Vai trò của tri thức - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
13 trang 11 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Vai trò của tri thức - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

40 20 lượt tải Tải xuống
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................4
I. Vai trò của tri thức đối với ý thức..........................................................4
I.1. Tổng quan về ý thức .........................................................................4
I .1 .1. Khái niệm của ý thức ...................................................................4
I.1.2. Nguồn gốc của ý thức...................................................................5
I.2. Tổng quan về tri thức .......................................................................7
I.2.1. Khái niệm của tri thức.................................................................7
I.2.2. Vai trò chung của tri thức ...........................................................8
I.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức .....................................................8
II. 2. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người ở Việt Nam....5
II.2.1. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực kinh tế ...................................
II.2.2. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực chính trị ................................
II.2.3. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục ...............
KẾT LUẬN .....................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................
MỞ ĐẦU
Ý thức một trong hai phạm trù bản được các trường phái triết học
quan tâm nghiên cứu, được xác định bởi các mối quan hệ vật chất được
hiểu theo khoa học tự nhiên. Học thuyết cho rằng các mối liên hệ vật chất làm
sở cho hai trường phái triết học: chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy vật.
Mỗi trường phái đều nhấn mạnh mối quan hệ cụ thể giữa thức và chất. Ý thức
ảnh hưởng bản chất đến hoạt động của con người; ảnh hưởng đến cả
công việc hàng ngày các dự án lớn hơn. Động lực này thực tế hơn
thuyết. Tác động của khoa học đối với sự phát triển của hội, tự nhiên ý
thức của chúng ta yếu tố quyết định chính đến sự thành bại của một thực
tiễn. Nghiên cứu văn hóa hệ tưởng cũng quan trọng để phát triển hệ
tưởng văn hóa giúp tinh chỉnh ảnh hưởng của ý thức đối với những
chúng ta phát triển.
Nhân loại đã trải qua hai nền văn minh, ngày nay chúng ta đang đứng
trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba - nền văn minh tri thức. Trong nền
văn minh này, phần quan trọng nhất nền kinh tế tri thức - được cho nền
tảng của thời đại thông tin. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm lực
kinh tế công nghệ yếu, liệu nước ta thể đạt được những thành tựu đổi
mới khoa học công nghệ đạt trình độ quốc tế trong thời gian ngắn hay
không? Điều này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, đó là việc lựa chọn bước đi
ưu tiên phát triển công nghệ so với phát triển kinh tế trong tương lai.
nghĩa là chúng ta cần phải kiến thức, bởi kiến thức khoa học. Vì vậy,
phát triển kinh tế nhiệm vụ hàng đầu, nước ta đang trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đặt mình trên tri thức, phát triển tri thức, đưa
nền kinh tế lên một tầm cao mới.
Để giúp ích cho chiến lược phát triển kinh tế và tiến nhanh trên con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần tìm hiểu kiến thức tìm hướng
đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức, phù hợp với điều kiện đất nước, phù hợp
với điều kiện đất nước, phù hợp với tổng thể mối quan hệ khu vực với thế giới
thời đại, trong quá trình phát triển không ngừng của nền kinh tế tri thức,
tiếp tục tiến lên trong quá trình đó. Vì vậy em quyết định chọn đề tài này làm
đề tài nghiên cứu của mình.
2
NỘI DUNG
I. Vai trò của tri thức đối với ý thức
I. 1. Tổng quan về ý thức
I. 1.1. Khái niệm của ý thức
Để định nghĩa về ý thức, loài người đã phải trải qua một giai đoạn lịch sử
lâu dài, từ những định nghĩa thô thiển, sai lệch đến những định nghĩa khoa
học.
Con người thời cổ xưa rất mơ hồ về cấu tạo của bản thân, và chưa lý giải
được các sự vật, hiện tượng xung quanh. Do chưa thể giải thích giấc mơ là gì,
họ tin rằng có một linh hồn sống trong cơ thể và có thể rời khỏi cơ thể, linh
hồn này điều khiển không chỉ suy nghĩ và cảm xúc mà còn cả hoạt động của
con người. Cơ thể trở thành một xác chết khi linh hồn rời khỏi cơ thể.
Tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đã phát triển khái niệm sơ khai về linh hồn
thành một khái niệm về vai trò sáng tạo của linh hồn trong thế giới. Khái
niệm linh hồn, linh hồn bất tử không chỉ phổ biến ở con người mà còn phổ
biến ở các sự vật, hiện tượng, trong thế giới cõi người và cõi thần linh, quan
niệm về ý thức tuyệt đối, về lý tính thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan đồng nhất ý thức với cảm giác, và cho rằng
tình cảm của con người chi phối thế giới. Vì vậy, cả tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm đều tin rằng ý thức tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài và là tính thứ
nhất tạo ra thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại cho rằng linh hồn không thể tách rời khỏi thể xác
và nó sẽ chết cùng với thể xác. Với sự phát triển của khoa học tự nhiên, người
ta đã chứng minh được sự phụ thuộc của các hiện tượng tinh thần, ý thức vào
bộ não con người, thì một số nhà duy vật theo chủ nghĩa duy vật cho rằng não
tiết ra ý thức một cách trực tiếp, giống như gan tiết ra mật.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII và XVIII cho rằng ý thức bao gồm tâm lý,
trí tuệ cảm xúc, tri thức trí tuệ và sự tự nhận thức, đồng thời định nghĩa ý thức
là sự phản ánh thế giới khách quan.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là thuộc tính, sản phẩm
của vật chất, ý thức là sự phản ánh khách quan của bộ óc con người thông qua
lao động và ngôn ngữ. Theo triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin, “ý thức là sự
3
phản ánh sáng tạo thế giới khách quan thông qua chức năng của ngôn ngữ
trong bộ não con người”. Trong trường hợp này, C. Mác nhấn mạnh: “Tinh
thần, ý thức chẳng qua nó chỉ là cái vật chất di chuyển vào bộ óc con người và
được cải biến đi trong đó”.
Ý thứcmột hiện tượng tâmhội có cấu trúc phức tạp, bao gồm tự ý
thức, tri thức, tình cảm và ý chí, là những bộ phận cấu thành quan trọng của ý
thức. Trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật đề cập đến việc xem nhân như một thực thể riêng
biệt, một biểu hiện của nhân, một cái "tôi" tự định hướng, tự duy trì, tách
rời khỏi các mối quan hệ xã hội. Ngược lại, duy vật biện chứng tự ý thức là tự
ý thức trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Bằng cách suy nghĩ về thế
giới khách quan, con người thể tách mình ra, đối lập với thế giới này
nhận thức mình những sinh vật tích cực với những cảm xúc, suy nghĩ,
những khuôn mẫu hành vi đạo đức và luân lý. Vị trí trong xã hội, nhất là trong
giao tiếp hội hoạt động thực tiễn, đòi hỏi con người phải tự giác, phải
thích nghi với những chuẩn mực, quy tắc do hội đặt ra. Mọi người thể
tự hỏi và trả lời các câu hỏi: Tôi là ai? Tôi nên làm gì? Tôi có thể làm gì? Làm
như thế nào?
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã từng có nhưng đã gần như trở
thành bản năng và kỹ năng trong tâm trí sâu thẳm. trong ý thức của chủ thể.
Tình cảm là cảm xúc của một người đối với chính mình trước thế giới xung
quanh. Cảm giác yêu và ghét đối với một cái gì đó, ai đó hoặc sự vật hoặc
hiện tượng xung quanh.
Sự hình thành và phát triển của ý gắn liền với quá trình con người tìm hiểu
và cải tạo thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý
thức càng cao, càng hiểu sâu sắc bản chất của sự vật thì cải tạo thế giới càng
hiệu quả. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên.
Tóm lại, ý thức sự liên hệ tác động qua lại của những yếu tố tri thức và
những yếu tố tình cảm. Nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và luôn
hướng tới tri thức.
I.1.2. Nguồn gốc của ý thức
Khi giải nguồn gốc sinh ra của ý thức, những nhà triết học duy tâm cho
rằng, ý thức nguyên thể tiên phong, sống sót vĩnh viễn, nguyên do sinh
thành, chi phối sự sống sót, biến hóa của hàng loạt quốc tế vật chất. Chủ
nghĩa duy tâm khách quan mà đại diện là những đại biểu tiêu biểu như Platon
4
và Hegel đã tuyệt đối hóa vai trò củatính, đồng thời chứng minh khẳng
định trên phạm vi quốc tế rằng ý niệm hay ý niệm tuyệt đối bản chất, sự
sống, là linh hồn. Một loạt các thực tế quốc tế. Ý thức của con người chỉ là ký
ức của những ý niệm, hay sự tự ý thức về những ý niệm tuyệt đối. Chủ nghĩa
duy tâm chủ quan với những đại biểu như G. Becclesi, E. Mach,... lại tuyệt
đối hóa vai trò của tình cảm, cho rằng tình cảm kẻ duy nhất còn tồn tại
sáng tạo ra thế giới vật chất một cách tiên nghiệm. Ý thức của con người nảy
sinh từ tình cảm, nhưng theo quan niệm của họ, tình cảm không phải sự
phản ánh khách quan của môi trường chỉ là cái vốncủa mỗi thể tồn
tại, khác với môi trường. Đó là những ý kiến hết sức phiến diện, rất tiếc là sai
lầm, mang tính duy tâm, cơ sở lý luận của tôn giáo.
Trái ngược với tư tưởng duy tâm, những người theo chủ nghĩa duy vật siêu
hình phủ nhận ý thức, tính chất siêu nhiên của ý thức. Họ giải thích nguồn gốc
của ý thức về mặt thực tế quốc tế. Tuy nhiên, do trình độ phát triển khoa học
của thời đại còn hạn chế, bị phương pháp siêu hình chi phối nên quan niệm về
ý thức vẫn còn nhiều sai sót đáng tiếc.
Các nhà duy vật siêu hình đều nhận thức như nhau về vật chất. Họ cho rằng
ý thức chỉ là một dạng vật chất đặc biệt quan trọng, do vật chất sinh ra. Ví dụ,
từ thời cổ đại, Democritus đã tin rằng ý thức được tạo thành từ các nguyên tử
(hình cầu, ánh sáng, chuyển động) liên kết với nhau tầm quan trọng đặc
biệt. Các nhà duy vật tầm thường thế kỷ XVIII (Pogte, Moléts, Buykhone)
cho rằng: não tiết ra ý thức như gan tiết ra mật. Một số nhà duy vật khác
thuộc trường phái vật linh (Robine, Hekken, Didero) coi ý thức thuộc tính
phổ biến của mọi dạng vật chất từ tri đến hữu sinh, nhưng cao nhất con
người. Phải chăng sự khác biệt giữa giống loài chỉ nằm biểu hiện bên
ngoài của Lever trong ngôn ngữ. Nhà triết học người Pháp Diderot tin rằng:
“Cảm giác đặc tính chung của vật chất hoặc sản phẩm của sự tổ chức
đang diễn ra của vật chất”.
Những sai lầm hạn chế đáng tiếc của chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa
duy vật siêu hình trong quan niệm về ý thức đã bị giai cấp thống trị bóc lột lợi
dụng triệt để làm sở luận công cụ để dịch quần chúng lao động
vào niềm tin của họ.
Quan điểm duy vật biện chứng bề nguồn gốc của ý thức đã phê phán quan
điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình. Dựa vào thành tựu
của khao học tự nhiên, Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: ý thức
xuất hiện từ hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên nguồn gốc hội. Nguồn
5
gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người
hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo
ra quá trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Ý thức một thuộc tính của bộ não con người; kết quả của hoạt
động sinh lý thần kinh của não bộ. Một loại vật chất có tổ chức cao hơn so với
photon, bộ não con người sở hữu ý thức. Khả năng sinh thần kinh của bộ
não càng cao cấp thì ý thức của càng lớn. điều này, tiến trình tiến hóa
đòi hỏi phải phát triển khả năng tinh thần khả năng duy. Điều này giải
thích tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh
của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Nguồn gốc hội của ý thức lao động ngôn ngữ. Hai yếu tố này
không chỉnguồn gốc của ý thức, mà còn là tiền đề của ý thức. Lao động là
quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm biến
đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; quá trình chính
con người đóng vai trò trung gian, điều tiết quá trình trao đổi vật chất giữa
con người với giới tự nhiên. Đây cũng quá trình thay đổi cấu trúc thể,
tạo dáng đi thẳng, hai tay thả lỏng, phát triển các quan, não bộ của con
người. Con người tác động lên thế giới khách quan trong quá trình lao động,
nhờ đó thế giới khách quan bộc lộ bản chất, cấu tạocác quy luật vận động
của nó, được biểu hiện thành một số hiện tượng quan sát được con người
nắm bắt được. Các hiện tượng đó thông qua hoạt động của các giác quan tác
động vào bộ não con người, đồng thời thông qua hoạt động của bộ não con
người tạo ra khả năng hình thành tri thức cụ thể và ý thức chung.
Như vậy, lao động nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra
đời phát triển của ý thức. Sau lao động đồng thời với lao động ngôn
ngữ; đó hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển
hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý
thức.
I.2. Tổng quan về tri thức
I.2.1. Khái niệm của tri thức
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư
duy thì lúc đó tri thức. Từ thời xa xưa, tri thức người nuôi dưỡng, bảo
vệ, truyền bá những giá trị truyền thống cũng như nét đẹp văn hóa mà cha ông
ta để lại, sau lớn dần nó hình thành tri thức chuyên môn, khả năng sẵn có của
chính mình. rất nhiều định nghĩ khác nhau về tri thức, ở các lĩnh vực hay
hoàn cảnh khác nhau, người ta đánh giá về khái niệm tri thức là gì?
6
Tri thức thể được định nghĩa theo nhiều cách, nhưng thể hiểu “Tri
thức là sự hiểu biết, tính sáng tạo và những kỹ năng, năng lực vận dụng nó (sự
hiểu biết sáng tạo) để tạo ra cái mới phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tri thức bao gồm tất cả những tri thức . liên quan đến phát triển kinh tế
hội. số liệu, hình vẽ, hình ảnh (sáng tạo), kỹ năng, kỹ năng khái niệm, giá
trị và các sản phẩm mang tính biểu tượng khác của xã hội. Tri thức đóng một
vai trò rất quan trọng trong cuộc sống - trong xã hội.
Nền kinh tế toàn cầu đang bước vào một kỷ nguyên mới, một tầm cao mới.
mức độ "các yếu tố quan trọng nhất thu nhận phân phối các
nguồn tài nguyên trí tuệ tạo ra, phân phối sử dụng kiến thức trong các
ngành công nghệ cao." Tiêu chí chính củalà tri thức tinh thần được coi
là nhân tố quan trọng của sự phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp như nhân tố
lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “tri thức trở thành động lực chủ yếu
của sự phát triển xã hội”, “tri thức nguồn lực vốn liếng”, tri thức tâm
điểm của cạnh tranhlà động lực của phát triển kinh tế. Tăng trưởng trong
dài hạn sẽ dẫn đến những thay đổi lớn về tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường
và lựa chọn nghề nghiệp...
I.2.2. Vai trò chung của tri thức
Trong bất kỳ thời đại nào, tri thức luôn là nền tảng của tiến bộ xã hội và đội
ngũ tri thức lực lượng trung tâm sáng tạo phổ biến tri thức. Ngày nay,
với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, đội ngũ tri thức đã trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo thế
mạnh cho mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.
I.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức
Khi xem xét ý thức các yếu tố cấu thành của quá trình tâm tích
cực giúp con người nhận thức được thế giới khách quan, chúng ta có: tri thức,
tình cảm, niềm tin, ý chí... Trong đó, tri thức nhân tố bản, cốt lõi nhất.
Nếu muốn cải thiện điều gì đó, trước tiên con người phải hiểu sâu sắc về điều
đó. Vì vậy, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức.
Nếu không dựa trên tri thức thì ý thức chỉ là cái trừu tượng rỗng tuếch, không
giúp ích gì cho hoạt động thực tiễn của con người. Theo Marx, " phương thức
mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại với ý thức là tri thức…,
cho nên một cái đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái
đó”. nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau như: tri thức về tự nhiên, hội,
con người và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức
7
tính; tri thức thực nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức
khoa học, vân vân. Tích cực nghiên cứu, tích lũy tri thức về thế giới xung
quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên con đường cải tạo thế giới.
Tuy nhiên, ý thức không thể được đánh đồng với sự hiểu biết và kiến thức về
sự vật.
II. 2. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người ở Việt Nam
Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của đời sống, sự ra đời của tri thức
thường gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó, không thể
tách tri thức ra khỏi đời sống.
II.2.1. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực kinh tế
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà nội dung chủ yếu của nó là sản xuất
và quản lý tri thức. Tương lai của bất kỳ doanh nghiệp nào không chỉ phụ
thuộc vào việc sử dụng vốn, nguyên vật liệu, nhân lực, máy móc..., mà còn
phụ thuộc vào quá trình chế biến và sản xuất. Sử dụng thông tin nội bộ và
thông tin từ môi trường kinh doanh. Cách tốt nhất để tăng năng suất là đạt
được chuyên môn. Kiến thức được một công ty thu thập để sử dụng cho mục
đích thương mại và cần được phát triển liên tục.
Giá trị của những công ty công nghệ cao hay các công ty về máy tính như
các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong khối tài sản vật chất hữu
hình, mà còn nằm trong cả tài sản tinh thần, gồm tri thức cùng các phát minh.
Muốn thành một công ty được dẫn dắt từ tri thức, lãnh đạo công ty phải biết
nhìn rõ các biến đổi của tỉ lệ vốn trí tuệ trong tổng giá trị tài sản. Vốn trí tuệ
của công ty gồm tri thức, kinh nghiệm và phương pháp đội ngũ quản lý người
lao động cũng như năng lực của công ty trong quá trình cải tiến phương pháp
sẽ là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Vẫn có một số dấu hiệu đáng tin
cậy nói rõ phần giá trị ảo của nhiều công ty thương mại và dịch vụ đã
vượt qua phần giá trị thực của tất cả tài sản vật của nhóm công ty trên, bao
gồm những khu nhà lớn hoặc máy móc. Chẳng hạn như vậy số tài
sản thực của công ty Microsoft chỉ đóng góp một phần tương đối khiêm
tốn trong tổng giá trị đã vốn hoá trên thị tường của công ty họ. Phần lớn là
vốn chất xám. Tập đoàn hai mươi năm phát triển, tổng số nhân viên công ty
tăng 6 nghìn lần, doanh thu gấp 370 nghìn lần và 1/10 các giám đốc trở nên tỷ
phú. Dòng vốn này là một phần giá trị chính đối với một công ty nhờ vào trí
tuệ.
8
Vốn tri thức tri thức chủ yếu áp dụng trong thực tiễn sản xuất nông
nghiệp vì mục đích làm ra hàng hoá (giá trị vật chất) . Vốn tri thức yếu
tố lớn nhất thuộc hàm kinh tế. Đối với nền văn minh nông nghiệp, sức lao
động, đất đai làm vốn yếu tố đầu vào chính của vốn từ đất đai còn cuối
cùng là sức lao động trở nên hàng hoá yếu tố quyết định sự tăng
trưởng ngành nông nghiệp và đời sống kinh tế - hội đã tham
gia chuyển chế độ quân chủ. sang xã hội tư bản trong lịch sử. Trong nền kinh
tế tri thức, các yếu tố phát triển kinh tế - hội không thể gồm tiền tệ, đất
đai cùng vốn dựa trên lao động giản đơn mà chỉ dựa trên lao động trí
óc cộng với tri thức, để vốn chất xám trở nên nhân tố quan trọng của hàm sản
xuất thay vì nhân tố lao động hay vốn tiền tệ và đất đai.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức ý nghĩa định đoạt việc thành công
hoặc thất bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức đây gồm cả lao động tri thức
của những người trình độ cao nhiều kỹ thuật mới. Vốn tri thức ý
nghĩa quan trọng đến sự thu nhỏ cách biệt phát triển của các nước đang phát
triển đối với những nước tiên tiến. Việc hình thành kinh tế tri thức vừa là thời
cũng thử thách với nhiều nước nghèo đang phát triển, trong đó
Việt Nam. Các quốc gia nghèo đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận
với kinh tế tri thức, qua hiện đại hoá các lĩnh vực sản xuất, thương mại, tài
chính, đồng thời phải những công nghệ cao nhằm nhanh chóng giúp cho
gdp đất nước theo kịp các nước khác.
II.2.2. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực chính trị
Chính trị mang tới cho con người nhiều điều thông thái hiểu biết. Con
người tri thức biết giải quyết sự việc một cách gần thật chính xác.
Điều này vô cùng quan trọng và một quốc gia cũng cầncon người như thế
phục trong vận hành công tác lãnh đạo. Sẽ quyết định đến tương lai của một
đất nước. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng kiến một bước
chuyển quan trọng trong tư duy về nguồn lực con ngươì. Đại hội khẳng định:
"Phát triển nhân tố con người và đặt sự chăm sóc con người làm mục tiêu cao
nhất của các hoạt đông" chiến lược về con người đang vấn đề cấp thiết.
Cũng phải có các biện pháp trong việc quản lý con người và hệ thống tổ chức:
Chọn những người đức rộng tài cao, lòng say với mục đích hội chủ
nghĩa, am hiểu nhiều chuyên ngành, chú trọng bồi dưỡng, bổ sung cho họ
phần kiến thức bị thiếu hụt yếu kém để đưa vào các quan tham mưu
hoạch định đường lối chính trị của Đảng và luật pháp của nhà nước với sự qui
định rõ ràng trong hệ thống trách nhiệm quyền hạn và ưu đãi.
9
Sắp xếp những quan quản khoa học-công nghệ giáo dục-đào tạo
trở thành một mạng lưới sự liên hệ chặt chẽ với nhau theo chuyên ngành
để đảm bảo môi trường tốt nhất cho hội nhập quốc tế áp dụng kết quả
nghiên cứu vào thực tĩên. Sắp xếp giữa quan quản chuyên ngành với
giáo dục đại học liên kết các đại học vào những tổ chức, doanh nghiệp.
Các cơ quan giáo dục và học viện được cấp kinh phí, chỉ tiêu nghiên cứu theo
chiến lược, quy hoạch ngân sách căn cứ trên việc xác định trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan.
Mỗi năm theo chu kỳ có một vài lần gặp gỡ trao đổi gồm nhiều lãnh đạo có
uy tín cùng đại diện nhà khoa học đầu ngành của từng bộ giáo dục - đào tạo
và tổ chức khoa học lớn của quốc gia, liên hiệp các hội khoa học Việt Nam. ..
với sự dẫn dắt của đồng trí chủ tịch hoặc sự góp mặt của các uỷ viên Hội
đồng giáo dục - đào tạo khoa học - công nghệ quốc gia về những lời
khuyên, đề xuất của đa số các nhà khoa học với Chính phủ và nhà nước nhằm
hướng đến giáo dục - nghề nghiệp. Lĩnh vực khoa học - công nghệ, cách thức
chọn lựa và triển khai chương trình đề tài, tiến cử nhiều nhà khoa học xuất sắc
về soạn sách, giảng viên hoặc phó chủ nhiệm chương trình, đề tài và thành lập
một số hội đồng đánh giá, góp ý cho từng chương trình, đề tài khcn cấp Nhà
nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam hỗ trợ Việt Nam trên ba phương diện.
Đầu tiên, giáo dục công chúng về khoa học công nghệ. Tiếp theo, khuyến
khích các thành viên phát triển hơn nữa các lĩnh vực này thông qua hợp tác.
Cuối cùng, hoạt động hướng tới nâng cao năng lực công nghệ của Việt Nam
bằng cách xây dựng sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, học viện và doanh
nghiệp tư nhân.
II.2.3. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục
Con người hiểu được môi trường xung quanh nhờ những tri thức, kiến thức
họ có được. Những tri thức này cũng được dùng để nâng cao hiểu biết
thể hiện bản thân. Vai trò của tri thức trong việc đáp ứng những yêu cầu của
xã hội, góp phần trong việc thể hiện khả thân bản thânhội không ngừng
phát triển lớn mạnh.
Người tri thức biết sống theo chuẩn mực đạo đức, biết giữ gìn phát
huy tinh hoa văn hóa của tổ tiên để lại. Tri thức này được hình thành trên
sở lĩnh hội tri thức, kĩ năng. Khi một xã hội thiếu những con người am hiểu tri
thức, văn hóa hay sự công nhận thì hội đó bị coi lạc hậu không thể
10
phát triển. Điều này cũng áp dụng cho những xã hội không có ai biết sử dụng
sách hay sống.
Hội nhập quốc tế, ba vai trò cuối cùng của tri thức trong hội: giao lưu
văn hóa, hội nhập quốc tế học tập suốt đời từ các quốc gia. Tri thức mang
lại một hội hội nhập toàn cầu hơn, hiểu biết đa văn hóa truyền thống
tích cực từ các quốc gia khác, con người một phần thiết yếu trong nỗ
lực tổng thể tốt hơn cho sự phát triển của đất nước họ.
KẾT LUẬN
11
Cả nhân loại đang hướng về sự ra đời của nền kinh tế tri thức chứ không
phải là công nghiệp. Ở đó, trí tuệ là chủ thể chính và là phần cấu thành cơ bản
khả năng quyết định sản xuất. ây nhân tố quan trọng thúc đấy sự phát
triển kinh tế. Lao động tri thức đóng vai trò cao trong quá trình phát triển. Với
sản xuất dựa trên các tiến bộ kỹ thuật công nghệ. Nền kinh tế tri thức được
hiểu nền kinh tế toàn cầu, sẽ được xây dựng mở rộng nếu người
lao động trình độ học vấn cao, tay nghề cao, năng suất lao động mang
tính chất cạnh tranh cấu tổ chức sự liên kết của những tập đoàn đa
quốc gia. Việt Nam phải sớm theo kịp với xu hướng phát triển của nhân loại
và thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đi đôi với xây dựng nền
kinh tế thị trường. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ để tăng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nhằm tạo sức cạnh tranh cho nền sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
12
1. Trần Hồng Lưu (2007), Bàn thêm về cấu trúc của tri thức khoa học,
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ban_them_ve_cau_truc_cua_tri_thuc_khoa_hoc-
5.html, phát hành ngày 08/05/2007.
2. Lao động Đồng Nai (2021), Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là gì?
https://laodongdongnai.vn/vai-tro-cua-chu-nghia-duy-tam-trong-doi-song-
1647617545, phát hành ngày 20/10/2021.
3. PGS, TS Văn Phúc (2020), Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
nền kinh tế tri thức, Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại nền kinh tế tri
thức - Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn), phát hành ngày 30/10/2020.
4. Đại học Kinh doanh & Công nghệ Nội (2022), Cổng thông tin điện tử
Đại học Kinh doanh & Công nghệNội, https://hubm.edu.vn/tri-thuc-la-gi-
vai-tro-cua-tri-thuc-trong-doi-song-xa-hoi, , phát hành ngày 22/09/2022.
5. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin
13
| 1/13

Preview text:

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................4
I. Vai trò của tri thức đối với ý thức..........................................................4
I.1. Tổng quan về ý thức .........................................................................4 I .1
.1. Khái niệm của ý thức
...................................................................4
I.1.2. Nguồn gốc của ý thức...................................................................5
I.2. Tổng quan về tri thức .......................................................................7
I.2.1. Khái niệm của tri thức.................................................................7
I.2.2. Vai trò chung của tri thức ...........................................................8
I.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức .....................................................8
II. 2. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người ở Việt Nam....5
II.2.1. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực kinh tế ...................................
II.2.2. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực chính trị ................................
II.2.3. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục ...............
KẾT LUẬN .....................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. MỞ ĐẦU
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được các trường phái triết học
quan tâm nghiên cứu, được xác định bởi các mối quan hệ vật chất và được
hiểu theo khoa học tự nhiên. Học thuyết cho rằng các mối liên hệ vật chất làm
cơ sở cho hai trường phái triết học: chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật.
Mỗi trường phái đều nhấn mạnh mối quan hệ cụ thể giữa thức và chất. Ý thức
có ảnh hưởng bản chất đến hoạt động của con người; nó ảnh hưởng đến cả
công việc hàng ngày và các dự án lớn hơn. Động lực này là thực tế hơn là lý
thuyết. Tác động của khoa học đối với sự phát triển của xã hội, tự nhiên và ý
thức của chúng ta là yếu tố quyết định chính đến sự thành bại của một thực
tiễn. Nghiên cứu văn hóa và hệ tư tưởng cũng quan trọng để phát triển hệ tư
tưởng và văn hóa giúp tinh chỉnh ảnh hưởng của ý thức đối với những gì chúng ta phát triển.
Nhân loại đã trải qua hai nền văn minh, và ngày nay chúng ta đang đứng
trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba - nền văn minh tri thức. Trong nền
văn minh này, phần quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức - được cho là nền
tảng của thời đại thông tin. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm lực
kinh tế và công nghệ yếu, liệu nước ta có thể đạt được những thành tựu đổi
mới khoa học và công nghệ đạt trình độ quốc tế trong thời gian ngắn hay
không? Điều này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi, đó là việc lựa chọn bước đi
và ưu tiên phát triển công nghệ so với phát triển kinh tế trong tương lai. Có
nghĩa là chúng ta cần phải có kiến thức, bởi vì kiến thức là khoa học. Vì vậy,
phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu, nước ta đang trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đặt mình trên tri thức, phát triển tri thức, đưa
nền kinh tế lên một tầm cao mới.
Để giúp ích cho chiến lược phát triển kinh tế và tiến nhanh trên con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần tìm hiểu kiến thức và tìm hướng
đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức, phù hợp với điều kiện đất nước, phù hợp
với điều kiện đất nước, phù hợp với tổng thể mối quan hệ khu vực với thế giới
và thời đại, trong quá trình phát triển không ngừng của nền kinh tế tri thức,
tiếp tục tiến lên trong quá trình đó. Vì vậy em quyết định chọn đề tài này làm
đề tài nghiên cứu của mình. 2 NỘI DUNG
I. Vai trò của tri thức đối với ý thức I. 1.
Tổng quan về ý thức I. 1.1.
Khái niệm của ý thức
Để định nghĩa về ý thức, loài người đã phải trải qua một giai đoạn lịch sử
lâu dài, từ những định nghĩa thô thiển, sai lệch đến những định nghĩa khoa học.
Con người thời cổ xưa rất mơ hồ về cấu tạo của bản thân, và chưa lý giải
được các sự vật, hiện tượng xung quanh. Do chưa thể giải thích giấc mơ là gì,
họ tin rằng có một linh hồn sống trong cơ thể và có thể rời khỏi cơ thể, linh
hồn này điều khiển không chỉ suy nghĩ và cảm xúc mà còn cả hoạt động của
con người. Cơ thể trở thành một xác chết khi linh hồn rời khỏi cơ thể.
Tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đã phát triển khái niệm sơ khai về linh hồn
thành một khái niệm về vai trò sáng tạo của linh hồn trong thế giới. Khái
niệm linh hồn, linh hồn bất tử không chỉ phổ biến ở con người mà còn phổ
biến ở các sự vật, hiện tượng, trong thế giới cõi người và cõi thần linh, quan
niệm về ý thức tuyệt đối, về lý tính thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan đồng nhất ý thức với cảm giác, và cho rằng
tình cảm của con người chi phối thế giới. Vì vậy, cả tôn giáo và chủ nghĩa duy
tâm đều tin rằng ý thức tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài và là tính thứ
nhất tạo ra thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại cho rằng linh hồn không thể tách rời khỏi thể xác
và nó sẽ chết cùng với thể xác. Với sự phát triển của khoa học tự nhiên, người
ta đã chứng minh được sự phụ thuộc của các hiện tượng tinh thần, ý thức vào
bộ não con người, thì một số nhà duy vật theo chủ nghĩa duy vật cho rằng não
tiết ra ý thức một cách trực tiếp, giống như gan tiết ra mật.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII và XVIII cho rằng ý thức bao gồm tâm lý,
trí tuệ cảm xúc, tri thức trí tuệ và sự tự nhận thức, đồng thời định nghĩa ý thức
là sự phản ánh thế giới khách quan.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là thuộc tính, sản phẩm
của vật chất, ý thức là sự phản ánh khách quan của bộ óc con người thông qua
lao động và ngôn ngữ. Theo triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin, “ý thức là sự 3
phản ánh sáng tạo thế giới khách quan thông qua chức năng của ngôn ngữ
trong bộ não con người”. Trong trường hợp này, C. Mác nhấn mạnh: “Tinh
thần, ý thức chẳng qua nó chỉ là cái vật chất di chuyển vào bộ óc con người và
được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có cấu trúc phức tạp, bao gồm tự ý
thức, tri thức, tình cảm và ý chí, là những bộ phận cấu thành quan trọng của ý
thức. Trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật đề cập đến việc xem cá nhân như một thực thể riêng
biệt, một biểu hiện của cá nhân, một cái "tôi" tự định hướng, tự duy trì, tách
rời khỏi các mối quan hệ xã hội. Ngược lại, duy vật biện chứng tự ý thức là tự
ý thức trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Bằng cách suy nghĩ về thế
giới khách quan, con người có thể tách mình ra, đối lập với thế giới này và
nhận thức mình là những sinh vật tích cực với những cảm xúc, suy nghĩ,
những khuôn mẫu hành vi đạo đức và luân lý. Vị trí trong xã hội, nhất là trong
giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn, đòi hỏi con người phải tự giác, phải
thích nghi với những chuẩn mực, quy tắc do xã hội đặt ra. Mọi người có thể
tự hỏi và trả lời các câu hỏi: Tôi là ai? Tôi nên làm gì? Tôi có thể làm gì? Làm như thế nào?
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã từng có nhưng đã gần như trở
thành bản năng và kỹ năng trong tâm trí sâu thẳm. trong ý thức của chủ thể.
Tình cảm là cảm xúc của một người đối với chính mình trước thế giới xung
quanh. Cảm giác yêu và ghét đối với một cái gì đó, ai đó hoặc sự vật hoặc hiện tượng xung quanh.
Sự hình thành và phát triển của ý gắn liền với quá trình con người tìm hiểu
và cải tạo thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý
thức càng cao, càng hiểu sâu sắc bản chất của sự vật thì cải tạo thế giới càng
hiệu quả. Tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng lên.
Tóm lại, ý thức là sự liên hệ tác động qua lại của những yếu tố tri thức và
những yếu tố tình cảm. Nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức.
I.1.2. Nguồn gốc của ý thức
Khi lý giải nguồn gốc sinh ra của ý thức, những nhà triết học duy tâm cho
rằng, ý thức là nguyên thể tiên phong, sống sót vĩnh viễn, là nguyên do sinh
thành, chi phối sự sống sót, biến hóa của hàng loạt quốc tế vật chất. Chủ
nghĩa duy tâm khách quan mà đại diện là những đại biểu tiêu biểu như Platon 4
và Hegel đã tuyệt đối hóa vai trò của lý tính, đồng thời chứng minh và khẳng
định trên phạm vi quốc tế rằng ý niệm hay ý niệm tuyệt đối là bản chất, là sự
sống, là linh hồn. Một loạt các thực tế quốc tế. Ý thức của con người chỉ là ký
ức của những ý niệm, hay sự tự ý thức về những ý niệm tuyệt đối. Chủ nghĩa
duy tâm chủ quan với những đại biểu như G. Becclesi, E. Mach,... lại tuyệt
đối hóa vai trò của tình cảm, cho rằng tình cảm là kẻ duy nhất còn tồn tại và
sáng tạo ra thế giới vật chất một cách tiên nghiệm. Ý thức của con người nảy
sinh từ tình cảm, nhưng theo quan niệm của họ, tình cảm không phải là sự
phản ánh khách quan của môi trường mà chỉ là cái vốn có của mỗi cá thể tồn
tại, khác với môi trường. Đó là những ý kiến hết sức phiến diện, rất tiếc là sai
lầm, mang tính duy tâm, cơ sở lý luận của tôn giáo.
Trái ngược với tư tưởng duy tâm, những người theo chủ nghĩa duy vật siêu
hình phủ nhận ý thức, tính chất siêu nhiên của ý thức. Họ giải thích nguồn gốc
của ý thức về mặt thực tế quốc tế. Tuy nhiên, do trình độ phát triển khoa học
của thời đại còn hạn chế, bị phương pháp siêu hình chi phối nên quan niệm về
ý thức vẫn còn nhiều sai sót đáng tiếc.
Các nhà duy vật siêu hình đều nhận thức như nhau về vật chất. Họ cho rằng
ý thức chỉ là một dạng vật chất đặc biệt quan trọng, do vật chất sinh ra. Ví dụ,
từ thời cổ đại, Democritus đã tin rằng ý thức được tạo thành từ các nguyên tử
(hình cầu, ánh sáng, chuyển động) liên kết với nhau có tầm quan trọng đặc
biệt. Các nhà duy vật tầm thường thế kỷ XVIII (Pogte, Moléts, Buykhone)
cho rằng: não tiết ra ý thức như gan tiết ra mật. Một số nhà duy vật khác
thuộc trường phái vật linh (Robine, Hekken, Didero) coi ý thức là thuộc tính
phổ biến của mọi dạng vật chất từ vô tri đến hữu sinh, nhưng cao nhất là con
người. Phải chăng sự khác biệt giữa giống và loài chỉ nằm ở biểu hiện bên
ngoài của Lever trong ngôn ngữ. Nhà triết học người Pháp Diderot tin rằng:
“Cảm giác là đặc tính chung của vật chất hoặc là sản phẩm của sự tổ chức
đang diễn ra của vật chất”.
Những sai lầm và hạn chế đáng tiếc của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
duy vật siêu hình trong quan niệm về ý thức đã bị giai cấp thống trị bóc lột lợi
dụng triệt để làm cơ sở lý luận và công cụ để nô dịch quần chúng lao động vào niềm tin của họ.
Quan điểm duy vật biện chứng bề nguồn gốc của ý thức đã phê phán quan
điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình. Dựa vào thành tựu
của khao học tự nhiên, Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: ý thức
xuất hiện từ hai nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Nguồn 5
gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người
và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo
ra quá trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Ý thức là một thuộc tính của bộ não con người; nó là kết quả của hoạt
động sinh lý thần kinh của não bộ. Một loại vật chất có tổ chức cao hơn so với
photon, bộ não con người sở hữu ý thức. Khả năng sinh lý thần kinh của bộ
não càng cao cấp thì ý thức của nó càng lớn. Vì điều này, tiến trình tiến hóa
đòi hỏi phải phát triển khả năng tinh thần và khả năng tư duy. Điều này giải
thích tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh
của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. Hai yếu tố này
không chỉ là nguồn gốc của ý thức, mà còn là tiền đề của ý thức. Lao động là
quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm biến
đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình chính
con người đóng vai trò trung gian, điều tiết quá trình trao đổi vật chất giữa
con người với giới tự nhiên. Đây cũng là quá trình thay đổi cấu trúc cơ thể,
tạo dáng đi thẳng, hai tay thả lỏng, phát triển các cơ quan, não bộ của con
người. Con người tác động lên thế giới khách quan trong quá trình lao động,
nhờ đó thế giới khách quan bộc lộ bản chất, cấu tạo và các quy luật vận động
của nó, được biểu hiện thành một số hiện tượng quan sát được mà con người
nắm bắt được. Các hiện tượng đó thông qua hoạt động của các giác quan tác
động vào bộ não con người, đồng thời thông qua hoạt động của bộ não con
người tạo ra khả năng hình thành tri thức cụ thể và ý thức chung.
Như vậy, lao động là nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra
đời và phát triển của ý thức. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn
ngữ; đó là hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển
hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
I.2. Tổng quan về tri thức
I.2.1. Khái niệm của tri thức
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư
duy thì lúc đó có tri thức. Từ thời xa xưa, tri thức là người nuôi dưỡng, bảo
vệ, truyền bá những giá trị truyền thống cũng như nét đẹp văn hóa mà cha ông
ta để lại, sau lớn dần nó hình thành tri thức chuyên môn, khả năng sẵn có của
chính mình. Có rất nhiều định nghĩ khác nhau về tri thức, ở các lĩnh vực hay
hoàn cảnh khác nhau, người ta đánh giá về khái niệm tri thức là gì? 6
Tri thức có thể được định nghĩa theo nhiều cách, nhưng có thể hiểu “Tri
thức là sự hiểu biết, tính sáng tạo và những kỹ năng, năng lực vận dụng nó (sự
hiểu biết sáng tạo) để tạo ra cái mới phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tri thức bao gồm tất cả những tri thức . liên quan đến phát triển kinh tế và
xã hội. số liệu, hình vẽ, hình ảnh (sáng tạo), kỹ năng, kỹ năng khái niệm, giá
trị và các sản phẩm mang tính biểu tượng khác của xã hội. Tri thức đóng một
vai trò rất quan trọng trong cuộc sống - trong xã hội.
Nền kinh tế toàn cầu đang bước vào một kỷ nguyên mới, một tầm cao mới.
Nó ở mức độ mà "các yếu tố quan trọng nhất là thu nhận và phân phối các
nguồn tài nguyên trí tuệ và tạo ra, phân phối và sử dụng kiến thức trong các
ngành công nghệ cao." Tiêu chí chính của nó là tri thức và tinh thần được coi
là nhân tố quan trọng của sự phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp như nhân tố
lao động và tài nguyên. Đó là thời đại mà “tri thức trở thành động lực chủ yếu
của sự phát triển xã hội”, “tri thức là nguồn lực và vốn liếng”, tri thức là tâm
điểm của cạnh tranh và là động lực của phát triển kinh tế. Tăng trưởng trong
dài hạn sẽ dẫn đến những thay đổi lớn về tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường
và lựa chọn nghề nghiệp...
I.2.2. Vai trò chung của tri thức
Trong bất kỳ thời đại nào, tri thức luôn là nền tảng của tiến bộ xã hội và đội
ngũ tri thức là lực lượng trung tâm sáng tạo và phổ biến tri thức. Ngày nay,
với sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, đội ngũ tri thức đã trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo thế
mạnh cho mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển.
I.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức
Khi xem xét ý thức và các yếu tố cấu thành của nó là quá trình tâm lý tích
cực giúp con người nhận thức được thế giới khách quan, chúng ta có: tri thức,
tình cảm, niềm tin, ý chí... Trong đó, tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất.
Nếu muốn cải thiện điều gì đó, trước tiên con người phải hiểu sâu sắc về điều
đó. Vì vậy, nội dung và phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức.
Nếu không dựa trên tri thức thì ý thức chỉ là cái trừu tượng rỗng tuếch, không
giúp ích gì cho hoạt động thực tiễn của con người. Theo Marx, " phương thức
mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại với ý thức là tri thức…,
cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào ý thức biết cái
đó”. Có nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau như: tri thức về tự nhiên, xã hội,
con người và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý 7
tính; tri thức thực nghiệm và tri thức lý luận; tri thức tiền khoa học và tri thức
khoa học, vân vân. Tích cực nghiên cứu, tích lũy tri thức về thế giới xung
quanh là yêu cầu thường xuyên của con người trên con đường cải tạo thế giới.
Tuy nhiên, ý thức không thể được đánh đồng với sự hiểu biết và kiến thức về sự vật.
II. 2. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người ở Việt Nam
Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của đời sống, sự ra đời của tri thức
thường gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó, không thể
tách tri thức ra khỏi đời sống.
II.2.1. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực kinh tế
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà nội dung chủ yếu của nó là sản xuất
và quản lý tri thức. Tương lai của bất kỳ doanh nghiệp nào không chỉ phụ
thuộc vào việc sử dụng vốn, nguyên vật liệu, nhân lực, máy móc..., mà còn
phụ thuộc vào quá trình chế biến và sản xuất. Sử dụng thông tin nội bộ và
thông tin từ môi trường kinh doanh. Cách tốt nhất để tăng năng suất là đạt
được chuyên môn. Kiến thức được một công ty thu thập để sử dụng cho mục
đích thương mại và cần được phát triển liên tục.
Giá trị của những công ty công nghệ cao hay các công ty về máy tính như
các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong khối tài sản vật chất hữu
hình, mà còn nằm trong cả tài sản tinh thần, gồm tri thức cùng các phát minh.
Muốn thành một công ty được dẫn dắt từ tri thức, lãnh đạo công ty phải biết
nhìn rõ các biến đổi của tỉ lệ vốn trí tuệ trong tổng giá trị tài sản. Vốn trí tuệ
của công ty gồm tri thức, kinh nghiệm và phương pháp đội ngũ quản lý người
lao động cũng như năng lực của công ty trong quá trình cải tiến phương pháp
sẽ là một nguồn lợi thế cạnh tranh. Vẫn có một số dấu hiệu đáng tin
cậy nói rõ phần giá trị ảo của nhiều công ty thương mại và dịch vụ đã
vượt qua phần giá trị thực của tất cả tài sản vật của nhóm công ty trên, bao
gồm những khu nhà lớn hoặc máy móc. Chẳng hạn như vậy số tài
sản thực của công ty Microsoft chỉ đóng góp một phần tương đối khiêm
tốn trong tổng giá trị đã vốn hoá trên thị tường của công ty họ. Phần lớn là
vốn chất xám. Tập đoàn hai mươi năm phát triển, tổng số nhân viên công ty
tăng 6 nghìn lần, doanh thu gấp 370 nghìn lần và 1/10 các giám đốc trở nên tỷ
phú. Dòng vốn này là một phần giá trị chính đối với một công ty nhờ vào trí tuệ. 8
Vốn tri thức là tri thức chủ yếu áp dụng trong thực tiễn sản xuất nông
nghiệp vì mục đích làm ra hàng hoá (giá trị vật chất) . Vốn tri thức là yếu
tố lớn nhất thuộc hàm kinh tế. Đối với nền văn minh nông nghiệp, sức lao
động, đất đai làm vốn là yếu tố đầu vào chính của vốn từ đất đai còn cuối
cùng là sức lao động trở nên hàng hoá là yếu tố quyết định sự tăng
trưởng ngành nông nghiệp và đời sống kinh tế - xã hội đã tham
gia chuyển chế độ quân chủ. sang xã hội tư bản trong lịch sử. Trong nền kinh
tế tri thức, các yếu tố phát triển kinh tế - xã hội không thể gồm tiền tệ, đất
đai cùng vốn dựa trên lao động giản đơn mà chỉ dựa trên lao động trí
óc cộng với tri thức, để vốn chất xám trở nên nhân tố quan trọng của hàm sản
xuất thay vì nhân tố lao động hay vốn tiền tệ và đất đai.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức có ý nghĩa định đoạt việc thành công
hoặc thất bại của doanh nghiệp. Vốn tri thức ở đây gồm cả lao động tri thức
của những người có trình độ cao và nhiều kỹ thuật mới. Vốn tri thức có ý
nghĩa quan trọng đến sự thu nhỏ cách biệt phát triển của các nước đang phát
triển đối với những nước tiên tiến. Việc hình thành kinh tế tri thức vừa là thời
cơ cũng là thử thách với nhiều nước nghèo và đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Các quốc gia nghèo và đang phát triển cần nhanh chóng tiếp cận
với kinh tế tri thức, qua hiện đại hoá các lĩnh vực sản xuất, thương mại, tài
chính, đồng thời phải có những công nghệ cao nhằm nhanh chóng giúp cho
gdp đất nước theo kịp các nước khác.
II.2.2. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực chính trị
Chính trị mang tới cho con người nhiều điều thông thái và hiểu biết. Con
người có tri thức là biết giải quyết sự việc một cách gần thật và chính xác.
Điều này vô cùng quan trọng và một quốc gia cũng cần có con người như thế
phục trong vận hành công tác lãnh đạo. Sẽ quyết định đến tương lai của một
đất nước. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng kiến một bước
chuyển quan trọng trong tư duy về nguồn lực con ngươì. Đại hội khẳng định:
"Phát triển nhân tố con người và đặt sự chăm sóc con người làm mục tiêu cao
nhất của các hoạt đông" chiến lược về con người đang là vấn đề cấp thiết.
Cũng phải có các biện pháp trong việc quản lý con người và hệ thống tổ chức:
Chọn những người đức rộng tài cao, lòng say mê với mục đích xã hội chủ
nghĩa, am hiểu nhiều chuyên ngành, chú trọng bồi dưỡng, bổ sung cho họ
phần kiến thức bị thiếu hụt và yếu kém để đưa vào các cơ quan tham mưu
hoạch định đường lối chính trị của Đảng và luật pháp của nhà nước với sự qui
định rõ ràng trong hệ thống trách nhiệm quyền hạn và ưu đãi. 9
Sắp xếp những cơ quan quản lý khoa học-công nghệ và giáo dục-đào tạo
trở thành một mạng lưới có sự liên hệ chặt chẽ với nhau theo chuyên ngành
để đảm bảo môi trường tốt nhất cho hội nhập quốc tế và áp dụng kết quả
nghiên cứu vào thực tĩên. Sắp xếp giữa cơ quan quản lý chuyên ngành với
giáo dục đại học và liên kết các đại học vào những tổ chức, doanh nghiệp.
Các cơ quan giáo dục và học viện được cấp kinh phí, chỉ tiêu nghiên cứu theo
chiến lược, quy hoạch và ngân sách căn cứ trên việc xác định rõ trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan.
Mỗi năm theo chu kỳ có một vài lần gặp gỡ trao đổi gồm nhiều lãnh đạo có
uy tín cùng đại diện nhà khoa học đầu ngành của từng bộ giáo dục - đào tạo
và tổ chức khoa học lớn của quốc gia, liên hiệp các hội khoa học Việt Nam. ..
với sự dẫn dắt của đồng trí chủ tịch hoặc sự góp mặt của các uỷ viên Hội
đồng giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ quốc gia về những lời
khuyên, đề xuất của đa số các nhà khoa học với Chính phủ và nhà nước nhằm
hướng đến giáo dục - nghề nghiệp. Lĩnh vực khoa học - công nghệ, cách thức
chọn lựa và triển khai chương trình đề tài, tiến cử nhiều nhà khoa học xuất sắc
về soạn sách, giảng viên hoặc phó chủ nhiệm chương trình, đề tài và thành lập
một số hội đồng đánh giá, góp ý cho từng chương trình, đề tài khcn cấp Nhà nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam hỗ trợ Việt Nam trên ba phương diện.
Đầu tiên, giáo dục công chúng về khoa học và công nghệ. Tiếp theo, khuyến
khích các thành viên phát triển hơn nữa các lĩnh vực này thông qua hợp tác.
Cuối cùng, hoạt động hướng tới nâng cao năng lực công nghệ của Việt Nam
bằng cách xây dựng sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, học viện và doanh nghiệp tư nhân.
II.2.3. Vai trò của tri thức trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục
Con người hiểu được môi trường xung quanh nhờ những tri thức, kiến thức
mà họ có được. Những tri thức này cũng được dùng để nâng cao hiểu biết và
thể hiện bản thân. Vai trò của tri thức trong việc đáp ứng những yêu cầu của
xã hội, góp phần trong việc thể hiện khả thân bản thân ở xã hội không ngừng phát triển lớn mạnh.
Người có tri thức biết sống theo chuẩn mực đạo đức, biết giữ gìn và phát
huy tinh hoa văn hóa của tổ tiên để lại. Tri thức này được hình thành trên cơ
sở lĩnh hội tri thức, kĩ năng. Khi một xã hội thiếu những con người am hiểu tri
thức, văn hóa hay sự công nhận thì xã hội đó bị coi là lạc hậu và không thể 10
phát triển. Điều này cũng áp dụng cho những xã hội không có ai biết sử dụng sách hay sống.
Hội nhập quốc tế, ba vai trò cuối cùng của tri thức trong xã hội: giao lưu
văn hóa, hội nhập quốc tế và học tập suốt đời từ các quốc gia. Tri thức mang
lại một xã hội hội nhập toàn cầu hơn, hiểu biết đa văn hóa và truyền thống
tích cực từ các quốc gia khác, mà con người là một phần thiết yếu trong nỗ
lực tổng thể tốt hơn cho sự phát triển của đất nước họ. KẾT LUẬN 11
Cả nhân loại đang hướng về sự ra đời của nền kinh tế tri thức chứ không
phải là công nghiệp. Ở đó, trí tuệ là chủ thể chính và là phần cấu thành cơ bản
có khả năng quyết định sản xuất. ây là nhân tố quan trọng thúc đấy sự phát
triển kinh tế. Lao động tri thức đóng vai trò cao trong quá trình phát triển. Với
sản xuất dựa trên các tiến bộ kỹ thuật công nghệ. Nền kinh tế tri thức được
hiểu là nền kinh tế toàn cầu, và nó sẽ được xây dựng và mở rộng nếu người
lao động có trình độ học vấn cao, có tay nghề cao, năng suất lao động mang
tính chất cạnh tranh và cơ cấu tổ chức có sự liên kết của những tập đoàn đa
quốc gia. Việt Nam phải sớm theo kịp với xu hướng phát triển của nhân loại
và thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đi đôi với xây dựng nền
kinh tế thị trường. Ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật – công nghệ để tăng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nhằm tạo sức cạnh tranh cho nền sản xuất. TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
1. Trần Hồng Lưu (2007), Bàn thêm về cấu trúc của tri thức khoa học,
ht ps://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ban_them_ve_cau_truc_cua_tri_thuc_khoa_hoc-
5.html, phát hành ngày 08/05/2007.
2. Lao động Đồng Nai (2021), Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là gì?
https://laodongdongnai.vn/vai-tro-cua-chu-nghia-duy-tam-trong-doi-song-
1647617545, phát hành ngày 20/10/2021.
3. PGS, TS Vũ Văn Phúc (2020), Cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại
và nền kinh tế tri thức, Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và nền kinh tế tri
thức - Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn), phát hành ngày 30/10/2020.
4. Đại học Kinh doanh & Công nghệ Hà Nội (2022), Cổng thông tin điện tử
Đại học Kinh doanh & Công nghệ Hà Nội, https://hubm.edu.vn/tri-thuc-la-gi-
vai-tro-cua-tri-thuc-trong-doi-song-xa-hoi, , phát hành ngày 22/09/2022.
5. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin 13