Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ
Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ
thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam,
[1]
từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ca Việt Nam.
[2]
Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với các thời kì
hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế
[3]
vào đầu và
giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết
nh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa K, lý
ởng cộng sản Marx - Lenin, tư tưởng văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây và phẩm
chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
[4]
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản
Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam cùng các quan điểm chính thống ở Việt Nam
hiện nay đều thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ
nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành một tài sản nh thần quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.
[5]
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ
nam cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
[6][7]
Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất
cả các tầng lớp trong xã hội.
Phần lớn các giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh không phân ch các quan điểm của ông theo
các thời kỳ lịch sử, không phân ch cụ thể các tác phẩm của ông theo chiều thời gian. Điển
hình như năm 1930 khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ông cho rằng đấu tranh giải
phóng dân tộc đi kèm đấu tranh giải phóng giai cấp. Khi thành lập Việt Minh thì gác lại chủ
trương đấu tranh giai cấp mà thực hiện đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ và đoàn kết
toàn dân chống phát xít theo đường lối Quốc tế Cộng sản (chủ trương này khá trùng lặp với
đường lối của Nguyễn Văn C khi làm Tổng bí thư). Đến giai đoạn năm 1945, khi cần tranh
thủ sự ủng hộ của Đồng Minh cho nền độc lập của Việt Nam, ông tuyên bố "giải tán Đảng
Cộng sản Đông Dương" và tán dương nền dân chủ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ chính thức đưa vào Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1991, sau khi công cuộc Đổi mới phát động, chấp thuận phân hóa giai cấp, nhiều lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin không có nh khả thi trong cơ chế thị trường phải gác lại như đạo đức
hội chủ nghĩa, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, làm theo năng lực hưởng theo lao
động trên toàn hội... (chủ nghĩa cộng sản đặt ra mục êu cuối cùng là xóa bỏ giai cấp, bóc
lột, xóa bỏ giàu - nghèo, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, công hữu trên nền tảng dân
chủ, xóa bỏ giáo điều tôn giáo được xem là mị dân, xóa bỏ nhà nước đi đến dân chủ trực ếp
và bình đẳng, xóa bỏ các đường biên giới quốc gia, đưa các dân tộc đến cùng một lợi ích, xóa
bỏ bất bình đẳng giữa các dân tộc trên phạm vi thế giới...). Các giáo trình của Việt Nam
thường khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh theo chiều hướng trên.
Hoàn cảnh ra đời
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội,
đối ngoại bảo thủ, không mở ra cho Việt Nam cơ hội ếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của
thế giới. Không phát huy được những thế mạnh của truyền thống dân tộc và đất nước, không
chống lại được âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam
năm 1858 và đến năm 1883, triều đình Huế ký kết Hiệp ước Harmand vi đế quốc Pháp, thừa
nhận quyền bảo hộ của họ trên khắp An Nam.
[8]
T sau Hiệp ước Patenôtre năm 1884, Việt
Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Trong suốt quá trình thực dân Pháp cai trị, từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đã có nhiều
cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống thc dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu
"Cần vương" do các văn thân, sĩ phu lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa vũ
trang này mang đậm nh thần yêu nước và đầy dũng khí trước quân thù, nhưng đều dưới sự
dẫn dắt của các tư tưởng phong kiến và tư sản và đều thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào
cuộc khủng khoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
[9]
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có sự
phân hóa giai cấp-xã hội sâu sắc. Tạo ền đề bên trong cho phong trào đấu tranh giải phóng
đân tộc đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam tồn tại nhiều mâu thuẫn. Có thể kể ra các mâu thuẫn
chính sau:
[10][11]
Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp.
Mâu thuẫn giữa người dân lao độngquan lại phong kiến.
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp tư sản.
Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả c
nhưng đều thất bại (chủ trương cầu viện, dùng vũ trang khôi phục độc lập của Phan Bội Châu;
chủ trương "ỷ Pháp cầu ến bộ" bằng cách chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh, trên cơ
sở đó mà dần dần nh chuyện giải phóng của Phan Châu Trinh; khởi nghĩa nặng cốt cách
phong kiến của Hoàng Hoa Thám; khởi nghĩa theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản
của Nguyễn Thái Học).
Sự thất bại của phong trào chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vừa chứng tỏ
sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến, sự yếu ớt và bất lực của hệ tư tưởng tư sản, vừa
từng bước chuẩn bị ền đề cho một phương hướng mới của sự nghiệp giải phóng dân
tộc.
[12][13]
Theo Tạp chí Cộng sản, những điều này cho thấy, phong trào cứu nước của nhân dân
Việt Nam muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con đường mới, đó là con đường cách mạng vô
sản.
[14]
Thế giới
Thế giới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cũng đang có những biến chuyển
to lớn:
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đã chuyển sang giai đoạn độc quyền,
c lập quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc với bn chất của
mình đã trở thành kthù chung của tất cả các dân tộc thuộc địa.
[15]
Thực tế lịch sử: trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân, tại các
ớc nhược ểu châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Lanh, sự bóc lột phong kiến
trước kia vẫn được duy trì bên cạnh sự bóc lột thuộc địa mang nh tư bản chủ nghĩa.
Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội
mới, trong đó có công nhân và tư sản.
[16]
Chiến tranh Thế giới I bùng nổ.
[15]
Tcuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỉ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế gii vi đỉnh cao là
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (1917). Cuộc cách mạng vĩ đại này đã làm "Thức
tỉnh các dân tộc châu Á", Cuộc cách mạng vô sản ớc Nga thành công đã nêu một
tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức, mở ra trước mắt họ thi đi
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc.
[13]
Quốc tế III được thành lập (1919). Phong trào công nhân trong các nước Tư bản Chủ
nghĩa và phong trào giải phóng của các nước thuộc địa càng có quan hệ mật thiết vi
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của họ là Chủ nghĩa Đế quc.
[15]
[17]
Nguồn gốc
Truyền thống dân tộc Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất, tự lực, tự ng để dựng nước và giữ ớc tồn tại
trong suốt lịch sử của dân tộc. Đồng thời, trong quá trình dựng nước, giữ c, nh thần
đoàn kết và ý thức dân chủ cũng xuất hiện. Tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ làm cho mối
quan hệ Cá nhân - Gia đình - Làng - ớc ngày càng trở nên bền chặt và nương tựa vào nhau
để sinh tồn và phát triển. Giá trị truyền thống của người Việt là dũng cảm, cần cù, dẻo dai
trong lao động sản xuất, chiến đấu để sinh tồn và phát triển trước thiên nhiên và kẻ thù xâm
ợc. Nhưng đồng thời, trong quá trình đó, dân tộc Việt Nam cũng ếp nhận những giá trị
văn hóa, văn minh của nhân loại. Người Việt có tư duy mở và mềm dẻo khiến họ dễ dàng ếp
nhận những tư tưởng bên ngoài. Trong khi là đảng viên Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã
ếp nhận chủ nghĩa Lenin với mục êu giải phóng dân tộc trong lúc nhiều đồng chí Pháp của
ông chọn con đường dân chủ xã hội với chủ trương cải cách xã hội nhưng chấp nhận nền dân
ch. Chủ nghĩa yêu nước là điểm xuất phát, là sở để Hồ Chí Minh ếp nhận chủ nghĩa
Marx - Lenin; là một trong những nguồn gốc chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
[4]
Tư tưởng Đông - Tây
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở ếp thu tư tưởng
Đông - Tây mà trước hết là tư tưởng phương Đông mà đặc trưng là
Phật giáo và Nho giáo đã được Việt hóa. Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động tới H
Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ ở trong môi trường giáo dục - văn hóa Việt của làng xã Việt
Nam, dưới sự dạy bảo của gia đình với người cha, vừa là thầy và những nhà nho yêu nước
khác. Sau này, khi trở thành người cộng sản, ông vẫn ếp tục m hiểu những trào lưu tư
ởng mới ở Ấn Độ và Trung Hoa mà điển hình là chủ nghĩa Gāndhī và chủ nghĩa Tôn Dật
Tiên. Ông đã m thấy trong “chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp
với điều kiện nước ta”.
Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu: "Tôi xuất thân
từ một gia đình nhà Nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng". Rồi tại Đại hội
Quốc tế cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc lại ghi trong lý lịch: "Thành phần gia đình nhà
nho".
Sự tương đồng giữa thuyết Đại đồng của Nho giáo và chủ nghĩa cộng sản khiến Hồ Chí Minh
và nhiều nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam khác có nền tảng Nho học dễ dàng chấp nhận chủ
nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh thấy được khả năng thích ứng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt
Nam do sự tương đồng giữa chủ nghĩa cộng sản và lý tưởng Đại đồng của Nho giáo. Ông
dùng những từ ngữ, những mệnh đề của Khổng Tử vốn rất quen thuộc với truyền thống văn
hoá Việt Nam để kết nối những giá trị chung trong học thuyết Nho giáo và học thuyết Marx.
Trong bài Le Grand Confucius ức Khổng Tử vĩ đại) đăng trên tạp chí Communise số ra ngày
15/05/1921, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu thuyết Đại đồng như sau: c Khổng Tử vĩ đại
(năm 551 trước Công nguyên) khởi xướng nền đại đồng và thuyết giáo quyền bình đẳng về
của cải. Người nói tóm lại là: Nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở từ nền Đại đồng trong
thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng".

Preview text:


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ
Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ

thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, [1] từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.[2]

Các nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển gắn với các thời kì
hoạt động của Hồ Chí Minh trong phong trào cách mạng Việt Nam và quốc tế[3] vào đầu và
giữa thế kỷ 20. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh nhận định Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết
tinh của văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, lý
tưởng cộng sản Marx - Lenin, tư tưởng văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây và phẩm
chất cá nhân của Hồ Chí Minh.[4]

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của Đảng Cộng sản
Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác-Lênin, được chính thức đưa ra từ Đại hội VII của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam cùng các quan điểm chính thống ở Việt Nam
hiện nay đều thống nhất đánh giá Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là cách vận dụng sáng tạo Chủ
nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và coi tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt Nam.[5]
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ
nam cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam
.[6][7] Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn tăng cường tuyên truyền thúc đẩy việc học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở tất
cả các tầng lớp trong xã hội.

Phần lớn các giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh không phân tích các quan điểm của ông theo
các thời kỳ lịch sử, không phân tích cụ thể các tác phẩm của ông theo chiều thời gian. Điển
hình như năm 1930 khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ông cho rằng đấu tranh giải
phóng dân tộc đi kèm đấu tranh giải phóng giai cấp. Khi thành lập Việt Minh thì gác lại chủ
trương đấu tranh giai cấp mà thực hiện đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ và đoàn kết
toàn dân chống phát xít theo đường lối Quốc tế Cộng sản (chủ trương này khá trùng lặp với
đường lối của Nguyễn Văn Cừ khi làm Tổng bí thư). Đến giai đoạn năm 1945, khi cần tranh
thủ sự ủng hộ của Đồng Minh cho nền độc lập của Việt Nam, ông tuyên bố "giải tán Đảng
Cộng sản Đông Dương
" và tán dương nền dân chủ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ chính thức đưa vào Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1991, sau khi công cuộc Đổi mới phát động, chấp thuận phân hóa giai cấp, nhiều lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin không có tính khả thi trong cơ chế thị trường phải gác lại như đạo đức
xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, làm theo năng lực hưởng theo lao
động trên toàn xã hội... (chủ nghĩa cộng sản đặt ra mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ giai cấp, bóc
lột, xóa bỏ giàu - nghèo, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, công hữu trên nền tảng dân
chủ, xóa bỏ giáo điều tôn giáo được xem là mị dân, xóa bỏ nhà nước đi đến dân chủ trực tiếp
và bình đẳng, xóa bỏ các đường biên giới quốc gia, đưa các dân tộc đến cùng một lợi ích, xóa

bỏ bất bình đẳng giữa các dân tộc trên phạm vi thế giới...). Các giáo trình của Việt Nam
thường khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh theo chiều hướng trên.
Hoàn cảnh ra đời
Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội,
đối ngoại bảo thủ, không mở ra cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của
thế giới. Không phát huy được những thế mạnh của truyền thống dân tộc và đất nước, không
chống lại được âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam
năm 1858 và đến năm 1883, triều đình Huế ký kết Hiệp ước Harmand với đế quốc Pháp, thừa
nhận quyền bảo hộ của họ trên khắp An Nam.[8] Từ sau Hiệp ước Patenôtre năm 1884, Việt
Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến
.
Trong suốt quá trình thực dân Pháp cai trị, từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, đã có nhiều
cuộc khởi nghĩa nổi dậy chống thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu
"Cần vương" do các văn thân, sĩ phu lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Các cuộc khởi nghĩa vũ
trang này mang đậm tinh thần yêu nước và đầy dũng khí trước quân thù, nhưng đều dưới sự
dẫn dắt của các tư tưởng phong kiến và tư sản và đều thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào
cuộc khủng khoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.[9]

Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có sự
phân hóa giai cấp-xã hội sâu sắc. Tạo tiền đề bên trong cho phong trào đấu tranh giải phóng
đân tộc đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam tồn tại nhiều mâu thuẫn. Có thể kể ra các mâu thuẫn chính sau:[10][11]

Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp.
Mâu thuẫn giữa người dân lao động và quan lại phong kiến.
Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp tư sản.
Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước
nhưng đều thất bại (chủ trương cầu viện, dùng vũ trang khôi phục độc lập của Phan Bội Châu;
chủ trương "ỷ Pháp cầu tiến bộ" bằng cách chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh, trên cơ
sở đó mà dần dần tính chuyện giải phóng của Phan Châu Trinh; khởi nghĩa nặng cốt cách
phong kiến của Hoàng Hoa Thám; khởi nghĩa theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản
của Nguyễn Thái Học).

Sự thất bại của phong trào chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vừa chứng tỏ
sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến, sự yếu ớt và bất lực của hệ tư tưởng tư sản, vừa
từng bước chuẩn bị tiền đề cho một phương hướng mới của sự nghiệp giải phóng dân
tộc.[12][13] Theo Tạp chí Cộng sản, những điều này cho thấy, phong trào cứu nước của nhân dân
Việt Nam muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con đường mới, đó là con đường cách mạng vô sản.[14]
Thế giới
Thế giới trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cũng đang có những biến chuyển to lớn:
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đã chuyển sang giai đoạn độc quyền,
xác lập quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc với bản chất của
mình đã trở thành kẻ thù chung của tất cả các dân tộc thuộc địa.[15]

Thực tế lịch sử: trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực dân, tại các
nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, sự bóc lột phong kiến
trước kia vẫn được duy trì bên cạnh sự bóc lột thuộc địa mang tính tư bản chủ nghĩa.
Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội
mới, trong đó có công nhân và tư sản.[16]

Chiến tranh Thế giới I bùng nổ.[15]
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỉ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với đỉnh cao là
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi (1917). Cuộc cách mạng vĩ đại này đã làm "Thức
tỉnh các dân tộc châu Á", Cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga thành công đã nêu một
tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức, mở ra trước mắt họ thời đại
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc.[13]

Quốc tế III được thành lập (1919). Phong trào công nhân trong các nước Tư bản Chủ
nghĩa và phong trào giải phóng của các nước thuộc địa càng có quan hệ mật thiết với
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của họ là Chủ nghĩa Đế quốc.[15] [17]
Nguồn gốc
Truyền thống dân tộc Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước với ý chí bất khuất, tự lực, tự cường để dựng nước và giữ nước tồn tại
trong suốt lịch sử của dân tộc. Đồng thời, trong quá trình dựng nước, giữ nước, tinh thần
đoàn kết và ý thức dân chủ
cũng xuất hiện. Tinh thần đoàn kết và ý thức dân chủ làm cho mối
quan hệ Cá nhân - Gia đình - Làng - Nước ngày càng trở nên bền chặt và nương tựa vào nhau
để sinh tồn và phát triển. Giá trị truyền thống của người Việt là dũng cảm, cần cù, dẻo dai

trong lao động sản xuất, chiến đấu để sinh tồn và phát triển trước thiên nhiên và kẻ thù xâm
lược. Nhưng đồng thời, trong quá trình đó, dân tộc Việt Nam cũng tiếp nhận những giá trị
văn hóa, văn minh của nhân loại. Người Việt có tư duy mở và mềm dẻo khiến họ dễ dàng tiếp
nhận những tư tưởng bên ngoài. Trong khi là đảng viên Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã
tiếp nhận chủ nghĩa Lenin với mục tiêu giải phóng dân tộc trong lúc nhiều đồng chí Pháp của
ông chọn con đường dân chủ xã hội với chủ trương cải cách xã hội nhưng chấp nhận nền dân

chủ. Chủ nghĩa yêu nước là điểm xuất phát, là cơ sở để Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa
Marx - Lenin;
là một trong những nguồn gốc chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.[4]
Tư tưởng Đông - Tây
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở tiếp thu tư tưởng
Đông - Tây mà trước hết là tư tưởng phương Đông mà đặc trưng là
Phật giáo và Nho giáo đã được Việt hóa. Phật giáo và Nho giáo Việt Nam đã tác động tới Hồ

Chí Minh ngay từ khi còn nhỏ ở trong môi trường giáo dục - văn hóa Việt của làng xã Việt
Nam, dưới sự dạy bảo của gia đình với người cha, vừa là thầy và những nhà nho yêu nước
khác. Sau này, khi trở thành người cộng sản, ông vẫn tiếp tục tìm hiểu những trào lưu tư
tưởng mới ở Ấn Độ và Trung Hoa mà điển hình là chủ nghĩa Gāndhī và chủ nghĩa Tôn Dật
Tiên. Ông đã tìm thấy trong “chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp
với điều kiện nước ta
”.
Năm 1923, trong lý lịch tự khai khi đến Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tự giới thiệu: "Tôi xuất thân
từ một gia đình nhà Nho, nơi mà các thanh niên đều theo học đạo Khổng". Rồi tại Đại hội
Quốc tế cộng sản năm 1935, Nguyễn Ái Quốc lại ghi trong lý lịch: "Thành phần gia đình nhà nho"
.
Sự tương đồng giữa thuyết Đại đồng của Nho giáo và chủ nghĩa cộng sản khiến Hồ Chí Minh
và nhiều nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam khác có nền tảng Nho học dễ dàng chấp nhận chủ
nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh thấy được khả năng thích ứng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt
Nam do sự tương đồng giữa chủ nghĩa cộng sản và lý tưởng Đại đồng của Nho giáo. Ông
dùng những từ ngữ, những mệnh đề của Khổng Tử vốn rất quen thuộc với truyền thống văn
hoá Việt Nam để kết nối những giá trị chung trong học thuyết Nho giáo và học thuyết Marx.
Trong bài Le Grand Confucius
(Đức Khổng Tử vĩ đại) đăng trên tạp chí Communise số ra ngày
15/05/1921, Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu thuyết Đại đồng như sau: "Đức Khổng Tử vĩ đại
(năm 551 trước Công nguyên) khởi xướng nền đại đồng và thuyết giáo quyền bình đẳng về
của cải. Người nói tóm lại là: Nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở từ nền Đại đồng trong
thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng"
.