














Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN MÔN
TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
ĐỀ TÀI:“ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC ĐỐI VỚI Ý THỨC. Ở VIỆT
NAM, TRI THỨC CÓ VAI TRÒ GÌ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
CON NGƯỜI .”
Họ và tên SV: Vũ Thanh Tùng
Mã sinh viên: 11226780
Giảng viên hướng dẫn: TS Nguyễn Văn Hậu
............................................................................ HÀ NỘI, NĂM 2023 lOMoAR cPSD| 44985297 0 MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................................2
1. Lý luận chung của Triết học về ý thức và tri thức ...................................................... 3
1.1. Quan niệm của Triết học Mác-Lenin về ý thức: ....................................................... 3
1.1.1. Nguồn gốc của ý thức: .......................................................................................... 3
1.1.1.1. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: ........................................................................ 4
1.1.1.2. Nguồn gốc xã hội của ý thức ............................................................................. 6
1.2. Kết cấu của ý thức: ...................................................................................................... 6
1.3. Khái niệm về tri thức: ................................................................................................. 6
1.3.1. Khái niệm tri thức ................................................................................................ 6
1.3.2. Phân loại tri thức:...............................................................................................5 7
1.4. Vai trò của tri thức đối với ý thức .......................................................................... 7
2. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người ở Việt Nam: .............................. 8
2.1. Vai trò của tri thức trong hoạt động kinh tế: ............................................................ 8
2.2. Vai trò tri thức đối với chính trị ............................................................................... 10
2.3. Vai trò tri thức đối với văn hoá-giáo dục ............................................................. 11
3. Liên hệ thực tiễn tri thức trong hoạt động con người ............................................... 12
3.1. Cơ hội đối với Việt nam ......................................................................................... 12
3.2. Những thách thức ...................................................................................................... 12
3.3. Các giải pháp đề xuất ............................................................................................ 13 KẾT
LUẬN.........................................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................14 LỜI NÓI ĐẦU
Có một vị diễn giả từng nói rằng: “Trên đời không gì vĩ đại bằng con người, trong con
người không gì vĩ đại bằng tri thức.” lOMoAR cPSD| 44985297
Loài người đã đi qua thế kỉ XIX, XX với những sự bùng nổ về khoa học, kĩ thuật và
công nghệ. Từ con vượn cổ hàng trăm triệu năm trước cho đến một thế giới loài người văn
minh, phát triển như ngày hôm nay, đó là kết quả, là giá trị mà tri thức mang lại. Đối với mỗi
quốc gia, muốn phát triển bền vững phải bắt đầu đi lên từ việc xây dựng nền tảng kinh tế, xã
hội vững chắc. Để làm được điều ấy, không gì khác, con người ta phải trân trọng và dành một
sự quan tâm nhất định dành cho tri thức và việc phát triển nguồn tri thức.
Ý thức luôn là đề tài mà các trường phái triết học quan tâm nghiên cứu. Nó là điều kì
diệu và thiêng liêng chỉ con người mới có và tạo nên sự khác biệt giữa con người và các loài
khác. Ý thức của con người là cơ năng của cái “khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta
tạm gọi là bộ óc con người” (theo Lê-nin). Ý thức có tác động rất lớn đối với con người. Nó
là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, là động lực thực tiễn.
Cuộc cách mạng chuyển đổi công nghệ số và trí tuệ nhân tạo chắc chắn sẽ làm cho cơ
cấu xã hội biến đổi và các tổ chức chính quyền nhà nước các cấp tinh gọn hơn, thông minh
hơn, hiệu quả hơn. Do vậy, cơ hội để các nước đang phát triển đuổi kịp các nước phát triển sẽ
càng trở nên mong manh hơn, sự bất bình đẳng giữa các quốc gia cũng vì vậy chưa thể nào
khắc phục được. Do đó phát triển kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu. Hơn nữa chúng ta
đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên không thể không
đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển
cùng thế giới. Việt Nam hiện tại vẫn là một nước đang phát triển. Bởi vậy, để rút ngắn khoảng
cách về trình độ, để bắt kịp với tốc độ tăng trưởng đáng mong đợi của các cường quốc trên
thế giới thì việc nghiên cứu tri thức, tìm hướng đi đúng đắn và phù hợp cho nền kinh tế tri
thức là nhiệm vụ cấp thiết đối với Việt Nam.
Qua đó, em xin phép nhấn mạnh và làm rõ đề tài tiểu luận:” Vai trò của tri thức đối
với ý thức. Ở Việt Nam, tri thức có vai trò gì trong hoạt động của con người “. NỘI DUNG
1. Lý luận chung của Triết học về ý thức và tri thức
1.1. Quan niệm của Triết học Mác-Lenin về ý thức:
1.1.1. Nguồn gốc của ý thức:
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử, con người đã không ít lần đưa ra những giả
thiết, lập luận và tư tưởng về nguồn gốc của ý thức, từ những ý tưởng nguyên sơ, sai lệch đến
những định nghĩa đầy đủ với căn cứ khoa học rõ ràng. lOMoAR cPSD| 44985297
Chủ nghĩa duy tâm đã khẳng định ý thức là nguyên thể đầu tiên, là nguyên nhân sinh
ra thế giới vật chất. Trong đó, các nhà duy tâm chủ quan, điển hình là Platon và G.Hê-ghen
đồng nhất ý thức với cảm giác và cho rằng cảm giác của con người là thứ chi phối thế giới.
Mặt khác, các nhà duy vật khách quan như G. Beccơli, E. Ma khơ đã khẳng định ý thức con
người chỉ là sự hồi tưởng về ý niệm và chính lý tính và ý niệm là điểm khởi nguồn của thế giới.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình đã hoàn toàn phủ nhận tính siêu tự nhiên của ý thức. Khi
khoa học phát triển, con người đã chứng minh được sự phụ thuộc của các hiện tượng tinh
thần, ý thức vào bộ óc con người thì một bộ phận nhà duy vật cho rằng “óc trực tiếp tiết ra ý
thức như gan tiết ra mật” hoặc ý thức do nguyên tử hình cầu, linh động tạo nên.
Và cuối cùng, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã phê phán quan điểm của cả chủ nghĩa
duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình và dựa vào thành tựu khoa học tự nhiên để khẳng định
nguồn gốc của ý thức. Theo Triết học Mác- Lenin: “ Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng
tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Như vậy, ta có thể kết luận rằng ý thức được ra đời bởi hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội.
1.1.1.1. Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người và hoạt
động của bộ óc đó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Trong đó, thế
giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo.
- Về bộ óc người:
Có thể nói, ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên cho
tới khi xuất hiện con người và bộ óc con người.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng
của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu
sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hoá của loài người cũng là quá trình phát triển năng
lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh
lý thần kinh của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh
năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người và thế giới khách quan là một mối quan hệ
mang tính tất yếu, nó xuất hiện từ khi có sự xuất hiện của con người và bộ óc của người.
Trong quá trình hoạt động sinh lý thần kinh, não bộ con người không ngừng thu nhận, xử lý, lOMoAR cPSD| 44985297
truyền dẫn và điều khiển các hoạt động cơ thể với môi trường xung quanh qua cơ chế phản
xạ, tạo nên sự tương tác lẫn nhau của môi trường bên ngoài và não bộ.
Sự tác động qua lại lẫn nhau này của hệ thống vật chất đã làm nảy sinh một hệ quả, đó
là sự phản ánh. Phản ánh cũng là thuộc tính chung của vật chất. Đó là những năng lực tái hiện,
ghi lại của hệ thống vật chất này với những đặc điểm của hệ thống vật chất khác. Phản ánh
quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ thụ động đến chủ động, có
tổ chức, điều khiển và lựa chọn đối tượng phản ánh. Tương ứng với quá trình tiến hóa của các
dạng vật chất, phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hoá học; phản
ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo (phản ánh ý thức).
Trong thế giới vô cơ, phản ánh vật lý, hoá học là hình thức thấp nhất. Hình thức phản
ánh này được thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động từ bên ngoài của
vật chất vô sinh. Như vậy, có thể nói, đây là phản ánh đơn giản, thụ động, không có định hướng lựa chọn.
Bên cạnh đó, giới tự nhiên hữu sinh lại tồn tại một hình thức phản ánh cao hơn, gọi là
phản ánh sinh học. Song bản thân giới hữu sinh lại tồn tại những trình độ khác nhau tiến hóa
từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp nên hình thức phản ánh sinh vật cũng thể hiện ở
trình độ khác nhau tương ứng. Đối với thực vật và động vật bậc thấp, tính kích thích là phản
ứng của chúng khi thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi
cấu trúc… khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng hay là năng lực có cảm
giác, là hình thức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh. Nét đặc trưng cho phản ánh này
là ngay trong quá trình hệ thần kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể và môi trường bên
ngoài thông qua phản xạ bẩm sinh hay phản xạ riêng biệt. Đây là hình thức phản ánh đơn giản
nhất xuất hiện tính lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện
trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện. Phản ánh tâm lý là
hình thức phản ánh cao nhất của thế giới động vật gắn liền với quá trình hình thành các phản
xạ có điều kiện, đưa lại cho con vật thông tin về các thuộc tính, quan hệ của sự vật bên ngoài
và về cả ý nghĩ của chúng đối với đời sống của con vật. Như vậy, các con vật có cơ hội được
lường trước về tính huống có thể xảy ra và từ đó tính toán, chủ động điều chỉnh và lựa chọn hành vi thích hợp.
Hình thức phản ánh cuối cùng, phản ánh năng động, sáng tạo ( phản ánh ý thức), hình
thức cao nhất của sự phản ánh, nó chỉ có khi xuất hiện con người và xã hội loài người. Sự
phản ánh này được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi
thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ lOMoAR cPSD| 44985297
động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin.
1.1.1.2. Nguồn gốc xã hội của ý thức
Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người, là sự khác biệt về chất so với động
vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng của lao động, của giao tiếp và các quan
hệ xã hội. Như vậy, nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này vừa
là nguồn gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động là hoạt động vật chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo tự nhiên,thỏa mãn nhu
cầu phục vụ mục đích cho bản thân con người. Chính nhờ lao động mà con người và xã hội
loài người mới hình thành, phát triển. Thêm vào đó, lao động là sự tác động chủ động của con
người vào thế giới khách quan để phản ánh thế giới đó, lao động buộc thế giới xung quanh
phải bộc lộ các thuộc tính, đặc điểm của nó. Từ đó làm cho con người hiểu biết thêm về thế
giới xung quanh, thấy sự vật hiện tượng xung quanh nhiều đặc tính mới mà lâu nay chưa có,
đó chính là cơ sở để sáng tạo ra các sự vật, hiện tượng mới. Có thể nói, lao động có vai trò
quan trọng trong việc hình thành và phát triển ý thức.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện. Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với
lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong
lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ
nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ
giao tiếp, trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền
đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khác.
1.2. Kết cấu của ý thức:
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận
nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Ở đây chỉ tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản
nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức,
tình cảm và ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác.
1.3. Khái niệm về tri thức:
1.3.1. Khái niệm tri thức
Theo Triết học Mác- Lenin, “Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết
quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới
dạng các loại ngôn ngữ.”. lOMoAR cPSD| 44985297
1.3.2. Phân loại tri thức:
Căn cứ vào lĩnh vực phản ánh, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự
nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn.
Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời
thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
1.4. Vai trò của tri thức đối với ý thức
Khi xem xét ý thức với các yếu tố hợp thành các quá trình tâm lý tích cực đem lại sự
hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...;
trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người
phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Do đó, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của
ý thức phải là tri thức. Ý thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức
đó là một sự trừu tượng trống rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Theo C.Mác, "phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối
với ý thức là tri thức..., cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức
biết cái đó"1. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức về tự nhiên, xã hội, con người;
và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính; tri thức kinh nghiệm
và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học v.v.. Tích cực tìm hiểu, tích luỹ
tri thức về thế giới xung quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường cải
tạo thế giới. Tuy nhiên, không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật.
Cùng với quá trình nhận thức sự vật, trong ý thức còn nảy sinh thái độ của con người
đối với đối tượng phản ánh. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó
phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình
cảm tham gia và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Sự
hoà quyện giữa tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn đã tạo nên tính bền vững của
niềm tin thôi thúc con người hoạt động vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Nhận thức không phải là một quá trình dễ dàng, phẳng lặng mà là một quá trình phản
ánh với những khó khăn, gian khổ thường gặp phải trên mỗi bước đường đi tới chân lý. Muốn
vượt qua khó khăn để đạt tới mục đích, chủ thể nhận thức phải có ý chí, quyết tâm cao. Ý chí
chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con người vào
hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra. Nhận rõ vị trí, vai trò của các
1 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, t. 42, tr. 236. lOMoAR cPSD| 44985297
nhân tố cấu thành ý thức và mối quan hệ giữa các yếu tố đó, đòi hỏi mỗi chủ thể phải luôn
tích cực học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí trong nhận
thức và cải tạo thế giới.
Có thể khái quát lại bao gồm:
Thứ nhất, tri thức là một trong những thành phần cấu tạo nên ý thức cùng với tình
cảm, ý chí và nhiều yếu tố khác.
Thứ hai, tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức. Quan điểm này có ý
nghĩa chống lại quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí. Tuy nhiên
cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí.
Tóm lại, ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí trong
sự liên hệ tác động qua lại. Nhưng về căn bản, ý thức có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức.
2. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người ở Việt Nam:
“Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”. Song hành cùng sự
phát triển của xã hội là vị thế ngày càng quan trọng của tri thức. Tri thức tác động đến từng
hoạt động của con người mà con người chính là hạt nhân để xây dựng xã hội. Bởi vậy, ta thấy
được tầm ảnh hưởng không nhỏ của tri thức đối với các mặt cơ bản của đời sống xã hội như
kinh tế, chính trị và văn hóa- giáo dục. Cùng với xu hướng phát triển chung của thế giới, Việt
Nam không phải ngoại lệ.
2.1. Vai trò của tri thức trong hoạt động kinh tế:
Nền kỉnh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng, khai
thác,sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải.
Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó: Tri
thức khoa học - công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và phát triển rất mạnh:
- Nguồn vốn quan trọng nhất,quý nhất là tri thức,nguồn vốn trí tuệ.
- Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát triển.
- Nền kinh tế mang tính học tập.
- Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính. lOMoAR cPSD| 44985297
- Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô
tận và năng động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định,dưới tác động của cách mạng khoa học –
công nghệ và toàn cầu hoá,kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát triển và sẽ trở
thành một xu thế quốc tế lớn trong một,hai thập niên tới.
Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ
yếu.Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng tiền
bạc, nguyên vật liệu,nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý
và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh.Cách tốt nhất để
tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được,sử dụng vì mục đích thương
mại và những kiến thức này cần được phát triển không ngừng.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các
công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà còn nằm
trong những tài sản vô hình,như tri thức và các bằng sáng chế. Để trở thành một công ty được
dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong
tổng giá trị kinh doanh. Vốn trí tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ
nhân viên và công nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp
sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh.
Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô hình của các công ty công
nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản vật thể của các công ty
đó,như các toà nhà hay thiết bị.
Ví dụ như các tài sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong
tổng giá trị được vốn hoá trên thị truờng của công ty này.Phần lớn là vốn trí tuệ.Sau hai mươi
năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần,1/10 số
nhân viên trở thành triệu phú.Nguồn vốn con người là một thành tố giá trị cơ bản trong một
công ty dựa vào tri thức.
Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh.Đó là
những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng có thể hành
động một cách hiệu quả hơn.Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản
phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin
về dinh dưỡng.Số lượng ka-lo và chất béo được in lên hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông
tin đó trước khi khách đặt hàng.Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền
đạt thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tin. lOMoAR cPSD| 44985297
- Vốn tri thức – vai trò của nó trong kinh tế tri thức
Vốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích
sinh lợi (tăng thêm giá trị) .
Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất. Trong văn minh nông nghiệp
thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và
nhất là sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những yếu tố quan trọng trong sự phát
triển kinh tế - xã hội,góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử.
Còn trong kinh tế tri thức,yếu tố của sự phát triển nền kinh tế - xã hội không chỉ bao gồm vốn
tiền tệ,đất đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri
thức.Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao
động vốn tiền tệ và đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội.Nước Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua tăng
trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức
như các ngành công nghệ thông tin,viễn thông, vũ trụ,đầu tư,ngân hàng,tài chính,chứng
khoán,bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các
ngành có hàm lượng tri thức cao.ở các nước có nền kinh tế đang phát triển,đầu tư càng nhiều
vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng cang lớn,tỷ xuất lợi nhuận càng cao.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất bại
của doanh nghiệp.Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức,các nhà quản lý có trình
độ cao,các công nghệ mới.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các
nước đang phát triển và các nước phát triển.Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội vừa là
thách thức đối với các nước kém và đang phát triển,trong đó có Việt Nam.Các quốc gia kém
và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức,thông qua tri thức hoá các
ngành công nghiệp,nông nghiệp,dịch vụ,đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh
chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
2.2. Vai trò tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức.Người có tri thức là có
khả năng tư duy lý luận,khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực,đúng đắn.Điều
này rất quan trọng,một đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc
chính trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu
một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con ngươì.Đại hội nhấn
mạnh:”Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của lOMoAR cPSD| 44985297
mọi hoạt đông”chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần có
những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao,đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ
nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào tạo,bồi dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu
để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật
của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một
hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành,tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tĩên. Hợp nhất các viện nghiên
cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các công ty,xí nghiệp.Các
cơ quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình,kế hoạch
và kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và
các nhà khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của
quốc gia,liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch,sự tham
gia của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về những
ý kiến tư vấn,khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng
phát triển giáo dục-đào tạo.Phát triển khoa học –công nghệ,cách tuyển chon và giao chương
trình đề tài,giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa,giáo trình,làm chủ nhiệm
chương trình,đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt,thẩm định nghiệm thu các chương
trình,đề tài khoa học cấp Nhà nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà
khoa học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn,những khuyến nghị xác thực
có giá trị với Đảng,Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ
vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình
trạng nghèo và kém phát triển.
2.3. Vai trò tri thức đối với văn hoá-giáo dục
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá - giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con
người có được khả năng tiếp cận,lĩnh hội những kiến thức ,ý thức của con người được nâng
cao.Và do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh. Có những hiểu biết về tầm quan trọng của
giáo dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.
Thứ nhất, vị thế ngày càng lớn dần của tri thức sẽ thúc đẩy xã hội học tập, giáo dục
phát triển, đầu tư cho giáo dục khoa học chiếm tỷ lệ cao. Phát triển con người trở thành nhiệm
vụ trọng tâm. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập ở bất cứ lúc nào lOMoAR cPSD| 44985297
và học tập suốt đời. Đặc biệt, từ xa xưa, cần cù, chăm chỉ, hiếu học là những đức tính quý báu
của người Việt Nam. Ở xã hội mà tri thức trở thành trung tâm, người Việt sẽ có cơ hội phát
huy những truyền thống quý báu của dân tộc. Mỗi cá nhân sẽ được quan tâm và tạo điều kiện
trang bị kiến thức từ đó sẽ tạo ra những công dân với trình độ văn hóa cao.
Thứ hai, xây dựng nền kinh tế tri thức sẽ đẩy nhanh quá trình hội nhập, toàn cầu hóa.
Sự bùng nổ của thông tin và tri thức sẽ khiến nhu cầu thưởng thức các sản phẩm văn hóa mới
của con người tăng cao, tạo điều kiện để các nền văn hóa trên thế giới được giao thoa và con
người sẽ được tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
3. Liên hệ thực tiễn tri thức trong hoạt động con người
3.1. Cơ hội đối với Việt nam
Việt Nam đang đứng trước cơ hội tiếp cận nền kinh tế tri thức, nếu bỏ lỡ không biết
tận dụng cơ hội, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi tắt vào những
ngành kinh tế dựa vào công nghệ cao, dựa vào tri thức thì sẽ tụt hậu.
Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào nền kinh tế tri thức, nước ta không
thể bỏ lỡ cơ hội lớn đó mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn khoảng cách với
các nước, như vậy nền công nghiệp nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: Chuyển
nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và từ công nghiệp sang tri thức. Cũng
có nghĩa là chúng ta phải nắm bắt kịp thời các tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá
nông nghiệp, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức và công nghệ mới nhất.
Về công nghệ thông tin thì Việt nam, công nghệ thông tin cũng là một trong các động
lực chủ yếu, quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Công nghệ
thông tin phát triển không những góp phần giải phóng năng lực vật chất, trí tuệ của cả dân tộc
mà còn có trình độ trực tiếp đến việc nâng cao tính cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Đầu tư
nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới toàn cầu hoá, toàn cầu hoá lại tạo ra các cơ
hội giúp các nước tận dụng được vốn đầu tư nước ngoài để giải quyết tình trạng thiếu vốn từ
nội bộ nền kinh tế: Ở Việt nam trong 35 năm qua kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài đã có
gần 3000 dự án được đăng ký với số vốn đã được giải ngân vào khoảng 20 tỷ USD.
3.2. Những thách thức
Nói về tri thức khoa học kỹ thuật trong thế kỷ 19, cứ 50 năm thì tăng gấp đôi, giữa thế
kỷ 20: 10 năm, hiện nay là 3-5 năm. Một số nước phát triển sớm bước vào xây dựng kinh tế
tri thức đã đặt ra các nước đang phát triển trên nhiều bất lợi: tài nguyên và sức lao động bị
giảm rõ rệt dẫn đến làm giảm thu nhập quốc dân. Một vấn đề đáng lo ngại nữa là nạn chất
xám đã làm cho các nước đã nghèo lại càng nghèo hơn vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi lOMoAR cPSD| 44985297
cái nghèo. Trên thế giới khoảng 20% dân số giàu ở các nước phát triển chiếm tới 86% GDP,
trong khi 20% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 1% GDP, tương tự ở công nghiệp là 44, 5% và
8%. Qua đó có thể thấy sự giãn rộng khoảng cách giàu nghèo đang là một thách thức đối với
các nhà hoạch định và quản lý kinh tế xã hội.
Trong lĩnh vực thông tin thì ở Việt Nam công nghệ thông tin được coi là một trong
những động lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế tri thức, tuy nhiên công nghệ thông
tin của nước ta vẫn còn đang ở tình trạng lạc hậu kém hơn nhiều các nước trong khu vực.
3.3. Các giải pháp đề xuất
Thứ nhất, cần thiết xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2021
2030, tầm nhìn 2045. Chiến lược cần xác định và triển khai lộ trình, bước đi và giải pháp thích
hợp, xác định rõ những khâu, những bước đột phá, không dàn trải; trước mắt ưu tiên phát
triển kinh tế tri thức gắn với kinh tế số và phát triển những ngành ứng dụng mạnh mẽ khoa
học công nghệ, các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm để tạo nền tảng, lan tỏa đến các
ngành, địa phương khác.
Thứ hai, đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với
sự phát triển nền kinh tế tri thức. Ban hành các cơ chế, chính sách để hoàn thiện hệ sinh thái
khởi nghiệp, hỗ trợ, khuyến khích, thúc đẩy DN đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới
sáng tạo. Cần có cơ chế đặc thù để các khu công nghệ cao, khu công viên phần mềm phát huy
vai trò là trung tâm đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ ba, đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học - công nghệ nhằm tạo nền tảng
công nghệ phục vụ phát triển đất nước theo hướng hiện đại và tạo ra các yếu tố nền tảng của
kinh tế tri thức. Tăng cường năng lực khoa học - công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm
chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học - công nghệ mới nhất của thế giới. Bên cạnh đó,
chú trọng đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại vào các khâu,
các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế tạo ra khả năng lan tỏa trong nền kinh tế theo hướng hiện.
Thứ tư, phát triển mạnh nguồn lao động trí tuệ, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Đẩy
nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ
quản lý, doanh nhân... Cần coi giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là đột phá để đáp ứng
nhu cầu về nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức. lOMoAR cPSD| 44985297
Thứ năm, cần quan tâm, thu hút, đãi ngộ đối với nhân tài, những người hoạt động
trong các ngành công nghệ cao, đóng góp thiết thực và to lớn vào sự phát triển của các ngành nghề và xã hội. KẾT LUẬN
Bài tiểu luận trên đây đã làm sáng tỏ vai trò của tri thức đối với ý thức đồng thời liên
hệ thực tiễn để chỉ ra tầm quan trọng của tri thức đối với hoạt động sống của con người ở Việt Nam.
Bằng cách lý giải vấn đề từ kiến thức về Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lenin, em mong muốn đem đến một cái nhìn đầy đủ và tin cậy nhất về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức. Hiểu được sâu sắc mối quan hệ này sẽ giúp người đọc có thể vận dụng kiến
thức để giải quyết một số vấn đề liên quan đến tri thức cũng như ý thức trong thực tế.
Cụ thể , em đã vận dụng những hiểu biết về môn học cùng những am hiểu thực tế để
trình bày về vai trò của tri thức trong các mặt cơ bản của đời sống xã hội Việt Nam. Bước vào
thế kỉ 21, thời điểm cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức,
Việt Nam có được những cơ hội mới để phát triển và đồng thời phải đối mặt với những thách thức nghiệt ngã .
Vấn đề được đặt ra là phải hiểu biết và vận dụng tri thức vào tất cả các lĩnh vực hoạt
động của đời sống chứ không phải xây dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt cho một khu vực
nào đó. Với sức mạnh ý chí con người, sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc đã từng khiến các
cường quốc, thực dân gục ngã, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở và hy vọng đạt tới nền kinh tế tri
thức, đạt tới một xã hội với tri thức là nhân tố trung tâm.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “ Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lenin”- NXB Chính trịQuốc gia Sự Thật 2. Tạp chí Cộng Sản
3. Wikipedia- https://www.wikipedia.org/ lOMoAR cPSD| 44985297 4. Tạp chí Tia Sáng
5. Tài liệu “ Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lenin” sửa đổi được cungcấp
bởi giáo viên hướng dẫn.
6. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin – NXB Chính trị quốc gia Sự Thật
7. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin – Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạngiáo
trình các bộ môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh – NXB Chính trị Quốc Gia
8. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam - PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó trưởngban
Thường trực, Ban Tư Tưởng –Văn hóa Trung ương -
https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-can-phai-
lamot-noi-dung-quan-trong-trong-chu-de-cua-bao-cao-chinh-tri-567635.html
9. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI – NXB Chính trị quốc gia Sự thật năm 19873.
10.Quân đội nhân dân – La Duy - Phát triển hạ tầng số trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước - https://www.qdnd.vn/kinh-te/tin-tuc/phat-trien-ha-tang-
sotrong-tien-trinh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-677624