Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và vận dụng vấn đề này vào công cuộc đổi mới của đất nước ta | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Đất nước ta sau bao nhiêu năm qua, đã có thể thoát ra ngoài vỏ bọc nghèo nàn lạc hậu, ngày nay đã vươn lên từ nước chậm phát triển có thu nhập thấp,đã và đang vững bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để sớm trở thành một nước công nghiệp trong tương lai không xa . Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC : TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TIỂU LUẬN
VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ VÀ VẬN
DỤNG VẤN ĐỀ NÀY VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC TA
GVHD: TS. Nguyễn Ngọc Võ Khoa SVTH: 1. Đỗ Đình Nam- 22132092 2. Lục Văn Khải- 22132054 3. Trần Hoàng Nam – 22132
4. K’Thị Kim Ngân- 22132001 5. Nhật Linh - 22132067
Mã lớp học:LLCT130105_22_1_47
Thành phố Hồ Chí Minh,tháng 12 năm 2022 PHỤ LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục tiêu nghiên cứu 3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Vai trò của QCND trong lịch sử 1.1. Khái niệm chung 1.1.1. Khái niệm QCND
1.1.2. Khái niệm cá nhân
1.1.3. Khái niệm lãnh tụ 1.2. Vai trò của QCND 1.2.1. Vai trò của QCND
1.2.2. Vai trò của lãnh tụ
1.3. Quan hệ giữa QCND với lãnh tụ
Chương 2: Vận dụng vai trò của QCND trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
2.1. Những đặc điểm của con người Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm tích cực
2.1.2. Đặc điểm hạn chế
2.2. Vai trò của QCND và đoàn kết dân tộc là động lực thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 18 C. PHẦN KẾT LUẬN CHÚ THÍCH:
QCND : Quần chúng nhân dân. A-PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Đất nước ta sau bao nhiêu năm qua, đã có thể thoát ra ngoài vỏ bọc nghèo
nàn lạc hậu, ngày nay đã vươn lên từ nước chậm phát triển có thu nhập
thấp,đã và đang vững bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để
sớm trở thành một nước công nghiệp trong tương lai không xa. Mà nhờ đâu
chúng ta có thể thực hiện được điều ấy? Đó là nhờ sự đoàn kết thống nhất
củaQCND. Vì vậy, hôm nay chúng em quyết định chọn đề tài “Vai trò của QCND
trong lịch sử và vận dụng vấn đề này vào công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay”, để nghiên cứu.
2.Mục đích nghiên cứu
-Phân tích làm rõ vai trò của QCND.
-Đưa ra những tác động của qcnd đối với đất nước hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tiểu luận sẽ nghiên cứu trong phạm vi kiến thức cơ bản và kiến thức vận
dụng về vai trò của QCND trong quá trình đi lên của nước nhà.
4.Phương pháp nghiên cứu
- Tiểu luận sẽ nghiên cứu dựa trên những phương pháp : +phương pháp phân tích. +phương pháp tổng hợp. 18
- Thông qua giáo trình mác lenin và tham thảo những tài liệu khác liên quan đến đề tài B PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử 1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm quần chúng nhân dân
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là chủ thể chân
chính sáng tạo ra và quyết định sự vận động, phát triển của lịch sử. Quá trình
vận động và phát triển xã hội đều thông qua các hoạt động của đông đảo thành
phần quần chúng nhân dân dưới sự chỉ huy của một cá nhân hay tổ chức lãnh
đạo nhằm thực hiện một mục đích nào đó. Triết học Mác-Lênin với quan điểm
đúng đắn, khoa học về con người và bản chất của con người đã lý giải một cách
khoa học và chính xác về quần chúng nhân dân, cá nhân, lãnh tụ, vĩ nhân và vai
trò của họ trong sự phát triển của lịch sử.
Khái niệm quần chúng nhân dân là một tập hợp đông đảo những con người
hoạt động trong một không gian và thời gian xác định, bao gồm nhiều thành
phần, tầng lớp, giai cấp khác nhau liên kết thành một tập thể. Họ có chung một
mục đích,dưới sự lãnh đạo của một cá nhân tổ chức hay đảng phái nhằm giải
quyết những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Rõ ràng, quần chúng nhân dân không phải là bất biến, có giai đoạn này họ là
quần chúng nhân dân nhưng không phải trong giai đoạn khác họ cũng vậy, nó sẽ
thay đổi theo quá trình lịch sử hình thành. Nói chung, khái niệm quần chúng
nhân dân được xác định bởi các lực lượng cơ bản sau bất kể giai đoạn nào:
- Thứ nhất, những người lao động, sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị
tinh thần đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân. Ví dụ: nông
dân trồng lúa tạo ra thực phẩm cho con người, toàn dân cả nước được nghỉ vào 18
mùng 10/3 âm lịch để tưởng nhớ công lao của các vua Hùng đã có công dựng nước.
- Thứ hai, toàn thể dân cư đang chống lại những kẻ áp bức, bốc lột thống trị
đối kháng đối với nhân dân. Ví dụ: nông dân bị các chủ nô bóc lột sức lao động,
làm nhiều nhưng hưởng ít. - Thứ ,
ba là những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông
qua hoạt động trực tiếp hay gián tiếp của mình trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Ví dụ: các vị lãnh đạo cùng nhân dân xây dựng và phát triển đất nước bằng
nhiều phương pháp khác nhau. Ví dụ: Lênin – vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Từ những nội dung trên, ta có thể thấy quần chúng nhân dân là một phạm
trù lịch sử thay đổi tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể của các quốc
gia, khu vực. Ta có thể khái quát được khái niệm của quần chúng nhân dân là
thuật ngữ để chỉ cộng đồng xã hội bao gồm nhiều tầng lớp và giai cấp trong xã
hội đang hoạt động trong một xã hội xác định…có cùng lợi ích căn bản, phản
ánh nhu cầu phát triển của lịch sử, liên kết với nhau lại, có tổ chức và lãnh đạo,
tạo nên sức mạnh cộng đồng nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự
phát triển xã hội ở mỗi thời đại, mỗi thời kỳ, mối lĩnh vực nhất định nhất định.
1.1.2. Khái niệm cá nhân và lãnh tụ
Để quần chúng nhân dân có được như ngày hôm nay thì chúng ta không thể
không nhắc đến vai trò của bộ phận lãnh đạo nói chung và mỗi vị lãnh tụ, vĩ
nhân hay mỗi cá nhân nói riêng. - Cá nhân: chính
là con người cụ thể đang hoạt động trong một xã hội xác
định thể hiện tính đơn nhất với tư cách là cá thể về phương diện sinh học, với tư
cách là nhân cách về phương diện xã hội. Khác với khái niệm con người, mỗi cá
nhân đều là một bản thể xác định, không ai giống ai vừa mang tính chất đơn
nhất, cá biệt, riêng biệt lại vừa có tính phổ biến. Tuy nhiên những dấu ấn sâu sắc
và đặc biệt nhất trong lịch sử thường là những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân. 18
- Vĩ nhân: là những người có công lao đóng góp xuất sắc trong các lĩnh vực
của thế giới như chính trị, khoa học, kinh tế, nghệ thuật. Ví dụ: Leonardo Da
Vinci là họa sĩ, kỹ sư, nhà toán học, triết học và tự nhiên học thiên tài người
Italy; William Shakespeare là một trong những văn hào vĩ đại nhất trong lịch sử
với rất nhiều những tác phẩm để đời, ...
- Lãnh tụ: là một khái niệm dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất ở những
thời kì lịch sử nhất định, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể do phong trào
cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, có ảnh hưởng lớn đến lịch sử của
mô „t cô „ng đồng, mô „t dân tô „c hoă „c cả thế giới trong mô „t giai đoạn lịch sử nhất định.
Từ đó, ta có thể thấy để trở thành một nhà lãnh tụ cần có những phẩm chất cơ bản sau:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân
tộc, quốc tế, thời đại.
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần
chúng vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế, thời đại.
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc.
Lãnh tụ xuất hiện là tất yếu vì: xã hội loài người vận động và phát triển theo các
quy luật khách quan vốn có của nó. Để hoạt động của con người thúc đẩy được
sự phát triển của xã hội thì ta cần phải nắm được và hành động theo quy luật
khách quan đó. Nhưng không phải cá nhân nào cũng nhận thức và nắm được
quy luật vận hành đó của lịch sử. Vì vậy, trong quá trình phát triển lâu dài của
quần chúng, khi lịch sử yêu cầu, sẽ xuất hiện những cá nhân xuất sắc đáp ứng
được yêu cầu đó. Vì thế đã xuất hiện câu nói: “ Thời thế sinh anh hùng.” Ví dụ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người được ví von là có “bộ não thiên tài”, vị lãnh tụ vĩ
đại của dân tộc Việt Nam. 18
1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
1.2.1. Vai trò của quần chúng nhân dân
Các trường phái triết học trước Mác đều chưa nhận thức được vai trò của
quần chúng nhân dân, họ phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò của quần chúng nhân
dân vì cho rằng : lịch sử vận động xã hội là do Thượng đế, Chúa trời sắp đặt các
cá nhân đều phải tuân thủ ý chí tối cao. Chủ nghĩa duy vật trước Mác vẫn chưa
thoát khỏi quan điểm duy tâm về xã hội khi cho rằng: nhân tố quyết định sự phát
triển của xã hội là tư tưởng, đạo đức của các vĩ nhân, và chỉ có họ mới sớm nhận
thức được chân lý vĩnh cửu, dẫn dắt quần chúng. Có nhà tư tưởng lại đề cao vai
trò của quần chúng nhân dân, phủ nhận vai trò của các vĩ nhân, hoặc không lý
giải một cách khoa học vai trò của quần chúng nhân dân.
Đối lập với những quan điểm trên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin đã luận giải và luận chứng một cách đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò
của lãnh tụ và vai trò của quần chúng nhân dân trong sự phát triển xã hội. Quần
chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính, là động lực phát triển của lịch
sử. Vai trò của quần chúng nhân dân được thể hiện ở các nội dung sau đây:
- Thứ nhất, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra của
cải vật chất, đảm bảo cho xã hội tồn tại, phát triển.
Vì sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, mà quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản để tiến hành sản xuất vật
chất, làm cho lực lượng sản xuất phát triển.Con người muốn tồn tại phải có các
điều kiện vật chất cần thiết, mà những sản phẩm vật chất đó chỉ có thể được đáp
ứng thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất đông đảo là lao động trí óc và lao
động chân tay: họ là người sáng tạo, cải tạo và trực tiếp sử dụng công cụ sản
xuất tác động vào đối tượng lao động tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội.
Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ có thể được 18
phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là
đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội của thời đại
kinh tế trí thức. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, quần chúng nhân dân trực
tiếp biến đường lối chính sách kinh tế thành hiện thực. Điều đó khẳng định rằng,
hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách
mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực
lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Nguyên nhân suy đến cùng của cuộc cách mạng xã hội là giải quyết mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản
xuất vật chất của nhân dân. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội
từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, nhân dân lao
động là lực lượng đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng là sự
nghiệp của quần chúng. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình
kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội. Thực tế đã chỉ rõ không có cuộc cách mạng xã hội nào mà chỉ có
cá nhân lãnh tụ, không có quần chúng nhân dân. - Thứ ,
ba quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh
thần. Vì quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra đời sống vật chất thì cũng
quyết định đời sống tinh thần của xã hội. Triết học Mác không phủ nhận vai trò
của các danh nhân văn hóa, nhưng khẳng định vai trò quyết định của quần chúng
nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa
học nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào thực tiễn.
Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính
trị, đạo đức…của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự 18
phát triển của nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt
động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho
mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa chỉ
có thể được trường tôn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận,
truyền bá sâu rộng và gìn giữ để trở thành giá trị phổ biến.
Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò quan
trọng của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đảng
cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng: “ Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng; Đảng ta là Đảng của dân, do dân và vì dân.”
1.2.2. Vai trò của lãnh tụ
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ đóng vai trò hết sức to
lớn và vô cùng quan trọng. Mọi phong trào đều sẽ thất bại nếu chưa tìm ra cho
mình được những lãnh tụ xứng đáng. “ Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp
nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ
của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào”. Nhiệm vụ của lãnh tụ là phải nhận thức được
đúng đắn các quy luật khách quan của đời sống xã hội, hiểu biết sâu sắc các xu
thế phát triển của quốc gia, dân tộc, của thời đại và của phong trào. Từ nhiệm vụ
của lãnh tụ, thấy rõ vai trò của lãnh tụ đối với phong trào quần chúng như sau:
Một là, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội: nắm bắt được qui luật vận
động khách quan của lịch sử thì lãnh tụ sẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội
thông qua lãnh đạo phong trào quần chúng; ngược lại, nếu không nắm bắt được
những qui luật của lịch sử xã hội thì lãnh tụ sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội,
thậm chí có thể dẫn lịch sử trải qua những bước quanh co, phức tạp.
Hai là, lãnh tụ với vai trò của mình sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội,
là linh hồn của tổ chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức điều khiển và quản lý
các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại, phát
triển và hoạt động của các tổ chức ấy. 18
Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra
của thời đại đó. Không có lãnh tụ cho mọi thời đại, chỉ có lãnh tụ gắn với một
thời đại nhất định. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu
tượng tinh thần mãi mãi tồn tại trong nhân dân.
1.3. Quan hệ của quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Quan hệ giữa lãnh tụ với quần chúng nhân dân là quan hệ thống nhất, biện
chứng thể hiện trên các nội dung sau đây:
- Mục đích và lợi ích của quần chúng nhân dân và lãnh tụ là thống nhất. Đó
là điểm then chốt và căn bản quyết định sự thành bại của phong trào và sự xuất
hiện của lãnh tụ. Sự thống nhất về các mục tiêu cách mạng, hành động cách
mạng giữa quần chúng nhân dân là lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích qui định. Lợi
ích biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị,
lợi ích văn hóa… quan hệ lợi ích là cầu nối, là nội lực để liên kết các cá nhân
cũng như quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí và hành
động. Lợi ích đó cũng vận động, phát triển tuỳ thuộc vào thời đại, vào địa vị lịch
sử của giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ làm đại biểu, phụ thuộc vào khả năng
nhận thức và vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các cá nhân, giai cấp và
tầng lớp xã hội. Như vậy, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở qui định sự
thống nhất hành động giữa lãnh tụ và quần chúng nhân dân trong lịch sử.
- Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các
quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng
không thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân kiệt xuất, ưu tú là sản phẩm của thời
đại. Vì vậy họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
- Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân, đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh tụ. Sự khác biệt giữa quần chúng
nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch
sử. Cùng đóng vai trò thúc đẩy lịch sử phát triển, nhưng quần chúng nhân dân là 18
lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng dẫn dắt
phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Do đó, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ là quan hệ biện
chứng vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt.Sự thống nhất biện chứng và sự
khác biệt giữa lãnh tụ và phong trào quần chúng thể hiện:
Phong trào quần chúng quyết định sức mạnh, đặc điểm của lãnh tụ. Bởi vì:
phong trào cách mạng của quần chúng đòi hỏi phải có lãnh tụ để tổ chức lãnh
đạo phong trào đó là yêu cầu khách quan, không có yêu cầu đó không có lãnh tụ
xuất hiện. Chính phong trào cách mạng của quần chúng đã tạo ra lãnh tụ của
mình. Lãnh tụ luôn gắn bó mật thiết với phong trào quần chúng.
Ngược lại, khi lãnh tụ xuất hiện với tài năng, đức độ và được sự ủng hộ từ
quần chúng nhân dân lãnh tụ có ảnh hưởng to lớn đến hướng đi, quy mô, tốc độ
và sắc thái của phong trào cách mạng, qua đó tác động đến sự phát triển của lịch
sử. Đặc biệt, những thời điểm cách mạng gặp khó khăn, khi thời cơ cách mạng
xuất hiện… Sự sáng suốt, tài giỏi, quyết đoán của lãnh tụ giữ vai trò quyết định
thắng lợi của cách mạng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, vai trò của lãnh tụ có to lớn đến đâu cũng
không quyết định toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử, vai trò đó thuộc về
quần chúng nhân dân. Lãnh tụ có yếu kém, sai lầm đến đâu cũng chỉ kìm hãm
tiến trình phát triển của lịch sử, đến một mức độ nhất định sẽ bị lịch sử đào thải.
Chủ nghĩa Mác Lênin đánh giá rất cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự
phát triển của lịch sử, nhưng kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng
bái cá nhân là thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo đi đến chỗ chỉ thấy vai trò
quyết định tất cả của cá nhân lãnh đạo mà thấy hoặc xem nhẹ vai trò lãnh đạo
tập thể và quần chúng nhân dân.
Người mắc căn bệnh về sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập thể,
đứng ngoài đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước. Họ không
thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng, gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết. Vì 18
vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin luôn luôn coi sùng bái cá nhân
là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ với bản chất, mục đích, lý tưởng của giai cấp
công nhân. Những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân như Mác, Ăng ghen và
Lênin trong cả cuộc đời mình luôn khiêm tốn, chân thành, không hề tách ra khỏi
quần chúng nhân dân, mặc dù họ là những lãnh tụ kiệt xuất được quần chúng tin yêu, tôn kính.
2.1. Những đặc điểm của con người Việt Nam.
2.1.1. Đặc điểm tích cực
Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn được hun đúc qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc
ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sống vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và lũ cướp nước”[2].Biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước là có ý
thức rõ ràng, sâu sắc về nền độc lập dân tộc, coi độc lập dân tộc là thiêng liêng
bất khả xâm phạm. Yêu nước là phải giữ gìn nền độc lập, tự do của dân tộc
Nhân dân ta có tinh thần tự lực, tự cường, đồng cam cộng khổ, khoan dung
nhân ái của cả dân tộc. Trong lúc đất nước gặp khó khăn thì những hình ảnh đẹp,
những hành động nhân văn, những ứng xử có trách nhiệm của quần chúng nhân
dân sẵn lòng “nhường cơm sẻ áo” làm tăng sức mạnh và tạo động lực to lớn để
đất nước vượt qua khó khăn, hiểm họa hướng đến một cuộc sống khỏe mạnh, an toàn.
Tinh thần đoàn kết, xem nhau như anh em, quý trọng, yêu thương và đùm
bọc lẫn nhau. Và đặc biệt khi đứng trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-
19, kế thừa truyền thống đại đoàn kết của dân tộc và hưởng ứng lời kêu gọi của
Đảng, Chính phủ, nhân dân Việt Nam lại cùng chung tay, đồng lòng chống 18
dịch. Tất cả tỉnh, thành phố, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá
nhân đều nhiệt tình, tích cực tham gia phòng, chống dịch.
Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi dân
tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn riêng, là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng
độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự
do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng
đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền
thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
phát triển góp phần làm phong phú nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. [3]
2.1.2. Đặc điểm hạn chế
Việt Nam là nước có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống điều đó dễ nảy sinh
nhiều hạn chế và tiêu cực ở một số nơi, nhất là vùng sâu vùng xa về đời sống vật
chất cũng như chất lượng giáo dục, kinh tế, xã hội. Lợi dụng điều đó các thế lực
thù địch không ngừng chia rẽ dân tộc, lôi kéo và mua chuộc nhân dân ta để phá
hoại thành quả cách mạng chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang xây dựng.
Nền kinh tế của nước ta còn nghèo nàn, lạc hậu nên có sự phát triển chưa
đồng bộ giữa các vùng, dẫn tới sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông
thôn. Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa
giữa các vùng, miền còn lớn, đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
văn hóa còn nhiều bất cập, lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan
điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn
dàn trải, hiệu quả chưa cao. Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự 18
xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội. [4]
Trình độ dân trí một số vùng còn thấp, dẫn tới sự phân biệt vùng miền vẫn
còn tồn tại. Các tệ nạn xã hội vẫn còn diễn ra phức tạp. Một bộ phận cán bộ,
Đảng viên và nhân dân rơi vào lối sống xa hoa, đồi trụy, tệ nạn xã hội, thiếu lý
tưởng và hoài bão cho chính mình chưa hoàn thành trách nhiệm của công dân
đối với gia đình, xã hội và đất nước.
2.2 Đặc điểm của con người Việt Nam thời kỳ đổi mới
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của
nhân dân Việt Nam từ có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử
dân tộc Việt Nam. Từ đó, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước
vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập của dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Tám thàng công nhờ sự lãnh đạo tài tình, đường lối đúng
đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng ta. Đảng có đường lối chủ trương theo hướng
độc lập, tự chủ, tự cường, lấy nhân dân làm gốc, tận dụng thời cơ trên trường
quốc tế, khi chủ nghĩa phát xít dã bị đập tan.
Cuộc Cách mạng dành thắng lợi không chỉ nhờ sự lãnh đạo của Đảng mà
nhờ tinh thần đoàn kết chống giặc, tinh thần đấu tranh bất khuất chống giặc
ngoại xâm, một lòng nhân dân đoàn kết, ý chí quật cường không chịu mãi kiếp
sống làm nô lệ của các tầng lớp nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến.Tinh thần
đấu tranh trước những thế lực xâm phạm chủ quyền đất nước, tiếp thu tinh thần
không chịu khuất phục, chiến lược đấu tranh của thế hệ đi trước cùng lòng dân
đoàn kết mang lại một chiến thắng vang danh cho đất nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Theo chủ nghĩa Mac-Lênin khẳng định con người là chủ thể của lịch sử xã
hội.Con người vừa là mục tiêu, vừa là nguồn gốc, động lực của sự phát triển xã
hội. Quan điểm đó đã được cụ thể hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp tục 18
được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay. Quan điểm đó nhấn mạnh vai trò chủ thể tích cực, tự sáng, sáng tạo
của con người, xem đó là nguồn gốc,động lực của sự phát triển xã hội hiện đại.
Phát huy vai trò đó là phát huy tính tích cực, tụ giác, sáng tạo đó trong quá trình
hoạt động, bằng việc phát huy tối đa các đặc trưng về phẩm chất, năng lực của
chính họ, khắc phục và giảm thiểu những khiếm khuyết, hạn chế trên các
phương diện khác nhau của con người. Phát huy vai trò con người được thực
hiện trong cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn, hoạt động vật chất và
hoạt động tinh thần, bao gồm cả hoạt động nhận thức, tư duy, hoạt động lẫn các
phẩm chất chính trị đạo đức, v.v...[5]
Theo quan niệm đó, Đảng ta chủ trương dẫn đường cho nhân dân, lấy nhân
dân làm gốc, mọi chủ trương đều phải có sự thống nhất của nhân dân. Bác cũng
khẳng định nhân dân là chủ nhân của đất nước, mọi công việc đều phải xuất phát
từ ở nơi dân bởi họ là những người tạo ra của cải vật chất cho xã hội,họ có lực
lượng đông đảo. Bác cũng chỉ rõ “ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều của dân”. [6]
Theo quan niệm đó, Bác nhiều lần nhấn mạnh: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Từ quan điểm trên Bác cho rằng
sự đoàn kết nhất trí là sức mạnh, là ý chí, là niềm tin để làm cơ sở thành công
cho cách mạng. Người xem nhân dân là cái gốc cái nôi cách mạng và Người
thường dạy : “ Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”. Quan niệm đó dễ thấy trong thời cuộc hiện nay, trong thời kỳ dịch bệnh
Covid-19 xuất hiện, nhân dân cả nước với tinh thần đoàn kết đã xây dựng phòng
tuyến chống dịch hiệu quả. Nhân dân cả nước cùng đồng lòng chung tay đẩy lùi
dịch bệnh, dòng lòng san sẻ của cải, cả nước đoàn kết để chiến thắng đại dịch
bùng phát trong nước. Một tinh thần đoàn kết lớn lao đẩy lùi dịch bệnh. 18
2.3 Vai trò của QCND trong công cuộc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa là một phần của hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế- xã
hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng
lượng và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn được gắn liền với thay
đổi các hình thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên.
Hiện đại hóa được hiểu là việc ứng dụng, trang bị, những thành tựu khoa học
và công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế xã hội. Từ việc sử dụng sức lao động thủ công sàn sử dụng sức
lao động phổ thông ứng dụng những thành tựu công nghệ.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay được hiểu là quá trình
chuyển biến từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé ( xã hội tiền công
nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. [7]
Đến nay, lịch sử thế giới chứng kiến 4 cuộc cách mạng công nghiệp, cũng là
các cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật nói chung. Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ nhất vào cuối thế kỷ XVIII, khai sinh nền công nghiệp cơ khí, tạo
ra dây chuyền sản xuất hàng loạt, sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường... Cuộc
thứ hai diễn ra vào cuối thế kỷ XIX, đưa đến sự ra đời của nền công nghiệp và
xã hội điện khí hóa, tạo tiền đề để chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh
lên độc quyền đế quốc. Cuộc thứ ba, vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, mở ra
thời đại điện tử hóa, tin học hóa. Cuộc thứ tư, từ đầu thế kỷ XXI, đánh dấu bước
ngoặt chuyển đổi số của toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Mỗi cuộc cách mạng tạo ra một trình độ công nghệ ngày càng hiện đại cho quá
trình công nghiệp hóa lâu dài của nhân loại. 18
Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, quá trình đó
là một quá trình kinh tế, kỹ thuật – công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu
rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp
lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến,
hiện đại, văn minh. Trong kho tàng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, minh
triết nhằm xây dựng chế độ mới nhằm giải phóng con người, vì con người “
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa”.
dưới sự lãnh đạo của Đảng minh triết đó trở thành một phương châm hành động,
sợi chỉ siêng suốt của cách mạng Việt Nam. Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là yêu cầu tất yếu khách quan
trong tình hình mới, là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội đất nước, là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, lấy con
người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể, bào đảm sự hài hòa giữa mục tiêu
phát triển kinh tế đi đôi với yêu cầu giữ gìn tiến bộ, công bằng xã hội, bồi đắp,
thừa kế và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc, bảo vệ môi trường, gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát
vọng của nhân dân ta, là một hướng di đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, tận dụng và
phát huy lợi thế đất nước trong thời kỳ “ dân số vàng”, mọi công dân có trách
nhiệm, ý thức trong mọi hoạt động, tích cực xây dựng đất nước. Trong quá trình
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải chú ý đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần
khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo, phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh con
người Việt, xung kích đi đầu lực lượng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và tri
thức, công nhân hiện đại,... để từng bước hiện đại tiến lên chủ nghĩa xã hội. 18 PHẦN KẾT LUẬN
Từ nhận thức khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử có thể thấy rằng:
- Một là, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ
được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần
chúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng xã hội không bao giờ đơn
giản là tư tưởng của một cá nhân, mà là sự phản ánh các điều
kiện vật chất và xã hội của đời sống dưới nhiều hình thức và cấp
độ khác nhau do các nhà tư tưởng tổng hợp lại. Tư duy đó chỉ có
tác dụng tích cực đối với lịch sử nếu nó phản ánh được nguyện
vọng và lợi ích của quần chúng nhân dân trong một giai đoạn
lịch sử nhất định; và sức mạnh và sự thật của nó chỉ có thể được
chứng tỏ thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng.
- Hai là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Song, vai trò của khoa học chỉ có thể được phát huy thông
qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là
đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội
của thời đại kinh tế trí thức. Quần chúng nhân dân trực tiếp thực
hiện các chủ trương chính sách kinh tế thông qua hoạt động thực
tiễn của mình. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của 18
quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội.
- Ba là, Triết học Mác không phủ nhận vai trò của các danh nhân
văn hóa, mà khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân
dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển khoa học, văn học nghệ thuật, đồng thời họ thực hiện
những thành tựu đó. Sự sáng tạo của con người trong các lĩnh
vực văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính
trị, đạo đức, v.v... là nguồn gốc và là tiền đề thúc đẩy văn hóa
phát triển. Tinh thần của các quốc gia ở mọi thời đại. Hoạt động
của quần chúng nhân dân thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận
cho sự sáng tạo trí tuệ của toàn bộ đời sống xã hội. Mặt khác,
các giá trị văn hóa chỉ có thể được tôn trọng nếu chúng được
đông đảo quần chúng nhân dân tiếp nhận, truyền bá và bảo tồn
như những giá trị phổ biến.
Loài người đã trải qua hàng nghìn năm tiến hóa và phát triển để trở
thành loài thượng đẳng trên Trái đất. Quá trình này đòi hỏi nhiều đấu
tranh giữa con người với tự nhiên và giữa con người với con người.
Kết quả của quá trình này là sự sống. Ngày nay đời sống vật chất và
tinh thần đầy đủ, trong quá trình gian khổ này tất nhiên có công lao
của những cá nhân xuất sắc, nhưng quần chúng nhân dân cũng góp
phần rất lớn vào quá trình đó.
Có thể nói quần chúng nhân dân là nhân tố trung tâm sáng tạo nên lịch
sử, vì vậy cần phải nhận thức đúng vai trò và sức mạnh của quần
chúng nhân dân để lấy đó làm cơ sở thực hiện mục tiêu xây dựng và 18
bảo vệ Tổ quốc. Mọi người luôn có cảm giác đấu tranh để đứng dậy.
Các dân tộc cổ đại đã phải trải qua vô số cuộc đấu tranh để có được vị
trí như ngày nay. Đây là thành tựu vĩ đại của nhân loại.
Hôm nay chúng ta được thừa hưởng những giá trị quý báu đó. Là
“quần chúng nhân dân” trong thời đại mới, chúng ta phải kế thừa và
phát huy những giá trị mà tổ tiên để lại. Ngoài ra, cần phải không
ngừng đổi mới, sáng tạo những giá trị mới, đóng góp vào nền văn
minh nhân loại. Ngoài ra, vai trò của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp bảo vệ an toàn thông tin cho quốc gia, di sản và phát huy sức
sống của người Công an nhân dân phải làm tốt công tác vận động
quần chúng, đoàn kết quần chúng và gắn kết họ thành một thể thống
nhất. Có khả năng phát lực lớn, phát huy sức mạnh lớn. Nói chung,
quần chúng nhân dân xét về mọi phương diện bao giờ cũng là những
con người chân chính sáng tạo ra lịch sử. Các quan niệm trước đây
của triết học Mác - Lênin đã nhận thức đúng vai trò của quần chúng
nhân dân, đã bù đắp những sai lầm của các trường phái triết học trước
đó, vạch ra con đường đưa quần chúng nhân dân về lại vị trí ban đầu của mình.
Quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân là vấn đề
rộng với nhiều điều cần nghiên cứu nhưng do thời gian nghiên cứu và
kinh ngiệm có hạn nên bài làm không thể tránh khỏi những thiếu sót,
sai lầm. Chúng em mong nhận được sự thông cảm, sửa chữa và đóng
góp từ cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. 18