-
Thông tin
-
Quiz
Vai trò của tri thức đối với ý thức. Ở Việt Nam, tri thức có vai trò gì trong hoạt động của con người | Bài tập lớn triết học Mác Lenin
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Vai trò của tri thức đối với ý thức. Ở Việt Nam, tri thức có vai trò gì trong hoạt động của con người | Bài tập lớn triết học Mác Lenin
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:






















Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ★ ★ ★ BÀI TẬP LỚN
Học phần: Triết học Mác - Lênin Tên đề tài:
Vai trò của tri thức đối với ý thức. Ở Việt Nam, tri thức
có vai trò gì trong hoạt động của con người Họ tên sinh viên: Lớp học phần: Mã sinh viên:
Hà Nội, tháng 10 năm 2022 MỤC LỤC i
MỤC LỤC..............................................................................................ii
ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................2
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRI THỨC VÀ Ý THỨC.............................2
1.1. Tri thức......................................................................................2
1.1.1. Khái niệm...........................................................................2
1.1.2. Vai trò của tri thức trong xã hội..........................................2
1.2. Ý thức........................................................................................3
1.2.1. Quan niệm duy vật biện chứng về bản chất của ý thức.....3
1.2.2. Quan niệm duy vật biện chứng về nguồn gốc của ý thức. .4
1.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức..............................................5
PHẦN 2: VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI............................................................6
2.1. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người..................6
2.2. Trí thức - lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan
trọng trong công cuộc đổi mới đất nước..........................................7
2.3. Hạn chế....................................................................................9
PHẦN 3: KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT...........................................................11
KẾT LUẬN..........................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................17 ii ĐẶT VẤN ĐỀ
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết
học. Nó là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan,
hình thức mà riêng con người mới có. ý thức của con người là cơ
năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ
óc con người” (theo LêNin). Tác động của ý thức xã hội đối với con
người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt
động thực tiễn mà con là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất
bại của thực tiễn, tác động tích cự hay tiêu cực của ý thức đối với sự
phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo
của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hoá và tư tưỏng.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực
kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công
nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt đựoc
những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công
nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không?
Chung ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước
trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một
vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa
học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai
đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là
khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức
cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý
chí thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực
cả.Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác văn hoá- tư tưởng
thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc.
Xuất phát từ đó, em chọn đề tài: “Vai trò của tri thức đối với
ý thức. Ở Việt Nam, tri thức có vai trò gì trong hoạt động của con người”. 1 NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRI THỨC VÀ Ý THỨC 1.1. Tri thức 1.1.1. Khái niệm
Tri thức là tất cả những dữ liệu, thông tin, kỹ năng,... có được
qua trải nghiệm thực tế hoặc học tập. Tri thức có thể chỉ về sự hiểu
biết về một đối tượng hay sự vật về lý thuyết và thực hành. Có 2
dạng tồn tại của tri thức là tri thức ẩn và tri thức hiện. Tri thức hiện là
những thứ được thể hiện qua văn bản, âm thanh, hình ảnh,... được
truyền đạt dễ dàng qua hình thức giáo dục. Tri thức ẩn là những tri
thức được thu lại nhờ sự trải nghiệm thực tế rất khó truyền đạt,
chuyển giao mà phải tự trải nghiệm và tập luyện.
Người tri thức có thể hiểu là người lao động trí óc, là người có
học, am hiểu nhiều kiến thức và cũng có thể là người khám phá và
truyền bá tri thức ở các chuyên môn nhất định, sự tiếp nối đó là
trong quá trình rèn luyện của con người, bạn phải là người tích cực
tham gia phản biện xã hội, đưa ra ý kiến quan điểm cá nhân, tri thức
là lương tâm của xã hội. Một xã hội giàu đẹp văn minh đòi hỏi người
có tri thức cao, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, tri thức càng ngày
có sự tiến bộ cao, trau dồi để trở thành con người hiện đại, ai có tri
thức nhiều người đó có sức mạnh, quyền lợi cao.
1.1.2. Vai trò của tri thức trong xã hội
Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời
của tri thức thường gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người.
Do đó, không thể tách trí thức ra khỏi xã hội để định nghĩa xem tri
thức là gì cũng như mong muốn hiểu sâu hơn về tri thức, đó là việc
làm không tốt, tách tri thức ra khỏi xã hội giống như việc tách những
con cá ra khỏi dòng nước đề tìm sự thích nghi hay hoạt động của cá.
Vai trò của tri thức trong xã hội là rất cần thiết và quan trọng.
+ Khi con người có tri thức, có hiểu biết, am hiểu sâu rộng tới
mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội, thì con người ta dễ dàng thực hiện 2
được những mục tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản thân, chỉ có
tri thức được lấy bằng chính mồ hôi công sức thì mới mang lại được
hiệu quả. Và hiển nhiên, một xã hội với những con người thành đạt
giúp xã hội phát triển không ngừng về tri thức.
+ Khi nhu cầu xã hội ngày càng nâng cao, việc đáp ứng nhu
cầu đòi hỏi mỗi công dân cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo
dục và trách nhiệm của học sinh sinh viên là quan trọng. Con người
có tri thức, kiến thức và nhận thức tốt, làm chủ tri thức bản thân là
chủ trong cách sống của mình, biết bản thân mình làm gì, biết được
nhu cầu xã hội đang đòi hỏi gì ở chính các bạn trẻ, mà không ngừng
học hỏi. Vai trò của tri thức trong việc phục vụ những yêu cầu của xã
hội, cũng góp phần trong việc thể hiện khả năng bản thân mình ở xã
hội không ngừng phát triển lớn mạnh.
+ Khi trở thành con người có tri thức thì sống theo chuẩn mực
đạo đức tốt, giữ gìn cũng như phát huy được những giá trị văn hóa
tốt đẹp ông cha ta để lại. Một câu hỏi đề ra, nếu bản thân mỗi công
dân không có am hiểu về tri thức trong sự nhìn nhận thì xã hội sẽ
duy trì như thế nào. Tri thức hình thành được là nhờ sự tiếp thu kiến
thức cũng như học hỏi được những kỹ năng, một xã hội sẽ lạc hậu,
không có sự phát triển là xã hội còn xuất hiện những con người
không có trí thức, một thành phần thừa trong xã hội.
+ Vai trò cuối cùng mà tri thức mang lại cho xã hội là sự hội
nhập quốc tế, giao lưu học hỏi kiến thức hay những truyền thống tốt
đẹp của các quốc gia khác là rất cần thiết, hay là tham gia các cuộc
thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây là ngôn ngữ tiếng anh
phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Xã hội sẽ được sánh ngang với
các cường quốc năm châu, sự sáng tạo cũng như những phát minh
hay, mới lạ thì công dân có tri thức là không thể thiếu, tri thức lúc
này như là công cụ giúp giải quyết mọi vấn đề khó khăn không chỉ
cho bản thân, gia đình mà còn cho cả xã hội vì lợi ích của đất nước. 1.2. Ý thức 3
1.2.1. Quan niệm duy vật biện chứng về bản chất của ý thức
- Nhận định khái quát về bản chất của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng: ý thức là "hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan" (V.I Lênin); là "cái vật chất được di
chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi ở trong đó" (C.Mác).
- Các tính chất đặc trưng thể hiện bản chất của ý thức
+ Tính phụ thuộc của ý thức vào vật chất. Ý thức là hiện tượng
có thực trong đời sống con người và xã hội loài người nhưng nó
không phải là cái vốn có sẵn trong giới tự nhiên hay cái vốn có sẵn ở
mỗi con người. Sự hình thành, tồn tại và phát triển của nó đều có
nguồn gốc từ hiện thực khách quan, thông quan các điều kiện vật
chất nhất định; là sự phản ánh của bộ óc con người về hiện thực
khách quan; bộ óc của con người chính là khí quan vật chất tự nhiên của ý thức.
+ Tính phi cảm giác: Ý thức thuộc về đời sống tinh thần của con
người. Sự tồn tại của nó mang tính chất phi cảm giác. Tính chất đặc
biệt này là một đặc trưng phân biệt sự phản ánh ý thức với sự phản
ánh thông tin vật chất (lý, hoá, ...). Do mang đặc tính "tinh thần" như
vậy nên trong đời sống hiện thực ý thức không tự tồn tại mà trái lại,
sự tồn tại của nó bao giờ cũng phải được vật chất hoá dưới các hình
thức ngôn ngữ nhất định. Các hình thức ngôn ngữ đó đóng vai trò là
"cái vỏ vật chất" của ý thức. Nhờ được lưu giữ dưới các hình thức vật
chất là ngôn ngữ đó mà ý thức có thể được truyền bá từ người này
sang người khác, thế hệ này qua thế hệ khác thông qua quan hệ sự
giao tiếp xã hội; nó được tích luỹ và không ngừng được kế thừa, phát triển...
+ Tính sáng tạo: Ý thức là sự phản ánh của bộ óc con người đối
với hiện thực khách quan nhưng đó không phải là sự phản ánh giản
đơn mà là sự phản ánh có tính chất năng động sáng tạo. Tính chất
năng động sáng tạo đó được thể hiện ở chỗ: ý thức có khả năng phản
ánh được bản chất, quy luật khách quan, trên cơ sở đó cókhả năng 4
sáng tạo ra các mô hình tư tưởng (trong khoa học, nghệ thuật, tôn
giáo, ...) làm tiền đề cho những hoạt động sáng tạo trong thực tiễn
theo mục tiêu cải biến hiện thực khách quan.
+ Tính xã hội: Ý thức được sản sinh ra từ sự hoạt động của bộ
óc con người nhưng nó không phải là sản phẩm thuần tuý mang tính
chất hoạt động riêng lẻ của mỗi cá nhân riêng biệt; trái lại, nó có tính
xã hội. Tính xã hội của ý thức được thể hiện từ nguồn gốc hình thành
đến phương thức tồn tại, phát triển của nó.
- Ý thức có "tự vận động" không?
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức không ngừng vận
động và phát triển (dù đó là đời sống ý thức của mỗi cá nhân hay ý
thức của cộng đồng xã hội) nhưng xuất phát từ tính chất đặc trưng
phụ thuộc của ý thức vào vật chất, có thể nói: sự vận động của ý
thức, dù có tính độc lập tương đối thì suy đến cùng nó vẫn không thể
"tự thân vận động" được. Sự vận động, phát triển của ý thức, suy đến
cùng đều phụ thuộc vào vật chất: sự biến đổi của thực tại khách quan.
1.2.2. Quan niệm duy vật biện chứng về nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Về nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Có thể phân tích nguồn gốc tự nhiên của ý thức theo lý luận
phản ánh của Lênin. Theo lý luận này, mọi dạng vật chất đều có khả
năng phản ánh. “Phản ánh” được hiểu theo nghĩa rộng nhất thì đó là
khả năng của một tồn tại vật chất có thể ghi nhận và tái hiện những
đặc điểm của một khách thể khác khi chúng tác động đến nhau.
Theo nghĩa đó thì khả năng phản ánh của một tồn tại vật chất phụ
thuộc vào 3 nhóm yếu tố: vật phản ánh, vật được phản ánh và môi
trường phản ánh, trong đó cấu tạo hệ thống của vật phản ánh giữa
vai trò quan trọng nhất đến chất lượng hình ảnh phản ánh. Thí dụ, 5
các vật có cấu tạo khác nhau, khả năng thu nhập thông tin và xử lý
thông tin khác nhau sẽ tạo ra chất lượng phản ánh khác nhau. Từ lý
thuyết phản ánh của Lênin có thể nhận thấy, các cấu tạo tồn tại vật
chất khác nhau sẽ có khả năng phản ánh khác nhau.
Về nguồn gốc xã hội của ý thức
Sự hình thành và phát triển của ý thức không chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà còn
có nguồn gốc xã hội, hơn nữa đây là nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất. Theo quan
điểm của Ph. Ăngghen thì sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ … đó là
hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con
người, tâm lý động vật thành ý thức.
1.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức
Tri thức là hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới. Nói
đến tri thức là nói đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý
thức. Sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết
với qúa trình con người nhận biết và cải tạo thế giới tự nhiên. Con
người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý thức thật cao, càng đi
sâu vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu quả hơn. Tính
năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên. Nhấn mạnh tri thức là yếu
tố cơ bản, quan trọng nhất của ý thức có nghĩa là chống lại quan
điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý chí. Quan
điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy ý chí của sự tưởng tượng chủ
quan. Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí.
Ngược lại nếu tri thức biến thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con
người hoạt đọng thì tự nó không có vai trò gì đối với đời sống hiện
thực. Tóm lại, ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố
tình cảm, ý chí trong sự liên hệ tác đọng qua lại nhưng về căn bản ý
thức có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức 6
PHẦN 2: VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI
2.1. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người
Trong công cuộc đổi mới, tri thức khoa học được xem là nền
tảng và động lực của sự phát triển đất nước. Những cơ sở khoa học
cùng những luận cứ khoa học đã giúp Đảng có một sự định hướng
đúng đắn về đuờng lối chính sách phát triển của đất nước; vạch ra kế
hoạch phát triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp, Nông
nghiệp, du lịch dịch vụ, Khoa học công nghệ...Nói đến vai trò nền
tảng và động lực của tri thức Khoa học trong công cuộc đổi mới là nối
đến con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá dựa trên cơ sở Khoa
học và công nghệ, coi khoa học-công nghệ là lực lượng sản xuất trực
tiếp và hàng đầu. Quan điểm này cho tấy rõ sự quyết tâm và lựa
chọn sáng suốt của đảng ta trong đổi mới tư duy, đổi mới quan niệm
và đổi mới phương thức phát triển phù hợp với những đòi hởi phải
tiến hành công nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá với tốc độ nhanh
nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững trong những thập niên đầu của thế kỷ 21.
Nhờ có tri thức, hoạt động của con người trở nên dễ dàng hơn.
Nhờ có tri thức khoa học, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân
giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm (cao hơn mức 4,3%/năm của giai
đoạn 2011 - 2015). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ
cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên
khoảng 50% năm 2020. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam trong
những năm gần đây liên tục tăng vượt bậc, năm 2020 xếp thứ
42/131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và
đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (sau Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a).
Trong lĩnh vực nông nghiệp: tri thức khoa học - công nghệ đóng
góp trên 30% giá trị gia tăng của ngành và 38% trong sản xuất giống
cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm các nước xuất
khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà-phê, hồ tiêu, cao su, điều nhân... 7
Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông: hoạt động
khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo tiếp tục hỗ trợ phát triển
sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và
tính cạnh tranh cao trên thị trường; nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm; nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, làm chủ công nghệ trong các
lĩnh vực cơ khí chế tạo, thiết bị điện, công nghiệp hỗ trợ...
Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng: nhiều
tri thức công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng trong chẩn
đoán và điều trị, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh,
giảm chi phí cho người dân và xã hội. Dù là nước đang phát triển,
nhưng Việt Nam đã nằm trong tốp 3 khu vực Đông Nam Á và 43 nước
trên thế giới tự sản xuất được vắc-xin, rất thành công trong công tác
phòng ngừa và thanh toán các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; làm
chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao,
như ghép tạng và đa tạng,... Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19,
chúng ta đã kịp thời đặt hàng nghiên cứu, phát triển kít xét nghiệm
nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản xuất rô-bốt, máy
thở, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc
hiệu điều trị COVID-19, nghiên cứu để sản xuất vắc-xin.
Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh quốc gia: k tri thức hoa
học - công nghệ đã góp phần thiết kế, chế tạo mới và cải tiến được
nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng
được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng.
2.2. Trí thức - lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan
trọng trong công cuộc đổi mới đất nước
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã luôn nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng
tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CHH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc. Xây dựng đội ngũ trí 8
thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh
của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng
hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là
đầu tư cho phát triển bền vững”
Thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua đã chứng minh rằng, muốn
cách mạng thành công, đất nước phát triển nhanh và bền vững cần
có đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và
chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng giai đoạn phát
triển. Trong giai đoạn vừa qua, các kết quả nghiên cứu của trí thức
khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần làm cơ sở khoa học xây
dựng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
đổi mới quản lý, phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), đảm bảo an ninh -
quốc phòng; xác định rõ yêu cầu, nội dung, phương thức bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền quốc gia gắn với những sự kiện đang diễn
ra ở lãnh thổ, lãnh hải và vùng trời; xây dựng thế trận an ninh nhân
dân và nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Những thành
tựu trong nghiên cứu, điều tra điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên và môi trường đã góp phần tạo luận cứ cho việc xây dựng
chiến lược và quy hoạch phát triển KT-XH. Ở một số lĩnh vực nghiên
cứu cơ bản về khoa học tự nhiên đã xây dựng được một đội ngũ cán
bộ khoa học có khả năng tiếp cận trình độ hiện đại trên thế giới.
Hoạt động của đội ngũ trí thức KHCN Việt Nam ngày càng mở rộng
và có những đóng góp tích cực, rất nhiều giáo sư người Việt đang
công tác và giảng dạy tại các nước phát triển.
Việc ứng dụng công nghệ mới đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn, tăng giá trị sản xuất, đưa nước ta vào
nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hạt tiêu,
điều, cao su. Cụ thể, các tiến bộ KHCN đã đóng góp khoảng 30 - 40%
vào tăng trưởng nông nghiệp tùy theo từng lĩnh vực. Trong đó, quan
trọng nhất là khâu chọn tạo giống mới đã thay thế được giống nhập 9
ngoại, từ chỗ phải nhập khẩu 70% giống cây trồng, vật nuôi, hiện
nay chỉ còn nhập khẩu dưới 30%. Năm 2021, Việt Nam đã trở thành
một trong những quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu nông, lâm, thủy sản
với kim ngạch xuất khẩu đạt 48,6 tỷ USD, tăng 14,9% so với năm
2020, trong đó, có 6 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD; thặng dư
thương mại toàn ngành 6,44 tỷ USD.
Những kỹ sư Việt Nam đã thiết kế, chế tạo thành công nhiều
chủng loại sản phẩm, thiết bị đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, thay
thế nhập khẩu với giá thành cạnh tranh, góp phần tăng tỷ lệ nội địa
hóa thiết bị, giảm nhập khẩu. Đội ngũ trí thức ở các viện nghiên cứu,
tập đoàn, doanh nghiệp cơ khí chế tạo đã có đủ năng lực làm tổng
thầu các công trình lớn hàng tỷ USD.
Những thành tựu nổi bật trong y học đều xuất phát từ các kết
quả nghiên cứu khoa học của đội ngũ trí thức, thúc đẩy sự phát triển
ngành y tế, góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe nhân dân. Vai trò và vị thế nền y tế Việt Nam ở một số lĩnh vực
đã được nâng cao ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới
như: ghép tạng, công nghệ tế bào gốc, y học hạt nhân, nội soi can
thiệp, điện quang can thiệp, hỗ trợ sinh sản, an toàn truyền máu, hồi
sức cấp cứu, vắc-xin và sinh phẩm.
Trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, đội ngũ trí thức đã và đang
tích cực tham gia bảo tồn gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa, văn minh của nhân loại. Văn học nghệ thuật đã
tiếp tục phát triển, nỗ lực phản ánh chân thực cuộc sống, bước đầu
tạo dựng nên một diện mạo mới của văn học nghệ thuật Việt Nam
hiện đại; đã có những hiện tượng thu hút công chúng, những tác
phẩm lôi cuốn độc giả và ý kiến tranh luận của các nhà nghiên cứu
phê bình…; các nhà văn Việt kiều, người Việt ở nước ngoài đã có
nhiều tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam, bước đầu chứng tỏ sự
hội nhập của bộ phận văn học người Việt ở nước ngoài vào đời sống 10
văn học trong nước, thể hiện tinh thần hoà hợp dân tộc cũng như xu
thế toàn cầu hoá, dân chủ hoá của văn học đương đại Việt Nam.
Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, đội ngũ trí thức là lực
lượng nòng cốt tham gia xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại và tiến thẳng hiện đại trong một số lĩnh vực; trực
tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự. Trên
lĩnh vực khoa học và nghệ thuật quân sự, đội ngũ trí thức đã tập
trung nghiên cứu dự báo đối tượng tác chiến; dự báo các hình thái
chiến tranh và đối sách của ta; nghệ thuật tác chiến bảo vệ biển đảo,
chống tiến công hỏa lực đường không; hoàn thiện lý luận về tổ chức
xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh/thành phố; tổ chức xây dựng căn
cứ hậu cần chiến lược; xây dựng tiềm lực quốc phòng cho các địa
bàn trọng điểm. Trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân
sự đã tập trung nghiên cứu, thiết kế chế tạo, cải tiến hiện đại hóa
các loại vũ khí, khí tài, nâng cao uy lực, độ chính xác, khả năng cơ
động, phù hợp với điều kiện môi trường và địa bàn tác chiến đặc
thù. Trong lĩnh vực y dược quân sự, đã nghiên cứu và ứng dụng các
cơ số bảo đảm cho sẵn sàng chiến đấu, bơm tiêm tự tiêm, áo phao
cá nhân, cáng gấp phục vụ bộ đội Trường Sa…; trong cấp cứu điều trị
bỏng đã phát triển chuyên sâu có phần vượt trội hơn các bệnh viện
dân y, tương đương với trình độ các nước có nền y học tiên tiến trong khu vực. 2.3. Hạn chế
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của đất nước, sự phát triển
của đội ngũ trí thức Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế. Việt Nam đang
thiếu các nhà lãnh đạo quản lý tầm cỡ, các chuyên gia giỏi, các nhà
khoa học thực sự tâm huyết với nghề, các công chức trong bộ máy
chính quyền các cấp tinh thông nghề nghiệp và đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao về đạo đức công vụ. Cơ chế, chính sách đãi ngộ dành cho
đội ngũ trí thức còn dàn trải, chưa đúng trọng tâm, trọng điểm, mức
lương và phụ cấp thấp, chưa thật sự đáp ứng yêu cầu của cuộc sống 11
hiện đại. Cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ và thu hút nhân tài của Việt
Nam còn nhiều hạn chế và bất cập. Các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức còn thiếu, chưa đồng bộ
hoặc chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Các hạn chế nêu trên khiến những đóng góp của đội ngũ trí
thức đối với sự phát triển KT-XH của đất nước còn khiêm tốn, chưa
tương xứng với tiềm năng to lớn của con người Việt Nam, giá trị Việt
Nam. Chúng ta đang rất cần các nhà trí thức lớn, các chuyên gia đầu
ngành có thể đảm đương được các công trình, dự án có giá trị để đời.
Ngoài ra, lực lượng trí thức nữ, trí thức làm việc ở vùng sâu, vùng xa;
trí thức trong doanh nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ. Công tác
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong các viện
nghiên cứu, các trường đại học còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế.
Một bộ phận trí thức Việt Nam còn bị bó hẹp về môi trường tự do
sáng tạo, còn thụ động đối với các vấn đề phát triển mà đất nước
yêu cầu phải giải quyết.
Trình độ khoa học - công nghệ quốc gia nhìn chung còn khoảng
cách so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Trừ một số lĩnh vực có
tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh, như công nghệ thông tin - viễn
thông, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân hàng..., nhiều doanh
nghiệp trong lĩnh vực sản xuất vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu
so với mức trung bình của thế giới. Năng lực hấp thụ và đổi mới công
nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn hạn
chế. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các cơ sở giáo dục đại học còn khiêm tốn.
Hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa
thực sự tạo động lực cho phát triển khoa học - công nghệ và ứng
dụng kết quả khoa học - công nghệ vào sản xuất, nhất là các chính
sách đầu tư, thuế, đấu thầu... Cơ chế, chính sách chưa tạo điều kiện
thuận lợi tối đa cho các sản phẩm khoa học - công nghệ trong nước
và nước ngoài được trao đổi, mua bán trên thị trường. Còn thiếu 12
những cơ chế, chính sách thực sự khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
đổi mới, nhập khẩu công nghệ, nhất là đối với những ngành, lĩnh vực
chủ lực, mũi nhọn để nhanh chóng ứng dụng vào sản xuất, kinh
doanh tạo ra sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao. Các trung tâm
dịch vụ khoa học - công nghệ chưa thực sự phát huy hiệu quả trong
việc thúc đẩy dịch vụ môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá, định
giá, thẩm định, giám định công nghệ.
PHẦN 3: KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng và
phát đội ngũ trí thức, đẩy mạnh thể chế hóa về các cơ chế, chính
sách để phát huy tốt năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức; nâng
cao nhận thức chính trị và đề cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí
thức với đất nước. Thay đổi nhận thức của các cấp ủy, chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và tổ chức đoàn thể các cấp về vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của đội ngũ trí thức trong phát triển bền vững, bảo đảm
quốc phòng, an ninh đất nước. Định kỳ tổ chức các cuộc tiếp xúc,
làm việc với trí thức để lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về
những vấn đề KT-XH quan trọng của địa phương, đơn vị. Tạo môi
trường làm việc thực sự phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự
do sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác; công bằng trong học thuật,
nghiên cứu, sáng tạo, trong triển khai ứng dụng khoa học...
Sớm xây dựng, ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển đội
ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045. Trên cơ sở tổng kết
15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, xác định rõ nội hàm
khái niệm "trí thức" trong tình hình mới; xây dựng các tiêu chí phân
loại "trí thức" theo ngành, lĩnh vực để có các chính sách phù hợp; coi 13
việc xây dựng "trí thức" đầu ngành cấp bách và quan trọng như xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược của Đảng.
Xây dựng Chiến lược Quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức dựa
trên yêu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực, địa phương phù hợp với
Chiến lược phát triển KT-XH của đất nước trong giai đoạn phát triển
mới; chú trọng đến những ngành, lĩnh vực đang thiếu, mất cân đối,
bất hợp lý về cơ cấu; ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc
thiểu số, trí thức nữ. Tiếp tục thực hiện tốt việc đưa cán bộ, công
chức, nhà khoa học trẻ, sinh viên có đạo đức, triển vọng được giải
thưởng quốc tế đi đào tạo ở nước ngoài.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ
trí thức lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ trí thức đầu ngành trong lĩnh
vực KHCN, giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), văn hoá, văn nghệ; đội ngũ
trí thức doanh nhân và trí thức trong lực lượng vũ trang.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế trọng dụng trí thức, người hiền tài
Tiếp tục hoàn thiện môi trường và tạo các điều kiện thuận lợi
cho đội ngũ trí thức cống hiến, sáng tạo, có sự quan tâm đặc biệt tới
đội ngũ trí thức đang công tác ở miền núi, vùng có điều kiện khó
khăn; xây dựng quy chế dân chủ trong hoạt động KHCN, GD&ĐT, văn
hóa và văn nghệ; tôn trọng và phát huy tính tự chủ trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Đổi
mới công tác đánh giá, xét duyệt các chức danh khoa học và các
danh hiệu tôn vinh trí thức. Tạo điều kiện bình đẳng cho nữ trí thức
trong hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học. Đổi mới công tác
đánh giá và nâng mức thưởng đối với các danh hiệu cao quý, các giải
thưởng Nhà nước dành cho trí thức.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tổ chức diễn đàn khoa học
chuyên nghiệp. Xây dựng cơ chế trao đổi, đối thoại và phản hồi ý
kiến phản biện của trí thức; thực hiện tốt việc cung cấp thông tin 14
giúp trí thức kịp thời nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước và tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương.
Đẩy mạnh hợp lý hóa cơ cấu đội ngũ trí thức, đặc biệt chú trọng
đào tạo, tập trung phát triển đội ngũ trí thức làm công tác nghiên
cứu cơ bản, nghiên cứu và triển khai, đội ngũ trí thức hoạt động
trong các doanh nghiệp, phát triển hệ thống doanh nghiệp KHCN để
tạo động lực mạnh mẽ cho hoạt động đổi mới sáng tạo. Hoàn thiện
các cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức phục vụ
chiến lược phát triển KT-XH, đáp ứng được yêu cầu của các cuộc CMCN mới.
Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy theo
hướng hiện đại, cập nhật, gắn lý thuyết với thực hành, hình thành tư
duy độc lập, sáng tạo cho người học. Thực hiện tốt các biện pháp
gắn đào tạo với nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội; gắn
đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, với sản xuất
kinh doanh; tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập
trong kiểm định chất lượng đào tạo; đẩy mạnh phát triển các trường
đại học theo mô hình các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới;
phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên
tiến trong khu vực, đến năm 2045 đạt trình độ quốc tế.
Xây dựng cơ chế đột phá trong phát hiện, trọng dụng và đãi
ngộ trí thức tài năng, nhà khoa học trẻ; xóa bỏ tư duy coi trọng bằng
cấp, thâm niên công tác. Xây dựng, thực hiện cơ chế, chính sách
trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng theo mức độ đóng góp và năng lực
thực tiễn để trí thức thực sự yên tâm nghiên cứu, sáng tạo khoa học
trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Xây dựng cơ chế đặc thù về
đầu tư, đãi ngộ đối với trí thức theo nhiệm vụ và sản phẩm sáng tạo,
phù hợp với từng đối tượng, bảo đảm đời sống của trí thức phải cao
hơn mức chung của xã hội.
Thực hiện đúng và đầy đủ chủ trương phân cấp và quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KHCN, các trường đại học 15
trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo và các chức danh khoa học trên
cơ sở các tiêu chuẩn của Nhà nước; trong việc người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị được sử dụng quỹ tiền lương và kinh phí chi
thường xuyên được giao hằng năm để đặt hàng chuyên gia, nhà
khoa học, người có tài năng đặc biệt thực hiện nhiệm vụ của cơ
quan, tổ chức, đơn vị và quyết định mức chi trả thu nhập tương xứng
với nhiệm vụ được giao.
Đẩy mạnh huy động và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho
xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức
Huy động mạnh mẽ các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư
cho phát triển đội ngũ trí thức, ưu tiên cân đối nguồn vốn đầu tư phát
triển về hạ tầng, môi trường làm việc phục vụ các hoạt động nghiên
cứu, sáng tạo của trí thức. Tập trung nguồn lực cho công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, chuyên gia đầu ngành.
Tiếp tục hoàn thiện các chính sách, cơ chế tài chính nhằm
khuyến khích và thu hút các nguồn lực xã hội; khuyến khích khu vực
tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà nước thành lập các quỹ đầu
tư cho các hoạt động nghiên cứu KHCN, văn hóa, văn nghệ, GD&ĐT...
Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối
với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư
nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn.
Sớm đầu tư xây dựng các tổ hợp khoa học - sản xuất, các trung
tâm văn hóa hiện đại cho các vùng KT-XH của cả nước nhằm thúc
đẩy nghiên cứu, hấp thụ, chuyển giao và truyền bá tri thức phục vụ phát triển đất nước.
Nâng cao trách nhiệm và đóng góp của đội ngũ trí thức, kiện
toàn hệ thống tổ chức của các hội trí thức đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới
Tăng cường sinh hoạt tư tưởng đối với trí thức, đặc biệt là trí
thức trẻ, sinh viên; nâng cao ý thức chính trị và trách nhiệm, phát
huy vai trò tiên phong và dẫn dắt quần chúng của đội ngũ trí thức 16
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo cơ hội để trí thức
tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ trong
cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và
đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí. Có cơ chế, chính sách
huy động trí thức, đặc biệt là trí thức đầu ngành, trực tiếp chăm lo và
thực hiện việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ kế cận. Đổi mới nội dung
học tập chính trị, tư tưởng với các hình thức phù hợp và đa dạng;
tăng cường rèn luyện, phấn đấu, bồi đắp, phát huy những phẩm chất
tốt đẹp như lòng yêu nước, tính tích cực xã hội, tính nhân văn, đạo
đức và lối sống lành mạnh nhằm nâng cao trách nhiệm của đội ngũ
trí thức. Bản thân đội ngũ trí thức cần nâng cao trách nhiệm, nghĩa
vụ và đạo đức nghề nghiệp. Không ngừng học hỏi, tìm tòi, trau dồi
chuyên môn nghiệp vụ, có chí khí và hoài bão, đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khắc phục hiện
tượng suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ phận trí thức hiện nay.
Đổi mới mạnh mẽ cơ cấu tổ chức, nội dung, phương thức hoạt
động của các tổ chức thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ
thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam...
theo hướng tinh gọn, hiệu quả, không hành chính hóa.
Tăng cường, nâng cao hiệu quả các hoạt động tư vấn, phản
biện, giám định xã hội và hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức.
Xây dựng các cơ chế, chính sách để các hội trí thức được thực hiện
các dịch vụ công, cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát các hoạt động nghề nghiệp.
Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá
những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những
tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao
dân trí. Có cơ chế, chính sách huy động trí thức, đặc biệt là trí thức
đầu ngành, trực tiếp chăm lo và thực hiện việc đào tạo đội ngũ kế cận./. 17 Giải pháp khác
Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ thông tin là chìa khóa để
đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục
khoảng cách về công nghệ thông tin.
Đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học - công nghệ nhằm
tạo nền tảng công nghệ phục vụ phát triển đất nước theo hướng hiện
đại và tạo ra các yếu tố nền tảng của kinh tế tri thức. Đổi mới cơ chế
quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ. Cơ chế đó phải hướng
vào việc thúc đẩy khoa học - công nghệ thực sự gắn kết với sản xuất
- kinh doanh, khoa học xâm nhập vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh
làm ra của cải và tri thức mới phục vụ trực tiếp công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội… Cùng với việc đầu tư cho nghiên cứu (chú trọng cả
khoa học - công nghệ cùng với khoa học - xã hội và nhân văn), việc
đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện
đại vào các khâu, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế tạo ra khả
năng lan tỏa trong nền kinh tế theo hướng hiện đại, cũng cần được chú ý.
Từng bước hình thành và phát triển tài nguyên trí lực. Tài
nguyên trí lực là một kết cấu bao hàm nhiều năng lực; nó cũng
không phải là phép gộp đơn giản các nhân tố, như sức quan sát, khả
năng của trí nhớ, suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và
sức sáng tạo của con người, mà là sự kết hợp trong một cấu trúc tạo
nên giá trị của tài nguyên trí lực, trong đó, tầm quan trọng của tri
thức, kỹ năng là yếu tố then chốt. 18 KẾT LUẬN
Vật chất và ý thức ta thấy rằng chúng cũng có tính độc lâp và
tác động qua lại với nhau. Nếu ta áp dụng những tri thức khoa học
để cải biến thế giới nó sẽ cho ta những kết quả như ý muốn, những
tri thức sai lầm luôn đưa ta đến thất bại. Vai trò của tri thức ngày
càng quan trọng. Đứng trước thế kỉ 21 - thế kỉ có nhiều biến đổi sâu
sắc và phổ biến trên tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách đồng thời là thời cơ nghiệt
ngã cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh
tế tri thức. Nhờ áp dụng các kỹ thuật Khoa học-Công nghệ của thế
giới mà chúng ta có thể đi thẳng tới nền kinh tế tri thức mà không
qua kinh tế công nghiệp. Đó là sự lựa chọn hợp lí và đúng đắn. Vấn
đề là phải hiểu biết và vận dụng nó để đưa tri thức khoa học vào tất
cả các lĩnh vực hoạt động chứ không phải xây dựng nền kinh tế tri
thức riêng biệt cho một khu vực nào đó. Kinh tế tri thức theo cách
hiểu nào đó là của mọi người, nó phải được thẩm thấu vào trong mọi
lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội. Đất nước Việt Nam đã đi qua
chiến tranh thắng lợi rất vẻ vang, vậy tại sao chúng ta không thể
chiến thắng trong việc xây dựng và phát triển đất nước? Nhất định
chúng ta sẽ làm được và làm tốt bởi mang trong mình sức mạnh
đoàn kết dân tộc và bản tính thông minh lao động sáng tạo của con
người Việt Nam. Những thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới đã
cho thấy rõ điều đó. Và bây giờ nhiệm vụ của chúng ta là: Tìm hiểu
những tri thức mới, cập nhật và làm chủ những tiến bộ khoa học của loài người. 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
3. GS.TS. Tạ Ngọc Tấn, "Đổi mới công tác vận động trí thức trong
tình hình hiện nay", https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/doi-moi-
cong-tac-van-dong-tri-thuc-trong-tinh-hinh-hien-nay-p24727.html. Tài liệu trực tuyến
https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/vi-tri-vai-tro-cua-doi-ngu-tri-
thuc-trong-su-nghiep-xay-dung-bao-ve-to-quoc.html
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-
te/-/2018/820152/cach-mang-khoa-hoc---cong-nghe-hien-dai-va-nen- kinh-te-tri-thuc.aspx
https://tapchicongsan.org.vn/media-
story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tao-dot-pha-de-khoa-
hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-tro-thanh-dong-luc-chu-yeu-cho-
tang-truong-kinh-te-va-phat-trien-dat-nuoc-nhanh-ben-vung 20