Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục nhân bản, phát huy cao nhất mọi năng lực, phẩm chất vốn có của con người - vận dụng cho đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền giáo dục nhân bản, phát huy cao nhất
mọi năng lực, phẩm chất vốn có của con người. Vận dụng tư tưởng nền giáo dục hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Th i bài vi n t lo ết: Báo điệ
Tư tưởng H Chí Minh v xây d ng n n giáo d c nhân b n, phát huy cao
nht mọi năng lực, phm cht vn có của con người - v n d ụng cho đổi mi
căn bản, toàn din nn giáo d c Vi t Nam hi n nay
Ch t ch H Chí Minh - Anh hùng i phóng dân t t xu ng gi ộc, nhà văn hóa ki ất, đồ
thi là nhà giáo d i c a dân t c Viục vĩ đạ ệt Nam. Người đã để li cho nn giáo dc
Vit Nam di s n vô cùng to l m v xây d ng n ớn và quý giá, trong đó có quan điể n
giáo d c nhân b n, phát huy cao nh t m ng l c, ph m ch t v n c a con ọi
người. Quan điểm cũng như chỉ ủa Ngườ dn c i v giáo dc vn còn nguyên giá tr
và tr ng quan tr i v i công cu i m n, toàn di thành định hướ ọng đố ộc đổ ới căn bả n
giáo dục và đào tạo Vit Nam hin nay.
Tư tưởng H Chí Minh v xây dng nn giáo dc nhân bn, phát huy cao nht
mọi năng lực, ph m ch t vn có của con người.
Nhn th c rõ nh ng b t công, ph ng c a ch c dân ản độ ế độ th Việt Nam, trong đó
có vi c áp d ng chính sách ngu dân và thi t l p m t n n giáo d c thu ế ộc địa, ph c v
cho s ng tr c th a th c dân Pháp và ch phong ki n, Ch t ch H ế độ ế Chí Minh đã
lên án chính sách ngu dân c a th d ực dân Pháp: “Làm cho dân ngu để trị”, đó
chính sách các nhà c m quy n các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”. Nhng
người không được đến trường thì b đầu độc bằng các thói hư, tật xấu, như rượu chè,
c b c, thu c phi n. Ch ế độ thc dân ph i cách kìm hãm dân tản động đã tìm mọ c
Việt Nam trong vòng tăm tố ốt nát đểi, d d b cai tr .
Cho nên, trong hành trình bôn ba khắp năm châu b n bi ển, người thanh niên Nguyn
Tt Thành - Nguy n Ái Qu c không ch quan tâm tìm con đườ ứu nướng c c, gii
phóng dân t n, phù h p v i th c ti c, mà còn chú ý tìm hi u mô ộc đúng đắ ễn đất nướ
hình xây d ng m t xã h c xây d ng m t n n giáo d ội tương lai, trong đó việ c
mi, g n bó v i v n m nh c ng hành v i dân t c, m t n n giáo d a đất nước, đồ c
nhân bn, phát huy cao nh t m ọi năng lực, phm ch t v n có của con người, th c s
vì con người, phc v s nghi p khai sáng, nâng cao dân trí và phát tri n.
Năm 1930, trong L i kêu g i nhân ngày thành l ng C ng s n Vi ập Đả ệt Nam, Người
đã nêu ra kh ệu “thự toàn dân” ục, “ai u hi c hành giáo dc , tiến hành ph cp giáo d
cũng đượ ọc hành” ạng Tháng Tám thành công năm 1945, c h . Ngay sau khi Cách m
Ch t ch H o t c phong trào h c t p trong toàn dân, m Chí Minh đã chỉ đạ ch
mang, nâng cao trình đ dân trí cho nhân dân, trướ c hết là xóa mù ch, coi mù ch
là “giặ ốt”, đồc d ng thời xác định đây là công việc lâu dài, góp ph n quan tr ọng đánh
thng k thù xâm lược, xây d ng xã h i m ới, nâng cao đời s ng v t ch t và tinh th n
cho nhân dân.
Trong phiên h u tiên c a H ng Chính ph c Vi t Nam Dân ch Cọp đ ội đồ nướ ng
hòa, ngày 3-9-1945, Ch t ch H Chí Minh đã xác định chng n n mù ch , tiêu di t
gi c dt nhim v cp bách th hai trong 6 nhim v cp bách c a Chính ph :
“Mộ t dân t c d t là m t dân t c yếu. Vì vậy tôi đề ngh m m t chiến dch ch ng
nn mù ch c quy c l p. M t trong nh ng công ữ”; “Nay chúng ta đã giành đư ền độ
vic ph i th c hi n c p t c trong lúc này là nâng cao dân t . Ch t ch H Chí Minh rí”
Trung ương Đả đã chỉ ẩn trương diệt “giặ ốt”, ng, Chính ph đạo toàn dân kh c d
trọng tâm là phát động phong trào Bình dân h c v i ch ụ. Ngườ rõ: “Muốn gi vng
nền độc l n làm cho dân m p,/Mu ạnh nước giàu,/Mọi người Vi t Nam ph i hi u bi ết
quyn l i c a mình, b n ph n c a mình, ph i ki n th c m th tham gia ế ới để
vào công cu c xây d ựng nước nhà, và trướ ết đọc hết phi bi c, biết viết ch quc
ngữ”.
Theo Ch t ch H Chí Minh, giáo d c có v trí, vai trò vô cùng quan tr i v i ọng đố
vi c xây d i mựng con ngườ i, xã h i m i kh m với. Ngườ ẳng định: “Nhiệ giáo d c
rt quan tr ng và v vang,... Không có giáo d c, không có cán b thì cũng không nói
đế ế, văn hóa”n kinh t . Giáo dc không ch đảm nhi m vi c truy n d y tri th c,
hc v n cho i, mà sâu s o ra nh i phát tri con ngườ ắc hơn, còn đào tạ ững con ngườ n
toàn di a h ng, vện, “vừ ừa chuyên”, vừ ừa có lý tưởng, đạo đứa tri thc, v c, sc
khe, th m m ỹ... Đó là quá trình rèn “đức”, luyện “tài”, không ngừng vươn lên ca
mỗi con người, để phát tri n toàn di n và hoàn thi n b ản thân, để được c ng hi n và ế
khẳng đị làm ngườ ản thân. Đó là quá trình đi tớnh giá tr i ca b i s gii phóng trit
để, con người thc s làm ch t nhiên, làm ch xã h i.
Nn giáo d c m i c a Vi c Chệt Nam đượ t ch H Chí Minh định hướng phát trin
n n giáo d c toàn dân, toàn di n, nhân b n, tiên ti n, v i m c tiêu nh t quán ế
đào tạo con ngư ới, đào t ữu ích cho nước nhà, “mi m o nhng công dân h t nn
giáo d c c a m c l p, m t n n giáo d c nó s o các em nên nh ột nước độ đào tạ ng
ngườ i công dân h c Viữu ích cho nướ t Nam, mt nn giáo d c làm phát trin hoàn
toàn nh c s n cững năng l ủa các em”. Người ch rõ: Hc bây gi v i h ọc dưới
chế c dân phong ki n khác h n nhau. Bây gi i h : Yêu T c, yêu độ th ế ph ọc để qu
nhân dân, yêu lao độ ọc, yêu đạo đứ ọc đểng, yêu khoa h c... H phng s T quc,
phng s nhân dân, làm cho dân giàu, nước m . Munh ốn đạt được mc tiêu nhim
v giáo dục như vậy, thì “cốt nht là ph i d y cho h c trò bi ết yêu nước, thương nòi.
Phi dy cho h có chí t l p, t ng, quy t không ch u thua kém ai, quy t không cườ ế ế
chu làmlệ”. Đó là nền giáo d c không ch hướng vi c h c vào nâng cao v n hi u
biết, quan tr n th c phọng hơn kiế ức thu đượ ải giúp ích cho “làm việc”, “làm
người”, khơi dậy, phát huy nh c v n có cững năng lự ủa con người.
Đây chính là điể ệt căn bả nghĩa so vớm khác bi n ca nn giáo dc xã hi ch i nn
giáo d c th c dân, phong ki n tính khoa h c cách m ng ến trước đó. Nó thể hi
trong quan điểm giáo d c c a Ch t ch H Chí Minh.
Kế tha truy n th ng dân t ộc và quan điểm c a ch nghĩa Mác - -nin v s thng
nht bi n ch ng gi a lý thuy t v i th c hành, lý lu n v i th c ti n, trong s nghi ế p
xây d ng n n giáo d c m i c a dân t c, Ch t ch H Chí Minh luôn coi tr ng s
thng nht gi v c t p k t h p v i lao ữa “học” ới “hành”, “học đi đôi với hành”, họ ế
độ ng, s n xu t. M a h phát tri sục đích củ ọc để hành, để ển, để ng. Hc ho t
độ độ ng nh n th c tích c c, ch ng c a cá nhân nhm chuyn nh ng di sản văn hóa
ca nhân lo i thành v n hi u bi t c a b n thân nh v y, giúp bi ế ến đổi thái độ,
hành vi. Hành không ch là v n d ng nh c, mà còn ngu n g c c ững điều đã họ a
tri th c m i, là bi n pháp rèn luy ện con người mt cách toàn di n. Vì v y, h c ph i
đi đôi với hành. Hc mà không hành, không áp dng vào thc tế thì khác nào chiếc
hòm đựng đầy sách, hành mà không hc thì hành không trôi chy. Hc và hành
hai khâu c a quá trình nh n th c, g ắn bó khăng khít với nhau. Theo Ch t ch H Chí
Minh, ch khi th c hi ện đượ ọc đi đôi với hành, thì ngườc h i h c m i rèn luy ện được
c tri th c l n k c hành; m i g n li n tri th c v i th c ti n, v ng, năng thự ới lao độ
sn xu t phong phú, góp ph n phát tri ển đất nước, ph c v nhân dân.
Đặ c bit, trong s nghi p giáo dc, Ch t ch H Chí Minh r t coi trng vai trò c a
đội ngũ nhà giáo. Quan điểm của Người v vai trò c a nhà giáo là s tiếp t c và phát
huy truy n th ng hi u h ế ọc, “tôn sư trọng đạo” của dân t c Vi ệt Nam, đồng thi tiếp
thu nh ng giá tr t p v d y h c c a nhân lo i. Có th y, trong su t quá ốt đẹ ngh th
trình đấu tranh dựng nước và gi nước c a dân t c, ngh d y h c và v trí cao c c a
nhà giáo luôn luôn đượ quan tâm đặc nhân dân tôn vinh và dành s c bit. Mt dân
tộc có văn hiến là mt dân tc có nn giáo dc phát trin, có truyn thng hiếu hc,
chung nhân tài, coi “hiề ốc gia”. Coi trọn tài nguyên khí qu ng s hc tt yếu
không th tách r i vi c kính tr i d y h c, b ọng ngườ ởi Trọ ới đượng thy m c làm
thầy”, “Nhấ vi sư, bán tự vi sư”,... Nhà giáo nghềt t s cng hiến rt thm
lặng nhưng rất mc v vang. Ch t ch H Chí Minh d ạy: “Người th y giáo t - t thy
giáo x y giáo - i v vang nh t. Dù là tên tuứng đáng là thầ là ngườ ổi không đăng trên
báo, không được thưởng huân chương, song những người th y giáo t t là nh ng anh
hùng vô danh. Đây là một điều r t v vang. N u không có th y giáo d y d cho con ế
em nhân dân, thì làm sao xây d ng ch c? Vì v y ngh nghĩa hội đượ thy
giáo r t là quan tr ng, r t là v vang; ai có ý ki ến không đúng về ngh thy giáo, thì
phi s a ch ữa”.
Như vậ trí đứng đầy, vi Ch tch H Chí Minh, giáo dc luôn luôn có v u, là quc
sách hàng đu trong s nghip cách mng gii phóng dân tc xây dng hi
mi ti n b ế hơn, văn minh hơn. Độc l p c a dân t c, t do, h nh phúc c a nhân dân,
s hưng thị ủa đất nướnh c c không th tr thành hi n th c n u không có s tham gia ế
ca giáo d i các h u tiên cục. Trong Thư gử ọc sinh nhân ngày khai trường đầ a đất
nước sau khi giành được độc lp, Ch t ch H Chí Minh đã dặn dò các em h c sinh:
“Non sông Việ nên tươi đẹt Nam có tr p hay không, dân t c Vi c t ệt Nam có bướ i
đài vinh quang để ới các cườ ốc năm châu đượ sánh vai v ng qu c hay không, chính là
nh m t ph n l công h c t p c . S m nh c a giáo d c nâng cao n ủa các em”
dân trí, đào t ồi dưỡ ạo độ ển, đưa o nhân lc và b ng nhân tài, t ng lc cho s phát tri
nước nhà ti n t c mế ới dân giàu, nh, dân ch, công b ằng, văn minh. Đó s
mnh vừa có ý nghĩa trọng đạ ừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắi, v c.
Vn d ng H Chí Minh v giáo d i m n, toàn diụng tưở ục trong đổ ới căn bả n
nn giáo dc hin nay
Hin nay, xu th toàn c u hóa và cu c Cách m ng công nghi p l n th ế đã và đang
tác động đế ết các lĩnh vực đờn hu h i sng hi ca các quc gia trên thế gii,
trong đó có ngành giáo dc. Với ý nghĩa là yếu t hàng đầu t o nên ch ất lượng ngun
nhân l - ngu n l c quan tr ng nh t trong các ngu n l c, tài nguyên quý báu nhc t
trong các ngu n tài nguyên, giáo d ục đào tạo chính “chìa khóa” gia tăng sức
mnh c a các qu ốc gia. Trong khi đó, thế gii xu t hi n hàng lo t v ấn đềtính cht
toàn c u, t biến đổi khí h u, c n ki t tài nguyên, ô nhi ễm môi trường, mt cân b ng
sinh thái, đến nhng biến động địa - chính tr , quân s i các qu c gia mu ự..., đòi hỏ n
tn t i và phát tri n ph ải đào tạ tương lai không chỉo thế h có tri thc, mà còn phi
có năng lự năng xử ấn đề ục phát sinh, đặ năng c, k lý hàng lot v liên t c bit là kh
thích c m i bi ng c a th i cu c v i trách nhi m c a nh ng công ứng cao trướ ến độ
dân toàn c i ngành giáo d c c a t t c các quầu. Điều đó đòi hỏ ốc gia, trong đó
Vit Nam ph nh nải xác đị ội dung, chương trình, phương pháp, cách thức giáo d - c
đào tạo phù hp và hi u qu i v đố ới người dân nước mình.
Hin nay, khoa h c công ngh trên th i phát tri o ra nh ế gi ển như vũ bão, tạ ng
bước ti n nhế y v c bi n t - ọt, đặ ệt là trong các lĩnh vực điệ vi n thông, công ngh -
thông tin, trí tu nhân t o, t ng hóa, công ngh sinh h c, internet k t n i v n v độ ế t
và d u l n,... Nh ng chuy n bi n h t s c m nh m c li ế ế ủa các lĩnh vực này đã tác
độ ng sâu s n mắc đế i mt c i sủa đờ ng xã h i trong t ng quc gia và trên phm vi
toàn c ng thầu, đồ ời làm thay đổ ệm, phương thứi nhiu triết lý, quan ni c t chc và
hoạt động c a h u h ết các lĩnh vực, trong đó có giáo dục.
Dưới tác độ tư, kinh tế ới đang ng ca cuc Cách mng công nghip ln th thế gi
chuyn m ếnh sang kinh tế tri th c. Trong n n kinh t tri th c, ho ng ch ạt độ yếu
nht là t o ra tri th c, qu ng bá tri th c, s d ng tri th c và bi n tri th c thành giá ế
tr. L ng s n xu t xã h i t d n m nh ực lượ ựa vào tài nguyên thiên nhiên đang chuyể
sang d a ch y u vào c sáng t o c i. L i th c ế kh năng năng lự ủa con ngườ ế nh
tranh ngày nay không còn n m ch y tài nguyên thiên nhiên ho ng giá ếu ặc lao độ
r, mà nghiêng v m l c tri th c và khoa h - công ngh , v n là s n ph m sáng ti c
to c i. Do v y, ph i xây d ng n n giáo d c Vi t Nam nhân b n, phát ủa con ngườ
huy cao nh t m c, ph m ch t v n c o ngu n nhân ọi năng lự ủa con người, đào tạ
lc có chất lượng cao, đủ sc cnh tranh trong khu v c và ti n d n ra th ế ế gii.
Để ế thích ng vi nh i nhanh chóng cững thay đ a tình hình th giới, đặc bi t là s
phát tri n c a cu c cách m ng khoa h c - công nghệ, xu hướng toàn c u hóa và kinh
tế tri th c, nhi u qu c gia trên th ế giới đã xem xét lại h thng giáo d c, ti n hành ế
điề u chnh, c i cách giáo d c. T cu i thp niên 80 c a thế k XX, nh t nh ng
năm đầ XXI, đã có nhiều chương trình cả ục đượu thế k i cách giáo d c thc hin
các nước, như Mỹ, Anh, Pháp, Đứ ụy Điểc, Nht Bn, Phn Lan, Th n, Ôx-trây- -a, li
Hàn Qu c, Xin- ga-po... Điều đáng chú ý, đây là nhữ ốc gia đã có nềng qu n giáo dc
phát tri c th i ghi nh n ti p t c th c hi n c i cách giáo d c, ển, đượ ế gi ận, nhưng vẫ ế
bi nh n th c yêu c u ph phù h p v i tình hình m i trong ức đượ ải thay đổi để
nước và qu c t . ế
Trải qua hơn 35 năm đổ ệt Nam đã đạt đượi mi, Vi c nhng thành tu to ln, có ý
nghĩa lị ử, trong đó sự đóng góp củch s a ngành giáo dc. Tuy nhiên, trong bi
cnh m i hi i n n giáo d c ph i ti p t c có s thích ng k p th i, nh ện nay, đòi h ế t
là ph ng nhu c u h c t ngày càng cao c i dân, ải đáp ập đa dạng và trình độ ủa ngườ
nhanh chóng góp ph n t o ra ngu n nhân l c có ch ng. ất lượ
Mt s v n đề đặt ra đối v i ngành giáo d c c c gi i quy t là: Ch ng giáo ần đượ ế ất lượ
dục chưa đáp ội; chưa giảng yêu cu phát trin kinh tế - xã h i quyết tt mi quan
h giữa tăng quy và nâng cao chất lượng giáo dc - o, gi a d y ch , dđào tạ y
ngườ i và dy ngh ; ni dung giáo d o còn nục và đào tạ ng vthuyết, mt xa
ri th c t , ch y theo thành tích, nhi ng giáo d c, ý th ế ều nơi chưa chú trọ ục đạo đ c
và trách nhiệm công dân; chương trình giáo ải đố dc ph thông còn quá t i vi hc
sinh; giáo d i h c và giáo d c ngh nghi ng nhu c u xã hục đạ ệp chưa đáp ứ ội, chưa
gn v i yêu c u s d ng nhân l ực, chưa chú trọng giáo d c k c hành nghnăng thự
nghiệp; phương pháp dạy và h c ch ậm đi mới, chưa thực s phát huy đưc tính ch
độ ng, sáng to ca h t quọc sinh, sinh viên; phương pháp và hình thức đánh giá kế
hc t p còn l c h ậu, phương tiện gi ng d y thi u th n; qu n lý giáo d ế c mt s nơi
còn b t c p, hi ện tượng tiêu c c trong tuy n sinh, thi và cp b ng, l m thu, d y thêm
chậm được khc phc, gây b c xúc xã h i; ch ất lượng đào tạo c a m t s trường sư
phm còn h n ch ế, đào tạo giáo viên chưa gắn vi nhu cu ca xã h i; công tác quy
hoch, phát tri n cán b qun lý giáo dục đội ngũ nhà giáo ở nhiu nơi chưa được
quan tâm đúng mức; đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn mang tính bình quân, chưa
tp trung các ngu n l ực cho đào tạo tài năng; cơ sở v t ch t k thut còn thi u và lế c
hu; qu t dành cho phát tri n giáo d o còn thi u; ch , chính sách đấ ục và đào tạ ế ế độ
đố i v i cán b qu n giáo d báo nhu ục nhà giáo chưa thỏa đáng; công tác dự
cu ngu n nhân l c cho quá trình công nghi p hóa, hi ện đại hóa đất nước chưa đáp
ng yêu cu. Đạ ủa Đảng đã nhận định: Đổ ới tư duy, hoạt đội hi XIII c i m ng giáo
dc và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ng yêu cầu đặt ra; m t s nhim
v, gi i m i còn thi u h nh. Ch ng, hi u qu giáo ải pháp đổ ế thống, chưa ổn đị ất lượ
dục và đào tạo chưa cao. Hệ thng giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng b
liên thông gi c giáo d o. N i dung, ữa các trình độ, các phương thứ ục đào tạ
chương trình giáo dục và đào tạ ực hành. Đào tạo còn nng lý thuyết, nh th o vn
thiếu gn kết v i nghiên c u khoa h c, s n xu t, kinh doanh nhu c u c a th
trường lao động. Chưa chú trọng đ ức đế năng úng m n phát trin phm cht k
người h c. Giáo d ục “làm người”, đạo đức, li s ng còn b xem nh ẹ. Đào tạo ngun
nhân l c ch c yêu c u phát tri n kinh t , xã h ất lượng cao chưa đáp ứng đượ ế ội. Đội
ngũ nhà giáo và cán bộ qun giáo dc, trên mt s mt vn còn bt cp v cht
ng, s ợng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ ản lý nhà nướ. Qu c và qun lý - qun
tr nhà trường còn nhi u h n ch . ế
Ngh quy t s -NQ/TW, ngày 4- -2013, c a H i nghế 29 11 Trung ương 8 khóa XI,
“Về đổ i m n, toàn diới căn bả n giáo d ng yêu cục và đào tạo, đáp u công nghi p
hóa, hi u ki n kinh t ng xã h i ch ện đại hóa trong đi ế th trường định hướ nghĩa và
hi nh p qu c t ế” đã đề ra 7 quan điể m ch đạo đổi mới căn bản, toàn din giáo dc
và đào tạo, nh m th c hi n m ục tiêu: “Giáo dục con người Vit Nam phát tri n toàn
din phát huy tt nht ti o cềm năng, khả năng sáng tạ a mi nhân; yêu gia
đình, yêu Tổ ốc, yêu đồ qu ng bào; s ng t t và làm vi c hi u qu . Xây d ng n n giáo
dc m , th c h c, th c nghi p, d y t t, hc tt, qu tn ốt; cấu và phương
th c giáo d c h p lý, gn v i xây d ng xã h i hc t p; b u kiảo đảm các điề n nâng
cao ch ng; chu n hóa, hi i hóa, dân ch hóa, xã h i hóa và h i nh p quất lượ ện đ c
tế h thng giáo d o; gi v ng xã h i ch n sục và đào tạ ững định hướ nghĩa và bả c
dân tộc”. Để thc hi n m c tiêu trên, c n chú tr ọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách,
năng lự ần yêu nước sáng to và các giá tr ct lõi, nht là giáo dc tinh th c, t hào,
t tôn dân t c, truy n th ng l ch s dân t c, ý th c trách nhi m xã h i cho các
tng l p nhân dân, nh t là th h ế tr; gi gìn và phát huy b n s ắc văn hóa dân tộc tt
đẹ p c i Vi y khát vủa ngườ ệt Nam; khơi dậ ng phát tri c phển đất nướ n vinh, hnh
phúc b o v v ng ch c T c Vi t Nam h i ch n giáo d c tri qu nghĩa. Gắ
thức, đạo đ năng sốc, thm m, k ng vi giáo dc th cht, nâng cao tm vóc con
ngườ i Vi t Nam i dung c. Đó nộ t lõi c a giáo dc toàn di n c c quán triần đượ t
hi n th c hóa trong th c ti i m n, toàn di n n n giáo d c ta ễn đổ ới căn bả ục nướ
trong gia n mi đoạ i.
Bài d thi tham gia Cu c thi chính lu n B o v n n t ng c ng, ảng tưở ủa Đả đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù đị 3, năm 2023ch ln th
THÔNG TIN:
H và tên: Nguy Thu Trang n
Ngày sinh: 15 - - 2002 06
Mã sinh viên: 20510500 49
Đơn ị: TTĐC K40A1 v - Vin báo chí, Hc vin Báo chí và Tuyên truy n
S điện tho i: 0328.917.943
Email: nguyenthutrang1562@gmail.com
Đị a ch liên h : Trung Hòa, C u Gi y, Hà N i
| 1/10

Preview text:

Thể loại bài viết: Báo điện tử
Tư tưởng H Chí Minh v xây dng nn giáo dc nhân bn, phát huy cao
nht mọi năng lực, phm cht vn có của con người - vn dụng cho đổi mi
căn bản, toàn din nn giáo dc Vit Nam hin nay
Ch tch H Chí Minh - Anh hùng gii phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, đồng
thi là nhà giáo dục vĩ đại ca dân tc Việt Nam. Người đã để li cho nn giáo dc
Vit Nam di sn vô cùng to lớn và quý giá, trong đó có quan điểm v xây dng nn
giáo dc nhân bn, phát huy cao nht mọi năng lc, phm cht vn có ca con
người. Quan điểm cũng như chỉ dn của Người v giáo dc vn còn nguyên giá tr
và tr thành định hướng quan trọng đối vi công cuộc đổi mới căn bản, toàn din
giáo dục và đào tạo Vit Nam hin nay.
Tư tưởng H Chí Minh v xây dng nn giáo dc nhân bn, phát huy cao nht
mọi năng lực, phm cht vn có của con người.
Nhận thức rõ những bất công, phản động của chế độ thực dân ở Việt Nam, trong đó
có việc áp dụng chính sách ngu dân và thiết lập một nền giáo dục thuộc địa, phục vụ
cho sự thống trị của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lên án chính sách ngu dân của thực dân Pháp: “Làm cho dân ngu để dễ trị”, đó là
chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất”. Những
người không được đến trường thì bị đầu độc bằng các thói hư, tật xấu, như rượu chè,
cờ bạc, thuốc phiện. Chế độ thực dân phản động đã tìm mọi cách kìm hãm dân tộc
Việt Nam trong vòng tăm tối, dốt nát để dễ bề cai trị.
Cho nên, trong hành trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, người thanh niên Nguyễn
Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc không chỉ quan tâm tìm con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước, mà còn chú ý tìm hiểu mô
hình xây dựng một xã hội tương lai, trong đó có việc xây dựng một nền giáo dục
mới, gắn bó với vận mệnh của đất nước, đồng hành với dân tộc, một nền giáo dục
nhân bản, phát huy cao nhất mọi năng lực, phẩm chất vốn có của con người, thực sự
vì con người, phục vụ sự nghiệp khai sáng, nâng cao dân trí và phát triển.
Năm 1930, trong Lời kêu gọi nhân ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người
đã nêu ra khẩu hiệu “thực hành giáo dục toàn dân”, tiến hành phổ cập giáo dục, “ai
cũng được học hành”. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo tổ chức phong trào học tập trong toàn dân, mở
mang, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân, trước hết là xóa mù chữ, coi mù chữ
là “giặc dốt”, đồng thời xác định đây là công việc lâu dài, góp phần quan trọng đánh
thắng kẻ thù xâm lược, xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định chống nạn mù chữ, tiêu diệt
giặc dốt là nhiệm vụ cấp bách thứ hai trong 6 nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch chống
nạn mù chữ”; “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Trung ương Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo toàn dân khẩn trương diệt “giặc dốt”,
trọng tâm là phát động phong trào Bình dân học vụ. Người chỉ rõ: “Muốn giữ vững
nền độc lập,/Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,/Mọi người Việt Nam phải hiểu biết
quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia
vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với
việc xây dựng con người mới, xã hội mới. Người khẳng định: “Nhiệm vụ giáo dục
rất quan trọng và vẻ vang,... Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói
gì đến kinh tế, văn hóa”. Giáo dục không chỉ đảm nhiệm việc truyền dạy tri thức,
học vấn cho con người, mà sâu sắc hơn, còn đào tạo ra những con người phát triển
toàn diện, “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có tri thức, vừa có lý tưởng, đạo đức, sức
khỏe, thẩm mỹ... Đó là quá trình rèn “đức”, luyện “tài”, không ngừng vươn lên của
mỗi con người, để phát triển toàn diện và hoàn thiện bản thân, để được cống hiến và
khẳng định giá trị làm người của bản thân. Đó là quá trình đi tới sự giải phóng triệt
để, con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội.
Nền giáo dục mới của Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng phát triển
là nền giáo dục toàn dân, toàn diện, nhân bản, tiên tiến, với mục tiêu nhất quán là
đào tạo con người mới, đào tạo những công dân hữu ích cho nước nhà, “một nền
giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những
người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn
toàn những năng lực sẵn có của các em”. Người chỉ rõ: Học bây giờ với học dưới
chế độ thực dân phong kiến khác hẳn nhau. Bây giờ phải học để: Yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức... Học để phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh. Muốn đạt được mục tiêu và nhiệm
vụ giáo dục như vậy, thì “cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi.
Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không
chịu làm nô lệ”. Đó là nền giáo dục không chỉ hướng việc học vào nâng cao vốn hiểu
biết, mà quan trọng hơn là kiến thức thu được phải giúp ích cho “làm việc”, “làm
người”, khơi dậy, phát huy những năng lực vốn có của con người.
Đây chính là điểm khác biệt căn bản của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa so với nền
giáo dục thực dân, phong kiến trước đó. Nó thể hiện tính khoa học và cách mạng
trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kế thừa truyền thống dân tộc và quan điểm của chủ nghĩa Mác - L - ê nin về sự thống
nhất biện chứng giữa lý thuyết với thực hành, lý luận với thực tiễn, trong sự nghiệp
xây dựng nền giáo dục mới của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự
thống nhất giữa “học” với “hành”, “học đi đôi với hành”, học tập kết hợp với lao
động, sản xuất. Mục đích của học là để hành, để phát triển, để sống. Học là hoạt
động nhận thức tích cực, chủ động của cá nhân nhằm chuyển những di sản văn hóa
của nhân loại thành vốn hiểu biết của bản thân và nhờ vậy, giúp biến đổi thái độ,
hành vi. Hành không chỉ là vận dụng những điều đã học, mà còn là nguồn gốc của
tri thức mới, là biện pháp rèn luyện con người một cách toàn diện. Vì vậy, học phải
đi đôi với hành. Học mà không hành, không áp dụng vào thực tế thì khác nào chiếc
hòm đựng đầy sách, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Học và hành là
hai khâu của quá trình nhận thức, gắn bó khăng khít với nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, chỉ khi thực hiện được học đi đôi với hành, thì người học mới rèn luyện được
cả tri thức lẫn kỹ năng thực hành; mới gắn liền tri thức với thực tiễn, với lao động,
sản xuất phong phú, góp phần phát triển đất nước, phục vụ nhân dân.
Đặc biệt, trong sự nghiệp giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của
đội ngũ nhà giáo. Quan điểm của Người về vai trò của nhà giáo là sự tiếp tục và phát
huy truyền thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo” của dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp
thu những giá trị tốt đẹp về nghề dạy học của nhân loại. Có thể thấy, trong suốt quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, nghề dạy học và vị trí cao cả của
nhà giáo luôn luôn được nhân dân tôn vinh và dành sự quan tâm đặc biệt. Một dân
tộc có văn hiến là một dân tộc có nền giáo dục phát triển, có truyền thống hiếu học,
chuộng nhân tài, coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Coi trọng sự học tất yếu
không thể tách rời việc kính trọng người dạy học, bởi “Trọng thầy mới được làm
thầy”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”,... Nhà giáo là nghề có sự cống hiến rất thầm
lặng nhưng rất mực vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Người thầy giáo tốt - thầy
giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên
báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh
hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con
em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy
giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang; ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo, thì phải sửa chữa”.
Như vậy, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục luôn luôn có vị trí đứng đầu, là quốc
sách hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội
mới tiến bộ hơn, văn minh hơn. Độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân,
sự hưng thịnh của đất nước không thể trở thành hiện thực nếu không có sự tham gia
của giáo dục. Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của đất
nước sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò các em học sinh:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới
đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là
nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Sứ mệnh của giáo dục là nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, tạo động lực cho sự phát triển, đưa
nước nhà tiến tới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là sứ
mệnh vừa có ý nghĩa trọng đại, vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Vn dụng tư tưởng H Chí Minh v giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn din
nn giáo dc hin nay
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang
tác động đến hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội của các quốc gia trên thế giới,
trong đó có ngành giáo dục. Với ý nghĩa là yếu tố hàng đầu tạo nên chất lượng nguồn
nhân lực - nguồn lực quan trọng nhất trong các nguồn lực, tài nguyên quý báu nhất
trong các nguồn tài nguyên, giáo dục và đào tạo chính là “chìa khóa” gia tăng sức
mạnh của các quốc gia. Trong khi đó, thế giới xuất hiện hàng loạt vấn đề có tính chất
toàn cầu, từ biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng
sinh thái, đến những biến động địa - chính trị, quân sự..., đòi hỏi các quốc gia muốn
tồn tại và phát triển phải đào tạo thế hệ tương lai không chỉ có tri thức, mà còn phải
có năng lực, kỹ năng xử lý hàng loạt vấn đề liên tục phát sinh, đặc biệt là khả năng
thích ứng cao trước mọi biến động của thời cuộc với trách nhiệm của những công
dân toàn cầu. Điều đó đòi hỏi ngành giáo dục của tất cả các quốc gia, trong đó có
Việt Nam phải xác định nội dung, chương trình, phương pháp, cách thức giáo dục -
đào tạo phù hợp và hiệu quả đối với người dân nước mình.
Hiện nay, khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, tạo ra những
bước tiến nhảy vọt, đặc biệt là trong các lĩnh vực điện tử - viễn thông, công nghệ -
thông tin, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học, internet kết nối vạn vật
và dữ liệu lớn,... Những chuyển biến hết sức mạnh mẽ của các lĩnh vực này đã tác
động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi
toàn cầu, đồng thời làm thay đổi nhiều triết lý, quan niệm, phương thức tổ chức và
hoạt động của hầu hết các lĩnh vực, trong đó có giáo dục.
Dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế thế giới đang
chuyển mạnh sang kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, hoạt động chủ yếu
nhất là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức, sử dụng tri thức và biến tri thức thành giá
trị. Lực lượng sản xuất xã hội từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên đang chuyển mạnh
sang dựa chủ yếu vào khả năng và năng lực sáng tạo của con người. Lợi thế cạnh
tranh ngày nay không còn nằm chủ yếu ở tài nguyên thiên nhiên hoặc lao động giá
rẻ, mà nghiêng về tiềm lực tri thức và khoa học - công nghệ, vốn là sản phẩm sáng
tạo của con người. Do vậy, phải xây dựng nền giáo dục Việt Nam nhân bản, phát
huy cao nhất mọi năng lực, phẩm chất vốn có của con người, đào tạo nguồn nhân
lực có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và tiến dần ra thế giới.
Để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, đặc biệt là sự
phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa và kinh
tế tri thức, nhiều quốc gia trên thế giới đã xem xét lại hệ thống giáo dục, tiến hành
điều chỉnh, cải cách giáo dục. Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nhất là những
năm đầu thế kỷ XXI, đã có nhiều chương trình cải cách giáo dục được thực hiện ở
các nước, như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản, Phần Lan, Thụy Điển, Ôx-trây-li-a,
Hàn Quốc, Xin-ga-po... Điều đáng chú ý, đây là những quốc gia đã có nền giáo dục
phát triển, được thế giới ghi nhận, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện cải cách giáo dục,
bởi nhận thức được rõ yêu cầu phải thay đổi để phù hợp với tình hình mới trong nước và quốc tế.
Trải qua hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, trong đó có sự đóng góp của ngành giáo dục. Tuy nhiên, trong bối
cảnh mới hiện nay, đòi hỏi nền giáo dục phải tiếp tục có sự thích ứng kịp thời, nhất
là phải đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng và trình độ ngày càng cao của người dân,
nhanh chóng góp phần tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng.
Một số vấn đề đặt ra đối với ngành giáo dục cần được giải quyết là: Chất lượng giáo
dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; chưa giải quyết tốt mối quan
hệ giữa tăng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, giữa dạy chữ, dạy
người và dạy nghề; nội dung giáo dục và đào tạo còn nặng về lý thuyết, có mặt xa
rời thực tế, chạy theo thành tích, nhiều nơi chưa chú trọng giáo dục đạo đức, ý thức
và trách nhiệm công dân; chương trình giáo dục phổ thông còn quá tải đối với học
sinh; giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu xã hội, chưa
gắn với yêu cầu sử dụng nhân lực, chưa chú trọng giáo dục kỹ năng thực hành nghề
nghiệp; phương pháp dạy và học chậm đổi mới, chưa thực sự phát huy được tính chủ
động, sáng tạo của học sinh, sinh viên; phương pháp và hình thức đánh giá kết quả
học tập còn lạc hậu, phương tiện giảng dạy thiếu thốn; quản lý giáo dục ở một số nơi
còn bất cập, hiện tượng tiêu cực trong tuyển sinh, thi và cấp bằng, lạm thu, dạy thêm
chậm được khắc phục, gây bức xúc xã hội; chất lượng đào tạo của một số trường sư
phạm còn hạn chế, đào tạo giáo viên chưa gắn với nhu cầu của xã hội; công tác quy
hoạch, phát triển cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ nhà giáo ở nhiều nơi chưa được
quan tâm đúng mức; đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn mang tính bình quân, chưa
tập trung các nguồn lực cho đào tạo tài năng; cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc
hậu; quỹ đất dành cho phát triển giáo dục và đào tạo còn thiếu; chế độ, chính sách
đối với cán bộ quản lý giáo dục và nhà giáo chưa thỏa đáng; công tác dự báo nhu
cầu nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chưa đáp
ứng yêu cầu. Đại hội XIII của Đảng đã nhận định: Đổi mới tư duy, hoạt động giáo
dục và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một số nhiệm
vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu quả giáo
dục và đào tạo chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ
và liên thông giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo. Nội dung,
chương trình giáo dục và đào tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ t ự h c hành. Đào tạo vẫn
thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị
trường lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng
người học. Giáo dục “làm người”, đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất
lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và quản lý - quản
trị nhà trường còn nhiều hạn chế. Nghị quyết số 2 -
9 NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI,
“Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế” đã đề ra 7 quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, nhằm thực hiện mục tiêu: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn
diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia
đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo
dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương
thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng
cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc
tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc
dân tộc”. Để thực hiện mục tiêu trên, cần chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách,
năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào,
tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các
tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt
đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri
thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con
người Việt Nam. Đó là nội dung cốt lõi của giáo dục toàn diện cần được quán triệt
và hiện thực hóa trong thực tiễn đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước ta trong giai đoạn mới.
Bài dự thi tham gia Cuộc thi chính luận Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch lần thứ 3, năm 2023 THÔNG TIN:
Họ và tên: Nguyễn Thu Trang Ngày sinh: 15 - 06 - 2002 Mã sinh viên: 205105004 9
Đơn vị: TTĐC K40A1 - Viện báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Số điện thoại: 0328.917.943
Email: nguyenthutrang1562@gmail.com
Địa chỉ liên hệ: Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội