Tư tưởng nhân văn HCM là gì? môn tư tưởng Hồ Chí Minh | Trường đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một tư tưởng nổi bật trong hệthống tư tưởng của Người. Đó là tư tưởng hạt nhân chỉ đạo quá trình đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, chế độ phong kiến phản động, giành độc lập cho Tổ quốc Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào.Tài liệu giúp bạn tham  khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 47708777
SEMINAR LẦN 2
I, Tư tưởng nhân văn HCM là gì?
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh một tưởng nổi bật trong hệ thống tư tưởng
của Người. Đó là tư tưởng hạt nhân chỉ đạo quá trình đấu tranh nhằm lật đổ ách thống tr
của chủ nghĩa thực dân, chế độ phong kiến phản động, giành độc lập cho Tổ quốc Việt
Nam, xây dựng chủ nghĩa hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng
bào. tưởng đó phản ánh khát vọng độc lập, tự đo, hoà bình của dân tộc Việt Nam, nâng
cao lên một chất lượng mới tư tưởng lấy đại nghĩa để thắng hung tàn của dân tộc ta, thực
sự động viên, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của nhân dân vào cuộc giải phóng dân
tộc, xây dựng chế độ mới, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam.
II, Các khía cạnh nhân văn trong tư tưởng nhân văn HCM?
1, Lý tưởng nhân văn là gì? Lý tưởng nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu
nói nào?
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chủ yếu những tưởng định hướng, hướng
dẫn, tập hợp tổ chức nhân dân Việt Nam, phát huy sức mạnh của con người Việt Nam
đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội nhằm mang lại tự do hạnh phúc cho nhân
dân Việt Nam và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội.
Văn bản số 55:
Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi." Câu này thể hiện tinh thần hy sinh cam kết
tuyệt đối của Hồ Chí Minh đối với việc phục vụ hướng dẫn dân tộc. Hồ Chí Minh
không chỉ xem việc cống hiến bản thân cho dân tộc là một nghĩa vụ, còn một
tưởng cao cả mà anh tin tưởng tận tụy theo đuổi. Việc này phản ánh tinh thần tôn trọng
con người tưởng chủ nghĩa nhân văn của Hồ Chí Minh, trong đó con người luôn
được đặt lên hàng đầu, và mọi hành động đều phải phục vụ lợi ích cộng đồng và dân tộc.
Văn bản số 58:
“Tôi chỉ một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành.” Câu này không chỉ thể hiện tầm nhìn khát vọng cao cả của
Người về một Việt Nam độc lập và tự do, mà còn cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến từng
người dân, với mong muốn mọi người đều có cuộc sống đầy đủ và cơ hội học tập.
2. Tình cảm nhân văn là gì? Tình cảm nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu
nói nào?
Tình cảm nhân văn là sự hiểu biết và lòng nhân ái đối với con người khác, đồng thời
là khả năng đặt mình vào tình huống của họ và cảm thông với họ. Nó không chỉ đơn giản
lOMoARcPSD| 47708777
là việc thể hiện sự đồng cảm, mà còn liên quan đến việc hành động theo đạo đức và trách
nhiệm xã hội.
Văn bản số 55:
Mỗi người mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau
khổ riêng của mỗi người mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi” Thể hiện tình
cảm bao la của Bác đối với nhân dân ở niềm Nam không được hưởng sự hoà bình, đồng
thời cảm thông cho những đau thương mất mát mà đồng bào phải gánh chịu Nỗi đau kh
bao gồm những nỗi đau-Nước Việt Nam là gia đình tôi .
Văn bản số 56:
“Nước Việt Nam đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt nam con cháu
tôi. Mất một thanh niên, thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.” Câu này thể hiện tình cảm
sâu sắc quan điểm nhân văn của Hồ Chí Minh, khi ông coi toàn thể thanh niên Việt
Nam ncon cháu của mình đau đớn trước sự hy sinh của họ. Quan điểm này phản
ánh tinh thần đại đoàn kết và tình yêu thương con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, mà ông đã
không ngừng nhấn mạnh trong suốt cuộc đời mình Văn bản số 57:
“Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi
động lòng.” Câu này thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của Hồ Chí Minh đối với những người
đang phải chịu cảnh đói khổ. Ông kêu gọi mọi người hãy nhìn nhận cảm nhận được
nỗi đau ca những người kém may mắn hơn trong xã hội, từ đó hành động để giúp đhọ.
Đây không chỉ là lời kêu gọi hành động cụ thể như việc nhịn ăn để dành gạo cứu trợ,
còn một thông điệp nhân văn sâu sắc, phản ánh tinh thần tương thân tương ái lòng
nhân ái mà Hồ Chí Minh luôn muốn truyền đạt cho mọi người.
3. Hành động nhân văn là gì? Hành động nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong
câu nói nào?
Hành động nhân văn giúp đỡ người khác mà không cần nhận lạ Văn
bản số 57 :
“Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10
ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu
dân nghèo. Câu này không chỉ thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với những người
nghèo khổ mà còn cho thấy tấm gương về việc hành động trước, tự mình thực hiện lời
kêu gọi mà không chỉ đơn thuần lời nói. Hồ Chí Minh không chỉ kêu gọi mọi người
cùng chia sẻ khó khăn mà còn tự mình đi đầu, thể hiện sự quan tâm thực sự và sẵn sàng
hy sinh lợi ích nhân lợi ích chung của cộng đồng. Đây biểu hiện của tưởng
nhân văn, luôn đặt con người và sự sống còn của họ lên hàng đầu.
lOMoARcPSD| 47708777
4. Pháp trị nhân văn là gì? Pháp trị nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói
nào?
Pháp trị nhân văn pháp luật được xây dựng thực thi trên sở tôn trọng quyền
con người, quyền công dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước.
Văn bản số 60 :
“Nhục hình lối man, cách của đế quốc bản phong kiến, nó dùng để trị
quần chúng, trị cách mạng. Chúng ta có chính sách đúng, có lý lẽ đúng, có lực lượng
mạnh, sao còn dùng cách man ?” Điều này phản ánh quan điểm của Người về việc
xử lý công bằng và nhân đạo, không sử dụng bạo lực hay hình phạt tàn nhẫn, thay vào
đó là dựa vào chính sách đúng và lý lẽ đúng. Đây là một biểu hiện của việc áp dụng pháp
luật một cách công bằng bảo vệ quyền lợi của người yếu thế, điều Hồ Chí Minh
luôn nhấn mạnh trong tư tưởng của mình.
5. Lối sống nhân văn là gì? Lối sống nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói
nào?
Lối sống gần gũi thân tình khoan dung độ lượng với con người, sống vui vẻ lạc quan
cách mạng. Sống hài hoà trong suy nghĩ, trong giao tiếp và hoạt động, sống hoà hợp với
thiên nhiên. Sống hoạt bát khẩn trưởng và khoa học, không lề mề luộm thuộm.
Văn bản số 55:
“Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi” Văn
bản số 56:
“vật chất của họ mất nhưng tinh thần của họ vẫn luôn sống với non sông Việt Nam”
“Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi” Văn
bản số 57:
“Cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạođó( mỗi bữa một bơ) để cứu
dân nghèo”.
Văn bản số 58:
“Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng
hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ ghái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu với
vòng danh lợi”
Văn bản số 59 :
“Thưa bác nhân, nhân dân ta có câu: “tối lử tắt đèn có nhau’’
“Đúng là như vậy! Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghia như thế”
lOMoARcPSD| 47708777
“ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân phần xấu
bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng” Văn bản số 60:
“Chúng ta chính sách đúng, lí lẽ đúng, lực lượng mạnh, sao còn dùng cách
mạng dã man? Dùng nhục hình là chưa tẩy sạch tưởng dã man, đầu óc phong kiến đế
quốc”.
6. Giáo dục nhân văn là gì? Giáo dục nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói
nào?
Giáo dục nhân văn Hồ Chí Minh (HCM) một qtrình giáo dục dựa trên triết
giáo dục vì sự phát triển toàn diện của con người và bền vững xã hội. Nó bắt nguồn từ
tưởng nhân văn và chủ đề phổ biến trong giáo dục đại học, đặc biệt là ở Việt Nam. Giáo
dục nhân văn HCM nhấn mạnh việc đào tạo những nhân toàn diện, giàu văn hóa
đáp ứng nhu cầu của đời sống hiện đại, đồng thời trau dồi tinh thần nhân văn.
Nói cách khác, giáo dục nhân văn HCM lấy người học làm trung tâm, "trao quyền" cho
họ, kvọng đề cao hệ giá trị con người. Đây một phương pháp học tập tốt cần
được phát triển để phản ánh bốn trụ cột của một nền giáo dục hoàn chỉnh: học để biết, để
làm, để tồn tại và để sống cùng nhau¹.
Chủ nghĩa nhân văn của Hồ Chí Minh cũng gắn liền với việc tôn trọng quyền con
người, phát triển duy hành động theo các giá trị cao quý chuẩn mực nhân đạo,
nhằm mục tiêu giáo dục và phát triển con người một cách toàn diện.
Văn bản 59:
"Mỗi con người đều thiện ác trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng" Câu này nhấn mạnh vào việc phát triển những phẩm chất tốt
đẹp loại bỏ những tính xấu trong mỗi con người, phản ánh quan điểm của Người về s
cải tạo và phát triển con người theo hướng tích cực, làm nổi bật tầm quan trọng của việc
giáo dục đạo đức và nhân cách.
Văn bản 60 :
"Đối với những người thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại tổ quốc và nhân
dân ta phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở
để đẩy lùi cái ác chứ không phải đập cho tơi bời" Bác coi con người trung tâm của
mọi hoạt động của hội và xem việc giáo dục và đào tạo nhân cách cùng quan
trọng. Bác không chỉ đề cao sự tiến bộ về mặt kinh tế kỹ thuật còn quan tâm đến
việc xây dựng một tập thể xã hội với tư tưởng đạo đức cao, lòng yêu nước, tinh thần hợp
tác và đoàn kết.
lOMoARcPSD| 47708777
Chứng minh vai trò chủ đạo của giáo dục nhân văn với các khía cạnh nhân văn còn
lại?
So với các khía cạnh nhân n khác, giáo dục nhân văn lại giữ vai trò chủ đạo, Giáo
dục nhân văn đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành phát triển các khía
cạnh nhân văn khác, nền tảng hình thành một con người "đầy đủ", ích cho hội,
chỉ khi con người cái giáo dục cơ bản thì mới có thể tiếp nhận các khía cạnh nhân khác
:
Lý tưởng nhân văn: được nuôi dưỡng qua giáo dục, giúp con người hình thành quan
điểm sống mục tiêu phấn đấu cho cuộc đời mình. Giáo dục nhân văn cung cấp nền
tảng tri thức và giá trị để mỗi người có thể xác định lý tưởng của mình.
Tình cảm nhân văn: phát triển từ việc hiểu và thấu cảm với người khác, là kết quả của
quá trình giáo dục về tình thương, sự đồng cảm và lòng nhân ái.
Hành động nhân văn: biểu hiện cụ thể của lý tưởng tình cảm nhân văn. Giáo
dục nhân văn hướng dẫn con người cách biến những tưởng tình cảm thành hành
động thiết thực, mang lại lợi ích cho cộng đồng và xã hội.
Pháp trị nhân văn: việc áp dụng các nguyên tắc nhân văn vào trong quản tổ
chức xã hội. Giáo dục nhân văn giúp con người hiểu và thực hiện các quy định pháp luật
một cách có trách nhiệm và công bằng.
Lối sống nhân văn: kết quả của tất cả các khía cạnh trên, thể hiện qua cách sống hàng
ngày của mỗi người. Giáo dục nhân văn hướng dẫn con người sống đạo đức, trách
nhiệm và hài hòa với môi trường xung quanh.
Như vậy, giáo dục nhân văn không chỉ nền tảng cho sự phát triển toàn diện của
con người n chìa khóa để mở ra nh cửa của các khía cạnh nhân văn khác,
tạo nên một xã hội phát triển bền vững và hạnh phúc.
III. Mối quan hệ giữa các khía cạnh nhân văn.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi Người hội tụ được
các tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại: Văn minh châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, với các
hệ tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng, tưởng hội chủ nghĩa không tưởng Ý,
Pháp... Đặc biệt, tư tưởng nhân văn đó trở thành lý luận khoa học, như một lý thuyết vững
chắc khi người gặp tưởng cộng sản chủ nghĩa với các lãnh tụ thiên i C.Mác, Ph.Ănghen,
V.I.Lênin.
tưởng cộng sản chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh nâng những nhu cầu tính nhân
bản lên tầm cao đó tính nhân văn thực thụ. Tính nhân văn đây không còn bị giới hạn
trong khuôn khổ giải quyết vấn đề vị trí của con người, tách con người khỏi kiếp ngựa trâu
do chế đlệ kìm kẹp, làm cho btha hóa, giải quyết vấn đề xây dựng vị thế con
người trong xã hội mới.
lOMoARcPSD| 47708777
tưởng của Người lúc này không chỉ là xóa bỏ tình trạng tha hóa, đưa con người về
đúng vị trí của mình phát huy mọi tiềm năng của con người đxây dựng một cuộc
sống mới. Thực hiện tư tưởng nhân văn bản chủ nghĩa - tự do, bình đẳng, bác ái, từng
bước thực hiện lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội cộng đồng và hòa
nhập, đó con người không chỉ điều kiện để phát huy mọi tiềm lực, tài năng xây dựng
hội mới, n phát triển toàn diện chính bản thân con người với cách mục đích
tối cao của con người.
Đây là tính nhân văn cao nhất của con người, của xã hội loài người trên phương diện
thuyết. tưởng này ở tầm cao hơn, sâu hơn còn bởi nó mở ra tính nhân văn đại của
chủ nghĩa cộng sản, về phương hướng thực hiện mục đích tối cao của con người: Con người
là mục đích của sự phát triển lịch sử, của mọi hoạt động của chính mình. Hai là, giá trị nhân
văn Hồ Chí Minh mang tính khoa học, cách mạng và hiện thực sâu sắc. Chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực, cách mạng. Người ta thường nói,
Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động, tcũng thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh
là một nhà nhân văn hành động, hành động nhằm giải phóng con người.
Tinh thần nhân văn đặc sắc của Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng biến tưởng thành
hiện thực trên cơ sở mt sự hiểu biết chắc chắn các điều kiện hiện tại và quy luật xã hội đặc
thù của mt nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Cốt lõi thế giới quan duy
vật, phương pháp khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển
hóa thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh, rồi nó lại được thăng hoa, biến
hóa thành một chất tưởng mới rất riêng, đó hòa quyện chiều sâu luận với sinh khí
cuộc sống.
Tiếp thu bản chất cách mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tất cả tình thương người, tình
yêu cuộc sống, khát vọng xây dựng tương lai thành hành động để đưa những tưởng,
tưởng, ước mơ đó thành hiện thực.
Để thực hiện lý tưởng nhân văn "không có gì quý hơn độc lập, tự do", Hồ Chí Minh
đã nghiên cứu bản chất thật sự của chủ nghĩa thực dân, phát hiện các mâu thuẫn trong nó,
nắm bắt thấu đáo nhu cầu phát triển khách quan của xã hội Việt Nam, xu thế vận động của
thế giới, khảo cứu các cuộc cách mạng điển hình để vạch ra con đường đi cho cách mạng
Việt Nam: Con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ
thực tiễn xã hội Việt Nam, vận dụng sáng tạo phương pháp hành động biện chứng mácxít,
Hồ Chí Minh đã luận chứng một cách khoa học mục tiêu phát triển con người chỉ có thể đạt
được thông qua thực hiện "ba cuộc giải phóng": Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Ba cuộc giải phóng đó vừa kết hợp chặt chẽ với nhau, lại vừa nối tiếp
nhau trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp chặt chẽ được thể hiện ở chỗ
trong giải phóng dân tộc đã một phần giải phóng giai cấp giải phóng con người; sự
nối tiếp được thể hiện ở chỗ giải phóng dân tộc sẽ mở đường cho giải phóng giai cấp giải
phóng con người được đẩy mạnh.
lOMoARcPSD| 47708777
IV. Phân tích các khía cạnh nhân văn HCM trong đoạn Bác viết “về Việc riêng” trong
bản “Di chúc” (tài liệu số 61- giáo trình).
Trong Di chúc, điều làm chúng ta xúc động khi Người viết "Về việc riêng". Viết "về việc
riêng", nhưng Người lại không dành bất kỳ điều gì riêng cho cá nhân, mà toát lên qua từng
câu, từng chữ là lòng yêu thương con người, tất cả vì những người đang sống. Bởi suốt đời
Người phấn đấu cũng hạnh phúc của nhân dân, bởi mục đích của Người trước, sau vẫn
không hề thay đổi: “Tôi chỉ một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai ng cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành".
"Cái riêng" của Người đã hòa quyện trong "cái chung" của dân tộc. Vì thế mà trước lúc
đi xa Bác “không có điều phải hối hận” chtiếc duy nhất một điều - một điều cao cả,
“không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho dân, cho nước. Ở cả 3 bản Di chúc
1965, 1968, 1969, Người đều căn dặn, khi Người mất, "chớ nên tổ chức điếu phúng linh
đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân".
Đọc Di chúc, không khỏi xúc động bởi từng câu, từng chữ đều toát lên lòng yêu
thương con người, toát lên cách sống giản dị, cần kiệm, không bao giờ khái niệm đặc
quyền, đặc lợi ca Bác.
người sáng lập Đảng, là lãnh đạo cao nhất của Đảng cho đến khi viết Di chúc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn vnhững việc Đảng phải làm mong muốn cuối cùng” của
Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết để thực hiện được mục tiêu lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân, để “điều phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, p phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Như con tằm nhả đến sợi tơ cuối cùng, như một ngọn nến cháy sáng đến giọt sáp cuối
cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ stuyệt đối trung thành với lẽ sống ca đời mình: Tận
tụy phục vụ đồng bào, vui niềm vui chung của toàn dân tộc, đau nỗi khổ đau riêng của từng
người, từng số phận, đúng như Người trả lời phỏng vấn phóng viên báo Granma của Đảng
Cộng sản Cuba: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”.
Những dòng Người gửi lại trong Di chúc “Về việc riêng” chính bài học lớn cho
mọi thế hệ về đạo đức “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Cán bộ, công chức cần
kiệm - liêm chính mới hành xử chí công - vô tư được!
Nửa thế kỷ đã qua từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại Di chúc. Đất nước đã thu về
một cõi, công cuộc đổi mới nền kinh tế đã làm cho đời sống của đại bộ phận người dân được
cải thiện rệt, nhưng công bằng nói, còn nhiều vấn đcán bộ, công chức mới chỉ
“học tập” chưa “làm theo” đúng mức những việc Bác Hồ căn dặn, đặc biệt chưa thực
hiện đầy đủ “Việc lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc hại cho dân thì
phải hết sức tránh”.
| 1/7

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47708777 SEMINAR LẦN 2
I, Tư tưởng nhân văn HCM là gì?
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một tư tưởng nổi bật trong hệ thống tư tưởng
của Người. Đó là tư tưởng hạt nhân chỉ đạo quá trình đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân, chế độ phong kiến phản động, giành độc lập cho Tổ quốc Việt
Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng
bào. Tư tưởng đó phản ánh khát vọng độc lập, tự đo, hoà bình của dân tộc Việt Nam, nâng
cao lên một chất lượng mới tư tưởng lấy đại nghĩa để thắng hung tàn của dân tộc ta, thực
sự động viên, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của nhân dân vào cuộc giải phóng dân
tộc, xây dựng chế độ mới, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam.
II, Các khía cạnh nhân văn trong tư tưởng nhân văn HCM?
1, Lý tưởng nhân văn là gì? Lý tưởng nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói nào?
Lý tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chủ yếu là những tư tưởng định hướng, hướng
dẫn, tập hợp tổ chức nhân dân Việt Nam, phát huy sức mạnh của con người Việt Nam
đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm mang lại tự do hạnh phúc cho nhân
dân Việt Nam và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc và tiến bộ xã hội. Văn bản số 55:
Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi." Câu này thể hiện tinh thần hy sinh và cam kết
tuyệt đối của Hồ Chí Minh đối với việc phục vụ và hướng dẫn dân tộc. Hồ Chí Minh
không chỉ xem việc cống hiến bản thân cho dân tộc là một nghĩa vụ, mà còn là một lý
tưởng cao cả mà anh tin tưởng và tận tụy theo đuổi. Việc này phản ánh tinh thần tôn trọng
con người và lý tưởng chủ nghĩa nhân văn của Hồ Chí Minh, trong đó con người luôn
được đặt lên hàng đầu, và mọi hành động đều phải phục vụ lợi ích cộng đồng và dân tộc. Văn bản số 58:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành.”
Câu này không chỉ thể hiện tầm nhìn và khát vọng cao cả của
Người về một Việt Nam độc lập và tự do, mà còn cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến từng
người dân, với mong muốn mọi người đều có cuộc sống đầy đủ và cơ hội học tập.
2. Tình cảm nhân văn là gì? Tình cảm nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói nào?
Tình cảm nhân văn là sự hiểu biết và lòng nhân ái đối với con người khác, đồng thời
là khả năng đặt mình vào tình huống của họ và cảm thông với họ. Nó không chỉ đơn giản lOMoAR cPSD| 47708777
là việc thể hiện sự đồng cảm, mà còn liên quan đến việc hành động theo đạo đức và trách nhiệm xã hội. Văn bản số 55:
“ Mỗi người mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau
khổ riêng của mỗi người mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi” Thể hiện tình
cảm bao la của Bác đối với nhân dân ở niềm Nam không được hưởng sự hoà bình, đồng
thời cảm thông cho những đau thương mất mát mà đồng bào phải gánh chịu Nỗi đau khổ
bao gồm những nỗi đau-Nước Việt Nam là gia đình tôi . Văn bản số 56:
“Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt nam là con cháu
tôi. Mất một thanh niên, thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.” Câu này thể hiện tình cảm
sâu sắc và quan điểm nhân văn của Hồ Chí Minh, khi ông coi toàn thể thanh niên Việt
Nam như con cháu của mình và đau đớn trước sự hy sinh của họ. Quan điểm này phản
ánh tinh thần đại đoàn kết và tình yêu thương con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, mà ông đã
không ngừng nhấn mạnh trong suốt cuộc đời mình Văn bản số 57:
“Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi
động lòng.” Câu này thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của Hồ Chí Minh đối với những người
đang phải chịu cảnh đói khổ. Ông kêu gọi mọi người hãy nhìn nhận và cảm nhận được
nỗi đau của những người kém may mắn hơn trong xã hội, từ đó hành động để giúp đỡ họ.
Đây không chỉ là lời kêu gọi hành động cụ thể như việc nhịn ăn để dành gạo cứu trợ, mà
còn là một thông điệp nhân văn sâu sắc, phản ánh tinh thần tương thân tương ái và lòng
nhân ái mà Hồ Chí Minh luôn muốn truyền đạt cho mọi người.
3. Hành động nhân văn là gì? Hành động nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói nào?
Hành động nhân văn mà giúp đỡ người khác mà không cần nhận lạ Văn bản số 57 :
“Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10
ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu
dân nghèo.”
Câu này không chỉ thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với những người
nghèo khổ mà còn cho thấy tấm gương về việc hành động trước, tự mình thực hiện lời
kêu gọi mà không chỉ đơn thuần là lời nói. Hồ Chí Minh không chỉ kêu gọi mọi người
cùng chia sẻ khó khăn mà còn tự mình đi đầu, thể hiện sự quan tâm thực sự và sẵn sàng
hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của cộng đồng. Đây là biểu hiện của tư tưởng
nhân văn, luôn đặt con người và sự sống còn của họ lên hàng đầu. lOMoAR cPSD| 47708777
4. Pháp trị nhân văn là gì? Pháp trị nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói nào?
Pháp trị nhân văn là pháp luật được xây dựng và thực thi trên cơ sở tôn trọng quyền
con người, quyền công dân, phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước. Văn bản số 60 :
“Nhục hình là lối dã man, là cách của đế quốc tư bản phong kiến, nó dùng để trị
quần chúng, trị cách mạng. Chúng ta có chính sách đúng, có lý lẽ đúng, có lực lượng
mạnh, sao còn dùng cách dã man ?”
Điều này phản ánh quan điểm của Người về việc
xử lý công bằng và nhân đạo, không sử dụng bạo lực hay hình phạt tàn nhẫn, mà thay vào
đó là dựa vào chính sách đúng và lý lẽ đúng. Đây là một biểu hiện của việc áp dụng pháp
luật một cách công bằng và bảo vệ quyền lợi của người yếu thế, điều mà Hồ Chí Minh
luôn nhấn mạnh trong tư tưởng của mình.
5. Lối sống nhân văn là gì? Lối sống nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói nào?
Lối sống gần gũi thân tình khoan dung độ lượng với con người, sống vui vẻ lạc quan
cách mạng. Sống hài hoà trong suy nghĩ, trong giao tiếp và hoạt động, sống hoà hợp với
thiên nhiên. Sống hoạt bát khẩn trưởng và khoa học, không lề mề luộm thuộm. Văn bản số 55:
“Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi” Văn bản số 56:
“vật chất của họ mất nhưng tinh thần của họ vẫn luôn sống với non sông Việt Nam”
“Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi” Văn bản số 57:
“Cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạođó( mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”. Văn bản số 58:
“Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng
hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ giá hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi” Văn bản số 59 :
“Thưa bác nhân, nhân dân ta có câu: “tối lử tắt đèn có nhau’’
“Đúng là như vậy! Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghia như thế” lOMoAR cPSD| 47708777
“ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu
bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng” Văn bản số 60:
“Chúng ta có chính sách đúng, có lí lẽ đúng, có lực lượng mạnh, sao còn dùng cách
mạng dã man? Dùng nhục hình là chưa tẩy sạch tư tưởng dã man, đầu óc phong kiến đế quốc”.
6. Giáo dục nhân văn là gì? Giáo dục nhân văn HCM thể hiện rõ nhất trong câu nói nào?
Giáo dục nhân văn Hồ Chí Minh (HCM) là một quá trình giáo dục dựa trên triết lý
giáo dục vì sự phát triển toàn diện của con người và bền vững xã hội. Nó bắt nguồn từ tư
tưởng nhân văn và chủ đề phổ biến trong giáo dục đại học, đặc biệt là ở Việt Nam. Giáo
dục nhân văn HCM nhấn mạnh việc đào tạo những cá nhân toàn diện, giàu văn hóa và
đáp ứng nhu cầu của đời sống hiện đại, đồng thời trau dồi tinh thần nhân văn.
Nói cách khác, giáo dục nhân văn HCM lấy người học làm trung tâm, "trao quyền" cho
họ, kỳ vọng và đề cao hệ giá trị con người. Đây là một phương pháp học tập tốt và cần
được phát triển để phản ánh bốn trụ cột của một nền giáo dục hoàn chỉnh: học để biết, để
làm, để tồn tại và để sống cùng nhau¹.
Chủ nghĩa nhân văn của Hồ Chí Minh cũng gắn liền với việc tôn trọng quyền con
người, phát triển tư duy và hành động theo các giá trị cao quý và chuẩn mực nhân đạo,
nhằm mục tiêu giáo dục và phát triển con người một cách toàn diện. Văn bản 59:
"Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng
" Câu này nhấn mạnh vào việc phát triển những phẩm chất tốt
đẹp và loại bỏ những tính xấu trong mỗi con người, phản ánh quan điểm của Người về sự
cải tạo và phát triển con người theo hướng tích cực, làm nổi bật tầm quan trọng của việc
giáo dục đạo đức và nhân cách. Văn bản 60 :
"Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại tổ quốc và nhân
dân ta phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở
để đẩy lùi cái ác chứ không phải đập cho tơi bời"
Bác coi con người là trung tâm của
mọi hoạt động của xã hội và xem việc giáo dục và đào tạo nhân cách là vô cùng quan
trọng. Bác không chỉ đề cao sự tiến bộ về mặt kinh tế và kỹ thuật mà còn quan tâm đến
việc xây dựng một tập thể xã hội với tư tưởng đạo đức cao, lòng yêu nước, tinh thần hợp tác và đoàn kết. lOMoAR cPSD| 47708777
Chứng minh vai trò chủ đạo của giáo dục nhân văn với các khía cạnh nhân văn còn lại?
So với các khía cạnh nhân văn khác, giáo dục nhân văn lại giữ vai trò chủ đạo, vì Giáo
dục nhân văn đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các khía
cạnh nhân văn khác, là nền tảng hình thành một con người "đầy đủ", có ích cho xã hội,
chỉ khi con người có cái giáo dục cơ bản thì mới có thể tiếp nhận các khía cạnh nhân khác :
Lý tưởng nhân văn: được nuôi dưỡng qua giáo dục, giúp con người hình thành quan
điểm sống và mục tiêu phấn đấu cho cuộc đời mình. Giáo dục nhân văn cung cấp nền
tảng tri thức và giá trị để mỗi người có thể xác định lý tưởng của mình.
Tình cảm nhân văn: phát triển từ việc hiểu và thấu cảm với người khác, là kết quả của
quá trình giáo dục về tình thương, sự đồng cảm và lòng nhân ái.
Hành động nhân văn: là biểu hiện cụ thể của lý tưởng và tình cảm nhân văn. Giáo
dục nhân văn hướng dẫn con người cách biến những tư tưởng và tình cảm thành hành
động thiết thực, mang lại lợi ích cho cộng đồng và xã hội.
Pháp trị nhân văn: là việc áp dụng các nguyên tắc nhân văn vào trong quản lý và tổ
chức xã hội. Giáo dục nhân văn giúp con người hiểu và thực hiện các quy định pháp luật
một cách có trách nhiệm và công bằng.
Lối sống nhân văn: là kết quả của tất cả các khía cạnh trên, thể hiện qua cách sống hàng
ngày của mỗi người. Giáo dục nhân văn hướng dẫn con người sống có đạo đức, trách
nhiệm và hài hòa với môi trường xung quanh.
Như vậy, giáo dục nhân văn không chỉ là nền tảng cho sự phát triển toàn diện của
con người mà còn là chìa khóa để mở ra cánh cửa của các khía cạnh nhân văn khác,
tạo nên một xã hội phát triển bền vững và hạnh phúc.

III. Mối quan hệ giữa các khía cạnh nhân văn.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi Người hội tụ được
các tư tưởng tiến bộ toàn nhân loại: Văn minh châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, với các
hệ tư tưởng nhân văn Phục hưng, Khai sáng, tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Ý,
Pháp... Đặc biệt, tư tưởng nhân văn đó trở thành lý luận khoa học, như một lý thuyết vững
chắc khi người gặp tư tưởng cộng sản chủ nghĩa với các lãnh tụ thiên tài C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin.
Tư tưởng cộng sản chủ nghĩa đã giúp Hồ Chí Minh nâng những nhu cầu có tính nhân
bản lên tầm cao đó là tính nhân văn thực thụ. Tính nhân văn ở đây không còn bị giới hạn
trong khuôn khổ giải quyết vấn đề vị trí của con người, tách con người khỏi kiếp ngựa trâu
do chế độ nô lệ kìm kẹp, làm cho bị tha hóa, mà là giải quyết vấn đề xây dựng vị thế con
người trong xã hội mới. lOMoAR cPSD| 47708777
Tư tưởng của Người lúc này không chỉ là xóa bỏ tình trạng tha hóa, đưa con người về
đúng vị trí của mình mà là phát huy mọi tiềm năng của con người để xây dựng một cuộc
sống mới. Thực hiện tư tưởng nhân văn tư bản chủ nghĩa - tự do, bình đẳng, bác ái, từng
bước thực hiện lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa, tiến tới một xã hội cộng đồng và hòa
nhập, ở đó con người không chỉ có điều kiện để phát huy mọi tiềm lực, tài năng xây dựng
xã hội mới, mà còn phát triển toàn diện chính bản thân con người với tư cách là mục đích tối cao của con người.
Đây là tính nhân văn cao nhất của con người, của xã hội loài người trên phương diện
lý thuyết. Tư tưởng này ở tầm cao hơn, sâu hơn còn bởi vì nó mở ra tính nhân văn vĩ đại của
chủ nghĩa cộng sản, về phương hướng thực hiện mục đích tối cao của con người: Con người
là mục đích của sự phát triển lịch sử, của mọi hoạt động của chính mình. Hai là, giá trị nhân
văn Hồ Chí Minh mang tính khoa học, cách mạng và hiện thực sâu sắc. Chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn khoa học, hiện thực, cách mạng. Người ta thường nói,
Hồ Chí Minh là một nhà triết học hành động, thì cũng có thể nói nhà nhân văn Hồ Chí Minh
là một nhà nhân văn hành động, hành động nhằm giải phóng con người.
Tinh thần nhân văn đặc sắc của Hồ Chí Minh thể hiện ở khát vọng biến tư tưởng thành
hiện thực trên cơ sở một sự hiểu biết chắc chắn các điều kiện hiện tại và quy luật xã hội đặc
thù của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Cốt lõi thế giới quan duy
vật, phương pháp khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chuyển
hóa thành một tổ hợp tư tưởng Mác - Lênin - Hồ Chí Minh, rồi nó lại được thăng hoa, biến
hóa thành một chất tư tưởng mới rất riêng, ở đó hòa quyện chiều sâu lý luận với sinh khí cuộc sống.
Tiếp thu bản chất cách mạng, tinh thần cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Hồ Chí Minh thực hiện khát vọng cháy bỏng của mình là biến tất cả tình thương người, tình
yêu cuộc sống, khát vọng xây dựng tương lai thành hành động để đưa những tư tưởng, lý
tưởng, ước mơ đó thành hiện thực.
Để thực hiện lý tưởng nhân văn "không có gì quý hơn độc lập, tự do", Hồ Chí Minh
đã nghiên cứu bản chất thật sự của chủ nghĩa thực dân, phát hiện các mâu thuẫn trong nó,
nắm bắt thấu đáo nhu cầu phát triển khách quan của xã hội Việt Nam, xu thế vận động của
thế giới, khảo cứu các cuộc cách mạng điển hình để vạch ra con đường đi cho cách mạng
Việt Nam: Con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ
thực tiễn xã hội Việt Nam, vận dụng sáng tạo phương pháp hành động biện chứng mácxít,
Hồ Chí Minh đã luận chứng một cách khoa học mục tiêu phát triển con người chỉ có thể đạt
được thông qua thực hiện "ba cuộc giải phóng": Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Ba cuộc giải phóng đó vừa kết hợp chặt chẽ với nhau, lại vừa nối tiếp
nhau trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp chặt chẽ được thể hiện ở chỗ
trong giải phóng dân tộc đã có một phần giải phóng giai cấp và giải phóng con người; sự
nối tiếp được thể hiện ở chỗ giải phóng dân tộc sẽ mở đường cho giải phóng giai cấp và giải
phóng con người được đẩy mạnh. lOMoAR cPSD| 47708777
IV. Phân tích các khía cạnh nhân văn HCM trong đoạn Bác viết “về Việc riêng” trong
bản “Di chúc” (tài liệu số 61- giáo trình).
Trong Di chúc, điều làm chúng ta xúc động là khi Người viết "Về việc riêng". Viết "về việc
riêng", nhưng Người lại không dành bất kỳ điều gì riêng cho cá nhân, mà toát lên qua từng
câu, từng chữ là lòng yêu thương con người, tất cả vì những người đang sống. Bởi suốt đời
Người phấn đấu cũng vì hạnh phúc của nhân dân, bởi mục đích của Người trước, sau vẫn
không hề thay đổi: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành".

"Cái riêng" của Người đã hòa quyện trong "cái chung" của dân tộc. Vì thế mà trước lúc
đi xa Bác “không có điều gì phải hối hận” chỉ tiếc duy nhất một điều - một điều cao cả, là
“không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho dân, cho nước. Ở cả 3 bản Di chúc
1965, 1968, 1969, Người đều căn dặn, khi Người mất, "chớ nên tổ chức điếu phúng linh
đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân".

Đọc Di chúc, không khỏi xúc động bởi từng câu, từng chữ đều toát lên lòng yêu
thương con người, toát lên cách sống giản dị, cần kiệm, không bao giờ có khái niệm đặc
quyền, đặc lợi của Bác.
Là người sáng lập Đảng, là lãnh đạo cao nhất của Đảng cho đến khi viết Di chúc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn về những việc Đảng phải làm mong muốn cuối cùng” của
Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết để thực hiện được mục tiêu vì lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân, để “điều phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Như con tằm nhả đến sợi tơ cuối cùng, như một ngọn nến cháy sáng đến giọt sáp cuối
cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ rõ sự tuyệt đối trung thành với lẽ sống của đời mình: Tận
tụy phục vụ đồng bào, vui niềm vui chung của toàn dân tộc, đau nỗi khổ đau riêng của từng
người, từng số phận, đúng như Người trả lời phỏng vấn phóng viên báo Granma của Đảng
Cộng sản Cuba: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”.
Những dòng Người gửi lại trong Di chúc “Về việc riêng” chính là bài học lớn cho
mọi thế hệ về đạo đức “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Cán bộ, công chức có cần
kiệm - liêm chính mới hành xử chí công - vô tư được!
Nửa thế kỷ đã qua từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại Di chúc. Đất nước đã thu về
một cõi, công cuộc đổi mới nền kinh tế đã làm cho đời sống của đại bộ phận người dân được
cải thiện rõ rệt, nhưng công bằng mà nói, còn nhiều vấn đề mà cán bộ, công chức mới chỉ
“học tập” mà chưa “làm theo” đúng mức những việc mà Bác Hồ căn dặn, đặc biệt chưa thực
hiện đầy đủ “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân thì
phải hết sức tránh”.