














Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN THMLN
ĐỀ BÀI: Vai trò của tri thức i
đố với ý thức. Ở Việt Nam,
tri thức có vai trò gì trong hoạt động của con người
Họ và tên SV: Phạm Thị Xuân Thái
Lớp tín chỉ: Triết học Mác-Lênin_38 Mã SV: 11215245
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU
....................................................................................
HÀ NỘI, NĂM 2021
Mục lục Trang
Lời mở đầu 3
Chương 1: Lý luận chung của triết học về ý thức và tri thức
1.1 Khái niệm ý thức 5
1.2 Nguồn gốc của ý thức
1.2.1 Nguồn gốc tự nhiên 5 1.2.2 Nguồn gốc xã hội 6
1.3 Bản chất của ý thức 7
1.4 Vai trò của ý thức 8
2.1 Khái niệm tri thức 8
2.2 Vai trò của tri thức với ý thức 9
Chương 2: Vai trò của tri thức trong hoạt động ủ
c a con người ở Việt Nam
1.Vai trò của tri thức trong đời sống – xã hội
1.1 Vai trò của tri thức đối với kinh tế - kinh tế tri thức 10
1.2 Vai trò của tri thức đối với chính trị 12
1.3 Vai trò của tri thức đối với văn hóa – giáo dục 12
2.Vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn của con người 13
Phần kết luận 14 2
Lời mở đầu
Ý thức luôn là đề tài mà các trường phái triết học quan tâm nghiên cứu. Nó là điều kì diệu
và thiêng liêng chỉ con người mới có và tạo nên sự khác biệt giữa con người và các loài
khác. Ý thức của con người là cơ năng của cái “khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người
ta tạm gọi là bộ óc con người” (theo Lê-nin). Ý thức có tác động rất lớn đối với con người.
Nó là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, là động lực thực tiễn. Thực tiễn vận động theo
cách nào, đích đến của nó là gì, sự vận động ấy đưa thực tiễn trở nên thế nào, tất cả chủ
yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hóa và tư tưởng.
Cuộc cách mạng chuyển đổi công nghệ số và trí tuệ nhân tạo chắc chắn sẽ làm cho cơ cấu
xã hội biến đổi và các tổ chức chính quyền nhà nước các cấp tinh gọn hơn, thông minh
hơn, hiệu quả hơn. Nói cách khác, cuộc cách mạng này không những làm thay đổi cách
quản trị xã hội mà còn làm thay đổi cả cách suy nghĩ, cách ứng xử, lối tư duy của con
người, thậm chí cả cách thức, biện pháp tiến hành chiến tranh trong tương lai không xa.
Bởi vậy, nếu nước nào chậm trễ và tụt hậu trong cuộc cách mạng mới này thì khoảng cách
với các nước phát triển cao sẽ ngày càng dãn rộng ra thêm. Điều này đồng nghĩa với việc
các nước đang phát triển và kém phát triển sẽ tụt hậu càng xa hơn nữa so với các nước phát
triển. Do vậy, cơ hội để các nước đang phát triển đuổi kịp các nước phát triển sẽ càng trở
nên mong manh hơn, sự bất bình đẳng giữa các quốc gia cũng vì vậy chưa thể nào khắc
phục được. Do đó phát triển kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu. Hơn nữa chúng ta
đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên không thể không
đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển
cùng thế giới .Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng
không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. 3
Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học - văn hoá - tư
tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp
đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội.
Trong bài tiểu luận này em chọn đề tài “Vai trò của tri thức đối với ý thức. Ở Việt Nam, tri
thức có vai trò gì trong hoạt động của con người” 4 CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Khái niệm ý thức
Để đưa ra được định nghĩa về ý thức, con người đã trải qua một thời kỳ lịch
sử lâu dài, nó trải qua những tư tưởng từ thô sơ, sai lệch cho tới những định nghĩa có tính khoa học.
Ý thức theo tâm lý học được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở
con người. Ý thức là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong
quá trình quan hệ qua lại với thế giới khách quan. Theo triết học Mac-Lênin "ý thức là
sự phản ánh sáng tạo của thế giới khách quan vào bộ não của người thông qua lao động
ngôn ngữ' .Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song
với phạm trù vật chất. Theo đó, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào
bộ óc con người và có sự cái biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
Từ các định nghĩa trên ta có thể đưa ra một khái niệm tổng hợp: Ý thức là thuộc tính
(thuộc tính phản ánh) của 1 dạng vật chất sống có tổ chức cao, đó là bộ não người. Theo
đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người, có sự cải biên và sáng tạo.
1.2 Nguồn gốc của ý thức
1.2.1 Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức có hai yếu tố không thể tách rời nhau là bộ óc con
người và thế giới bên ngoài tác động lên óc người . Bộ óc con người
Bộ óc người là một dạng vật chất sống đặc biệt, có tổ chức cao, trải qua quá trình
tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội. Óc người là khí quan vật chất của ý thức.
Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, nên khi óc bị tổn thương thì hoạt động
ý thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn. 5
Sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc người
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Điều đó có nghĩa là phản ánh
là sự chụp lại, ghi lại hay kể lại một cái gì đó. Ví dụ những hóa thạch để lại trên trái
đất là sự phản ánh của một sinh vật cổ đại nào đó đã tồn tại trên trái đất. Hay khi
chúng ta chụp một bức ảnh thiên nhiên thì đó cũng là sự phản ánh.
Thuộc tính phản ánh của óc người được gọi riêng bằng phạm trù “ý thức”. Đó là sự
phản ánh, sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ óc con người.
Như vậy, sự xuất hiện của con người và hình thành bộ óc của con người có năng lực
phản ảnh hiện thực khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
1.2.2 Nguồn gốc xã hội
Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức là những tiền
đề, nguồn gốc xã hội. Đó là lao động, tức là ý thức xã hội và ngôn ngữ. Lao động
Thông qua lao động, hay còn gọi là hoạt động ý thức, nhằm cải tạo thế giới khách quan mà
con người mới có thể phản ánh được, biết được nhiều bí mật về thế giới đó, mới có ý thức về thế giới này.
Nhưng không phải tự nhiên mà thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để con
người có ý thức. Ý thức có được chủ yếu là do con người chủ động tác động vào thế giới
khách quan để cải tạo, biến đổi nó nhằm ạ
t o ra những sản phẩm mới.
Nhờ chủ động tác động vào thế giới khách quan, con người làm cho những đối tượng trong
hiện thực (cát bên bờ sông, mỏ vàng, dầu mỏ…) phải bộc lộ những thuộc tính, kết cấu hay
quy luật vận động. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động
đến bộ óc con người từ đó hình thành ý thức con người. Ngôn ngữ 6
Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng,
không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, trao đổi của con người, đồng thời nó cũng là công cụ
của tư duy. Con người có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa, hay hiểu đơn giản hơn là diễn
đạt những khái niệm, phạm trù để suy nghĩ, tách mình khỏi sự vật cảm tính. Nhờ ngôn ngữ,
con người có thể làm được nhiều điều để giúp cho cuộc sống trở nên thuận tiện hơn, không
phải mất thời gian tìm hiểu nghiên cứu lại những gì cha ông đã vất vả dày công tìm ra mà
chỉ cần áp dụng trực tiếp những điều đó lên thực tiễn.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển ý thức là lao động.
1.3 Bản chất của ý thức 1.3.1.1
Bản tính phản ánh và sáng tạo
Ý thức mang bản tính phản ánh, ý thức mang thông tin về thế giới bên ngoài,
từ vật gây tác động được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tính phản ánh quy
định tính khách quan của ý thức, tức là ý thức phải lấy tính khách quan làm nền móng, bị
cái khách quan quy định và có nội dung phản ánh thế giới khách quan.
Ý thức có bản tính sáng tạo do ý thức gắn liền với lao động. Bản chất của việc lao
động là hoạt động sáng tạo, cải biến và thống trị tự nhiên của con người. Ý thức
không chụp lại một cách dập khuôn, thụ động sự vật mà đã có cải biến, quá trình thu thập
thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin và lưu giữ thông tin. Tính sáng tạo của ý
thức còn thể hiện ở khả năng phản ánh gián tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình
chủ động tác động vào thế giới để phản ánh thế giới đó. Bản tính sáng tạo quy định mặt
chủ quan của ý thức. ý thức chỉ có thể xuất hiện ở bộ óc người, gắn liền với hoạt động khái
quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có chọn lọc tồn tại dưới hình thức chủ quan, là
hình ảnh chủ quan phân biệt về nguyên tắc hiện thực khách quan và sự vật, hiện tượng, vật chất, cảm tính 7
Phản ánh và sáng tạo có liên quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hiện
thực cho thấy: không có phản ánh thì không có sáng tạo, vì phản ánh là điểm xuất
phát, là cơ sở của sáng tạo. Ngược lại không có sáng tạo thì không phải là sự phản
ánh của ý thức. Đó là mối liên hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhận và xử lý
thông tin, là sự thống nhất giữa các mặt khách quan và chủ quan trong ý thức. Vì
vậy, Mac đã gọi ý thức, ý niệm là hiện thực khách quan (hay là cái vật chất) đã
được di chuyển vào bộ não người và được cải biến đi trong đó. 1.3.1.2 Bản tính xã hội
Ý thức được hình thành trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của
con người. Ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, ý thức trước hết là tri
thức của con người về xã hội, về thế giới khách quan đang diễn ra xung quanh, về
mối liên hệ giữa người với người trong xã hội. Ý thức cá nhân, ý thức xã hội không thể
tách rời ý thức cá nhân, ý thức cá nhân vừa có cái chung của giai cấp của dân tộc và các
mặt khác của xã hội vừa có những nét độc đáo riêng do những điều kiện, hoàn cảnh riêng
của cá nhân đó quy định. Tự tách ra khỏi môi trường xã hội con người không thể có ý thức,
tình cảm người thực sự. Mỗi cá nhân phải tự nhận rõ vai trò của mình đối với bản thân và
xã hội. Ta phải học làm người qua môi trường xã hội lành mạnh.
1.4 Vai trò của ý thức
Vai trò đầu tiên của ý thức là khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản
sinh ra ý thức, còn ý thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan trong nhận
thức và hành động của con người thì phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và
hành động theo hiện thực khách quan.
Ý thức có vai trò tích cực trong sự tác động trở lại đối với vật chất, phép biện chứng duy
vật yêu cầu trong nhận thức và trong hoạt động ý thức con người cần phải nhận thức và
vận dụng quy luật khánh quan một cách chủ động, sáng tạo, chống lại thái độ tiêu cực, thụ động. 8
Tìm hiểu vai trò của ý thức sẽ giúp chúng ta phát huy tính năng động sáng tạo của bộ óc
con người, phát huy vai trò của con người để cải tổ thế giới quan cũng như khắc phục các
tính bảo thủ, tiêu cực thiếu tính sáng tạo của con người.
2.1. Khái niệm về tri thức
Có thể nói từ khi con người sinh ra thì tri thức cũng tồn tại luôn từ đó. Trải qua bao
thăng trầm biến cố của thời gian, cho đến những thập kỉ gần đây tri thức và vai trò của
nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cập nhiều.Vậy tri thức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu
biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó(hiểu biết sáng tạo) vào việc
tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế - xã hội.
2.2. Vai trò của tri thức với ý thức
Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
Muốn cải tạo được sự vật, trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó.
Do đó, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức. Ý thức mà không
bao gồm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng,
không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Theo C.Mác, “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại đối với
ý thức là tri thức…, cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết
cái đó.”Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức về tự nhiên, xã hội, con người;
và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lí tính; tri thức kinh nghiệm
và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học v.v…Tích cực tìm hiểu, tích
lũy tri thức về thế giới xung quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên bước đường
cải tạo thế giới. Tuy nhiên, không thể đồng nhất ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, song tri thức là yếu
tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối
với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác. 9 CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
1. Vai trò của tri thức trong đời sống – xã hội
Tri thức đã và đang ngày càng trở nên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác
động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục…
1.1 Vai trò của tri thức đối với Kinh tế - Kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng,
khai thác, sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải.
Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó.
Tri thức khoa học – công nghệ cùng với lao động chất lượng cao được đào tạo bài
bản là cơ sở chủ yếu và phát triển mạnh. Nguồn vốn quan trọng nhất, quý nhất là tri
thức, nguồn vốn trí tuệ. Đây là nền kinh tế mang tính học tập, lấy thị trường toàn
cầu là môi trường hoạt động chính.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa học
– công nghệ và toàn cầu hóa, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát
triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên tới. Để bắt kịp
với sự phát triển của thế giới, Việt Nam đã, đang và sẽ đào tạo ra nguồn nhân lực
chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chuyển dịch nền kinh tế
Sự xuất hiện của các hoạt ộ
đ ng sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, nhất là trong thời đại ngày
nay. Tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong quá trình sản xuất. Trong văn minh
nông nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất. Còn trong
kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển kinh tế - xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền
tệ, đất đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lạo động trí tuệ gắn 10
với tri thức. Như vậy, tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì
yếu tố sức lao động, vốn, tiền tệ và đất đai.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như công ty sản xuất phần mềm và các
công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong tài sản vật chất hữu hình, mà còn
nằm trong những tài sản vô hình, như tri thức và các bằng sáng chế. Để trờ thành
một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải b ế
i t nhận ra những thay đổi
của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh. Bất kể doanh nghiệp nào cũng
đang tuyển dụng những nhân viên chất lượng cao để nâng cao công nghệ sản xuất
và đưa ra chiến lược giúp công ty đứng vững và phát triển mạnh trên thị trường. Ví
dụ như tập đoàn Vin Group, cụ thể hơn là mảng thiết kế và sản xuất ô tô Vinfast,
tập đoàn hàng năm vào các trường đại học danh tiếng của khối ngành kĩ thuật để
tuyển dụng kĩ sư chất lượng cao với mức lương hấp dẫn. Rõ ràng, công ty đã có
tham vọng vươn lên và cạnh tranh với các hãng khác trên thế giới, và để làm được
điều đó thì tri thức chính là chìa khóa. Vingroup là một tập đoàn có tầm nhìn rộng,
luôn đề cao sức mạnh của trí tuệ, sẵn sàng đầu tư cho tri thức. Giờ đây, hãng xe
Vinfast đã đưa ra được nhiều dòng xe với mẫu mã đa dạng, trang bị công nghệ hiện
đại, đáp ứng nhu cầu của người dùng. Nguồn vốn con người là một thành tố giá trị
cơ bản trong một công ty dựa vào tri thức. Một ví dụ khác đó là công nghệ Smart
home của BKAV, một lĩnh vực về trí tuệ nhân tạo, một xu thế mà thế giới đang
hướng đến. Đối với công nghệ này, trí tuệ con người đóng vai trò rất lớn, phải nhờ
bộ não, sự tư duy và kiến thức chuyên môn mới có thể tạo ra được sản phẩm như
vậy. Các doanh nghiệp của Việt Nam đã dần dần chuyển đổi sử dụng lao động chất
lượng cao thay vì tuyển dụng nhiều lao động phổ thông như trước kia. Đó là xu thế
tất yếu trong thời đại này.
1.2 Vai trò của tri thức đối với chính trị
Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn 1996-2000 đã đóng góp
tích cực trong phát triển lí luận và tổng kết thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam trong thế kỉ 20. Khoa học xã hội còn đóng góp quan trọng vào việc xây 11
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản luật, các chính sách
và hiệp định quốc tế, trong đó có sự hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Khoa học xã
hội còn hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể bức xúc trong thực tiễn phát triển
kinh tế xã hội như: vấn đề toàn cầu hóa, quốc tế hóa, công nghiệp hóa – hiện đại hóa…
Một đất nước rất cần những con người có tri thức để điều hành công việc chính trị.
Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia. Tri thức góp phần xây dựng đường
lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam. Chỉ khi có một hệ thống lý luận đúng đắn, khoa học
và cách mạng soi sáng thì sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước trong bối cảnh
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới đạt được thành công. Đây không phải là
công việc dễ dàng, sự phát triển không thể chỉ dựa vào tri thức và kinh nghiệm các
nhà lãnh đạo, các nhà làm chính sách. Do đó, cần có sự góp sức của đội ngũ trí thức,
những hiểu biết của họ về cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ giúp ích trong quá
trình xây dựng đường lối, chính sách. Chúng ta cần có những giải pháp trong việc
đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức.
1.3. Vai trò của tri thức với văn hóa – giáo dục
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hóa – giáo dục của một quốc gia. Nó giúp
con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý nghĩa của con
người được nâng cao. Và do đó nền văn hóa ngày càng lành mạnh, xã hội văn minh.
Việt Nam từ đất nước nghèo nàn lạc hậu bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, ngày
nay đã vươn lên phát triển mạnh mẽ, điều đó nhờ tri thức. Cuộc sống ổn định hơn,
cách suy nghĩ và tầm nhìn của con người cũng khác đi, nhìn mọi thứ dưới góc nhìn
tích cực hơn, hình thành nên những nét văn hóa văn minh hơn thay vì chỉ nghĩ về
cái ăn, cái đói như trong quá khứ. Một điều nữa đó là khi có tri thức mọi thứ trở nên
dễ dàng hơn, mọi người sẽ tìm kiếm nguồn tri thức thông qua giáo dục, từ đó ngành
giáo dục không ngừng đổi mới sáng tạo để phù hợp với thời đại. Từ những điều trên, 12
đất nước sẽ ngày càng lớn mạnh, sẽ nhanh chóng đạt được ý nguyện của Chủ tịch
Hồ Chí Minh “ sánh vai với cường quốc năm châu”.
2. Vai trò của tri thức trong hoạt động thực tiễn của con người
2.1. Tri thức giúp con người xác định đúng đắn mục tiêu
Tri thức có vai trò rất quan trọng đối với thực tiễn, tác động và góp phần biến đổi
thực tiễn thông qua hoạt động năng động có ý thức của con người. Lý luận là kim
chỉ nam cho mọi hoạt động và góp phần soi đường chỉ lối cho thực tiễn đi đúng
hướng. V.I.Lenin đã chỉ ra vai trò quan trọng của lý luận “Không có lý luận cách
mạng thì không thể có phong trào cách mạng” (V.I.Lenin, 1974 – 1981, tập 26,
tr.30). Tri thức lí luận, có thể dự kiến được sự phát triển và vận động của sự vật
trong tương lai, dự báo được những phương hướng mới cho sự phát triển của thực
tiễn. Lý luận khoa học làm cho hoạt dộng của con người chủ động hơn, tự giác hơn,
hạn chế được sự mò mẫm, tư phát, mất phương hướng.
2.2 Tri thức giúp cuộc sống con người tốt đẹp hơn
Một người có tri thức có thể vận dụng nó làm cho cuộc sống của bản thân trở nên
dễ dàng hơn, không cần lao động vất vả dưới điều kiện khác nghiệt. Thay vào đó,
con người có thể sử dụng tri thức để tạo những dịch vụ, sản phẩm chất lượng cao
cho xã hội. Bên cạnh đó, người có tri thức sẽ luôn được xã hội coi trọng, tin tưởng.
Trong thời đại văn minh, tri thức là chìa khóa để giúp con người có thể tồn tại và
phát triển trong xã hội . 13
PHẦN KẾT LUẬN
Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Tri thức tác
động lên nhiều mặt trong cuộc sống. Đứng trước thế kỉ 21 – thế kỉ có nhiều biến đổi sâu
sắc, đặc biệt là trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. Đây là thời đại của công nghệ số, con người
chỉ là người phát minh và điều khiển máy móc. Đây là cơ hội cũng là thách thức lớn đối
với Việt Nam. Ở Việt Nam, tri thức đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước
và định hướng mỗi bản thân con người. Tri thức là động lực thúc đẩy xã hội trở nên tốt đẹp
và văn minh hơn. Để tạo dựng nên các doanh nghiệp mạnh thì tri thức là chìa khóa, là vũ
khí để tham gia cuộc cạnh tranh thị trường trên toàn thế giới. Không có tri thức, cuộc sống
của con người sẽ trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, tất cả chỉ “giậm chân tại chỗ”, không
phát triển đi lên được. Việt Nam cần chú trọng hơn nữa trong việc đào tạo nhân tài đất
nước, không thể để tình trạng “chảy máu chất xám” kéo dài đồng thời tạo điều kiện để nhân
tài phát triển, không thể để tài năng của họ bị chôn vùi và lãng quên. Mỗi người chúng ta
có nhiệm vụ tìm hiểu những tri thức mới, cập nhật và làm chủ những tiến bộ khoa học của
loài người để góp phần phát triển đất nước hùng mạnh. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin (NXB Chính trị quốc gia và sự thật)
2. V.I.Lenin, 1974 – 1981, tập 26
3. Giáo trình Triết học Mác – Lenin (GS.TS Phạm Văn Đức) 4. Tạp chí Cộng sản 5. Báo Mặt trận 15