái bất biến số một hàng đầu”.
Phương châm ấy đã được Người khẳng định một cách đanh thép và chắc chắn trước
sự đe dọa của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp: “ Cảm ơn Ngài! Cái mà tôi cần nhất trên
đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập… Kính ngài ở lại. Tôi xin
phép về”. Không dừng lại ở đó, ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới thành lập,
trong bản Chính cương văn tắt do Người soạn thảo đã làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ
giữa giải phóng dân tộc với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặt nền móng cho
sự chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Người khằng định: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc
mới có đủ điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội, và chỉ có cách mạng xã hội chủ
nghĩa mới giữa vững những thành quả do sự nghiệp giải phóng dân tộc mang lại. Từ
quan điểm trên, chúng ta có thể thấy, Bác rất đề cao độc lập, có độc lập thì mới có tự
do, tự do gắn liền với độc lập và chỉ khi đó người dân mới được hưởng hạnh phúc.
Tuy nhiên, khác với những quan điểm trước đó, độc lập dân tộc trong tư
tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới mẻ. Người không chấp nhận độc lập theo con
đường phong kiến, tư sản, hay độc lập giả hiệu, “bánh vẽ” mà hướng tới độc lập dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản để làm tiền đề hướng tới hạnh phúc tự do.
2.2, Hạnh phúc, tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc
Trong điều kiện một nước thuộc địa như Việt Nam thì mục tiêu trước hết là
phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, tuy nhiên, quan điểm của Hồ Chí Minh cho thấy
sự tiến bộ vượt bậc trong vấn đề tư tưởng khi không chỉ dừng lại ở mục tiêu đánh đuổi
kẻ thù xâm lược mà còn hướng tới xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Người đã nhiều lần khẳng định “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” hay “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ”. Những quyền lợi chính đáng này đã
xuất hiện trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và một lần nữa được Chủ
tịch Hồ Chí Minh trích dẫn trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta năm 1945: “Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đồng thời người cũng nhấn mạnh: muốn có hạnh phúc,
tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chỉ có trong chế độ chủ
nghĩa xã hội thì mỗi người mới có điều kiện để nâng cao đời sống, phút huy năng lực
của mình và phát triển toàn diện.
Việc lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội xuất phát từ thực tiễn khách quan,
hiện thực vận động của lịch sử với đặc điểm nước ta là một nước thuộc địa, nền nông 4
nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Vậy nên, việc ban hành các chính sách không thể dựa
trên suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý chí mà phải dựa trên cơ sở thực
tiễn của nước ta cũng như đặc điểm và xu thế của thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đích đến cho chủ nghĩa xã hội: “Thay đổi cả
xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không
còn đói rét, mọi người đều được ấm no, hạnh phúc”. Do đó, mục tiêu phát triển đời
sống nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định trên cả hai phương diện:
đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Trước hết, Người đã nhận định tăng trưởng kinh tế là nền tảng cho chủ nghĩa
xã hội phát triển, là mục đích của chủ nghĩa xã hội: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là
không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. Bên cạnh đó, Người cũng không
quên nhấn mạnh: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm
làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc
làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. Không chỉ vậy, “chủ nghĩa xã hội còn
là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học,
ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không
tốt dần dần được xóa bỏ”. Có thể thấy, với quan điểm này, chủ nghĩa xã hội chính là
chìa khóa để giải phóng con người, hướng tới tạo nên một xã hội bình đẳng, không
còn áp bức bóc lột. Ở đó, ai cũng phải lao động và có quyền lao động, người làm ít thì
hưởng ít, người làm nhiều thì hưởng nhiều, hoàn toàn công bằng. Tóm lại, vấn đề mà
chủ nghĩa xã hội hướng tới giải quyết là làm sao cho “dân giàu nước mạnh”.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao thì
chưa thể gọi là chủ nghĩa xã hội, mà nâng cao đời sống vật chất luôn phải đi cùng với
việc chăm lo cho đời sống tinh thần của người dân. Đặc biệt, trong hoàn cảnh nước ta
đã phải chịu sự đô hộ kéo dài của các thế lực ngoại xâm, bị chúng “kìm hãm trong
vòng ngu muội” để dễ bề cai trị thì lĩnh vực văn hóa, tinh thần phải đi trước, định
hướng, soi đường, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vậy nên, từ rất sớm Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ ra động lực quan trọng nhất trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội là con người; cần phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bởi chủ nghĩa xã
hội là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng
cầm quyền nhưng dân là chủ và để dân làm chủ. “Công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân” ; “Chủ
nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân
dân tự xây dựng lấy”. Chỉ có như vậy mới có thể đảm bảo được quyền lợi và phát huy
hết sự sáng tạo của con người. Bên cạnh đó, Bác cũng thể hiện rõ lập trường của mình
trong việc thực hiện công bằng xã hội, không thể vì mục tiêu phát triển kinh tế mà 5
chấp nhận những bất công trong xã hội. Ngay cả trong những ngày đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, mặc dù gặp phải khó khăn trăm bề nhưng Người vẫn không ngừng nhấn
mạnh: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân
không yên”. Vậy nên, công bằng xã hội là động lực quan trọng để phát huy sức mạnh
con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời khẳng định: chúng ta
có xây dựng thành công xã hội mới hay không phụ thuộc rất lớn vào việc công bằng
xã hội được nhận thức và thực hiện như thế nào.
Để hiện thực hóa mục tiêu cao cả đó, ngay từ những ngày đầu chính quyền
mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những biện pháp cấp thiết để xây
dựng lại bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương tới địa phương. Trên
phương diện chính trị, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, đồng bào ta được tự tay cầm
lá phiếu đi bầu cử, tự do lựa chọn người đứng đầu, đại diện cho mình quyết định vận
mệnh đất nước. Ở lĩnh vực kinh tế - xã hội, ngay sau khi tuyên bố độc lập, đất nước ta
đã phải đối mặt với vô vàn khó khăn, chính quyền cách mạng còn non trẻ, ngân khố
quốc gia cạn kiệt, đời sống nhân dân khổ sở trong khi “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc
ngoại xâm” vẫn tiếp tục hoành hành. Trước tình thế đó, Bác đã ngay lập tức đề ra các
giải pháp cấp bách, các chương trình tương trợ để đồng bào cùng nhau vượt qua khó
khăn. Nổi bật trong đó là một loạt các phong trào “Nhường cơm sẻ áo”, “Hũ gạo cứu
đói”, “Tuần lễ vàng”, “Quỹ độc lập” đến mở các lớp bình dân học vụ để xóa mù chữ.
Trong những phong trào đó, Bác không chỉ là người khởi xướng, đề xuất mà còn
gương mẫu thực hiện với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa để san sẻ gạo
cho người nghèo. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, trên tinh thần “tình làng
nghĩa xóm”, hoạn nạn có nhau, chỉ sau một thời gian ngắn số lương thực cứu đói thu
được khá nhiều, giải quyết kịp thời nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân. Song
song với công tác cứu đói, chính quyền cách mạng còn phát động phong trào tăng gia
sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc. Kết quả là sản lượng hoa màu đã tăng gấp bốn
lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong 5 tháng từ tháng 11-1945 đến tháng 5-1946
đã đạt 614.000 tấn, hoàn toàn có thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945.
Bằng chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc gạo không tăng mà lại giảm. Giặc đói
đã bị đánh lui. Bên cạnh đó, phong trào “Bình dân học vụ” cũng ra rất sôi nổi và đặt
được những thành tựu đáng kể, góp phần giúp không ít người dân thoát khỏi nạn mù chữ.
Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, các cơ quan
đầu não của ta phải di chuyển lên chiến khu Việt Bắc để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ
cách mạng. Tại đây, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các vị lãnh đạo vẫn rất sát sao,
quan tâm đến người dân. Người đã nhiều lần trực tiếp ra chiến trường chỉ huy, động
viên lực lượng chiến sĩ ở tiền tuyến, đồng thời cử cán bộ về các địa phương để giúp 6
nhân dân đảm bảo quá trình sản xuất, dồn sức viện trợ cho tuyến đầu chống giặc. Và
cuối cùng, sau 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp, từ một đất nước nghèo nàn, kiệt
quệ, dân tộc ta đã giành được chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Sau thắng lợi đó, chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta bước
vào một giai đoạn mới, miền Bắc quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng gia
sản xuất để chia viện cho miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược và
chính quyền Sài Gòn. Ở thời kỳ này, chính phủ hết sức quan tâm đến vẫn đề đời sống,
sản xuất, chiến đấu của nhân dân. Nhiều chủ trương chính sách được thực thi nhằm
giải quyết vấn đề ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, “Ruộng đất
về tay dân cày”. Để giúp củng cố niềm tin của người dân cũng như khuyến khích
phong trào sản xuất, mặc dù bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn về từng vùng
quê để thăm hỏi, động viên và con nông dân tăng gia và chiến đấu. Vậy nên, có thể
nhận thấy, trong bất cứ khẩu hiệu hay phòng trào nào, Bác cũng thể hiện vai trò và
trách nhiệm của người tiên phòng đi đầu, làm gương cho cán bộ và nhân dân noi theo.
II, Ý nghĩa của quan điểm trên với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay
Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới, tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta
vận dụng sáng tạo, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh”, đồng thời ra sức phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội.
Sau nhiều năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn
diện và có ý nghĩa lịch sử, thay đổi đời sống mọi mặt của người dân. 3.1, Về chính trị
Trên phương diện chính trị, nước ta vẫn đang vững bước xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, các cán bộ lãnh
đạo của Đảng tiếp tục đề cao hướng đến những chính sách chủ trương đúng đắn, thiết
thực và sát sao đến đời sống của người dân.
Đối với các vấn đề liên quan đến chủ quyền dân tộc, Việt Nam luôn thể hiện
sự kiên trì và kiên định với lập trường nhất quán về việc giải quyết các tranh chấp trên
biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; kiên quyết đấu tranh 7
bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình.
Với các vấn đề quốc tế, Việt Nam luôn thể hiện là một thành viên chủ động,
tích cực, có trách nhiệm cao và sẵn sàng hợp tác, làm bạn với các dân tộc khác đúng
như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào
nhiều tổ chức quan trọng như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp
quốc… và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được
cộng đồng quốc tế tôn trọng.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng
của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản
Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng Kinh tế-Xã hội của Liên hợp
quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018.
Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch
AIPA, trong bối cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch COVID-19 và những thiệt hại
nặng nề do thiên tai bão lũ… song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. 3.2, Về kinh tế
Trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã mang lại nhiều thành tựu cho nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta
từng bước thoát khỏi tình trạng bao cấp khủng hoảng. Quy mô, trình độ nền kinh tế
được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt
khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần cũng cải
thiện rõ rệt, bình quân thu nhập đầu người tăng lên đáng kể. Không chỉ vậy, những nỗ
lực đổi mới đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút
ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước cho phát triển. Mặc dù năm
2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID-19 nhưng tốc độ tăng
GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Đặc biệt, sự thay đổi lớn nhất phải kể đến, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở
thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất
khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản
phẩm từ gỗ… luôn duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến
lớn. Tất cả những chuyển biến tích cực đó không chỉ đảm bảo cho người dân có cái ăn,
cái mặc mà còn tạo ra rất nhiều công ăn việc làm, góp phần nâng cao đời sống cho người lao động. 8
3.3, Về văn hóa - xã hội
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, thực hiện đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta luôn đảm bảo việc tăng trưởng kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa,
xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Ở đó, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển. Nhiều chuyển biến tích cực đã diễn ra, từ chỗ Nhà
nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang
thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều có thể
chủ động tham gia tìm kiếm việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu-
nghèo đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói
giảm nghèo. Đặc biệt, công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành
tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% (1993) xuống 22% năm
2005; 9,45% (2010), 7% (2015) và còn dưới 3% (2020).
Đi cùng với đó, công tác giáo dục cũng liên tục được chú trọng. Quy mô, cơ
sở vật chất và chất lượng đào tạo từng bước được nâng cao, đáp ứng yêu cầu về
nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao
trong khu vực, trong đó, tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau
5 năm đạt 92,08%, đứng ở top đầu trong khối ASEAN.
Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm thực hiện. Trong 25 năm qua, ngành bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn
112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, các phong trào
“Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ nguồn” do các cấp và
các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và
hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, đóng góp đáng kể vào nâng cao sách an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là
người nghèo, vùng khó khăn.
Không chỉ vậy, những năm gần đây chứng kiến sự phát triển đáng kể trong
năng lực của hệ thống các cơ sở y tế. Nhờ đó, người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch
vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu
tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân… Cho đến hiện nay,
nhiều bệnh viện lớn trên cả nước đã làm chủ được các kỹ thuật công nghệ cao mang
tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận…; đồng thời thể hiện sự ứng phó nhanh
chóng trước nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có COVID-19.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới kể trên là kết quả của quá trình phấn
đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta dưới sự soi đường của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, nước ta vững bước trên con đường xây dựng chủ 9
nghĩa xã hội, nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc và ngày càng phát
triển về cả vật chất lẫn tinh thần. Đây chính là tiền đề quan trọng, tạo ra tiềm lực, sức
mạnh, niềm tin vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong tương lai.
Bên cạnh những thành công đã đạt được kể trên, chúng ta vẫn thừa nhận một
số mặt hạn chế cần khắc phục kịp thời.
- Về chính trị, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm và
coi trọng công tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng
Đảng chưa đạt được một số mục tiêu đề ra. Hiện nay, vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên rơi vào tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống,
gây nên hiện tượng quan liêu, tham nhũng, công thần, kiêu ngạo,... Không chỉ vậy,
những hiện tượng như “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có thể gây ra nguy
hiểm khôn lường, xa rời mục tiêu, đi ngược lại với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Đây là những mặt hạn chế, cần phải được chấn chỉnh kịp thời. Muốn
vậy, một mặt, Đảng ta phải làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý, nhiệm vụ xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc; mặt khác, phải tiếp tục đổi mới tư duy, đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội, về đổi mới và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng trong
việc học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập lý luận chính trị,
xiết chặt kỷ luật, kỷ cương trong dạy và học lý luận tại các trường chính trị, các học viện,
trường đại học, cao đẳng trên cả nước.
- Về kinh tế, vào năm 2021, đặc biệt là trong 6 tháng vừa qua, nước ta chứng
kiến sự bùng nổ và lây lan của đại dịch COVID 19 trên khắp cả nước, gây thiệt hại nặng
nề đến nền kinh tế. Đảng và Nhà nước đã liên tục thảo luận và đưa ra các phương án để
hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua tình trạng khó khăn này. Tuy nhiên, ở một số
địa phương, nguồn ngân sách hỗ trợ của Chính phủ lại chưa được đưa đến tay người dân
một cách kịp thời. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều hộ gia đình phải vật lộn để xoay sở
cho những nhu cầu thiết yếu hàng ngày, nhiều doanh nghiệp phải tuyên bố dừng hoạt
động hay thậm chí là giải thể. Theo số liệu thống kê, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị
trường trong 8 tháng đầu năm 2021 là 85.508 doanh nghiệp, tăng 24,2% so với cùng kỳ
năm 2020. Đây là một tín đáng buồn của nền kinh tế khi mà dịch bệnh vẫn tiếp tục có xu
hướng diễn biến phức tạp.
Để khắc phục tình trạng này, trước hết, chúng ta cần tập trung phòng chống,
đẩy lùi dịch bệnh một cách hiệu quả, đẩy nhanh công tác tiêm phòng vaccine trên cả
nước để có thể đạt được miễn dịch cộng đồng trong thời gian sớm nhất. Bên cạnh đó, các
cấp chính quyền cần ưu tiên đảm bảo cuộc sống cho người dân lao động bằng các biện
pháp hỗ trợ kịp thời và thiết thực, đặc biệt là tài chính và lương thực với mục tiêu “không 10
để ai bị bỏ lại phía sau”. Đi cùng với đó, các doanh nghiệp cũng rất cần nhận được sự
quan tâm giữa hoàn cảnh khó khăn này. Những gói hỗ trợ nếu đến tay doanh nghiệp kịp
thời sẽ trở nên vô cùng giá trị, giúp họ tiếp tục duy trì được hoạt động sản xuất, đảm bảo
việc làm cho công nhân viên và tìm được hướng đi phù hợp trong tương lai.
- Về vấn đề văn hóa - xã hội, với sự phát triển của hệ thống internet và mạng
xã hội, việc chia sẻ và lan truyền thông tin trở nên rất dễ dàng. Tuy nhiên, do chưa có cơ
chế kiểm soát chặt chẽ cũng như những hình thức xử phạt cụ thể, hiện tượng tin giả, tin
rác, nói xấu, xuyên tạc liên quan đến các vấn đề chính trị vẫn còn xuất hiện một cách
công khai và tràn lan trên các diễn đàn. Điều này để lại hậu quả khó lường, tác động đến
mọi mặt trong cuộc sống. Lợi dụng kẽ hở của Luật an ninh mạng, các đối tượng phản
động thường xuyên chia sẻ những thông tin xuyên tạc, gây kích động về những vấn đề
xảy ra trong nước dưới vỏ bọc là thể hiện tình yêu nước. Hậu quả của hành động này là
gây ra sự chia rẽ giữa những người dân, sự mất niềm tin vào chính quyền. Bên cạnh đó,
một bộ phận giới trẻ cũng đang có tư tưởng lệch lạc về vấn đề độc lập và chủ quyền dân
tộc, đưa ra những quan điểm sai trái và đặt niềm tin mù quáng vào thần tượng.
Do những vấn đề trên thuộc về lĩnh vực tư tưởng, vậy nên, để giải quyết
một cách triệt để nhất thì chúng ta cần chú trọng tăng cường công tác tuyên truyền và
giáo dục, đặc biệt đối với giới trẻ, nhằm nâng cao lòng yêu nước dựa trên cơ sở nhận
thức và tiếp thu thông tin chính xác. Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần
nhanh chóng ban hành các quy định, bộ luật cụ thể để ngăn chặn tình trạng tin giả, tin
độc lan truyền, mang đến một không gian mạng an toàn và lành mạnh cho mọi người dân. 11 PHẦN KẾT LUẬN
“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ luôn song hành cùng
quốc hiệu Việt Nam trong suốt 76 năm, từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vẫn không hề thay đổi nội dung và hình thức trình bày,
chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn về cả bản chất và ý nghĩa lịch sử
thiêng liêng. Sáu chữ tuy đơn giản nhưng lại là “ham muốn tột bậc” của người khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi đó là "ba chính
sách", Người đã phát biểu rằng: "Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách:
Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không
chịu gì kém". Cho đến tận ngày nay, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, lớp
lớp thế hệ người Việt Nam đã vững bước trên con đường mà Người đã chọn. Đó là
con đường của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mang tầm nhìn vượt
thời gian đưa đất nước và dân tộc ta vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thực hiện công
cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nước kém phát triển,
từng bước tiến lên “sánh vai với các cường quốc năm châu”, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 12