Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vận dụng những quan điểm đó vào công cuộc đổi mới hiện nay |Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư Tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
các vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam đồng thời là nó vừa là sự kết tinh
giữa tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại,Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLCT120314)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Tiểu luận
Môn học: Tư Tưởng Hồ Chí Minh TÊN ĐỀ TÀI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
VẬN DỤNG NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐÓ VÀO CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT120314_17
GVHD: Thái Ngọc Tăng Danh sách sinh viên MSSV
1. Lê Trần Thái Nhân – 19110414 2. Lại Quang Phát – 19110424 3. Trần Duy Phương – 19110439 4. Trần Nhất Quang – 19110442
5. Dương Đức Thắng – 19110461
TP.HỒ CHÍ MINH – 12/2020 Bảng phân công Thứ Nhiệm Vụ Thực Hiện Kết Quả Tự Trần Duy Phương 1 Nội dung chương 1 Hoàn thành tốt Lại Quang Phát Lê Trần Thái Nhân 2 Nội dung chương 2 Hoàn thành tốt Dương Đức Thắng Tổng hợp nội dung, mở 3 Trần Nhất Quang Hoàn thành tốt đầu, kết luận ĐIỂM: TIÊU CHÍ NỘI DUNG BỐ CỤC TRÌNH BÀY TỔNG ĐIỂM SỐ NHẬN XÉT CỦA GV: GV ký tên Mục Lục
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài...............................................................1
3. Phương pháp thực hiện đề tài....................................................................2
4. Cấu trúc đề tài...........................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................3
CHƯƠNG 1: Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc......................................3
1.1. Quan điểm về vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin....................3
1.2. Quan điểm về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh..................3
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh.......................................................3
1.2.2. Thực chất vấn đề dân tộc là vấn đề thuộc địa..............................6
1.2.3. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước..................8
CHƯƠNG 2: Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc trong công
cuộc đổi mới hiện nay.........................................................................................10
2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay.....................................................10
2.2. Tầm quan trọng của quan điểm trong công cuộc đổi mới hiện nay.....12
2.3. Vận dụng vào trong công cuộc đổi mới hiện nay................................13
2.3.1. Cần quán triệt sâu sắc................................................................13
2.3.2.Quan điểm, đường lối trong việc giải quyết vấn đề dân tộc quốc
gia......................................................................................................................15
2.3.3. Quan điểm, đường lối giải quyết vấn đề dân tộc trong nước....17
2.3.4......Tiếp tục kiên trì giải quyết một số vấn đề cơ bản liên quan đến
dân tộc...............................................................................................................17
PHẦN KẾT LUẬN...........................................................................................19 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư Tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
các vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam đồng thời là nó vừa là sự kết tinh
giữa tinh hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ thời đại, vừa thể hiện được tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Người trong việc vận dụng những nguyên lí của chủ
nghĩa Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc thực chất là vấn đề đấu tranh về giải phóng các dân tộc thuộc địa. Sinh
ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại bang
lên tự do độc lập của đất nước, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một người dân
mất nước, cái quí nhất trên đời là độc lập của Tổ Quốc, tự do của nhân dân. Từ
những tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã khái quát chân lý bất di bất
dịch, lẽ phải không ai có thể chối cãi được:” Tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do”. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại
rộng lớn mà còn mang tinh thần nhân văn sâu sắc. Hiện nay, việc tiếp tục hoàn
thiện và nâng cao nhận thức về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là rất
cần thiết và đó cũng là lý do nhóm chúng em chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc. Vận dụng những quan điểm đó vào công cuộc đổi
mới hiện nay”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc đồng thời vận dụng những quan điểm đó vào công cuộc đổi mới hiện
nay. Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, chỉ ra được vấn đề
dân tộc trong TTHCM là vấn đề thuộc địa, làm rõ chủ nghĩa dân tộc là một động
lực lớn của đất nước. 1
- Làm rõ bối cảnh Việt Nam hiện nay, chỉ ra được những mặt còn hạn chế,
chỉ ra sự cần thiết của việc vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
trong bối cảnh hiện nay.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, kết hợp với một số phương pháp
cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích, tổng hợp, quy nạp - diễn dịch…và được
tham khảo từ các nguồn trên sách và internet.
Sử dụng phương pháp luận của chủ tịch Hồ Chí Minh gồm: tính Đảng, tính
khoa học; lý luận gắn với thực tiễn; lịch sử cụ thể; toàn diện nhưng có hệ thống; kế thừa phát triển.
Sử dụng khoa học cụ thể: Phân tích tổng hợp; phương pháp logic học, xã
hội học, đối chiếu lịch sử.
4. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được
chia làm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc
Chương 2: Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay 2 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1. Quan điểm về vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
Thứ nhất, khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có
những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ
chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với
những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có kế thừa và phát triển
hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác
của các thành viên trong cộng đồng đó.
Thứ hai, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền
vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế
thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh
chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Như vậy, nếu theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là bộ phận của quốc gia, là cộng
đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người, còn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là
toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia dân tộc. Với nghĩa như vậy, khái niệm
dân tộc và khái niệm quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao giờ
cũng ra đời trong một quốc gia nhất định và thực tiễn lịch sử chứng minh rằng
những nhân tố hình thành dân tộc chín muồi thường không tách rời với sự chín
muồi của những nhân tố hình thành quốc gia. Đây là những nhân tố bổ sung và
thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình phát triển.
1.2. Quan điểm về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. Karl Marx, Friedrich Engels không đi sâu
giải quyết vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết
trong cách mạng tư sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về
vấn đề dân tộc thuộc địa ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20), cách
mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế 3
giới, nhờ đó V.I. Lênin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa
thành một hệ thống lý luận. Tuy cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu
lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến
lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ
thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn
đề giai cấp. Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra yêu cầu cần vận
dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các
nước thuộc địa trong đó có Việt Nam; chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu đó. Ngày 19 tháng năm 6
1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước,
Hồ Chí Minh đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân
dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các
lý tưởng của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa
của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến
dự hội nghị. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc chịu ảnh hưởng của
lý luận Mác-Lênin, đặc biệt là lý luận của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa
Báo L’Humanité số ra hai ngày 16 và 17-7-1920 đăng toàn văn bản "Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của
V.I.Lênin dưới đầu đề chạy suốt trang một. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý
đặc biệt của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc đã đọc đi đọc lại nhiều lần
và "qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con
đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách thực dân".Sau này Nguyễn Ái
Quốc nhớ lại: "Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng
cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!". 4
Từ đó Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn
đề dân tộc, đồng thời Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thể hiện ở các điểm chính sau:
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc. Hồ
Chí Minh viết trong Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa: "Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Mục đích
của việc dành độc lập dân tộc là đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng "Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì".
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của đất
nước. Hồ Chí Minh đã từng nhận xét: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".
Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế: "Các dân tộc ở đó (ở phương
Đông) không bao giờ có thể ngẩng đầu lên được nếu không gắn bó với giai cấp
vô sản thế giới... Ngày mà hàng trăm triệu người châu Á bị nô dịch và áp bức sẽ
thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một nhóm bọn thực dân tham tàn và
chính họ sẽ hình thành được một lực lượng đồ sộ vừa có thể thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, vừa giúp đỡ
những người anh em phương tây trong sự nghiệp giải phóng". 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời quả quyết và phủ nhận quan điểm cho rằng
mình theo chủ nghĩa dân tộc: Nói rằng lúc còn thanh niên, tôi theo chủ nghĩa
dân tộc, có lẽ không đúng. Vì hồi đó tôi chỉ biết thương đồng bào tôi, chứ chưa
biết chủ nghĩa gì cả. Khi đi sang châu Phi, tôi thấy nhân dân thuộc địa ở đây
cũng cực khổ, cũng bị áp bức, bóc lột như nhân dân Đông Dương. Khi sang các
nước châu Âu, tôi thấy ở đó cũng có một số người rất giàu, “ngồi mát ăn bát
vàng”, và lớp người nhân dân lao động rất nghèo khổ. Tôi suy nghĩ nhiều lắm.
Trong lúc đó thì Cách mạng Tháng Mười vĩ đại thành công ở Nga. Lênin tổ chức
Quốc tế Cộng sản. Rồi Lênin phát biểu Luận cương cách mạng thuộc địa.
Những việc đó làm cho tôi thấy rằng: Nhân dân lao động Đông Dương, nhân
dân các thuộc địa và nhân dân lao động muốn tự giải phóng thì phải đoàn kết lại
và làm cách mạng. Vì vậy, tôi trở nên người theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ". Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội chính là luận điểm trung tâm, nội dung cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chủ trương sách lược chống đế quốc "Phát
động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Khi chủ nghĩa
dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ
nghĩa quốc tế". Nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ
nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”, "chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu
nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự
do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, và
vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc"
1.2.2. Thực chất vấn đề dân tộc là vấn đề thuộc địa
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách
mạng sâu sắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, nhấn mạnh sự kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa 6
quốc tế, đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của
các dân tộc khác. Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc có
những nội dung cần được nhấn mạnh hơn, nhất là thực chất của vấn đề dân tộc ở
thuộc địa, quyền dân tộc tự quyết, đặc biệt là mối quan hệ không thể tách rời
giữa độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề dân tộc
nói chung mà là vấn đề Dân tộc thuộc địa. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa bao gồm:
Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh
dành sự quan tâm đến đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ ách thống trị,
áp bức, bóc lột của nước ngoài; giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực
hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập Nhà nước dân tộc độc lập. Đối tượng của
cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản,
chủ nghĩa đế quốc nói chung. Người dành sự quan tâm đến các thuộc địa, vạch
ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề chống chủ nghĩa thực dân,
vấn đề độc lập dân tộc. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với
chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn
không thể điều hòa được.
Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc. Từ thực tiễn của phong trào
cứu nước của dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát
triển của dân tộc trong bối cảnh mới của thời đại là chủ nghĩa xã hội. Từ thực
tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng
định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới là chủ
nghĩa xã hội. Hoạch định con đường phát triển của dân tộc thuộc địa là một việc
làm hết sức mới mẻ: từ nước thuộc địa lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều
giai đoạn chiến lược khác nhau. Con đường đó, như trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Người viết: Làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Thực chất là con đường
ĐLDT gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự hoạch định con đường phát triển dân 7
tộc của Hồ Chí Minh là biện chứng và khách quan, không nhập hai nhiệm vụ
chống đê quốc và chống phong kiến vào một cuộc cách mạng tư sản dân quyền.
Con đường đó phù hợp với hoàn cảnh của các nước thuộc địa, nó hoàn toàn khác
biệt với các nước đã phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội ở phương Tây. Đây là nét
độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.3. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước
Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc
là một động lực lớn của đất nước”. Chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc nói ở
đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân
Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là một động lực
tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân
tộc. Nó khác về chất so với chủ nghĩa dân tộc Sôvanh, vị kỷ của giai cấp tư sản
đã bị lịch sử lên án.
Theo phân tích của Nguyễn Ái Quốc, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát
triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai
cấp ở đây không diễn ra giống như ở Phương Tây.
Báo cáo về bản chất, tính chất Nguyễn Ái Quốc gởi Quốc tế Cộng sản:
Bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét “về mặt cấu trúc kinh
tế, không giống các xã hội Phương Tây thời Trung cổ cũng như thời cận đại, và
đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”.
Nói về sự phân hóa giai cấp, Người chỉ rõ: “những địa chủ hạng trung và
hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên
luôn… bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ…”nếu
như nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ không có vốn lũy gì lớn…, nếu
thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công
cụ để bóc lột của họ là máy móc;… sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm
thiểu. Điều đó không thể chối cãi được”. Trái lại giữa họ vẫn có một sự tương
đồng lớn: dù họ là địa chủ hay người dân họ đều là người nô lệ mất nước. Chính
vì thế mà có cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, có phong trào Đông Du… 8
Từ luận điểm trên, Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về cương lĩnh hành động của
quốc tế Cộng sản: phát động cách mạng dân tộc bản xứ nhân danh quốc tế Cộng
sản… khi cách mạng dân tộc thắng lợi… nhất định cách mạng dân tộc ấy sẽ biến
thành cách mạng quốc tế. 9
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY
2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay
Phát biểu khai mạc, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Nhật Quang, Phó Chủ tịch
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho biết: Vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc luôn có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc và thực hiện nhiều chính sách dân
tộc quan trọng, những kết quả đạt được có ảnh hưởng sâu sắc đến công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Bên cạnh đó, sự biến đổi của các hình thức sinh kế, biến đổi xã hội (cấu
trúc xã hội, phân tầng xã hội, giá trị xã hội, quan hệ xã hội), sự biến đổi về: văn
hóa, môi trường, tôn giáo, tín ngưỡng cũng như những vấn đề mới trong giáo
dục, đào tạo, y tế, chăm sóc sức khoẻ, dân số, dân cư, lao động, việc làm, thu
nhập... của các tộc người hiện đang đem lại nhiều yếu tố thuận lợi, nhưng cũng
đặt ra không ít khó khăn trong quá trình phát triển bền vững của các tộc người
nói riêng và quốc gia Việt Nam nói chung.
Trong bối cảnh hiện nay, việc nhận diện, đánh giá đúng thực trạng, bản
chất, các yếu tố tác động và ảnh hưởng của những vấn đề lý luận và thực tiễn
mới về tộc người và chính sách dân tộc ở Viêt Nam trong sự so sánh với các vấn
đề tộc người và chính sách dân tộc của những quốc gia láng giềng, nhằm xây
dựng cơ sở khoa học góp phần đổi mới việc hoạch định và thực hiện chính sách
dân tộc, giải quyết các vấn đề dân tộc ở nước ta. Đồng thời, góp phần phát triển
bền vững các tộc người và xây dựng cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam
thống nhất trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế là hết sức quan trọng và có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Nhật Quang nhấn mạnh.
Các tham luận tại hội nghị trung vào những vấn đề như: Chính sách đến
thực tiễn phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số Việt Nam hiện nay; Chính
sách hỗ trợ phát triển và bảo tồn văn hoá các dân tộc thiểu số rất ít người; ý thức
dân tộc và chủ nghĩa dân tộc; vấn đề bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau giữa các 10
dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh; vấn đề xung đột tộc người và quản lý xung
đột từ góc độ chính sách...
Chia sẻ về giải pháp giảm thiểu xung đột tộc người và quản lý xung đột tộc
người từ góc độ chính sách, Thạc sỹ Vũ Tuyết Lan, Viện Dân tộc học cho rằng,
xung đột tộc người luôn có nguy cơ xảy ra vì bản thân mỗi tộc người đã có
những yếu tố có nguy cơ gây nên xung đột. Điều cốt yếu với mỗi quốc gia đó là
việc nhìn nhận, đánh giá các nguy cơ đó cũng như cơ chế ứng phó và xử lý khi
xung đột xảy ra và hậu xung đột như thế nào. Vì vậy, để xây dựng nền tảng
thống nhất và hoà hợp tộc người, mỗi quốc gia cần có cơ chế, giám sát và quản
lý xung đột cùng với chính sách nhằm ứng phó và xử lý khi có xung đột và hậu
xung đột của mỗi quốc gia...
Đến nay, tốc độ phát triển kinh tế nước ta nói chung và vùng dân tộc thiểu
số nói riêng tăng lên khá rõ rệt, tình hình xã hội ổn định, an ninh quốc phòng
được giữ vững, đời sống văn hoá của người dân ngày càng được nâng cao,
quyền của người dân các dân tộc được đảm bảo, tỷ lệ và mức độ đói nghèo liên
tục giảm, chất lượng giáo dục và chăm sóc sức khoẻ được tăng cường, cơ sở hạ
tầng và thông tin truyền thông phát triển tương đối đồng bộ... cùng với đó, công
tác xây dựng, thực hiện, giám sát, tư vấn, đánh giá chính sách nói chung và
chính sách dân tộc nói riêng từng bước được đổi mới, hoàn thiện, thể chế hoá và
thực thi hiệu quả rộng khắp trên cả nước.
Vấn đề dân tộc và tôn giáo từ rất sớm bị các thế lực xâm lược từ bên ngoài,
các thế lực thực dân, đế quốc xem như một “công cụ”, “phương tiện” tất yếu
vừa có tính “mở đường”, vừa là “thường xuyên” trong quá trình thực hiện các ý
đồ xâm lược, chống phá cách mạng. Dân tộc và tôn giáo là hai vấn đề vừa có
tính lịch sử, vừa có tính thời sự hiện nay, đó cũng là các vấn đề nhạy cảm và
phức tạp trong mọi thời kỳ phát triển. Vấn đề dân tộc ở nước ta lại bị các thế lực
thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, bởi mấy lý do sau:
Một là, các dân tộc thiểu số là một bộ phận của quốc gia có đời sống còn
nhiều khó khăn so với mặt bằng chung. Nguyên nhân kinh tế là yếu tố dễ đem ra 11
để so sánh, kích động, dễ nhận biết để lồng vào đó cách giải thích khác nhau
nhằm tạo ra sự nghi kỵ, từ đó phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc, đa số với
thiểu số; thiểu số với thiểu số.
Hai là, mă •t bằng học vấn của đồng bào các dân tộc thiểu số không đồng
đều, nhận thức còn những hạn chế nên dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để
xuyên tạc sự thật về các vấn đề phát triển và quan hệ dân tộc.
Ba là, trình độ quản lý nhà nước về công tác dân tộc của hệ thống chính trị
bên cạnh thành tựu vẫn còn hạn chế, chưa sâu sát, chưa bền vững, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, như nhận thức, cán bộ, cơ chế quản lý, chính sách, xuất phát
điểm của các dân tộc trong phát triển...
Bốn là, xuất phát từ quan điểm chiến lược (thuộc bản chất) của các thế lực
thù địch khi đi xâm lược một thuộc địa hay chiếm đoạt quốc gia khác trước khi
chiếm tài nguyên là chinh phục “người dân bản địa, bản xứ” thông qua con
đường có tính mũi nhọn là “tôn giáo” và “dân tộc”. Lợi dụng đă •c điểm quan hê •
tộc người trong điều kiện các quốc gia đa tộc người; áp dụng chính sách “chia
để trị” để kích động phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
2.2. Tầm quan trọng của quan điểm trong công cuộc đổi mới hiện nay
Để bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc, đáp lại lời kêu gọi của Bác Hồ, nhân
dân Việt Nam đã chiến đấu kiên cường, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” và “không có gì quý hơn độc lập tự
do” đã thực sự là động lực tinh thần to lớn thôi thúc lớp lớp thế hệ người Việt
Nam lên đường chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và đại thắng mùa xuân 1975,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiện nay, khơi dậy và phát huy sức mạnh dân tộc theo chỉ dẫn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là vấn đề vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa là chiến lược lâu
dài của cách mạng Việt Nam. Hạt nhân, nguồn gốc sâu xa và chủ yếu của sức
mạnh dân tộc theo chỉ dẫn của Người chính là tinh thần đại đoàn kết dân tộc dựa
trên sự thống nhất về lợi ích căn bản. Đất nước đang tiến hành công cuộc đổi 12
mới và hội nhập ngày càng sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa với nhiều thời
cơ và vận hội lớn, nhưng cũng đối mặt với những nguy cơ và thách thức không
nhỏ. Trước mắt, Việt Nam phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Vì vậy, hơn bao
giờ hết, khơi dậy và phát huy sức mạnh dân tộc theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tất yếu.
Theo đó, mỗi cá nhân, mỗi tập thể, cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành
chức năng cùng cả hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân về sự cần thiết, ý nghĩa của việc khơi dậy và phát
huy sức mạnh dân tộc theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng cho
phù hợp với tình hình mới. Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là tiếp tục hưởng ứng
Lời kêu gọi toàn dân chống đại dịch Covid-19 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng: “Toàn thể dân tộc Việt Nam hãy cùng chung sức, đồng lòng
vượt qua mọi khó khăn, thách thức để chiến thắng đại dịch Covid-19” và quyết
tâm thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ - vừa bảo đảm sức khỏe, tính mạng
người dân, vừa tìm mọi biện pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ổn
định, giữ vững và phát triển kinh tế với tinh thần “không để một ai bị bỏ lại phía
sau”. Đây chính là biểu hiện sinh động nhất của sức mạnh dân tộc, cũng chính là
trái ngọt của việc phát huy sức mạnh tinh thần yêu nước.
Và hơn bao giờ hết, đối diện với khó khăn, thử thách từ thiên tai, địch họa
và dịch bệnh, người dân Việt Nam lại tìm thấy những chỉ dẫn quý báu của Bác
Hồ về khơi dậy sức mạnh dân tộc để chung sức, đồng lòng xây dựng một nước
Việt Nam giàu mạnh, phát triển bền vững.
2.3. Vận dụng vào trong công cuộc đổi mới hiện nay
2.3.1. Cần quán triệt sâu sắc
Cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự kết hợp
giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩ yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trong toàn đảng toàn dân.
Về sự kết hợp giữa dân tộc và giai cấp, quan điểm nhất quán và xuyên suốt
của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng ta là đặt lợi ích của giai cấp và dân 13
tộc trong mối quan hệ thống nhất biện chứng – lợi ích của giai cấp gắn liền với
lợi ích của dân tộc, lợi ích của dân tộc được thể hiện ở bản chất lợi ích của giai
cấp. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước, bài học kinh nghiệm này càng
được Đảng ta tiếp tục quán triệt và phát huy. Để bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới,
trong tất cả các văn kiện của Đảng luôn khẳng định mục tiêu của cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc và CNXH, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Điều kiện cơ bản bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là trung thành, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có
nghĩa là trung thành với lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và lợi ích dân tộc.
Về sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong những năm tháng đấu tranh gian
lao ấy, tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường của mọi người dân
Việt Nam đã được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, làm nổi bật tinh thần, ý chí và trí tuệ con người Việt Nam. Đó chính là
sức mạnh của lòng yêu nước được hun đúc suốt hàng ngàn năm lịch sử; không
chỉ được bồi đắp mà còn phát triển lên một tầm cao mới, gắn với tinh thần quốc
tế trong sáng. Đó chính là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính hòa
quyện với chủ nghĩa quốc tế cao cả trên tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; là phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đấu tranh để “làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành” trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trở thành nội dung cốt lõi
và xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh - thể hiện sự nhất quán
trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Người. Trong bất kỳ hoàn cảnh
nào thì Hồ Chí Minh cũng luôn đặt mối quan tâm hàng đầu là gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích, lý 14
tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của Anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh: nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mắc, ai cũng được học hành…Đây là
sự phản ánh tính triệt để cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó đã đặt vấn đề giải phóng con
người, hạnh phúc của con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có quan
hệ mật thiết, biện chứng với nhau. Trong đó, độc lập dân tộc là mục tiêu trực
tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Còn chủ nghĩa xã
hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một
cách hoàn toàn triệt để. Với sự nghiệp đổi mới đất nước, chúng ta càng phải
thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội để thực hiện thắng lợi 02 mục tiêu cốt lõi sau: Một là, thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Hai là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong suốt tiến trình đổi mới.
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, con đường cách
mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đang bị chi phối, tác động
mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng
cũng rất nhiều thời cơ, vận hội. Vì vậy, trên cơ sở quan niệm đúng đắn của Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cùng với kinh
nghiệm 75 năm qua, đặc biệt là thực tiễn của hơn 30 năm đổi mới, cho phép
chúng ta hoàn toàn hiểu được thực chất của độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Đảng cộng sản và dân tộc Việt Nam
2.3.2. Quan điểm, đường lối trong việc giải quyết vấn đề dân tộc quốc gia
Thứ nhất, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia - độc lập dân tộc trong thời
kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước. Xây dựng kinh tế độc lập,
tự chủ, chủ động hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 27-11-2001, 15
của Bộ Chính trị khóa IX xác định nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó
nhấn mạnh chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Hội nhập quốc tế tranh thủ hòa bình, phát triển
kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ hai, đổi mới và thống nhất nhận thức kịp thời xây dựng độc lập, tự chủ
và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới. Giải quyết tốt 8 mối quan hệ đặt ra
và giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Độc lập và tự chủ có liên quan mật
thiết nhưng không đồng nhất nhau và đều có những nội hàm riêng trên thực tế.
Độc lập là quyền và sự công nhận chủ quyền, là sự khẳng định tính đơn nhất
nhưng vẫn nằm trong thế đan xen, hợp tác trong các khối kinh tế, chính trị. Tự
chủ là sự chủ động, tự quyết và tự giải quyết các vấn đề thuộc về quốc gia độc
lập, trên nguyên tắc không can thiệp. Vấn đề quan trọng nhất là nâng cao tự chủ quốc gia.
Độc lập chính trị là vô cùng quan trọng và được coi là nguyên tắc bất di bất
dịch trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Chính trị ở đây là vấn đề nhà
nước và chính quyền. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quản trị toàn cầu đang trở
thành một xu hướng đan xen và tồn tại bên cạnh quản trị quốc gia, trong quản lý
quốc gia như một phương thức quản trị hữu hiệu.
Thứ ba, nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời giải quyết có hiệu
quả mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế. Độc lập, tự chủ phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế, quân sự của quốc gia.
Sức mạnh đó bao gồm các cấu thành: Tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật, quốc
phòng và an ninh; các giá trị truyền thống và đương đại Việt Nam, bao gồm cả
các hệ giá trị mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước; củng cố vị thế quốc
gia trên trường quốc tế và khu vực, củng cố chủ quyền quốc gia trên cả vùng
biển và đất liền, củng cố và bảo vệ độc lập, dân tộc.
Thứ tư, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ này cần được nhận 16