






















Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----- ----- TIỂU LUẬN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: Ứng dụng triết học Mác – Lênin trong hoạt động giảng
dạy, giáo dục nhân cách học sinh và sự vận dụng của Nguyễn Hồng Nhung.
Họ và tên: Nguyễn Hồng Nhung MSV: 11214626
Lớp: Quản trị kinh doanh quốc tế CLC 63B Giáo viên: Lê Ngọc Thông MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU………………………………. 3
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT…………………. 4
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức….. 4
2. Phép biện chứng duy vật………………. 5
3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến…….. 6
1. Khái quát về mối liên hệ phổ biến
2. Các tính chất của mối liên hệ
4. Nguyên lý về sự phát triển…………….. 8
1. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển
2. Tính chất của sự phát triển
III. VẬN DỤNG………………………… 10
1. Hoạt động nguồn gốc và phát triển nhân cách
học sinh………………………………… 11
2. Đối với học sinh trường hợp đặc biệt… 13
3. Kết hợp với các hình thức giáo dục khác…15
IV. SỰ VẬN DỤNG CỦA BẢN THÂN…. 16
1. Trong học tập……………………… 16
2. Trong đời sống…………………….. 17
V. KẾT LUẬN…………………………… 18
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO…………… 22 I. MỞ ĐẦU
Ở phần mở đầu chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu giáo dục có ý nghĩa gì. Nếu hiểu theo
nghĩa rộng thì giáo dục bao gồm cả một quá trình giáo dục kiến thức và giáo dục đạo đức
con người. Thế nhưng ở thời điểm hiện tại, đa phần những người truyền đạt kiến thức đến
chúng ta là các giáo viên cùng với nhà trường đang chưa chú ý coi trọng quá nhiều đến
việc dạy làm người mà chỉ chú trọng, đặt nặng việc dạy chữ. Kể cả nếu có chú ý hơn đến
việc truyền đạt kiến thức về đạo đức thì cũng bị thiếu đi mất những kiến thức, thông tin
căn bản mà từ đó có thể dẫn tới những hệ quả không đáng có, làm ảnh hưởng tới tâm sinh
lý của học sinh, sinh viên.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và học tập môn triết học Mác – Lênin với một
thái độ hăng hái và thái độ tiếp thu, học hỏi để vận dụng vào thực tiễn, em nhận ra rằng
có một số ý kiến trong quan điểm của triết học Mác – Lênin có thể áp dụng được trong
quá trình 4 năm học tập ở trường đại học của một sinh viên. Hiểu được tầm quan trọng
của môn học này, em đã quyết định lựa chọn đề tài “ Ứng dụng của triết học Mác – Lênin
trong hoạt động giảng dạy, giáo dục nhân cách học sinh và sự vận dụng” để tập trung vào
việc chỉ rõ ra những vận dụng của triết học Mác – Lênin bằng phương pháp luận, cuốn
kim chỉ nam trong việc hình thành công tác tư tưởng và phát triển nhân cách cho học sinh, sinh viên.
Trong quá trình làm bài tiểu luận sẽ khó tránh khỏi một số những sai lầm, em mong là
thầy sẽ bỏ qua và chỉ ra lỗi sai và giúp em chỉnh sửa ạ. Em xin chân thành cảm ơn!
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức có mối liên kết với nhau thông qua quan hệ biện chứng, điều
đó đã được thể hiện rõ qua vai trò quyết định của vật chất đối với tính độc lập
tương đối cùng với ý thức và cũng như việc chúng tác động trở lại lẫn nhau của ý thức với vật chất.
Triết học duy vật biện chứng đã chỉ rõ ra quan điểm rằng vật chất được biết
đến là cơ sở, là nơi mà ý thức của con người được hình thành nên. Cái có trước ở
đây là vật chất, ý thức được tạo ra từ đấy và nó cũng là thứ quan trọng quyết định
xem nội dung và thiên hướng phát triển của ý thức. Nếu không có sự tồn tại của
vật chất thì điều đó đồng nghĩa với việc ý thức cũng không hiện diện bởi vì vật
chất chính là nơi ý thức được sinh ra. Có thể được hiểu theo một nghĩa khác đó là
cơ quan đại não của con người tượng trưng cho vật chất, là nơi tiếp nhận những
hành động tới từ thế giới xung quanh, phản ảnh sự tác động của thế giới khách
quan vào bộ não của con người, trở thành nơi cội nguồn của ý thức. Sự hình
thành, phát triển và tồn tại của ý thức được dựa vào việc lao động trong hoạt động
thực tiễn, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất và ngôn ngữ như chữ viết, tiếng
nói… Không những thế, ý thức chỉ có thể trở thành sức mạnh vật chất, nguồn
công lực to lớn làm thay đổi hiện thực thông qua các hoạt động thực tiễn, bằng
cách khai phá, tận dụng hợp lý các công cụ, phương tiện vật chất mà cần có cho hành động ấy.
Ý thức dù cho được sinh ra và quy định bởi vật chất thế nhưng nó lại mang
trong mình tính độc lập tương đối, bên cạnh đó ý thức còn mang trong mình sự
phản ánh đối với vật chất là hành động tạo chủ động của sự phản ánh sáng. Thông
qua đó chúng ta có thể thấy được đấy là quá trình mà khi con người không ngừng
tự mình tìm tòi và khám phá ra những tri thức mới, những hiểu biết mới để tích
luỹ sao cho càng ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn về mặt bản chất, về quy luật
phát triển đan xen vận động của sự vật xung quanh ta. Vì vậy, sau khi ý thức đã
được tạo ra nó đóng vai trò đó là giúp con người suy nghĩ, định hướng trong việc
đề đặt ra và xác lập được mục tiêu, phương hướng để tìm ra giải pháp cho mọi
tình huống một cách tối ưu nhất, tránh xảy ra hậu quả và bên cạnh đó còn vận
dụng các điều kiện vật chất xung quanh khi cần thiết để làm biến đổi chúng đạt
đến mục tiêu đã đặt ra từ ban đầu. Thế nhưng ở một khía cạnh khác thì sự tác
động của ý thức lên vật chất có thể được chia ra làm hai hướng đi như sau: Một là
ý thức sẽ phát triển theo chiều hướng tốt cùng với sự vật nếu hiện thực được phản
ánh một cách đúng đắn, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật khách
quan, có động lực ý chí hành động đúng nhưng phải thông qua cơ chế hoạt động
tổ chức phù hợp trong thực tiễn. Khuynh hướng phát triển còn lại đó là ý thức kìm
hãm, cản trở gây ảnh hưởng xấu tới sự tiến triển bình thường của sự vật trong
trường hợp hiện thực khách quan không được phản ánh đúng mà lại được thể hiện
bằng những suy nghĩ lạc hậu, phản khoa học, bảo thủ. Điều đó sẽ xảy ra nếu con
người trở nên thiếu chí quyết tâm, thờ ơ không còn nhiệt tình, làm việc mà không
xác định được mục đích, động cơ đúng đắn… Dù vậy, việc ý thức tác động lên vật
chất nó cũng sẽ dừng lại ở một mức độ nhất định nào đó chứ nó không thể tự hình
thành hay phá huỷ các quy luật vận động của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng được nêu ở trên về mối liên hệ giữa ý thức
và vật chất thì ta có thể rút ra ở đây một nguyên tắc đó là nguyên tắc khách quan.
Đầu tiên thì nguyên tắc này thừa nhận rằng nó nắm giữ trong mình vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức, nó yêu cầu rằng hiện thực khách quan, tôn trọng
và hành động theo quy luật khách quan phải là điều được xuất phát từ hoạt động
thực tiễn và hoạt động nhận thức “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho
mọi hoạt động của mình”. Thế nhưng khi ta áp dụng nguyên tắc khách quan vào
thực tế thì không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ tính chất sáng tạo,
năng động của ý thức mà nó còn muốn những yếu tố ấy phải tự thúc đẩy, phát huy
của ý thức, của nhân tố chủ quan.
2. Phép biện chứng duy vật
Sự hoà hợp và thống nhất hữu cơ giữa phương pháp luận biện chứng và thế giới
quan duy vật là định nghĩa cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chính nhờ vậy mà một
số những hạn chế của phép biện chứng chất phác thời cổ đại và những thiếu hụt của phép
biện chứng duy tâm khách quan thời cận đại được khắc phục. Nó đã nêu lên tổng quan
một cách đúng đắn về những quy luật cơ bản nhất của sự phát triển và vận hành của thế
giới. Từ đó phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học để được tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn.
Trên cơ sở một chuỗi những phạm trù cơ bản, những nguyên lý, những quy luật
mà không khó để thấy được phản ánh đúng đắn hiện thực đã góp phần xây dựng nên phép
biện chứng duy vật. Trong một chuỗi hệ thống đó, nguyên lý về mối liên kết phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển là hai điều bao trùm nhất. Qua đó Ph.Ăngghen đã nêu lên định
nghĩa rằng: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái quát về mối liên hệ phổ biến
Thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay bao gồm rất nhiều các sự vật, hiện tượng
cùng với các quá trình khác nhau. Thế nhưng câu hỏi được đặt ra ở đây là chúng có mối
liên kết nào với nhau hay không, liệu chúng có ảnh hưởng hay tác động đến lẫn nhau hay
chỉ cứ thế tồn tại một cách độc lập, riêng biệt? Nếu như giữa chúng có gì đó liên kết lại
với nhau thì cái gì là thứ đã quy định mối quan hệ ấy?
Quan điểm biện chứng đã chỉ ra rằng các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác
nhau ấy có mối liên hệ là sự thống nhất giữa các đặc điểm ta vừa nêu ở trên, chúng vừa
tồn tại độc lập, vừa quy định nhưng cũng tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau. Bên
cạnh đó, quan điểm ấy còn củng cố thêm sự khẳng định về tính thống nhất giữa mối liên
kết của sự vật và hiện tượng được hình thành dựa trên cơ sở vật chất của thế giới. Những
yếu tố ấy dù cho có đa dạng, phong phú đến nhường nào, có đặc điểm nhận dạng dễ hay
khó thì suy cho cùng chúng cũng chỉ là thứ tồn tại ở những hình thể khác nhau của một
thế giới duy nhất, thống nhất là thế giới vật chất. Chính vì bởi tính thống nhất ấy mà
chúng không thể tồn tại một cách độc lập, tách rời nhau mà phải có sự chuyển hoá, tác
động lẫn nhau bởi những mối quan hệ xác định. Dựa trên chính cơ sở đó triết học duy vật
biện chứng một lần nữa lại khẳng định hơn rằng mối liên kết là phạm trù triết học dùng
để biểu đạt sự quy định về sự chuyển hoá lẫn nhau và sự tác động qua lại giữa các yếu tố
là sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một hiện tượng nào đó trong thế giới này.
b. Các tính chất của mối liên hệ
Mọi sự vật hiện tượng mà có mối liên hệ với nhau đều là vốn có, khách quan
của các sự vật hiện tượng. Điều đó được thể hiện rõ bởi ngay cả khi những vật vô tri
vô giác tưởng chừng như không có gì ảnh hưởng tới chúng cũng đang chịu tác động
bởi một số hiện tượng khác như thời tiết là ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, không
khí… mà đôi khi không chỉ thời tiết mà con người cũng đang tác động tới chúng. Con
người hiện nay được cho là đang đứng ở trên đỉnh cao nhất của chuỗi sinh vật trong
tự nhiên nhưng dù có muốn hay không thì ta cũng luôn bị ảnh hưởng bởi một vài yếu
tố khác trong chính suy nghĩ của bản thân mình. Bên cạnh việc bị tác động bởi các
yếu tố của tự nhiên thì con người ta cũng bị ảnh hưởng bởi một vài các nhân tố khác
như xã hội và của những người khác. Bởi vì nhiều khi chỉ có con người với con người
mới có thể chịu được sự tác động của vô vàn mối liên hệ trong cuộc sống. Chính vì để
có thể vượt qua thì con người cần phải trang bị cho mình kiến thức để hiểu biết hơn
về các mối quan hệ để biết cách áp dụng chúng vào các hoạt động của bản thân, tìm ra
cách xử lí các mối quan hệ một cách hợp lí và phù hợp với mục đích là phục vụ nhu
cầu có lợi với bản thân mình cũng như là cho xã hội con người hiện nay.
Mối liên kết ấy không chỉ cho ta thấy được tính khách quan mà trong nó còn mang tính phổ biến: -
Tính phổ biến đầu tiên đó là bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng có mối liên
hệ với sự vật hiện tượng khác mà không có sự ngoại lệ ở đây, không có
trường hợp nào nằm ngoài mối liên hệ -
Đặc điểm thứ hai đó là không phải mối liên hệ nào cũng biểu hiện giống
nhau mà chúng đều có những hình thức riêng biệt tuỳ theo một số các điều
kiện theo quy định. Thế nhưng dù cho có xuất hiện dưới hình thức nào đi
chăng nữa thì chúng cũng chỉ đang xuất hiện dưới dạng bề nổi là mối liên
hệ chung nhất, dễ thấy nhất bằng những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể
đã được các nhà khoa học nghiên cứu một cách kĩ càng và cụ thể. Qua
nghiên cứu và tìm hiểu thì phép biện chứng duy vật đã cho ta thấy những
mối quan hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới xung quanh ta. Chính
bởi vì thế mà Ph.Ănghen đã viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”. -
Cuối cùng thì khi nghiên cứu ta còn thấy rõ hơn về tính đa dạng, nhiều vẻ
của mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới này. Khi đi phân
tích sâu và kĩ càng hơn ta nhận thấy được tính đa dạng đó còn có thể chia
ra làm nhiều cặp ở nhiều khía cạnh khác nhau: mối liên hệ giữa bên ngoài
và mối liên hệ bên trong; mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp; mối
liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ
ngẫu nhiên; mối liên hệ mà chỉ cho ta thấy được một số lĩnh vực hoặc một
số khía cạnh khác của thế giới và mối liên hệ chung bao quát mọi thứ trong
thế giới này; mối liên hệ giữa các sự vật và mối liên hệ giữa các khía cạnh
hay giữa những giai đoạn phát triển của một sự vật để hình thành nên lịch
sử phát triển của chính nó.v.v. Chính vì trong quá trình tồn tại, vận động và
phát triển của bản thân sự vật hiện tượng ta phát hiện ra được tính đa dạng
nên nó cũng đồng thời quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Qua những
cặp mà được nêu ở trên ta có thể thấy trong một sự vật không tồn tại một
cặp liên hệ nào xác định mà còn bao gồm rất nhiều các mối liên hệ khác.
4. Nguyên lý về sự phát triển
a. Những quan điểm khác nhau về sự phát triển
Trong quá trình xem xét về sự phát triển ta nhận ra được có rất nhiều những
quan điểm khác nhau và đối ngược với nhau như quan điểm biện chứng và quan điểm siêu hình.
Quan điểm biện chứng quan sát sự phát triển như là một quá trình đi lên từ
thấp đến cao. Mới đầu quá trình đó diễn ra một cách từ từ, dần dần rồi lại nhảy vọt cứ
thế đan xen nhau dẫn đến sự ra đời của việc cái cũ bị thay thế bằng cái mới. Dù ở
trong hoàn cảnh nào là hiện thực khách quan hay trong tư duy, quá trình phát triển
được diễn ra rất quanh co, lòng vòng, phức tạp mà không phải theo một đường thẳng
như ta nghĩ mà đôi khi nó còn có một vài bước lùi tạm thời.
Sự phát triển theo quan điểm của biện chứng là thứ ta thu được sau quá trình
thay đổi dần dần về lượng mà từ đó dẫn đến sự thay đổi về chất, đường xoáy ốc là
hình tượng có thể hiểu khi miêu tả về quá trình diễn ra điều đó. Ta có thể hiểu một
cách đơn giản đó là sự vật ấy đang dần dần quay trở về thời điểm ban đầu nhưng nó
đã tự nâng cấp mình lên một phiên bản cao hơn.
Đó là những gì ta biết về quan điểm biện chứng, còn về quan điểm siêu hình
thì nó xem xét sự phát triển theo hướng đơn giản hơn chỉ là về mặt lượng nó tăng lên
hay giảm đi một cách đơn thuần mà không có sự thay đổi về chất của sự vật. Điều đó
khiến cho những ai tin và đi theo quan điểm siêu hình sẽ coi tất cả chất trong quá
trình tồn tại của sự vật không có gì đổi thay cả. Sự vật được tạo ra với những chất như
thế nào thì trong suốt quá trình hiện diện ấy nó vẫn được giữ nguyên, hoặc nếu có
trường hợp thay đổi một vài quy chế nhất định thì điều đó sẽ diễn ra trong một vòng
khép kín mà không để lộ ra ngoài. Thế nhưng họ cũng chỉ coi sự phát triển là sự đổi
thay về mặt lượng của từng kiểu mà sự vật đang có chứ không có hành động sản sinh
ra cái mới với những chất mới. Quan điểm siêu hình với những người theo nó nhìn sự
phát triển là một hành trình theo một đường thẳng chỉ có việc tiến lên liên tục mà
không có những bước quanh co, lòng vòng, phức tạp, những bước thăng trầm.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng sống trong thực
tại, quan điểm duy vật biện chứng không chỉ ra điểm phủ định mà còn khẳng định
rằng sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình hoạt động đi
lên phía trước từ thấp đến cao, từ đơn giản trở nên phức tạp hơn để từ đó khi kém
hoàn thiện đến với mang hình thái hoàn chỉnh hơn của sự vật.
Theo quan điểm này, sự phát triển không cho ta thấy được toàn bộ quá trình
vận động nói chung. Nó chỉ cho ta thấy được bề nổi là xu hướng chung của sự vận
động, xu hướng vận động của sự vật mà khi đi lên, cách mà sự vật cũ bị thay thế bởi
sự ra đời của sự vật mới. Nói tóm gọn thì sự vận động có một trường hợp đặc biệt
khác đó là sự phát triển. Trong thời gian phát triển, sự vật sẽ tự tạo ra cho mình những
mức quy định cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi đi mối liên kết, cơ cấu về cách thức
tồn tại và vận động của mình.
Trong hiện thực, sự vận động rất đa dạng nó thể hiện rất khác nhau tuỳ theo
hình thể tồn tại cụ thể của vật chất theo từng dạng. Sự phát triển của giới vô cơ được
nhận thấy ở dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, việc chúng ảnh hưởng lẫn
nhau và ở trong một vài điều kiện nhất định chúng sẽ sản sinh ra các hợp chất phức
tạp. Và đó chính là tiền đề của sự sống nhờ sự xuất hiện của các hợp chất hữu cơ ban
đầu. Trong giới hữu cơ, cách để nhận biết sự phát triển đó là nhìn vào khả năng thích
ứng của sinh vật đối với việc môi trường có sự biến đổi phức tạp, khi ở quá trình hoàn
thiện thường xuyên thì quá trình trao đổi chất giữa môi trường và cơ thể ở khả năng tự
hình thành ra chính mình với trình độ cao siêu hơn để từ đó thích ứng với môi trường
sống hàng loạt các sinh vật mới xuất hiện. Năng lực chinh phục tự nhiên và cách cải
biến xã hội cùng với bản thân con người là một trong số những biểu hiện của sự phát
triển của xã hội. Việc con người ta phát triển bản thân mình được thể hiện ở nhiều
khía cạnh như ở khả năng tự hoàn thiện bản thân mình ở cả hai mặt là thể chất lẫn
tinh thần, bên cạnh đó còn có việc con người dựa vào sự vận động và phát triển để trở
nên thích nghi hơn với môi trường sống.
Qua đó tổng kết lại ta có thể thấy việc những sự vật mới không ngừng ra đời
để thay thế cho sự vật cũ là một phần của sự phát triển là hiện tượng diễn ra phổ biến
và không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội, ngay thậm chí là trong cả tư duy và
chính bản thân con người. Nếu ta để ý riêng biệt từng trường hợp cá biệt thì có thể dễ
dàng nhận ra có những quá trình vận động tuần hoàn, những vận động đi lên và cả đi
xuống cũng có trong quá trình ấy. Nhưng dù sao khi xét đến cả quá trình vận động
trong chiều không gian rộng lớn với lượng thời gian dài thì quá trình vận động đi lên
là khuynh hướng chung của mọi sự vật.
b. Tính chất của sự phát triển
Tính khách quan là điều dễ thấy ở sự phát triển. Theo như những gì ta đã phân
tích ở trên, theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển được bắt nguồn từ ngay
trong bản thân của sự vật. Đó là một quá trình liên tục khi những xung đột, mâu thuẫn
này được hình thành trong sự vận động và tồn tại của sự vật và cũng chính nhờ đó mà
sự vật luôn luôn phát triển không ngừng. Vì thế, sự phát triển là một tiến trình khách
quan, nó không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì cả, kể cả đó là ý muốn, nguyện vọng, ý
chí hay ý thức con người. Đây là điều con người không thể can thiệp được, dù cho có
muốn hay không thì sự vật vẫn sẽ phát triển theo khuynh hướng chung nhất của thế giới vật chất.
Lí do vì sao mà sự phát triển mang tính phổ biến đó là vì nó xảy ra ở mọi lĩnh
vực của tự nhiên, tư duy và xã hội, nó hiện diện ở bất cứ sự vật hiện tượng nào trong
thế giới khách quan. Đến ngay cả những gì chúng ta vừa tìm hiểu như các khái niệm,
phạm trù phản ánh lại hiện thực cũng nằm trong quá trình phát triển và vận động hoặc
nói một cách chính xác hơn đó là sự phát triển nằm trong mọi hình thức của tư duy.
Chỉ có trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thái của tư duy, đặc biệt là các khái niệm
và các phạm trù mới được phản ánh đúng hiện thực đó là luôn phát triển và vận động.
Tính đa dạng phong phú cũng là một trong những đặc điểm của sự phát triển
bên cạnh tính khách quan và tính phổ biến. Mọi sự vật, mọi hiện tượng đều có một
khuynh hướng chung đó là khuynh hướng phát triển thế nhưng quá trình phát triển
của chúng lại không hề giống nhau mà chúng tồn tại ở các chiều không gian khác
nhau, ở những thời điểm khác nhau. Trong quá trình phát triển ấy, các sự vật không
chỉ cứ tiếp tục tiến lên một cách dễ dàng mà chúng còn phải chịu sự tác động của rất
nhiều các yếu tố và hiện tượng khác. Khi sự vật bị tác động bởi các yếu tố ấy thì sẽ có
hai chiều hướng xảy ra, một là sự vật sẽ được thúc đẩy hoặc sẽ bị kìm hãm lại sự phát
triển mà đôi khi có thể làm thay đổi hẳn chiều hướng phát triển của sự vật hoặc thậm
chí sự vật ấy sẽ bị tụt lùi hẳn về sau. Ta có thể lấy ví dụ như sau trẻ em ở hiện nay
thường sẽ có xu hướng phát triển nhanh và nhạy hơn về cả thể chất cũng như trí tuệ
so với trẻ em cách đây một vài thập kỉ bởi chúng hiện đang được hưởng những gì tốt
nhất và là thành quả, là những điều kiện thuận lợi mà xã hội thời nay mang lại. Hay
tìm hiểu thêm một ví dụ khác là trong thời đại này việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước giữa các nước phát triển và kém phát triển đều thấy rõ được sự chênh lệch ở
thời gian khi nước kém phát triển sẽ ngắn hơn nhiều so với các quốc gia đi trước vì họ
được thừa hưởng lại kinh nghiệm và cũng được các quốc gia đi đầu đấy hỗ trợ. Thế
nhưng vẫn có một vấn đề đó là dù cho có nhận được sự hỗ trợ như nào đi chăng nữa
thì cách vận dụng kinh nghiệm và việc sử dụng sự hỗ trợ ấy như thế nào lại phụ thuộc
rất nhiều vào các nước kém và chậm phát triển.
Thông qua những điều kiện được nêu ở trên ta có thể thấy được trong giai
đoạn vận động dù cho sự vật hiện tượng có khuynh hướng đi lên kiểu như này hay
như thế nào đi chăng nữa thì khi nhìn chung cả quá trình thì chúng vẫn tuân thủ theo khuynh hướng chung. III. VẬN DỤNG
Những quan điểm được nêu trên của Triết học Mác – Lenin mang ý nghĩa phương
pháp luận trong việc giáo dục và hình thành nhân cách của học sinh. Tiếp theo ở phần này
em sẽ trình bày về việc giáo viên đã vận dụng Triết học Mác – Lenin như thế nào trong công
việc giáo dục nhân cách học sinh.
1. Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách học sinh
Ở cấp trung học phổ thông thì đây là thời điểm mà tâm sinh lý của học sinh
thay đổi nhiều nhất vậy nên một trong những nhiệm vụ chính của nhà trường và giáo
viên đó là hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Trong khi thực hiện nhiệm
vụ thì giáo viên cần phải lưu ý một số điều sau đây: -
Việc nhân cách của học sinh được hình thành và phát triển là một quá trình
tất yếu và lâu dài. Dù cho không có giáo viên thì nhân cách của học sinh
vẫn được hình thành cùng với nhân sinh quan. Thế nhưng với sự giúp đỡ
của giáo viên thì sẽ giúp cho học sinh phát triển nhân cách theo đúng
hướng và phù hợp nhất… Bên cạnh đó giáo viên phải hiểu rõ một điều đó
là vật chất là thứ xuất hiện trước còn ý thức là thứ có sau. Nếu muốn tạo
được sự thay đổi trong ý thức của học sinh thì phải trải qua một quá trình
tác động của vật chất. Không phải chỉ một hai ngày là quá trình này được
diễn ra hết một lượt, duy ý chí là một quá trình kéo dài, phức tạp và bao
gồm những đặc điểm của quá trình phát triển vật chất theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin. -
Mâu thuẫn là một loại động lực của sự phát triển. Thông qua các tình
huống va chạm trong cuộc sống của học sinh thì đó là lúc nhân cách được
hình thành và phát triển. Đó là điều không thể tránh khỏi nên giáo viên
không nên ngăn cản mà cần phải chấp nhận, thậm chí đôi khi còn phải
khuyến khích và tạo điều kiện cho học sinh có những tình huống ứng xử,
tranh cãi thậm chí là mâu thuẫn lẫn nhau để nhân cách có thể được bộc lộ
và phát huy một cách toàn diện nhất. Chỉ qua những tình huống đó, những
phẩm chất được ẩn giấu bên trong các cá thể mới được thể hiện ra ngoài,
chúng sẽ được hình thành và phát triển một cách đa dạng và đầy đủ; không
chỉ những điểm tốt được thể hiện mà cả những khiếm khuyết của cá nhân
cũng sẽ được bộc lộ và được chỉnh sửa trong các tình huống ấy. Phải có va
chạm thì mới có thể trưởng thành nên việc bảo bọc, né tránh những tình
huống như vậy sẽ khiến cho nhân cách của học sinh phát triển chỉ theo một
hướng khiến học sinh không có đủ kinh nghiệm để xử lý lại những trường
hợp ấy khi gặp lại trong tương lai, điều đó có thể dẫn đến việc thiếu phát
triển toàn diện hoặc phát triển chậm hơn các bạn đồng trang lứa. -
Thế nhưng, việc khuyến khích các tình huống ấy không đồng nghĩa với
việc giáo viên chỉ đứng ngoài nhìn mà giáo viên phải cùng học sinh phân
tích tình huống, giúp học sinh tìm được hướng giải quyết tốt nhất chứ
không nên để chúng tự lực cánh sinh vì điều đó có thể dẫn tới việc cách xử
lý của học sinh mang tính chất cực đoan, lệch lạc với tiêu chuẩn của xã hội.
Thay vào đó giáo viên có thể tổ chức các hoạt động tranh luận, các cuộc thi
hùng biện, hoạt động theo nhóm, thi đấu cạnh tranh lành mạnh đó là một
trong những cách thức để phát triển nhân cách học sinh một cách hiệu quả và đầy đủ. -
Sự phát triển mang theo khuynh hướng là sự kế thừa và phủ định của các
giá trị trước đó. Nhân cách của học sinh cũng tương tự như vậy nó phải
được dựa trên các nền tảng có sẵn từ trước. Thế nhưng không phải ở giai
đoạn nào, việc giáo dục đào tạo học sinh cũng giống nhau mà chúng phải
có tính kế thừa khi thế hệ sau học tập và phát triển các phương pháp đã có
sẵn. Khi giáo dục đạo đức cho học sinh phải xem xét xem trước đấy trong
quá trình giáo dục đã bao gồm những gì như những giá trị đạo đức nào đã
được hình thành, những giá trị nào vẫn còn mang tư tưởng thiếu sót, lệch lạc, chưa đúng đắn. -
Bên cạnh đó, nhân cách phải được hình thành ngay từ khi chúng ta còn nhỏ
để dựa vào đó làm nền tảng cho phương pháp giáo dục về sau. Càng trưởng
thành, xã hội sẽ yêu cầu con người ta cần phải nâng cao hơn về các hành vi
đạo đức, phẩm chất càng gần với chuẩn mực đạo đức của xã hội nhưng vẫn
phải dựa trên nền tảng sẵn có. Điều đó cũng giống với câu tục ngữ “Dạy
con từ thuở còn thơ” thế nhưng nền tảng kém thì dĩ nhiên là không thể phát triển tốt được. -
Ngoài ra, giáo viên còn phải là người truyền động lực cho học sinh, giúp
học sinh có nhu cầu phát triển và hoàn thiện nhân cách bởi ở khía cạnh này
thì sự phát triển cứ thế tiếp diễn và không có điểm dừng. Dù cho thầy cô có
tác động lên học sinh bao nhiêu đi chăng nữa thì chính bản thân học sinh
vẫn là người có khả năng tác động lớn nhất lên nhân cách của chính mình.
Sau khi đã được học tập và truyền kinh nghiệm từ các giáo viên thì sau khi
vào đời học sinh cần luôn phải trau chuốt, rèn luyện và giữ vững phẩm chất
đạo đức của mình đồng thời phải liên tục cập nhật để có thể thích ứng được
với các chuẩn mực xã hội mới của thời đại. Giáo viên dù có giỏi có tốt đến
như nào đi chăng nữa thì cũng không thể cứ mãi cầm tay chỉ dạy học trò
đến suốt đời được, nên ta chỉ làm việc mà mình giỏi nhất đó là trang bị cho
học sinh các kiến thức cần thiết, phương pháp và nhu cầu rèn luyện nhân cách, đạo đức. -
Theo triết học Mác – Lênin thì sự tích luỹ về lượng sẽ dẫn đến biến đổi về
chất là cách thức của sự phát triển. Việc rèn luyện sẽ mất thời gian nên giáo
viên cần phải kiên nhẫn và chủ động trong quá trình tạo ra và phát triển
nhân cách của bản thân. Đừng bao giờ mong rằng mọi thứ sẽ lập tức đi
theo ý mà mình mong muốn, hi vọng mọi thứ sẽ tốt ngay tức khắc. Nhân
cách là thứ cần rèn giũa một cách từ từ, chậm rãi, từ những điều nhỏ nhặt
nhất ngay từ khi hình thành. Giáo viên cần phải kiên trì quan sát qua từng
ngày, từng tháng xem sự thay đổi của học sinh như thế nào, phải tập trung
cả vào những điều nhỏ nhặt nhất. Bác Hồ đã từng nói với chúng ta rằng:
“Việc tốt dù nhỏ mấy cũng phải làm”. Vậy nên thầy cô hãy khuyến khích,
động viên, khen thưởng đối với những tiến bộ dù nhỏ hay lớn và phải lập
tức điều chỉnh ngay những hành vi chưa đúng. -
Những kinh nghiệm sống mà học sinh tích lũy được đều là thông qua các
tình huống va chạm, mâu thuẫn trong giao tiếp. Chính những trường hợp
ấy mới là nhân tố giúp cho học sinh hình thành và phát triển nhân cách của
chính mình. Để rồi đến một thời điểm nhất định, chính sự tích luỹ về lượng
ấy sẽ dẫn tới sự biến đổi về chất. -
Giáo viên sẽ là nhân tố chủ động tạo ra điểm nút để giúp lượng biến đổi
thành chất. Nếu như thầy cô để mặc cho quá trình ấy tự diễn ra thuận theo
tự nhiên thì có thể kết quả là “chất” sẽ khác so với những gì chúng ta mong
đợi. Điểm nút mà giáo viên tạo ra ở đây nó có thể là rất nhiều thứ ví dụ
như một cú thúc đẩy vào đúng thời điểm, một lời khen ngợi, thể hiện được
lòng tin tưởng khi giao phó nhiệm vụ, một vài câu nói an ủi, dặn dò ân cần
hoặc không nhất thiết phải là những lời hay ý đẹp mà lại là sự trừng phạt
theo kiểu “thương cho roi cho vọt”. Thế nhưng sau những cú hích đó thì
điều quan trọng nhất vẫn là giáo viên phải dõi theo quá trình sự biến đổi
chất diễn ra đang như thế nào để điều chỉnh một cách kịp thời.
2. Đối với học sinh đặc biệt
Việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi học sinh đều là khác nhau thế
nên điều không thể tránh khỏi ở đây đó là thầy cô sẽ gặp phải những học sinh “đặc
biệt” chưa ngoan hay còn được gọi là thành phần cá biệt. Thế nên khi gặp phải những
trường hợp như thế thì giáo viên cần phải ghi nhớ những điểm sau đây: -
Như những gì đã được nêu ở trên thì bất kỳ cá thể nào cũng đều có quá
trình phát triển nhân cách vì đó là quá trình tất yếu. Việc nổi loạn ở tuổi
dậy thì ở học sinh đều là do trong quá trình phát triển chúng gặp phải một
số vấn đề như thiếu định hướng hoặc khả năng nhận thức tình hình chưa
được đầy đủ. Thế nhưng không có nghĩa là ta sẽ mặc kệ cho các em học
sinh ấy tự sinh tự diệt ngoài xã hội mà những học sinh đấy đều có thể được
giáo dục lại, được đưa thêm cơ hội để phát triển theo chiều hướng tốt đẹp
hơn trong tương lai. Tuy nhiên, ta không thể cứ áp dụng những gì mà ta
giảng dạy cho các em học sinh bình thường, đối với những trường hợp đặc
biệt thì ta phải áp dụng hình thức và phương pháp giáo dục khác và quá
trình này sẽ thường kéo dài lâu hơn bình thường và khiến thầy cô phải tốn nhiều công sức hơn. -
Điều ta luôn luôn cần phải ghi nhớ ở đây đó là vật chất là thứ có trước, ý
thức có sau, trong nhân cách, suy nghĩ của học sinh có những khiếm
khuyết không tự nhiên mà ở đó từ ban đầu mà nó phải là hệ quả của một
quá trình, một tác nhân nào đó. Chính vì như vậy nên trước tiên giáo viên
phải tìm hiểu kĩ xem lí do nào đã dẫn tới việc học sinh này chưa ngoan và
trở nên cá biệt. Theo triết học Mác – Lênin, thì khi xem xét một sự vật hiện
tượng nào thì ta cần phải xét nó trong mối quan hệ cùng với cả các yếu tố
khác nữa. Chính vì thế, đừng bao giờ nghĩ nguyên nhân lúc nào cũng xuất
phát từ học sinh mà chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi một số các yếu tố
ngoại cảnh khác như gia đình, bạn bè, xã hội thậm chí đôi khi còn là thầy cô. -
Có thể rằng thông qua hiện tượng giúp cho bản chất được thể hiện ra ngoài
thế nhưng hiện tượng lại không phải là bản chất. Giáo viên tuyệt đối không
được phép quy chụp bất kì tội lỗi nào cho học sinh, nặng hơn đó là vội
vàng kết luận học sinh đó không phải là người tốt khi chỉ mới thông qua
một vài hành vi hoặc biểu hiện chưa tốt. Để tìm ra nguyên nhân và trước
khi đi đến kết luận thì cần phải theo dõi trong suốt quãng thời gian dài.
Nếu không thể phát hiện ra đâu là nguyên nhân thực sự của “căn bệnh” này
thì việc “chữa bệnh” – giáo dục lại sẽ gần như không có tác dụng và khó
đạt được kết quả mong muốn. -
Điều cần làm ở đây đó là giáo viên phải chủ động tạo ra động lực, cách
thức để học sinh hình thành và phát triển lại nhân cách. Giáo viên cần phải
tái hiện lại những mâu thuẫn về trách nhiệm đối với gia đình, bạn bè, thầy
cô để học sinh có cơ hội suy nghĩ lại về những hành vi trước đấy của mình
từ đó dần dần tạo ra động lực kích thích học sinh có những chỉnh sửa và
phát triển. Việc tác động lên học sinh của giáo viên không nên quá vội
vàng, nhồi nhét một cách ồ ạt mà cần phải có sự từ tốn, chậm rãi, ghi nhận
sự tiến bộ qua từng ngày từng giờ dù cho đó có là điều nhỏ nhất. Những
câu nói, lời nói động viên ở đúng thời điểm đôi khi còn có hiệu quả hơn
gấp trăm lần, ngàn lần các bài giảng về đạo đức. Tuy nhiên quá trình này sẽ
gặp nhiều khó khăn hơn so với các học sinh khác và điều tốt nhất mà giáo
viên có thể làm ở đây là không được từ bỏ. Bởi vì khi cứ tích lũy dần dần
về lượng thì dù cho quá trình xảy ra chậm thì rồi cũng sẽ có lúc chất biến
đổi, chắc chắn những tác động của ngày hôm nay sẽ dẫn đến kết quả tốt cho sau này. -
Các thầy cô cần phải nhớ rằng luôn phải xét trên quan điểm phát triển khi
xem xét sự việc. Trên đời này không có học sinh nào là cá biệt, không có
học sinh nào là không thể dạy dỗ được và không có học sinh nào là không
thể tiến bộ và thay đổi được. Chỉ có những học sinh gọi là nhân cách phát
triển chậm hoặc có chút khiếm khuyết. Chỉ có khi chính giáo viên nhận ra
được điều đó thì mới có thể có được sự tác động phù hợp để giúp nhân
cách phát triển theo hướng đi đúng đắn, theo cách mà nó nên đi ngay từ ban đầu.
3. Phối hợp các lực lượng giáo dục khác
Không ai nói rằng việc hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh là một quá
trình đơn giản và dễ dàng cả. Thế nhưng nếu chỉ có một mình giáo viên là nhân tố tác động
lên học sinh thì thời gian sẽ kéo dài lâu hơn và hiệu quả thì đôi khi cũng không như mong
muốn. Chính vì vậy ta cần phải có sự phối hợp giữa giáo viên – nhà trường và các lực lượng
giáo dục khác bao gồm cả gia đình và xã hội.
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin thì các mối quan hệ xã hội được tổng hoà lại từ
bản chất của con người. Ngoài các mối quan hệ ở trên trường như thầy và trò, bạn bè thì vẫn
còn có các mối quan hệ khác như cha mẹ và con cái, công dân với cộng đồng… Bởi vì trong
cuộc sống thời gian học tập và tích lũy ở trường học chỉ chiếm có một phần trong quỹ thời
gian của các em. Đa phần số thời gian còn lại là để giành cho các môi trường khác, chịu ảnh
hưởng trực tiếp của các lực lượng giáo dục khác như cha mẹ, anh chị em trong gia đình, họ
hàng, người lớn, bạn bè ngoài xã hội, cộng đồng… Chính vì thế việc giáo dục đạo đức cho
học sinh cũng phải là sự tổng hoà, kết hợp giữa các mối quan hệ xã hội, các lực lượng xã hội
khác. Không chỉ giáo viên mới có nhiệm vụ giáo dục học sinh mà cả gia đình và xã hội cũng
cần phải chung tay phối hợp cùng nhau thực hiện.
Qua những phần đã được nêu ở trên ta có thể thấy công việc giáo dục học sinh về đạo
đức, nhân cách đòi hỏi rất nhiều công sức của các nhà giáo dục. Đó là cả một quá trình bao
gồm cả việc tạo động lực, tạo điều kiện và tác động lên học sinh trong một thời gian dài. Và
đó không thể chỉ là sản phẩm đơn thuần của một mình giáo viên mà còn phải là sản phẩm
tổng hợp của các lực lượng giáo dục khác nữa. Mọi giáo viên cần phải lưu ý đặc điểm này để
công tác giáo dục có thể đạt được kết quả như mong muốn.
IV. SỰ VẬN DỤNG CỦA BẢN THÂN 1. Trong học tập
Bản thân em khi còn là một sinh viên , em đã đang và sẽ nhận thực rõ được những
kiến thức, bài học, kinh nghiệm mà triết học mang lại để có thể vận dụng thật tốt vào đời
sống hàng ngày. Trước hết, em luôn cố gắng hình thành nên cho bản thân những suy nghĩ
đúng đắn về tầm quan trọng của việc học tập, rèn luyện trên ghế nhà trường. Em luôn tích
cực học tập, nghiên cứu, tìm tòi những điều mới mẻ, bổ ích để giúp bản thân lĩnh hội được
những nguồn kiến thức khác nhau, nhờ đó nguồn tri thức sẽ trở nên phong phú, giúp ích cho
công việc và cuộc sống sau này. Tích cực tham gia các câu lạc bộ, các hoạt động ngoại khóa
của trường, lớp để có thể cải thiện những kĩ năng mềm cho bản thân, giúp chúng ta có thể
hiểu hơn về những hoạt động xung quanh, cách làm việc nhóm cùng với mọi người và học
tập được cách làm việc và xử lí tình huống của những người giỏi hơn, từ đó bản thân sẽ có
thể hiểu biết nhiều hơn và trở nên tốt hơn. Ngoài ra, khi tham gia những hoạt động ngoại
khóa, bản thân sẽ có thể quen biết được thêm nhiều người thành công, những anh chị đi trước
và cả những bạn đồng trang lứa và nhờ thế ta có thể học hỏi được rất nhiều từ những người
khác nhau, những độ tuổi khác nhau và ở những tầng lớp khác nhau.
Không chỉ thế, bản thân em còn luôn tạo ra cho mình thời gian biểu cụ thể, những
phương pháp cụ thể để có thể học tập và làm việc một cách hiệu quả, tối ưu và nhanh gọn
nhất. Khi có phương pháp học tập hiệu quả, năng suất sẽ trở nên cao hơn giúp cho bản thân
có động lực, nguồn cảm hứng học tập và nhờ đó ta sẽ làm việc tích cực hơn. Để duy trì
nguồn cảm hứng, bản thân em luôn tạo cho mình những năng lượng tích cực nhất có thể,
theo dõi và noi gương những người con người học giỏi, có tinh thần vượt khó trong học tập
để từ đó tạo động lực cho bản thân. Nhờ đó, em có thể đóng góp được công sức của mình
vào sự phát triển của trường lớp hay thậm chí là sự phát triển của nên giáo dục của nước nhà,
giúp cho xã hội ngày một phát triển, trở nên tốt đẹp hơn. Luôn có thái độ sống tích cực, bản
thân luôn tự dặn mình rằng phải có sự tự giác trong học tập cũng như trong các lĩnh vực
khác, bởi sự tự giác sẽ thúc ép bản thân để có thể làm việc hết năng suất, tạo ra những kết
quả đang mong đợi. Không chỉ thế, ta còn luôn cần phải sáng tạo, năng động trong mọi hoạt
động chứ không chỉ riêng việc học tập, luôn tìm tòi, học hỏi những cái mới, những kiến thức
mới về nhiều lĩnh vực khác nhau.
Bên cạnh đó, em luôn dành thời gian để đọc sách, báo – nguồn tri thức vô tận mà
chúng ta có thể tìm được và học hỏi. Không chỉ cung cấp vốn kiến thức vô tận, đọc sách còn
giúp em rèn luyện được khả năng tập trung bởi khi đọc bản thân ta sẽ cần theo dõi từng câu
từng chữ, vừa đọc vừa suy ngẫm. Không chỉ thế, đọc sách còn giúp ta mở rộng vốn từ vựng,
cải thiện được trí nhớ, kích thích não bộ và giúp chúng ta phát triển khả năng viết lách. Điều
đặc biệt đó là khi đọc sách sẽ giúp em giảm bớt sự căng thẳng, tâm trạng trở nên thoải mái
hơn và nhờ đó bản thân có thể bình tĩnh lại và tiếp tục những việc đang còn dang dở.
Về lĩnh vực chuyên môn, bản thân em là một sinh viên học về kinh tế nên cần là một
con người nhanh nhạy, khéo léo, cẩn thận, tỉ mỉ và chính xác. Vì vậy em sẽ luôn phải dử
dụng đầu óc để điều khiển những hành động của bản thân một cách đúng đắn, không thể để
làm việc một cách theo cảm tính, không suy nghĩ hay sự chuẩn bị một cách kĩ càng. Bản thân
em luôn phải tự hình thành cho mình những thói quen hàng ngày để có thể trở nên tốt hơn và
là một sinh viên ưu tú, có thể đem đến những đóng góp của mình cho nhà trường và xã hội.
Chúng ta cần tránh bi quan và thụ động, chấp nhận hoàn cảnh, từ đó hạn chế tình trạng lười
học và tránh tình trạng không chịu tích lũy, tiếp thu kiến thức. Mỗi người cần phải biết kết
hợp lý thuyết và thực hành, biết kết hợp giữa học và hành, vận dụng những điều đã học vào
thực tế cuộc sống. Tránh phỏng đoán phi khoa học và mạo hiểm điên cuồng khi biến một số
thứ trở nên tuyệt đối. Nhận biết và áp dụng những điều này sẽ hỗ trợ rất nhiều cho quá trình
nghiên cứu và học tập của sinh viên ở bậc đại học và trong công việc sau này. 2. Trong đời sống
Bên cạnh vấn đề học tập thì việc vận dụng những kiến thức triết học vào đời sống là
vô cùng cần thiết. Trước hết, hãy trở thành một con người có lối sống tích cực, lạc quan, luôn
nhìn mọi thứ theo hướng tốt đệp để cuộc sống trở nên nhẹ nhàng, dễ dàng hơn. Hãy luôn nói
những lời yêu thương, quan tâm đến nhưng người xung quanh và khi đó chúng ta cũng sẽ
nhận lại những điều tốt đẹp đó và cuộc sống của mọi người sẽ trở nên hạnh phúc, lan tỏa
những cảm xúc tích cực đến tất cả mọi người. Bởi những cảm xúc ấy có thể chữa lành tâm
hồn của rất nhiều người và khiến họ trở nên lạc quan hơn.
Em biết cách trân trọng bản thân bằng cách : có chế độ ăn uống và tập luyện lành
mạnh, nếp sống văn minh để giữ gìn được sức khỏe, thanh lọc cơ thể và tinh thần. Biết quan
tâm, chia sẻ, trò chuyện với người thân và những người xung quanh để cuộc sống trở nên
hạnh phúc, chan hòa hơn. Biết thích ứng với những hoàn cảnh hiện tại, với những khó khăn
thử thách thay vì suy nghĩ quá nhiều về nó, em luôn cố gắng tìm cách để có thể giải quyết và
vượt qua nó thay vì trốn tránh, sợ hãi. Điều đó sẽ khiến bản thân bị thụt lùi, cảm thấy tự ti và
sẽ khó có thể thành công được, chúng ta phải luôn sẵn sàng bước ra khỏi vùng an toàn của
mình để khám phá được điểm mạnh điểm yếu của bản thân và từ đó phát triển nhiều thêm.
Em biết cách tìm được niềm vui, hạnh phúc cho bản thân : làm điều mình thích, ăn những
món ngon, đi chơi với những người mình yêu quý. Em luôn cố gắng kiểm soát được cảm
xúc, lời nói, hành động của bản thân để mọi việc trở nên nhẹ nhàng, nhanh nhạy và dễ giải
quyết hơn. Hãy luôn sống lạc quan, yêu đời để tinh thần luôn thoải mái.
Em luôn chủ động tìm kiếm, giao lưu kết bạn, mở rộng mối quan hệ, gặp gỡ thêm
nhiều người mới trong cuộc sống để có thể học tập, cùng nhau trao đổi những kiến thức để cả
bản thân mình cũng như bạn cùng phát triển. Tích cực tham gia nhiều hoạt động để có thêm
cơ hội cải thiện kĩ năng mềm của bản thân. Ví dụ như kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng làm việc
nhóm, kĩ năng thuyết trình và đặc biệt là kĩ năng giao tiếp. Những kĩ năng mềm đó là thứ vô
cùng cần thiết và nếu phát triển được tốt thì chúng ta có thể làm mọi việc nhanh hơn, chuyên
nghiệp hơn và hiệu quả hơn.
Không chỉ thế, bản thân em còn luôn tôn trọng, tích cực tìm hiểu về những truyền
thống văn hóa dân tộc cũng như nước ngoài có thêm hiểu biết, kinh nghiệm. Và từ đó nhận ra
được những bản sắc dân tộc của nước nhà và biết cách giữ gìn cũng như phát huy nó. Trên
đây là những điều em đã vận dụng được vào cuộc sống hàng ngày của bản thân và em vẫn sẽ
luôn nỗ lực hết mình, không ngừng học hỏi và trau dồi bản thân để có thể trở thành một
phiên bản tốt hơn của chính mình. V. PHẦN KẾT
Khi nghiên cứu tính quy luật của sự hình thành nhân cách, nhân cách sinh viên, chúng
ta thấy rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá trình giáo dục và tự
giáo dục, quá trình giao tiếp, quá trình hoạt động thực tiễn bộc lộ những "phẩm chất người"
của mỗi con người..; trong đó, giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục triết học Mác - Lênin
cho sinh viên là một yếu tố hợp thành quan trọng của nền giáo dục đại học nước ta hướng
đến việc xây dựng những thế hệ sinh viên có nhân cách trong sáng, có lập trường tư tưởng
chính trị vững vàng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá trình hội nhập và phát triển đất
nước. Cơ sở để khẳng định điều đó là:
Thứ nhất, giáo dục triết học Mác - Lênin trong trường đại học nhằm góp phần hình
thành thế giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt Nam
Giáo dục triết học Mác - Lênin trước hết là giáo dục những nguyên lý, phạm trù cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng lập trường thế giới quan cho sinh viên. Đó
chính là thế giới quan duy vật biện chứng - nền tảng để sinh viên nhận thức và tiếp thu những
nguyên lý, quy luật khác. Thế giới quan là toàn bộ hệ thống tri thức, những quan niệm của
con người về thế giới và về vị trí của chính con người trong thế giới đó. Là một hệ thống tri
thức, quan niệm về thế giới nhưng thế giới quan được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức
đặc thù của con người, chứ không phải là phép cộng giản đơn tổng số các tri thức khoa học cụ thể.
Việc giáo dục triết học Mác - Lênin trong các trường đại học có vị trí đặc biệt quan
trọng đối với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa học - thế giới quan duy
vật biện chứng của sinh viên. Bởi lẽ, triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nó cung cấp cho con người một cách nhìn khoa học đối
với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong hoạt động nhận
thức và cải tạo thế giới. Từ đó, giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực, có
phương hướng chính trị vững vàng, có khả năng nhận biết, phân tích và giải quyết các vấn đề
mới nảy sinh trong thực tiễn xã hội trên tinh thần thế giới quan Mác - Lênin.
Với tư cách một hệ thống lý luận, một học thuyết, triết học Mác - Lênin đã lý giải một
cách khoa học nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Như vậy, triết học
Mác - Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận, là "hạt nhân" của thế giới quan. Gọi là "hạt nhân"
của thế giới quan, bởi vì ngoài triết học Mác - Lênin, thế giới quan Mác - Lênin còn có các
quan điểm về chính trị, kinh tế, đạo đức, luật pháp, thẩm mỹ... Song, tất cả các quan điểm
trên đều được xây dựng trên nền tảng khoa học của triết học Mác - Lênin. Quan điểm và
niềm tin khoa học của triết học Mác - Lênin đã tạo dựng cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống
thế giới quan Mác - Lênin. Triết học đã lý giải về mặt lý luận toàn bộ các dữ kiện của hiện
thực khách quan và hoạt động thực tiễn của con người một cách lịch sử - cụ thể và khoa học
nhất. Vấn đề cơ bản của triết học, như Ph.Ăngghen đã nói, là vấn đề về mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại. Việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không cũng là những
vấn đề của thế giới quan. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cốt lõi là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng;
nó đã, đang và sẽ là một công cụ tư duy quan trọng nhất định hướng cho toàn Đảng, toàn dân
ta nói chung và sinh viên nói riêng trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực
tiễn. Vì vậy, xây dựng và phát triển thế giới quan Mác - Lênin chính là nhân tố đặc biệt quan
trọng trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách sinh viên Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, thế giới quan khoa học không hình thành một cách tự động, tức cứ trang bị
tri thức là có thế giới quan; trái lại, đó còn phải là quá trình chuyển tri thức thành niềm tin
khoa học trong mỗi sinh viên. Cơ sở để hình thành và phát triển thế giới quan là những nhận
thức về tự nhiên và xã hội, là kết quả của quá trình giáo dục và những kinh nghiệm được tích
lũy trong thực tiễn của sinh viên. Đó chính là quá trình hình thành và phát triển các quan
điểm, quan niệm, niềm tin về vai trò và khả năng của con người trong quá trình nhận thức và
cải tạo thế giới. Nói cách khác, tri thức, niềm tin, lý tưởng và tình cảm là những yếu tố cơ
bản nhất cấu thành nên thế giới quan. Trong đó, tri thức tự nó chưa thể trở thành thế giới
quan. Nó chỉ gia nhập thế giới quan khi trở thành niềm tin trong mỗi người. Nhờ có niềm tin,
tri thức mới trở thành cơ sở cho hành động của mỗi người. Khi biến thành niềm tin, tri thức
đóng vai trò động cơ, động lực tinh thần cho hoạt động của con người, giúp con người xác
định lý tưởng sống. Đạt đến "độ" này, mỗi sinh viên thể hiện trình độ sâu sắc trong nhận thức
và tri thức, hình thành thế giới quan và khi đó, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng
quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thứ hai, giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý
nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh viên hiểu được
mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
trong đó, mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội
mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
Giáo dục triết học Mác - Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi dưỡng nhân
sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị cho họ những kiến thức
cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức năng của nhà nước, về con người và
các quan hệ xã hội của con người, về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã
hội... Đồng thời, từng bước xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống cũng như cách vận
dụng những định hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn,
từ tri thức về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, cung cấp cho sinh
viên một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của
con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Hoặc là, khi phân tích kết cấu của mỗi
hình thái kinh tế - xã hội, với tất cả các quy luật tác động và chi phối nó, C.Mác đã kết luận:
Sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Chính những
kết luận như vậy tự nó đã mang đến cho mỗi sinh viên một niềm tin vào sự phát triển. Từ đó
giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với hiện thực cũng như khả năng phân tích và giải
quyết các vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện
chứng. Điều này tạo ra trong mỗi sinh viên thái độ lạc quan cách mạng để vượt qua những
thử thách, cam go trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. ở đây, với những tri thức được
học, sinh viên sẽ hiểu rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học được xây dựng trên cơ sở kế
thừa một cách chọn lọc những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong lịch sử và
được phát triển một cách khoa học lên tầm cao mới, đáp ứng đúng quy luật phát triển của xã
hội. Và Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa
học vào thực tiễn nước ta để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi nhận thức rõ vấn đề
đó, sinh viên sẽ tự nguyện, tự giác sống theo quan điểm sống của nhân sinh quan cộng sản
chủ nghĩa như là một sự thôi thúc nội tâm. Mặt khác, việc giáo dục triết học Mác - Lênin còn
giúp sinh viên có năng lực nhận diện rõ và đấu tranh chống lại những quan điểm trái với
những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, trái với chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo điều, đứng vững
trong cuộc đấu tranh phòng chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là học thuyết về con người và giải phóng con người.
Học thuyết Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng trang bị cho sinh viên một
nhân sinh quan khoa học và nhân đạo, chỉ ra mục đích cao cả nhất của cuộc sống là vì con
người và vì sự nghiệp giải phóng con người. Mỗi con người chỉ đạt được lợi ích, nhu cầu cá
nhân cao nhất khi nhận thức đúng đắn và tự nguyện, tự giác thực hiện lợi ích xã hội, lợi ích
dân tộc mình. Nhân cách chỉ được hình thành và phát triển khi giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, hạnh phúc của mỗi cá nhân chỉ được đảm bảo và
thực hiện khi hạnh phúc của toàn thể xã hội được đảm bảo, được thực hiện. Mỗi cá nhân chỉ
được giải phóng khi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại được thực hiện. Qua
việc thẩm thấu những tri thức này, mỗi sinh viên tự nguyện hướng đến lẽ sống cao đẹp "mình
vì mọi người và mọi người vì mình".
Thứ ba, giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản cho các
thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân
cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con người
vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà lý tưởng cộng sản
hướng tới là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xã hội chủ nghĩa và sau này là xã
hội cộng sản chủ nghĩa. ở đó, con người được tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Sinh viên khi
tiếp nhận những tri thức khoa học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân
tri thức ấy để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện lý tưởng. Việc
thực hiện lý tưởng không phải trừu tượng, xa vời, mà ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường họ cần xác lập ý chí học tập để sau này góp phần xây dựng Tổ quốc. Đồng thời, họ
cần có tinh thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn của một bộ phận sinh viên sống
thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng sa đà vào cuộc sống hưởng thụ,
thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vô cảm với lợi ích của đồng loại, của dân tộc.
Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động của
giáo dục triết học Mác - Lênin cũng chính là quá trình hình thành ở họ những phẩm chất cần
thiết, thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt xã hội, giúp sinh viên
nâng cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén với thực tiễn, xử lý tốt các tình huống
xảy ra trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có ước mơ để học tập, phấn đấu và cống hiến. Trong
cuộc sống con người không thể sống mà thiếu lý tưởng phấn đấu. Lý tưởng là sự thôi thúc
nội tâm giúp con người hành động để thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội.
Vì vậy, giáo dục triết học Mác - Lênin nhằm từng bước xây dựng lý tưởng cách mạng cho
sinh viên là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đó cũng chính là giá trị đạo đức của từng cá
nhân sinh viên mang nhân cách, là mục tiêu phấn đấu của mỗi sinh viên. Đạt đến mục tiêu
này, giáo dục triết học Mác - Lênin hoàn toàn khẳng định vai trò quan trọng và quyết định
của mình trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa những biểu hiện về suy thoái đạo đức, nhân cách
của sinh viên trước những tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” – NXB Chính trị quốc gia
2. Giáo trình “Triết học” (Dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học) – NXB Chính trị - Hành chính
3. Ph. Ăngghen “Chống Đuy – rinh”
4. “C.Mác và Ăngghen: Toàn tập” – NXB Chính trị quốc gia
5. “Hồ Chí Minh: Toàn tập” – NXB Chính trị quốc gia 6. Wikipedia