Vai trò của nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay| Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Nhận thấy chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
TIỂU LUẬN
VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hằng
NHÓM 8:
1.Phạm Việt Anh-22145300
2.Phan Huỳnh Đức Huy-
22145377
3.Phạm Minh Thiện-
22145473
4.Lê Đức Thắng-22145469
5.Nguyễn Lâm Thịnh-
22145477
Mã lớp học:LLCT130105_22_1_67
1
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2022
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................2
Lý do chọn đề tài:..........................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.....................................................................2
1. Khái niệm lực lượng sản xuất và vai trò nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất:........................................................................2
1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất:..............................................3
1.1.1. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất:....................3
1.1.2. Cấu trúc Lực lượng sản xuất:..........................................4
1.1.3. Tính chất đặc biệt của Lực lượng sản xuất hiện đại:........5
1.2. Vai trò của con người trong Lực lượng sản xuất:..................6
1.2.1. Khái niệm con người:......................................................6
1.2.2. Con người nhân tố trung tâm tính quyết định Lực
lượng sản xuất:.........................................................................8
2. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam trong thời quá
độ:...............................................................................................10
2.1. Tính tất yếu khách quan nội dung công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Việt Nam trong thời kí quá độ:...............................10
2.1.1. Tính tất yếu khách quan nước ta phải công nghiệp hóa,
hiện đại hóa:...........................................................................10
2.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta:.........11
2.2. Chiến lược phát triển GD ĐT nguồn nhân lực nước ta:........12
2.2.1. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta:..............12
2.2.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển GDĐT nguồn nhân
lực: 14
2.2.3. Mục tiêu phương hướng phát triển GDĐT nguồn nhân
lực nước ta16
1
KẾT LUẬN................................................................................17
PHỤ LỤC..................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................20
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Nhận thấy chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri
thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo trình độ học vấn,
năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động
tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học
công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân
chủ, văn minh, hiện nay, con người nguồn nhân lực được coi
nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh,
hiệu quả bền vững nền kinh tế nước ta. Đó yếu tố hết sức
bức thiết cần tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con
người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói
chung. Chúng ta khẳng định con người vừa mục tiêu vừa
động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải những con
người tri thức đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về
đúng vị trí một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá
trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy,
vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược giáo dục đào tạo
nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể
2
lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo dục đào tạo là đưa con người đạt
đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu
mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ của nước ta cũng
như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.
PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm lực lượng sản xuất vai trò nhân tố con
người trong lực lượng sản xuất:
1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất:
1.1.1. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật đựơc
sử dụng trong các quá trình sản xuất của hội tức trong quá
trình con người cải tạo, cải biến giới tự nhiên cho phù hợp với nhu
cầu tồn tại phát triển của mình. Như vậy, xét về mặt tính chất
thì khái niệm lực lượng sản xuất, phản ánh một số tính chất
căn bản sau: Trước hết, phản ánh quan hệ giữa con người với
tự nhiên trong quá trình sản xuất. động vật cao cấp nhất,
tinh hoa của muôn loài, con người sản phẩm của quá trình phát
triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Con ngưòi phải tìm kiếm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như
thức ăn, thức uống, nhà để ở. Theo một số nhà nhân học khẳng
định nhánh người bắt đầu hình thành cách đây khoảng 10 triệu
năm bắt đầu từ “vượn người ”. Khi đó vượn người đã biết sử dụng
gậy gộc, đá, xương động vật làm công cụ bắt đầu biết chế tạo
3
công cụ lao động thô cũng như dùng lửa. Nhưng cuộc sống của
loài vượn vẫn theo quy luật sinh vật: sống hoà lẫn vào thiên nhiên,
sinh sống hoàn toàn tuỳ theo bản năng vốn trong thể
những thứ sẵn trong tự nhiên, thể nói hoàn toàn phụ
thuộc vào tự nhiên. Theo thời gian vượn người tiến hoá thành
người khéo, người đứng thẳng, người khôn con người hiện đại
ngày nay. Nhưng sự tiến hoá ấy không làm thay đổi mối quan hệ
mật thiết giữa con người với tự nhiên. Ngày nay, con người vẫn
đang chinh phục tự nhiên bằng nhiều hình thức phương pháp
khác nhau. Như vậy, ngay từ thời kỳ khai nhất, con người đã
biết dựa vào những thứ vốn trong tự nhiên để cải biến theo
nhu cầu sinh tồn phục vụ nhu cầu sống của mình. Do đó ta
thấy rõ một sự thật tất yếu khách quan là con người không thể tồn
tại nếu không mối quan hệ mật thiết, gắn kết chặt chẽ với tự
nhiên.
Đồng thời cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người cụ thể hơn biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự
nhiên của con người.
Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ
hết sức thô sơ, hầu hết những công cụ thủ công vào quá trình
lao động sản xuất. Do đó năng suất lao động thấp kém, con người
chưa tạo ra nhiều của cải thừa khả năng trao đổi với nhau
phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh động, phong phú của mình.
Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên vẫn còn thấp kém.
Cho đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu lệ, chế độ phong
kiến, con người đã dần sáng tạo ra các công cụ lao động tiến bộ
4
hơn song về bản chất nó vẫn mang tính thủ công. Do vậy, mặc dù
sản phẩm lao động làm ra ngày một phong phú hơn song trong
quá trình lao động sản xuất vẫn còn dựa vào sức người - mặt thể
lực chính, cần nhiều thời gian quan trọng hơn vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của con người. Sang chế độ
bản chủ nghĩa, con người đã tạo ra hàng loạt những máy móc
hết sức hiện đại để phục vụ vào quá trình lao động sản xuất, khai
thác tài nguyên thiên nhiên, cải biến thành những vật dụng
sản phẩm giá trị, chất ợng cao, phong phú về hình thức, đa
dạng về chủng loại, mẫu mã. Đặc biệt cuộc cách mạng công
nghiệp diễn ra bắt đầu từ thế kỷ XVII suốt cho đến ngày nay đã
nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội của thế giới. Theo
đánh giá của C.Mác Ph.Ăngghen: “chỉ sau hơn hai thế kỷ tồn
tại, chủ nghĩa bản đã tạo ra một khối kượng của cải vật chất
nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”. Như thế trình độ chinh
phục tự nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới, đánh
dấu một bước phát triển cao của tiến bộ loài người. Cũng chính
trong giai đoạn này con người đã dần dần chiếm thế chủ động
trong quá trình lao động sản xuất.
Mặt khác, lực lượng sản xuất tính khách quan trong quá trình
sản xuất. Thật vậy không một quá trình sản xuất nào lại
không cần đến sức lao động của con người hay những yếu tố sẵn
có trong tự nhiên. Nói cách khác trong quá trình sản xuất vật chất
không thể không cần đến lực lượng sản xuất.
1.1.2. Cấu trúc Lực lượng sản xuất:
5
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động liệu sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất vừa điều kiện cho sự tồn tại của
con người vừa phương thức để làm biến đổi đời sống bộ mặt
xã hội.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất, với sức mạnh và năng lao động của mình, sử dụng liệu
lao động trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao
động để sản xuất ra của cải vật chất.
Bước kinh tế tri thức, sự phát triển của Lực lượng sản xuất biểu
hiện ở hai mặt :
Trí lực đóng vai trò chủ đạo, tức sẽ xuất hiện một tầng lớp
lao động trí óc đông đảo hợp thành chủ thể trong đội n
những người lao động.
Những nhân tố mới thúc đẩy Lực lượng sản xuất sẽ được phát
triển rộng khắp.
liệu sản xuất bao gồm liệu lao động đối tượng lao động.
Con người không thể sản xuất vật chất không cần đến những
yếu tố sẵn trong tự nhiên như đất, nước, khoáng sản, không
khí, Đó chính những đối tượng lao động. Đặc trưng nổi bật
của công cụ sản xuất và đối tượng lao động biểu hiện chủ yếu ở sự
gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ cuối cùng hàm
lượng tri thức được kết tinh trong sản phẩm ngày càng nhiều.
Còn liệu lao động những phương tiện, ng cụ lao động
con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất
ra của cải vật chất. Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ
6
hoạt động lao động đây cũng chính ranh giới tách người
ra khỏi giới sinh vật nói chung, thế giới động vật nói riêng.
1.1.3. Tính chất đặc biệt của Lực lượng sản xuất hiện
đại:
Trong sự phát triển của Lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò
ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay,
khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp
của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống trở
thành Lực lượng sản xuất trực tiếp.
Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời
những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công
nghệ mới nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập
ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, cụ thể là vào người lao
động liệu sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu
được trong sản xuất đã làm cho Lực lượng sản xuất bước phát
triển nhảy vọt, tạo thành cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại
không còn kinh nghiệm thói quen của họ tri thức khoa
học. Như vậy, không phải yếu tố th ba của Lực lượng sản
xuất nhưng thể nói khoa học công nghệ hiện đại đặc
trưng cho Lực lượng sản xuất hiện đại.
1.2. Vai trò của con người trong Lực lượng sản xuất:
1.2.1. Khái niệm con người:
7
Vấn đề con người luôn chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ
thời cổ đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học Mác-
Lênin về con người bản chất con người, xuất phát từ giác độ
khái quát nhất, đứng trên lập trường duy vật biên chứng, làm
sở phương pháp luận cho việc giải quyết những vấn đề khác của
con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho tới ngày nay.
Trước hết con người một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật
với mặt hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của
con người sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con người một bộ
phận của tự nhiên. Con người không thể tồn tại thoát ly khỏi
quá trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi. Trải qua hàng
chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người điều đó
được chứng minh trong các ng trình nghiên cứu của Đacuyn.
Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý,
các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của
cá nhân con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải yếu tố duy nhất quy định
bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật mặt hội. Thông qua hoạt động lao
động sản xuất con người sản xuất ra của cải vật chất tinh thần
phục vụ đời sống của mình hình thành phát triển ngôn ngữ
duy, xác lập quan hệ hội. Bởi vậy, lao động yếu tố quyết
định hình thành bản chất hội của con người đồng thời hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
sản phẩm của tự nhiên hội nên quá trình hình thành
phát triển của con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy
8
luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Chúng cùng tác động,
tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao
gồm cả mặt sinh học mặt hội. Mối quan hệ sinh học
hội sở để hình thànhc nhu cầu về sinh học và nhu cầu
hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái
sản xuất hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu
hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Như vậy ta thấy mặt sinh học sở tất yếu tự nhiên của con
người còn mặt hội đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con
người với loài vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo nên
con người tự nhiên- hội hay một thực thể song trùng. Để nhấn
mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận đề nổi
tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “bản chất con người không phải
một cái trừu tượng cố hữu của nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau:
quan hệ giữa con người với tự nhiên, với hội chính bản thân
con người, suy đến cùng đều mang tính hội. Nhưng thểi
quan hệ giữa con người với con người quan hệ bản chất nhất
bao trùm lên các mối quan hệ khác.
Thực tế lịch sử đã chứng minh không có một cá nhân nào có thể tự
đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân cũng như không thể lao
động một cách độc lập tuyệt đối để sản xuất vật chất mà phải liên
kết lại với nhau, phân công lao động trao đổi sản phẩm cho
nhau. Từ đó hình thành các quan hệ xã hội, điều chỉnh chi phối
hoạt động, hành vi của con người. Chỉ trong toàn bộ các mối quan
9
hệ đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất của mình. Trong
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, bằng hoạt động thực tiễn của
mình, con người sản xuất ra của cải vật chất đồng thời hoàn thiện
bản thân mình.
Con người chủ thể là sản phẩm của lịch sử. Không giới tự
nhiên, không lịch sử hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy
con người sản phẩm của lịch sử. Song điều quan trọng con
người luôn luôn chủ thể của lịch sử - hội. Con người sáng tạo
ra lịch sử, nhưng không bao giờ sáng tạo ra lịch sử trong những
hoàn cảnh điều kiện được lựa chọn, trong hoàn cảnh
điều kiện sẵn do quá khứ để lại. Do đó ta phải luôn chú ý tới
mối quan hệ hai chiều giữa hiện tại quá khứ, đặc biệt môi
trường sống của con người. Thông qua môi trường sống con người
sự tác động qua lại lẫn nhau thực hiện các quan hệ hội tạo
nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật.
1.2.2. Con người nhân tố trung tâm tính quyết định Lực
lượng sản xuất:
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại công nhân người lao động”. Con
người là nhân vật chính của lịch sử,
vừa mục tiêu, vừa động lực để phát triển hội. nhân tố con
người vừa phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất
tinh thần, sáng tạo hoàn thiện ngay chính bản thân mình
đồng thời vừa chủ nhân sử dụng hiệu quả mọi tài sản giá
ấy. Trên phương diện đó vai trò nhân tố con người lao động trong
lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất sáng tạo nhất của quá trình
10
sản xuất. Nhân tố trung tâm của con người chính sức lao động
bao gồthể lực trí lực. Không người lao động nào trong quá
trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao đông thể lực hay lao
động cơ bắp. Chính những người lao động là chủ thể của quá trình
lao động sản xuất, với sức mạnh năng lao động của mình, sử
dụng liệu lao động trước hết công cụ lao động, tác động vào
đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá
trình lao động sản xuất, sức mạnh kỹ năng lao động của con
người không ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người
ngày càng phát triển. Trong quá trình đó không những con người
sử dụng trí tuệ nội tại của mình còn được kế thừa những kinh
nghiệm qua học hỏi lẫn nhau giữa những người lao động cho nên
thể nói kinh nghiệm cũng một lực lượng sản xuất. Kinh
nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng cao hơn nữa
thể trở thành tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
Vai trò con người trong thời đại mới cần hiểu sâu sắc những giá
trị lớn lao ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể
của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền
văn minh của các quốc gia….Con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về
đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng hội mới, đồng thời
là mục tiêu của Chủ Nghĩa Xã Hội.
Hơn nữa, các nhân tố khác đều sản phẩm của người lao động .
Chỉ nhân tố con người mới thể làm thay đổi được công cụ
sản xuất làm cho sản xuất ngày càng phát triển với năng suất
chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản xuất các quan hệ hội
11
khác. Công cụ lao động thô hay hiện đại, xấu hay tốt, phụ
thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung
đối tượng lao động nói riêng, chỉ những vật tri giác
thôi. chỉ ý nghĩa khi trở thành sản phẩm phục vụ nhu cầu
của con người. Muốn vậy tất yếu người lao động phải tác động vào
liệu sản xuất để sản sinh ra nó. Như thế quá trình sản xuất vật
chất không th thoát ly khỏi lao động của con người. Trong thời
đại mới, nhân tố con người tri thức ngày càng đóng vai trò
quyết định hơn trong lực lượng sản xuất. thể khẳng định rằng
nhân tố con người đóng vai trò quyết định quá trình lao động sản
xuất ra của cải
vật chất.
2. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kì quá độ:
2.1. Tính tất yếu khách quan nội dung công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của Việt Nam trong thời kí quá độ:
2.1.1. Tính tất yếu khách quan nước ta phải công nghiệp hóa, hiện
đại hóa:
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời tồn tại trên một sở vật
chất kinh tế tương ứng với nó. sở vật chất kinh tế của chủ
nghĩa hội một nền công nghiệp lớn hiện đại, trước hết
công nghiệp nặng đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho
công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, nhằm
không ngừng phát triển nền sản xuất lớn hội chủ nghĩa cải
thiện đời sống nhân dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa quá
12
trình chuyển đổi căn bản toàn diện hoạt động kinh tế, dịch vụ
quản lý từ trạng thái sử dụng sức lao động là chính sang trạng thái
sử dụng sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại tạo
ra năng suất lao động ngày càng cao. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa một tính quy luật để xây dựng sở vật chất kinh tế cho
chủ nghĩa xã hội. sở vật chất kinh tế của một phương thức sản
xuất là toàn bộ những tư liệu vật chất trong đó chủ yếucông cụ
sản xuấtlao động trong hội sử dụng. sở vật chất kinh tế
của phương thức sản xuất trước tư bản hết sức lạc hậu, chủ yếu
công cụ lao động thủ công. Trong chủ nghĩa bản nền đại
công nghiệp cơ khí hoá đã tạo cái cốt cho chủ nghĩa tư bản tồn tại.
tự khẳng định mình một phương thức sản xuất thống trị
trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa hội bỏ qua giai
đoạn bản thiếu một tiền đề vật chất kinh tế chủ nghĩa
bản để lại. Mặt khác Việt Nam một nước nền kinh tế kém
phát triển, chưa nền sản xuất lớn dựa trên nền tảng công
nghiệp lớn. Do đó để xây dựng chủ nghĩa hội tất yếu nước ta
phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa làm cho kinh tế nước ta dần
đạt tới trình độ tiên tiến của thế giới. Thời đại ngày nay cách mạng
khoa học công nghệ một đặc trưng, khoa học công nghệ trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, vừa là nền tảng vừa là động
lực của quá trình công nghiệp hóa. Đồng thời gắn công nghiệp hóa
với hiện đại hóa sẽ tránh được nguy tụt hậu xa về kinh tế giữa
nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh
tế phát triển.
13
Hơn nữa công nghiệm hóa cần thiết nhiều tác dụng. Đó
là :
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cao dẫn đến năng
suất lao động cũng cao.
Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi
hoàn toàn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội nước
ta.
Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục.
Bản thân sự nghiệp xây dựng sở vật chất kinh tế đòi hỏi
quần chúng phải trình độ giác nhộ cách mạng, trình độ
văn hoá, trình độ khoa học ngày càng cao.
Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại.
Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải một nền
công nghiệp hiện đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân,
đảm bảo an toàn lương thực.
Nó là cơ sở vật chất cho củng cố an ninh quốc phòng, độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội được bảo vệ vững chắc.
2.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta:
Thực chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa chuyển nền kinh tế từ
lao động thủ công
sang lao động khí hay nói cách khác tiến hành trang bị kỹ
thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Không tiến hành cách
mạng kỹ thuật thì không thể biến một nước nông nghiệp lạc hậu
thành một nước có nền sản xuất lớn.
sẽ làm thay đổi đến tận gốc rễ lực lượng sản xuất của hội .
Trước tiên phải làm
14
biến đổi công cụ lao động - thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người sở phân biệt các thời đại với nhau. Muốn
vậy ta phải thực hiện nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại trên thế giới. Một yếu tố không thể thiếu nữa,
đó ta phải phát huy được lợi thế so sánh. Ta đi sau cạnh tranh,
thu hút, sử dụng công nghệ hiện đại của nước bạn thông qua việc
chuyển giao công nghệ. Việc đó được tiến hành từ các nước khác
chuyển sang nước ta bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, bao
gồm cả phần cứng tức máy móc thiết bị và phần mềm tức phương
pháp và công nghệ. Nhờ đó cho phép ta khai thác được các nguồn
lực trong nước khắc phục được nguy tụt hậu kinh tế cũng
như thúc đẩy nền sản xuất hướng về xuất khẩu ra thị trường quốc
tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cấu kinh tế hợp lý. cấu kinh
tế tổng thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cấu kinh tế
ngành là quan trọng được cân đối về quy mô, về tỉ trọng, phù hợp
điều kiện của tự nhiên xu hướng phân công hợp tác lao động
quốc tế. Trước hết, phải phù hợp với các quy luật khách quan
xu thế phát triển của khoa học công ngh đồng thời phát huy
được lợi thế so sánh trong nước. Để y dựng một cấu kinh tế
hợp lý phải chuyển dịch cơ cấu gắn liền với phân công lại lao động
hội theo một tính quy luật. Trong đó tỉ trọng lao động trong
ngành công nghiệp gia tăng, nông nghiệp giảm còn dịch vụ tăng
lên. Tuy nhiên phải luôn luôn đảm bảo tỉ trọng hợp giữa chúng
một cách tương đối so với nhau. Mặt khác tỉ trọng lao động giản
đơn, lao động cơ bắp giảm còn lao động phức tạp tăng lên.
15
2.2. Chiến lược phát triển GD ĐT nguồn nhân lực nước ta:
2.2.1. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta:
Trong các nguồn lực thể khai thác như nguồn lực tự nhiên,
nguồn lực khoa học công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực
con người quyết định nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ
thể khai thác hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy.
Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực
con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Các lĩnh vực khoa học khác nhau thể hiểu nguồn lực theo
nhữngcách khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực một hệ
thống các nhân tố mỗi nhân tố đó vai trò riêng nhưng
mối quan hệ qua lại lẫn nhau tạo nên sự phát triển của một sự vật,
hiện tượng nào đó. Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực con người
những yếu tố thể huy động, sử dụng để thúc đẩy nền kinh tế
đất nước sự phát triển hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực
con người nói tới con người với cách chủ thể của quá trình
sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Tỉ trọng ( % ) các khối kinh tế trong GDP
Ngành
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
1998
25,75
33,25
41
2010
17
40
43
[Nguồn : Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010, trang 7]
Nói đến nguồn lực con người nói đến chất lượng và số lượng
nguồn nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông
qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực. Các chỉ
tiêu này mối quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu quy tốc
16
độ tăng dân số. Quy dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng
cao thì dẫn tới quy tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn
ngược lại. Chất lượng nguồn nhân lực cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho hội. Số
lượng chất lượng nguồn nhân lực mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nhu cầu sử dụng
lao động, người lao động phải được đào tạo, phân bổ sử dụng theo
cấu hợp lí, đảo bảo tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một đất
nước có số lựng lao động đông đảo nhưng nếu phân bổ không hợp
lí, không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao động đông
sẽ trở thành gánh nặng cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội. Sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và thông tin, sự giao
lưu liên minh kinh tế giữa các khu vực trên thế giới, sự ra đời
của các công ty xuyên quốc gia dẫn tới sự kinh tế hóa kinh tế thế
giới. Trong bối cảnh đó, khu vực Châu Á- Thái Bình Dương nổi lên
khu vực kinh tế năng động nhất. yếu tố chủ chốt thúc đẩy
kinh tế nhanh chóng chính là nguồn nhân lực.
Thực trạng nguồn nhân lực nước ta:
Cơ cấu ngành còn chưa hợp lí
Cơ cấu vùng miền chưa hợp lí
Nguồn nhân lực qua đào tạo còn ít:
Chính quy: 509637
Chuyên tu, tại chức: 235975
Tỉ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến thiếu giáo viên
Trong dạy nghề cso 157 trường dạy nghề, hơn 190 trường đại
học nhưng đầu tư kinh tế còn nhỏ
17
[Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học - trang 159]
Như thế nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng sức người với một số
yếu tố của tri thức.
2.2.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển GDĐT nguồn nhân lực:
Báo cáo chính trị đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: Giáo dục
đào tạo quốc sách hàng đầu, phương hướng chung trong nhiều
năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, “ nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Viêt Nam nhân tố quyết
định sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Con người
nguồn nhân lực nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong
thời kỳ CNH, HĐH cần tạo chuyển biến bản toàn diện về
GDĐT… Đào tạo lớp người lao động kiến thức bản làm chủ
kỹ năng, nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với
cái mới ý thức vươn lên về khoa học công nghệ. Xây dựng
đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia nhà khoa học,
nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao
động nhân tài phải tận dụng mọi năng lực phát huy, mọi tiềm
năng của các tập th nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng
bảo vệ đất nước”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định
mục tiêu của chiến lượcphát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-
2010) là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
18
| 1/27

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TIỂU LUẬN
VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Hằng NHÓM 8: 1.Phạm Việt Anh-22145300 2.Phan Huỳnh Đức Huy- 22145377 3.Phạm Minh Thiện- 22145473 4.Lê Đức Thắng-22145469 5.Nguyễn Lê Lâm Thịnh- 22145477
Mã lớp học:LLCT130105_22_1_67 1
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2022 2 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
.........................................................................2
Lý do chọn đề tài:..........................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.....................................................................2
1. Khái niệm lực lượng sản xuất và vai trò nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất:........................................................................2
1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất:..............................................3
1.1.1. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất:....................3
1.1.2. Cấu trúc Lực lượng sản xuất:..........................................4
1.1.3. Tính chất đặc biệt của Lực lượng sản xuất hiện đại:........5
1.2. Vai trò của con người trong Lực lượng sản xuất:..................6
1.2.1. Khái niệm con người:......................................................6
1.2.2. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định Lực
lượng sản xuất:.........................................................................8
2. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kì quá
độ:............................................................................................... 10
2.1. Tính tất yếu khách quan và nội dung công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Việt Nam trong thời kí quá độ:...............................10
2.1.1. Tính tất yếu khách quan nước ta phải công nghiệp hóa,
hiện đại hóa:...........................................................................10
2.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta:.........11
2.2. Chiến lược phát triển GD ĐT nguồn nhân lực nước ta:........12
2.2.1. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta:..............12
2.2.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển GDĐT nguồn nhân lực: 14
2.2.3. Mục tiêu và phương hướng phát triển GDĐT nguồn nhân lực nước ta16 1
KẾT LUẬN................................................................................17
PHỤ LỤC..................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................20 PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Nhận thấy chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri
thức, đòi hỏi mỗi con người phải được đào tạo trình độ học vấn,
năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý thức lao động
tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự biến đổi khoa học
công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
với những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là
nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức
bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con
người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói
chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con
người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về
đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá
trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy,
vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược giáo dục đào tạo
nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể 2
lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo dục đào tạo là đưa con người đạt
đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu
mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ của nước ta cũng
như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới. PHẦN NỘI DUNG
1. Khái niệm lực lượng sản xuất và vai trò nhân tố con
người trong lực lượng sản xuất: 1.1.
Khái niệm lực lượng sản xuất:
1.1.1. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật đựơc
sử dụng trong các quá trình sản xuất của xã hội tức là trong quá
trình con người cải tạo, cải biến giới tự nhiên cho phù hợp với nhu
cầu tồn tại và phát triển của mình. Như vậy, xét về mặt tính chất
thì khái niệm lực lượng sản xuất, nó phản ánh một số tính chất
căn bản sau: Trước hết, nó phản ánh quan hệ giữa con người với
tự nhiên trong quá trình sản xuất. Là động vật cao cấp nhất, là
tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của quá trình phát
triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Con ngưòi phải tìm kiếm
mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như
thức ăn, thức uống, nhà để ở. Theo một số nhà nhân học khẳng
định nhánh người bắt đầu hình thành rõ cách đây khoảng 10 triệu
năm bắt đầu từ “vượn người ”. Khi đó vượn người đã biết sử dụng
gậy gộc, đá, xương động vật làm công cụ và bắt đầu biết chế tạo 3
công cụ lao động thô sơ cũng như dùng lửa. Nhưng cuộc sống của
loài vượn vẫn theo quy luật sinh vật: sống hoà lẫn vào thiên nhiên,
sinh sống hoàn toàn tuỳ theo bản năng vốn có trong cơ thể và
những thứ sẵn có trong tự nhiên, có thể nói là hoàn toàn phụ
thuộc vào tự nhiên. Theo thời gian vượn người tiến hoá thành
người khéo, người đứng thẳng, người khôn và con người hiện đại
ngày nay. Nhưng sự tiến hoá ấy không làm thay đổi mối quan hệ
mật thiết giữa con người với tự nhiên. Ngày nay, con người vẫn
đang chinh phục tự nhiên bằng nhiều hình thức và phương pháp
khác nhau. Như vậy, ngay từ thời kỳ sơ khai nhất, con người đã
biết dựa vào những thứ vốn có trong tự nhiên để cải biến nó theo
nhu cầu sinh tồn và phục vụ nhu cầu sống của mình. Do đó ta
thấy rõ một sự thật tất yếu khách quan là con người không thể tồn
tại nếu không có mối quan hệ mật thiết, gắn kết chặt chẽ với tự nhiên.
Đồng thời nó cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người cụ thể hơn là biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ
hết sức thô sơ, hầu hết là những công cụ thủ công vào quá trình
lao động sản xuất. Do đó năng suất lao động thấp kém, con người
chưa tạo ra nhiều của cải dư thừa có khả năng trao đổi với nhau
phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh động, phong phú của mình.
Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên vẫn còn thấp kém.
Cho đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong
kiến, con người đã dần sáng tạo ra các công cụ lao động tiến bộ 4
hơn song về bản chất nó vẫn mang tính thủ công. Do vậy, mặc dù
sản phẩm lao động làm ra ngày một phong phú hơn song trong
quá trình lao động sản xuất vẫn còn dựa vào sức người - mặt thể
lực là chính, cần nhiều thời gian và quan trọng hơn vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của con người. Sang chế độ
tư bản chủ nghĩa, con người đã tạo ra hàng loạt những máy móc
hết sức hiện đại để phục vụ vào quá trình lao động sản xuất, khai
thác tài nguyên thiên nhiên, cải biến nó thành những vật dụng và
sản phẩm có giá trị, chất lượng cao, phong phú về hình thức, đa
dạng về chủng loại, mẫu mã. Đặc biệt cuộc cách mạng công
nghiệp diễn ra bắt đầu từ thế kỷ XVII suốt cho đến ngày nay đã
nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội của thế giới. Theo
đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen: “chỉ sau hơn hai thế kỷ tồn
tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một khối kượng của cải vật chất
nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”. Như thế trình độ chinh
phục tự nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới, đánh
dấu một bước phát triển cao của tiến bộ loài người. Cũng chính
trong giai đoạn này con người đã dần dần chiếm thế chủ động
trong quá trình lao động sản xuất.
Mặt khác, lực lượng sản xuất có tính khách quan trong quá trình
sản xuất. Thật vậy không có một quá trình sản xuất nào mà lại
không cần đến sức lao động của con người hay những yếu tố sẵn
có trong tự nhiên. Nói cách khác trong quá trình sản xuất vật chất
không thể không cần đến lực lượng sản xuất.
1.1.2. Cấu trúc Lực lượng sản xuất: 5
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của
con người vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu
lao động trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao
động để sản xuất ra của cải vật chất.
Bước kinh tế tri thức, sự phát triển của Lực lượng sản xuất biểu hiện ở hai mặt : 
Trí lực đóng vai trò chủ đạo, tức là sẽ xuất hiện một tầng lớp
lao động trí óc đông đảo hợp thành chủ thể trong đội ngũ những người lao động. 
Những nhân tố mới thúc đẩy Lực lượng sản xuất sẽ được phát triển rộng khắp.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động.
Con người không thể sản xuất vật chất mà không cần đến những
yếu tố sẵn có trong tự nhiên như đất, nước, khoáng sản, không
khí, … Đó chính là những đối tượng lao động. Đặc trưng nổi bật
của công cụ sản xuất và đối tượng lao động biểu hiện chủ yếu ở sự
gia tăng hàm lượng khoa học và công nghệ cuối cùng là hàm
lượng tri thức được kết tinh trong sản phẩm ngày càng nhiều.
Còn tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà
con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất
ra của cải vật chất. Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ 6
có hoạt động lao động và đây cũng chính là ranh giới tách người
ra khỏi giới sinh vật nói chung, thế giới động vật nói riêng.
1.1.3. Tính chất đặc biệt của Lực lượng sản xuất hiện đại:
Trong sự phát triển của Lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò
ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất
là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay,
khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp
của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở
thành Lực lượng sản xuất trực tiếp.
Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời
những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công
nghệ mới nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập
ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, cụ thể là vào người lao
động và tư liệu sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu
được trong sản xuất đã làm cho Lực lượng sản xuất có bước phát
triển nhảy vọt, tạo thành cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại
không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa
học. Như vậy, dù không phải là yếu tố thứ ba của Lực lượng sản
xuất nhưng có thể nói khoa học và công nghệ hiện đại là đặc
trưng cho Lực lượng sản xuất hiện đại.
1.2. Vai trò của con người trong Lực lượng sản xuất:
1.2.1. Khái niệm con người: 7
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ
thời cổ đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học Mác-
Lênin về con người và bản chất con người, xuất phát từ giác độ
khái quát nhất, đứng trên lập trường duy vật biên chứng, làm cơ
sở phương pháp luận cho việc giải quyết những vấn đề khác của
con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho tới ngày nay.
Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật
với mặt xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của
con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con người là một bộ
phận của tự nhiên. Con người không thể tồn tại mà thoát ly khỏi
quá trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi. Trải qua hàng
chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người điều đó
được chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đacuyn.
Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý,
các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định
bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con
người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Thông qua hoạt động lao
động sản xuất con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
phục vụ đời sống của mình hình thành và phát triển ngôn ngữ và
tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết
định hình thành bản chất xã hội của con người đồng thời hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và
phát triển của con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy 8
luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Chúng cùng tác động,
tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao
gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã
hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về sinh học và nhu cầu xã
hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái
sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu
hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con
người với loài vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo nên
con người tự nhiên- xã hội hay một thực thể song trùng. Để nhấn
mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận đề nổi
tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau:
quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân
con người, suy đến cùng đều mang tính xã hội. Nhưng có thể nói
quan hệ giữa con người với con người là quan hệ bản chất nhất
bao trùm lên các mối quan hệ khác.
Thực tế lịch sử đã chứng minh không có một cá nhân nào có thể tự
đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân cũng như không thể lao
động một cách độc lập tuyệt đối để sản xuất vật chất mà phải liên
kết lại với nhau, phân công lao động và trao đổi sản phẩm cho
nhau. Từ đó hình thành các quan hệ xã hội, điều chỉnh và chi phối
hoạt động, hành vi của con người. Chỉ trong toàn bộ các mối quan 9
hệ đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất của mình. Trong
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, bằng hoạt động thực tiễn của
mình, con người sản xuất ra của cải vật chất đồng thời hoàn thiện bản thân mình.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có giới tự
nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy
con người là sản phẩm của lịch sử. Song điều quan trọng là con
người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. Con người sáng tạo
ra lịch sử, nhưng không bao giờ sáng tạo ra lịch sử trong những
hoàn cảnh và điều kiện được lựa chọn, mà trong hoàn cảnh và
điều kiện sẵn có do quá khứ để lại. Do đó ta phải luôn chú ý tới
mối quan hệ hai chiều giữa hiện tại và quá khứ, đặc biệt là môi
trường sống của con người. Thông qua môi trường sống con người
có sự tác động qua lại lẫn nhau thực hiện các quan hệ xã hội tạo
nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật. 1.2.2.
Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định Lực lượng sản xuất:
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động”. Con
người là nhân vật chính của lịch sử,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. nhân tố con
người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất
và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản thân mình
đồng thời vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vô giá
ấy. Trên phương diện đó vai trò nhân tố con người lao động trong
lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất sáng tạo nhất của quá trình 10
sản xuất. Nhân tố trung tâm của con người chính là sức lao động
bao gồthể lực và trí lực. Không có người lao động nào trong quá
trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao đông thể lực hay lao
động cơ bắp. Chính những người lao động là chủ thể của quá trình
lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử
dụng tư liệu lao động trước hết là công cụ lao động, tác động vào
đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá
trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con
người không ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người
ngày càng phát triển. Trong quá trình đó không những con người
sử dụng trí tuệ nội tại của mình mà còn được kế thừa những kinh
nghiệm qua học hỏi lẫn nhau giữa những người lao động cho nên
có thể nói kinh nghiệm cũng là một lực lượng sản xuất. Kinh
nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn nữa nó có
thể trở thành tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
Vai trò con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá
trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể
của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền
văn minh của các quốc gia….Con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về
đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời
là mục tiêu của Chủ Nghĩa Xã Hội.
Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động .
Chỉ có nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được công cụ
sản xuất làm cho sản xuất ngày càng phát triển với năng suất và
chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội 11
khác. Công cụ lao động thô sơ hay hiện đại, xấu hay tốt, phụ
thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung và
đối tượng lao động nói riêng, chỉ là những vật vô tri vô giác mà
thôi. Nó chỉ có ý nghĩa khi trở thành sản phẩm phục vụ nhu cầu
của con người. Muốn vậy tất yếu người lao động phải tác động vào
tư liệu sản xuất để sản sinh ra nó. Như thế quá trình sản xuất vật
chất không thể thoát ly khỏi lao động của con người. Trong thời
đại mới, nhân tố con người có tri thức ngày càng đóng vai trò
quyết định hơn trong lực lượng sản xuất. Có thể khẳng định rằng
nhân tố con người đóng vai trò quyết định quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất.
2. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kì quá độ: 2.1.
Tính tất yếu khách quan và nội dung công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của Việt Nam trong thời kí quá độ:
2.1.1. Tính tất yếu khách quan nước ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời và tồn tại trên một cơ sở vật
chất kinh tế tương ứng với nó. Cơ sở vật chất kinh tế của chủ
nghĩa xã hội là một nền công nghiệp lớn hiện đại, trước hết là
công nghiệp nặng có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho
công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, nhằm
không ngừng phát triển nền sản xuất lớn xá hội chủ nghĩa và cải
thiện đời sống nhân dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá 12
trình chuyển đổi căn bản toàn diện hoạt động kinh tế, dịch vụ và
quản lý từ trạng thái sử dụng sức lao động là chính sang trạng thái
sử dụng sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại tạo
ra năng suất lao động ngày càng cao. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là một tính quy luật để xây dựng cơ sở vật chất kinh tế cho
chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kinh tế của một phương thức sản
xuất là toàn bộ những tư liệu vật chất trong đó chủ yếu là công cụ
sản xuất mà lao động trong xã hội sử dụng. Cơ sở vật chất kinh tế
của phương thức sản xuất trước tư bản là hết sức lạc hậu, chủ yếu
là công cụ lao động thủ công. Trong chủ nghĩa tư bản nền đại
công nghiệp cơ khí hoá đã tạo cái cốt cho chủ nghĩa tư bản tồn tại.
Nó tự khẳng định mình là một phương thức sản xuất thống trị
trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn tư bản thiếu một tiền đề vật chất kinh tế mà chủ nghĩa tư
bản để lại. Mặt khác Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém
phát triển, chưa có nền sản xuất lớn dựa trên nền tảng công
nghiệp lớn. Do đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu nước ta
phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa làm cho kinh tế nước ta dần
đạt tới trình độ tiên tiến của thế giới. Thời đại ngày nay cách mạng
khoa học công nghệ là một đặc trưng, khoa học công nghệ trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nó vừa là nền tảng vừa là động
lực của quá trình công nghiệp hóa. Đồng thời gắn công nghiệp hóa
với hiện đại hóa sẽ tránh được nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế giữa
nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển. 13
Hơn nữa công nghiệm hóa là cần thiết và có nhiều tác dụng. Đó là : 
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cao dẫn đến năng suất lao động cũng cao. 
Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi
hoàn toàn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta. 
Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục.
Bản thân sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kinh tế đòi hỏi
quần chúng phải có trình độ giác nhộ cách mạng, trình độ
văn hoá, trình độ khoa học ngày càng cao. 
Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại. 
Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có một nền
công nghiệp hiện đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân,
đảm bảo an toàn lương thực. 
Nó là cơ sở vật chất cho củng cố an ninh quốc phòng, độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội được bảo vệ vững chắc. 2.1.2.
Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta:
Thực chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chuyển nền kinh tế từ lao động thủ công
sang lao động cơ khí hay nói cách khác là tiến hành trang bị kỹ
thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Không tiến hành cách
mạng kỹ thuật thì không thể biến một nước nông nghiệp lạc hậu
thành một nước có nền sản xuất lớn.
Nó sẽ làm thay đổi đến tận gốc rễ lực lượng sản xuất của xã hội . Trước tiên phải làm 14
biến đổi công cụ lao động - thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người và là cơ sở phân biệt các thời đại với nhau. Muốn
vậy ta phải thực hiện nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại trên thế giới. Một yếu tố không thể thiếu nữa,
đó là ta phải phát huy được lợi thế so sánh. Ta đi sau cạnh tranh,
thu hút, sử dụng công nghệ hiện đại của nước bạn thông qua việc
chuyển giao công nghệ. Việc đó được tiến hành từ các nước khác
chuyển sang nước ta bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, bao
gồm cả phần cứng tức máy móc thiết bị và phần mềm tức phương
pháp và công nghệ. Nhờ đó cho phép ta khai thác được các nguồn
lực trong nước và khắc phục được nguy cơ tụt hậu kinh tế cũng
như thúc đẩy nền sản xuất hướng về xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh
tế là tổng thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế
ngành là quan trọng được cân đối về quy mô, về tỉ trọng, phù hợp
điều kiện của tự nhiên và xu hướng phân công hợp tác lao động
quốc tế. Trước hết, nó phải phù hợp với các quy luật khách quan
và xu thế phát triển của khoa học công nghệ đồng thời phát huy
được lợi thế so sánh trong nước. Để xây dựng một cơ cấu kinh tế
hợp lý phải chuyển dịch cơ cấu gắn liền với phân công lại lao động
xã hội theo một tính quy luật. Trong đó tỉ trọng lao động trong
ngành công nghiệp gia tăng, nông nghiệp giảm còn dịch vụ tăng
lên. Tuy nhiên phải luôn luôn đảm bảo tỉ trọng hợp lý giữa chúng
một cách tương đối so với nhau. Mặt khác tỉ trọng lao động giản
đơn, lao động cơ bắp giảm còn lao động phức tạp tăng lên. 15 2.2.
Chiến lược phát triển GD ĐT nguồn nhân lực nước ta:
2.2.1. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta:
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên,
nguồn lực khoa học công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực
con người là quyết định nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có
thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy.
Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực
con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Các lĩnh vực khoa học khác nhau có thể hiểu nguồn lực theo
nhữngcách khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ
thống các nhân tố mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng nhưng có
mối quan hệ qua lại lẫn nhau tạo nên sự phát triển của một sự vật,
hiện tượng nào đó. Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực con người là
những yếu tố có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy nền kinh tế
đất nước và sự phát triển xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn lực
con người là nói tới con người với tư cách là chủ thể của quá trình
sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Tỉ trọng ( % ) các khối kinh tế trong GDP Ngành Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ Năm 1998 25,75 33,25 41 2010 17 40 43
[Nguồn : Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010, trang 7]
Nói đến nguồn lực con người là nói đến chất lượng và số lượng
nguồn nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông
qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn nhân lực. Các chỉ
tiêu này có mối quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu quy mô và tốc 16
độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng
cao thì dẫn tới quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và
ngược lại. Chất lượng nguồn nhân lực cũng đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng
lao động, người lao động phải được đào tạo, phân bổ sử dụng theo
cơ cấu hợp lí, đảo bảo tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một đất
nước có số lựng lao động đông đảo nhưng nếu phân bổ không hợp
lí, không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lượng lao động đông
sẽ trở thành gánh nặng cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội. Sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và thông tin, sự giao
lưu và liên minh kinh tế giữa các khu vực trên thế giới, sự ra đời
của các công ty xuyên quốc gia dẫn tới sự kinh tế hóa kinh tế thế
giới. Trong bối cảnh đó, khu vực Châu Á- Thái Bình Dương nổi lên
là khu vực kinh tế năng động nhất. Mà yếu tố chủ chốt thúc đẩy
kinh tế nhanh chóng chính là nguồn nhân lực.
Thực trạng nguồn nhân lực nước ta: 
Cơ cấu ngành còn chưa hợp lí 
Cơ cấu vùng miền chưa hợp lí 
Nguồn nhân lực qua đào tạo còn ít:  Chính quy: 509637 
Chuyên tu, tại chức: 235975 
Tỉ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến thiếu giáo viên 
Trong dạy nghề cso 157 trường dạy nghề, hơn 190 trường đại
học nhưng đầu tư kinh tế còn nhỏ 17
[Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học - trang 159]
Như thế nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng sức người với một số yếu tố của tri thức.
2.2.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển GDĐT nguồn nhân lực:
Báo cáo chính trị đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ rõ: “ Giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, phương hướng chung trong nhiều
năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước”, “ nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Viêt Nam là nhân tố quyết
định sự thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Con người và
nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong
thời kỳ CNH, HĐH cần tạo chuyển biến cơ bản toàn diện về
GDĐT… Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản làm chủ
kỹ năng, nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với
cái mới có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng
đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học,
nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao
động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực phát huy, mọi tiềm
năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định
rõ mục tiêu của chiến lượcphát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-
2010) là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp 18