





















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP L N MÔN Ớ THMLN
ĐỀ BÀI: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC VỚI Ý THỨC. Ở VIỆT
NAM, TRI THỨC CÓ VAI TRÒ GÌ TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA CON NGƯỜI. Họ và tên SV: Lớp tín chỉ: Mã SV:
GVHD: TS NGUYỄN VĂN HẬU . HÀ NỘI, NĂM 2021 1 Mục lục 2 LỜI MỞ ĐẦU
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản được các trường phái triết học quan
tâm nghiên cứu, nhưng tùy theo cách lí giải khác nhau mà có những quan niệm khác
biệt, là cơ sở để hình thành các trường phái triết học khác nhau với hai đường lối cơ
bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đứng vững trên lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên
và bám sát thực tiễn xã hội, triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề ý
thức, mối quan hệ vật chất và ý thức. Tác động của ý thức với hoạt động của con
người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà
con là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cực
hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc
vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hoá và tư
tưỏng. Trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực
kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại
diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt đựoc những thành công mong muốn trong
việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn
hay không? Chúng ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong
khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn
bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển
kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là
khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người..
Từ đây ta có thể thấy rắng ý thức và tri thức có vai trò vô cùng quan trọng trong
đời sống. Phải có tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp đúng đắn tạo
điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội. Vì vậy ở bài tiểu luận này em chọn đề tài:
" Vai trò của tri thức đối với ý thức. Ở Việt Nam, tri thức có vai trò gì trong hoạt động của con người "
Ngoài ra, em cũng muốn gửi lời cảm ơn tới thầy Nguyễn Văn Hậu, giáo viên
hướng dẫn của chúng em. Nhờ có sự tận tâm cùng những lời giảng quý giá của thầy,
em đã được mở mang về tầm quan trọng của triết học trong cuộc sống, dần dần có
được niềm yêu thích với bộ môn khoa học này.Trong quá trình làm tiểu luận, mặc dù
đã cố gắng hết khả năng nhưng do trình độ còn hạn chế nên vẫn không khó tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của thầy để 3
giúp cho bài tiểu luận củaem được đầu đủ, hoàn thiện hơn và bản thân em cũng có thể
củng cố thêm vốn hiểu biết của mình. Em xin trân trọng cảm ơn 4
CHƯƠNG I. LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Quan niệm của triết học Mác- Lênin về ý thức.
1.1.1. Khái niệm về ý thức
Để đưa ra được định nghĩa về ý thức, con người đã trải qua một thời kỳ lịch
sử lâu dài, qua những tư tưởng từ thô sơ, sai lệch cho tới những định nghĩa có tính khoa học.
Thời cổ xưa, con người rất mơ hồ về cấu tạo của bản thân vì chưa lý giải được
các sự vật hiện tượng xung quanh mình. Do chưa giải thích được giấc mơ là gì họ đã
cho rằng: có một linh hồn nào đó cư trú trong cơ thể và có thể rời bỏ cơ thể, linh hồn
này không những điều khiển suy nghĩ tình cảm của con người mà còn điều khiển toàn
bộ hoạt động của con người. Nếu linh hồn rời bỏ cơ thể thì cơ thể sẽ trở thành cơ thể chết.
Tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đã phát triển quan niệm linh hồn của con người
nguyên thủy thành quan niệm về vai trò sáng tạo của linh hồn đối với thế giới, quan
niệm về hồi tưởng của linh hồn bất tử và quan niệm về một linh hồn phổ biến không
chỉ ở trong con người mà cả trong các sự vật, hiện tượng, trong thế giới cõi người và
cõi thần, quan niệm về ý thức tuyệt đối, về lý tính thế giới.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì đồng nhất ý thức với cảm gíac và cho rằng cảm
giác của con người chi phối thế giới...Như vậy, cả tôn giáo lẫn chủ nghĩa duy tâm đều
cho rằng ý thức tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài và là tính thứ nhất, sáng tạo ra thế giới vật chất ..
Chủ nghĩa duy vật cổ đại thì cho rằng linh hồn không thể tách rời cơ thể và
cũng chết theo cơ thể, linh hồn do những hạt vật chất nhỏ tạo thành.
Khi khoa học tự nhiên phát triển, con người đã chứng minh được sự phụ thuộc
của các hiện tượng tinh thần, ý thức vào bộ óc con người thì một bộ phận nhà duy vật
theo chủ nghĩa duy vật máy móc cho rằng óc trực tiếp tiết ra ý thức như gan tiết ra mật.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII quan niệm ý thức bao gồm cả tâm lý, tình
cảm tri thức trí tuệ, tự ý thức và định nghĩa ý thức là sự phản ánh của thế giới khách
quan. Định nghĩa này chưa chỉ rõ được vai trò của xã hội, của ý thức. 5
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là đặc tính và sản phẩm của
vật chất, ý thức là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động và
ngôn ngữ. Theo triết học Mac-Lênin "ý thức là sự phản ánh sáng tạo của thế giới
khách quan vào bộ não của người thông qua lao động ngôn ngữ''
Nói vấn đề này Mác nhấn mạnh: tinh thần, ý thức chẳng qua nó chỉ là cái vật
chất di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi trong đó.
ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức,
tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri tức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức.
Tự ý thức là một yếu tố quan trọng của ý thức. Chủ nghĩa duy vật coi tự ý thức
là một thực thể độc lập, tự nó có sẵn trong các cá nhân, biểu hiện hướng về bản thân
mình, tự khẳng định "cái tôi" riêng biệt tách rời những quan hệ xã hội. Trái lại chủ
nghĩa duy vật biện chứng tự ý thức là ý thức hướng về bản thân mình thông qua
quan hệ với thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan, con người tự
phân biệt được mình, đối lập mình với thế giới đó và tự nhận thức mình như là một
thực thể hoạt động có cảm giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã
hội, đặc biệt trong giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn đòi hỏi con người phải nhận
thức rõ bản thân mình, tự điều chỉnh mình tuân theo các tiêu chuẩn, quy tắc mà xã hội
đặt ra. Con người có thể đặt ra và trả lời các câu hỏi: Mình là ai? Mình phải làm gì?
Mình được làm gì? Làm như thế nào? Ngoài ra văn hóa cũng đóng vai trò là "gương
soi" giúp con người tự ý thức được bản thân.
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể có từ trước nhưng gần như đã trở thành
bản năng, kỹ năng nằm sâu trong ý thức của chủ thể.
Tình cảm là những xúc động của con người trước thế giới xung quanh
đối với bản thân mình. Cảm gíac yêu ghét một cái gì đó, một người nào đó hay một sự
vật, hiện tượng xung quanh.
Tri thức là hiểu biết, kiến thức của con người về thế giới. Nói đến tri thức là nói
đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát triển
của ý thức có liên quan mật thiết với qúa trình con người nhận biết và cải tạo
thế giới tự nhiên. Con người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý thức thật cao, càng
đi sâu vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu quả hơn. Tính năng động của ý
thức nhờ đó mà tăng lên. Nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của ý 6
thức có nghĩa là chống lại quan điểm giản đơn coi ý thức chỉ là tình cảm, niềm tin và ý
chí. Quan điểm đó là biểu hiện chủ quan, duy ý chí của sự tưởng tượng chủ quan.
Tuy nhiên cũng không thể coi nhẹ nhân tố tình cảm, ý chí. Ngược lại nếu tri thức biến
thành tình cảm, niềm tin, ý chí của con người hoạt đọng thì tự nó không có vai trò gì
đối với đời sống hiện thực.
Tóm lại, ý thức bao gồm những yếu tố tri thức và những yếu tố tình cảm, ý chí
trong sự liên hệ tác đọng qua lại nhưng về căn bản ý thức có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức.
1.1.2. Nguồn gốc của ý thức.
1.1.2.1. Nguồn gốc tự nhiên
Cùng với sự tiến hóa của thế giới, vật chất có tính phân hóa cũng phát triển từ
thấp đến cao. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, ý thức ra đời là kết quả
của sự phát triển lâu dài của thế giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện con người và bộ óc
con người. Khoa học đã chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và trái đất nói
chung đã tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người, rằng hoạt động tâm lý của con
người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của não bộ con người. Bộ não bao
gồm khoảng từ 15- 17 tỉ tế bào thần kinh, các tế bào này nhận vô số các mối quan hệ
thu nhận, xử lý, truyền dẫn và điều khiển toàn bộ các hoạt động của cơ thể trong quan
hệ đối với thế giới bên ngoài qua cơ chế phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện.
Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh được thực hiện bởi sự tác
động qua lại của hệ thống vật chất. Đó là những năng lực tái hiện, ghi lại của hệ thống
vật chất những đặc điểm (dưới dạng đã thay đổi) của hệ thống vật chất khác. Phản ánh
quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Phản ánh cũng là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh được thực hiện bởi sự
tác động qua lại của hệ thống vật chất. Đó là những năng lực tái hiện, ghi lại của hệ
thống vật chất những đặc điểm (dưới dạng đã thay đổi) của hệ thống vật chát khác.
Phản ánh quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ thụ động
đến chủ động, có tổ chức, điều khiển và lựa chọn đối tượng phản ánh.
Trong thế giới vô cơ có hình thức phản ánh cơ học,vật lý, hóa học. Đây là phản
ánh đơn giản, thụ động không lựa chọn. Tất cả những biến đổi cơ lý hóa này tuy do 7
những tác động bên ngoài khác nhau gây ra và phụ thuộc vào các vật phản ánh khác
nhau, nhưng chúng đều là phản ánh của vật chất vô sinh.
Giới hữu sinh có tổ chức cao hơn giới vô sinh. Song bản thân giới hữu sinh lại
tồn tại những trình độ khác nhau tiến hóa từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp nên
hình thức phản ánh sinh vật cũng thể hiện ở trình độ khác nhau tương ứng. Tính kích
thích là hình thức phản ánh đặc trưng cho thế giới thực vật và các động vật bậc thấp
chưa có hệ thần kinh. Tính cảm ứng hay là năng lực có cảm giác là hình thức phản ánh
của các động vật có hệ thần kinh. Nét đặc trưng cho phản ánh này là ngay trong quá
trình hệ thần kinh điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể và môi trường bên ngoài thông
qua phản xạ bẩm sinh hay phản xạ riêng biệt. Do vậy, sinh vật phản ánh có tính lựa
chọn đối với các tính chất riêng biệt của sự vật thành các cảm giác khác nhau rất đa dạng và phong phú.
Phản ánh tâm lý là hình hức phản ánh của các động vật có hệ thần kinh trung
ương. Đây là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới động vật gắn liền với quá trình
hình thành các phản xạ có điều kiện. Phản ánh tâm lý đưa lại cho con vật thông tin
về các thuộc tính, quan hệ của sự vật bên ngoài và về cả ý nghĩ của chúng đối với
đời sống của con vật. Nhờ vậy mà nó có thể lường trước được tất cả những tình huống
có thể xảy ra và chủ động điều chỉnh, lựa chọn đưa ra hành động thích hợp nhất. Phản
ánh có ý thức là sự phản ánh cao nhất của sự phản ánh nó chỉ có khi xuất hiện con
người và xã hội loài người. Sự phản ánh này không thể hiện ở cấp độ cảm tính như
cảm gíac, tri giác, biểu tượng nhờ hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn thể hiện ở cấp độ
lý tính: khái niệm, phán đoán, suy lý nhờ tín hiệu thứ hai (ngôn ngữ). Sự phản ánh của
ý thức là sự phản ánh có mục đích, có kế hoạch, tự giác, chủ động tác động vào sự vật
hiện tượng buộc sự vật bộc lộ ra những đặc điểm của chúng. Sự phản ánh ý thức luôn
gắn liền với làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển xã hội.
1.1.2.1. Nguồn gốc xã hội.
Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người là sự khác biệt về chất so
với động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với
quá trình hình thành và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng của lao động, của
giao tiếp và các quan hệ xã hội. 8
Lao động là hoạt động vật chất có tính chất xã hội nhằm cải tạo tự nhiên,thỏa
mãn nhu cầu phục vụ mục đích cho bản thân con người. Chính nhờ lao động mà con
người và xã hội loài người mới hình thành, phát triển.
Khoa học đã chứng minh rằng tổ tiên của loài người là vượn, người nguyên
thủy sống thành bầy đàn, hình thức lao động ban đầu là hái lượm, săn bắt và ăn thức
ăn sống. Họ chỉ sử dụng các dụng cụ có sẵn trong tự nhiên, vượn người đã sáng tạo ra
các công cụ lao động mới cùng với sự phát triển bàn tay dần dần tiến hóa thành con
người. Lúc này thức ăn có nhiều hơn và quan trọng là tìm ra lửa để sinh hoạt và nướng
chín thức ăn đã làm cho bộ óc đặc biệt phát triển, bán ccầu não phát triển làm
tăng khả năng nhận biết, phản ứng trước các tình huống khách quan. Mặt khác, lao
động là hoạt động có tính toán, có phương pháp mục đích do đó mang tính chủ động.
Thêm vào đó, lao động là sự tác động chủ động của con người vào thế giới
khách quan để phản ánh thế giới đó, lao động buộc thế giới xung quanh phải bộc lộ
các thuộc tính, đặc điểm của nó. từ đó làm cho con người hiểu biết thêm về thế giới
xung quanh, thấy sự vật hiện tượng xung quanh nhiều đặc tính mới mà lâu nay chưa
có. Từ đó sáng tạo ra các sự vật khác chưa từng có trong tự nhiên có thể mang thuộc
tính, đặc điểm của sự vật trước đó, điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một tự nhiên mới.
Thêm vào đó lao động là quá trình tác động lặp đi, lặp lại hàng nghìn,
hàng triệu lần phương pháp giống nhau nhờ vậy mà làm tăng năng lực tư duy trừu tượng của con người.
Tóm lại, lao động có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển ý
thức. Con người thoát ra khỏi động vật là có lao động. Vì vậy mà người ta nói "Một
kiến trúc sư tồi còn hơn một con ong giỏi", bởi.vì trước khi xây một ngôi nhà người
kiến trúc sư đã phác thảo trong đầu anh ta hình ảnh ngôi nhà còn con ong chỉ là xây tổ
theo bản năng. Qua lao động bộ óc con người hình thành và hoàn thiện. Ăng ghen nói"
Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, nó là hai sức kích thích chủ yếu
đã ảnh hưởng đến bộ óc con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần chuyển biến thành bộ óc người.
Sau đây ta xét đến vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành nên ý thức. Ngôn
ngữ được coi là 'cái vỏ vật chất" của tư duy, khi mà con người có biểu hiện liên kết với
nhau để trao đổi kinh nghiệm, tổ chức lao động tất yếu dẫn đến nhu cầu " cần nói 9
với nhau một cái gì" đó chính là ngôn ngữ.Với sự xuất hiện của ngôn ngữ, tư
tưởng con người có khả năng biểu hiện thành "hiện thực trực tiếp", trở thành tín hiệu
vật chất tác động vào giác quan của con người, gây ra cảm giác. Do vậy, qua ngôn ngữ
con người có thể giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng tình cảm cho nhau, từ đó mà
ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngược lại ý thức xã hội thâm nhập vào ý thức
cá nhân. Nhờ ngôn ngữ mà phản ánh ý thức mới có thể thực hiện như là sự phản ánh
gián tiếp, khái quát và sáng tạo. Vì vậy ngôn ngữ trở thành một phương tiện vật chất
không thể thiếu được của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa hay nói cách kháclà của quá
trình hình thành, thực hiện ý thức. Nhờ khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa
mà con người có thể đi sâu vào hơn vào thế giới vật chất, sự vật hiện tượng? đồng
thời tổng kết đúc rút kinh nghiệm trong toàn bộ hoạt động của mình. Vậy ngôn ngữ là
một yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý tư duy và văn hóa con người và xã hội loài người.
1.1.3. Bản chất của ý thức.
1.1.3.1. Bản tính phản ánh và sáng tạo.
Ý thức mang bản tính phản ánh, ý thức mang thông tin về thế giới bên ngoài, từ
vật gây tác động được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tín phản ánh quy định
tính khách quan của ý thức, túc là ý thức phải lấy tính khách quan làm tiền đề,bị cái
khách quan quy định và có nội dung phản ánh thế giới khách quan.
Ý thức có bản tính sáng tạo do ý thức gắn liền với lao động. Bản thân lao đọng
là hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người. ý thức không chụp
lạc một cách nguyên si, thụ động sự vật mà đã có cải biến, quá trình thu thập thông tin
gắn liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả
năng phản ánh gían tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình chủ động tác
đọng vào thế giới để phản ánh thế giới đó. Bản tính sáng tạo quy định mặt chủ quan
của ý thức. ý thức chỉ có thể xuất hiện ở bộ óc người, gắn liền với hoạt động khái quát
hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có chọn lọc tồn tại dưới hình thức chủ quan, là
hình ảnh chủ quan phân biệt về nguyên tắc hiện thực khách quànva sự vật, hiện tượng, vật chất, cảm tính.
Phản ánh và sáng tạo có liên quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Hiện
thực cho thấy: không có phản ánh thì không có sáng tạo, vì phản ánh là điểm xuất
phát, là cơ sở của sáng tạo. Ngược lại không có sáng tạo thì không phải là sự phản ánh 10
của ý thức. Đó là mối liên hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhận và xử lý thông
tin, là sự thống nhất giữa các mặt khách quan và chủ quan trong ý thức. Vì vậy, Mac
đã gọi ý thức, ý niệm là hiện thực khách quan ( hay là cái vật chất) đã được di chuyển
vào bộ não người và được cải biến đi trong đó. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Biểu hiện của sự phản ánh và sáng tạo, giữa chủ quan và
khách quan của ý thức là quá trình thực hiện hóa tư tưởng. Đó là quá trình tư tưởng
tìm cách tạo cho nó tính hiện thực trực tiếp dưới hình thức tính hiện thực bên ngoài,
tạo ra những sự vật hiện tượng mới, tự nhiên "mới" tự nhiên "thứ hai" của con người.
1.1.3.2. Bản tính xã hội.
ý thức được hình thành trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của con
người. Trong quá trình đó con người nhận ra rằng cần có nhu cầu liên kết với nhau để
trao đổi kinh nghiệm và các nhu cầu khác. Do đó mà khái niệm hoạt đọng xã hội ra
đời. ý thức ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, ý thức trước hết là tri thức của con
người về xã hội, về thế giới khách quan đang diễn ra xung quanh, về mối liên hệ giữa
người với người trong xã hội. Do đó ý thức xã hội được hình thành cùng ý thức cá
nhân, ý thức xã hội không thể tách rời ý thức cá nhân, ý thức cá nhân vừa có cái chung
của giai cấp của dân tộc và các mặt khác của xã hội vừa có những nét độc đáo riêng do
những điều kiện, hoàn cảnh riêng của cá nhân đó quy định. Như vậy, con người suy
nghĩ và hành động không chỉ bằng bàn tay khối óc của mình mà còn bị chi phối bởi
khối óc bàn tay của người khác, của xã hội của nhân loại nói chung. Tự tách ra khỏi
môi trường xã hội con người không thể có ý thức, tình cảm người thực sự. Mỗi cá
nhân phải tự nhận rõ vai trò của mình đối với bản thân và xã hội. Ta phải học làm
người qua môi trường xã hội lành mạnh.
Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo.
Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng đọng chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa vật
chất và ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới của con người.
1.1.4 . Sự tác động trở lại vật chất của ý thức
Vật chát quyết định nội dung của ý thức bởi vì ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan bên ngoài vào trong bộ óc của con người. Nhưng nếu chỉ thấy vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức mà không thấy được tính năng động tích cực của ý
thức đối với vật chất thì sẽ mắc phải khuyết điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình.chủ 11
nghĩa duy vật biện chứng cho rằng :”ý thức của con người không phải là sự phản ánh
giản đơn ,mà là sự phản ánh tích cực của thế giới vật chất
Cùng với sự phát triển của hoạt động biến đổi thế giới ý thức con người phát
triển song song với quá trình đó và có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với
vật chất.Sự tác động trở lại vật chất của ý thức có thể là thúc dẩy hoặc ở một điều kiện
nào đó trong một phạm vi nào đó kìm hãm sự phát triển của các quá trình hiện thực.
Khi con người có những kiến thức khoa học thì sự tác động trở lại vật chất là
tích cực.Con người sẽ dựa vào những tri thức và những kiến thức khoa học để lập ra
những mực tiêu ,những kế hoạch hoạt động đúng đắn để cải tạo thế giớ vật chất, thúc
đẩy xã hội ngày một phát triển hơn.
Những tri thức sai lầm phản khoa học hoặc lỗi thời lạc hậu có thể kìm hãm sự
phát triển của thế giới vật chất.Do những tư tưởng ,đường lối sai lầm dẫn đến chiến ,
đến những chiến lược phát triển kinh tế không hiệu quả...No kéo lùi sự phát triển của
xã hôị. ở một khía cạnh nào đó ta thấy những truyền thống ,những tâm tư tình
cảm của con người không phụ thuộc vào vật chẩt .Dựa vào đặc tính này của vật
chất con người có thể cố phấn đấu đi lên bắng lao động và học tập ,xây dựng đất nước
và xã hội giàu mạnh hơn ,công bằng hơn.
1.2. Khái niệm về tri thức.
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy
thì lúc đó có tri thức.Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến những
thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội mới được
đề cặp nhiều.Vậy tri thức là gì? Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể
hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng
nó(hiểu biết sáng tạo) vào việc tạo ra cái mới nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội.
Tri thức bao gồm tất cả những thông tin,số liệu,bản vẽ,tưởng tượng(sáng tạo),khả
năng,kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội
khác.Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống –xã hội. Kinh tế thế giới đang bước
vào một thời đại mới,một trình độ mới.Đó là trình độ mà”nhân tố quan trọng nhất là
việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo,phân phối và sử dụng tri thức
trong các ngành kĩ thuật cao”.Tiêu chí chủ yếu của nó là lấy tri thức,trí óc làm yếu tố
then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và 12
tài nguyên.Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển
xã hội”, ”Tri thức là tài nguyên là tư bản”, “Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là
nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn..dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ
chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…
1.3. Vai trò của tri thức đối với ý thức
Khi xem xét ý thức với các yếu tổ hợp thành các quá trình tâm lí tích cực đem
lại sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, ta có: tri thức, tình cảm, niềm
tin, ý chí..; trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Muốn cải tạo được sự vật,
trước hết con người phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vật đó. Do đó, nội dung và
phương thức tồn tại cơ bản của ý thức phải là tri thức., không dựa vào tri thức thì ý
thức đó là một sự trừu tượng trống rỗng, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn.
Theo C.Mác, “ phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cía gì tồn
tại với ý thức là tri thức…, cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào
ý thức biết cái đó”. Tri thức có nhiều lĩnh vực khác nhau như: tri thức về tự nhiên, xã
hội, con người; và có nhiều cấp độ khác nhau như: tri thức cảm tính và tri thức lý tính;
tri thức kinh nghiệm và tri thức lí luận; tri thức tiền khoa học và tri thức khoa học
v.v… Tích cực tìm hiểu, tích lũy tri thức về thế giới xung quanh là yêu cầu thường
xuyên của con người trên bước đường cải tạo thế giới. Tuy nhiên, không thể đồng nhất
ý thức với sự hiểu biết, tri thức về sự vật. 13
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA TRI THỨC TRONG HOẠT ĐỘNG CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
"Hiền tài là nguyên khí quốc gia", đúng vậy, trong mọi thời đại, mọi quốc gia,
động lực thúc đẩy phát triển trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh... không có gì khác là tri thức và đội ngũ trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
coi trọng, luôn đề cao vai trò của tri thức.
Tri thức là sức mạnh, con người càng am hiểu sâu rộng nhiều vấn đề, lĩnh vực
thì càng dễ thực hiện được các mục tiêu, ước nguyện của bản thân. Một xã hội với
nhiều con người có học vấn cao thì càng phát triển mạnh mẽ cả về chất và lượng.
Con người có trí thức, nhận thức tốt sẽ có khả năng làm chủ cuộc sống, làm chủ
bản thân và không ngừng học hỏi để đóng góp cho xã hội.
Khi con người có tri thức cuộc sống sẽ biết cách sống theo chuẩn mực đạo đức,
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của thế hệ đi trước để lại. Tri thức cộng
đồng được hình thành chính là nhờ sự tiếp thu và học hỏi qua bao thế hệ, tạo nên một
xã hội phát triển và văn minh.
Hội nhập quốc tế, giao lưu, học hỏi kiến thức, sự sáng tạo và truyền thống tốt
đẹp của các quốc gia khác. Tri thức là công cụ giúp giải quyết cá nhân, xã hội, đất
nước vươn lên sánh ngang với các cường quốc năm châu trên thế giới.
Từ lâu, tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội.
Nó tác động trực tiếp đến hầu hết các lĩnh vực trong hoạt động của con người: kinh
tế,chính trị,văn hoá giáo dục… Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng phân tích sâu
vào vai trò của tri thức đối với nền kinh tế
2.1. Tri thức trong hoạt động kinh tế
Ở Việt Nam, chủ đề “kinh tế tri thức” đã được đề cập, bàn bạc, đặc biệt là trong
giới các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý… “Kinh tế tri
thức” đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, với những chiều kích, tầm
mức, phạm vi… khác nhau. Nhiều người cho rằng sự xuất hiện của kinh tế tri thức
đánh dấu sự chấm hết của xã hội công nghiệp hiện đại lấy “tư bản” làm hạt nhân, và
báo hiệu sự ra đời của xã hội hậu công nghiệp lấy “tri thức” làm hạt nhân.
2.1.1. Kinh tế tri thức là gì?
Khái niệm kinh tế tri thức manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế
kỷ trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker. Trong hơn bốn thập kỷ qua,
đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định và giải thích cơ chế của nền kinh tế này. Trong
những năm qua kinh tế tri thức được chọn làm chiến lược phát triển của nhiều quốc
gia, cả những nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức là khái 14
niệm không dễ hiểu vì dựa trên hai khái niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức, và do
vậy đã được hiểu nhiều ít khác nhau.
Trước hết là khái niệm kinh tế. Theo một nghĩa được thừa nhận rộng rãi, kinh
tế là toàn bộ các hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ
của một cộng đồng hay một quốc gia. Các hoạt động kinh tế thường được chia ra và
đánh giá theo ba ngành kinh tế cơ bản: (a) Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản; (b)
Công nghiệp; và (c) Thương mại, ngân hàng, dịch vụ, du lịch... Một hệ thống kinh tế là
một tập hợp các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chi phối các hoạt động kinh tế. Các hệ
thống kinh tế thường được nói đến gồm kinh tế truyền thống, kinh tế kế hoạch, kinh tế
thị trường, và kinh tế hỗn hợp. Đây là các mô hình một mặt được dùng để mô tả các
nền kinh tế đã và đang tồn tại, mặt khác được chọn dùng để dẫn dắt, điều hành các nền kinh tế.
Trong kinh tế tri thức các nguyên tắc, cách thức và yếu tố chủ yếu chi phối các
hoạt động kinh tế là tri thức con người. Các tên gọi khác như kinh tế dựa trên tri thức
(knowledge-based economy) hay kinh tế được điều hành bởi tri thức (knowledge-
driven economy) cho ta một cách hiểu trực giác hơn với sự nhấn mạnh về vai trò nền
tảng và ảnh hưởng của tri thức trong kinh tế.
Cần nói thêm rằng các nền kinh tế thường không thuần túy theo riêng một mô
hình. Hầu hết nền kinh tế của các nước phát triển hiện đang theo mô hình kinh tế thị
trường, nhưng đã có nhiều tính chất của kinh tế tri thức và đang hướng dần đến mô
hình kinh tế này theo những cách ít nhiều khác nhau.
Cho đến đây ta vẫn nói về tri thức nhưng chưa đưa ra một định nghĩa nào về
khái niệm trừu tượng này, vốn vẫn được bàn cãi xưa nay. Tuy nhiên, trong một chừng
mực chấp nhận được, ta thừa nhận cách hiểu theo nghĩa cơ bản nhất của tri thức, tức
những hiểu biết con người có được qua nhận thức, học tập, và quan sát. Ở đây, nói một
cách đơn giản tri thức là hiểu biết, và dùng thay đổi hai từ này. Với đa số người Việt,
“hiểu biết” dường như gợi hơn, thấm hơn từ Hán-Việt “tri thức”.
Sẽ có một câu hỏi tự nhiên rằng sự khác nhau ở đâu khi mọi hoạt động trong
các hệ thống kinh tế đương nhiên đều dựa trên hiểu biết. Nói khác đi, việc nhấn mạnh
lên vai trò của hiểu biết sẽ tạo ra sự khác biệt và đặc điểm gì trong hệ thống kinh tế
mới này ở tất cả các ngành kinh tế, chẳng hạn so với các hệ kinh tế kế hoạch hay kinh
tế thị trường? Câu trả lời chính là ở mức độ khác nhau của sự sáng tạo và sử dụng tri
thức. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm trong đó hai đặc điểm sau là tiêu biểu hơn cả: (a)
Có một tỷ lệ cao các hoạt động kinh tế dựa trên hiểu biết và thành
tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, như khoa học về sự sống, công nghệ
thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ nano, ... (b)
Mọi hoạt động trong các ngành kinh tế đều dựa nhiều hơn và hiệu
quả hơn vào việc dùng tri thức trong một môi trường toàn cầu hóa, và kinh tế
được phát triển hài hòa với sự phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Có thể xem (a) là đặc điểm công nghệ và (b) là đặc điểm xã hội của kinh tế
tri thức. Chúng tương hỗ bổ sung cho nhau để đặc trưng kinh tế tri thức, thậm chí
(b) có vai trò bản chất hơn, chỉ ra nền kinh tế tri thức không đồng nhất với nền kinh
tế của các công nghệ cao. Hai đặc điểm này có thể nhiều ít khác nhau trong các nền
kinh tế tri thức của các quốc gia. Theo nghĩa này, sản xuất nông nghiệp có thể có
mặt trong kinh tế tri thức nếu người nông dân không chỉ dựa vào kinh nghiệm cha 15
truyền con nối mà còn biết tìm và dùng được các hiểu biết của người khác, hoặc
tìm ra cách mới sao cho việc trồng lúa nuôi lợn của mình tốt hơn, hoặc biết được
nhu cầu xã hội, giao dịch và bán sản phẩm của mình qua Internet để có lợi hơn.
Ngành du lịch có thể có mặt trong nền kinh tế tri thức nếu biết được tâm lý và nhu
cầu của những nhóm du khách khác nhau, biết cung cấp các dịch vụ hấp dẫn, biết
thu lãi trước mắt vừa đủ để giữ và thu hút khách lâu dài. Một quốc gia chỉ làm
nông nghiệp và du lịch vẫn có thể xây dựng được nền kinh tế tri thức. Và thật ra
cách hiểu này với sự nhấn mạnh yếu tố (b) mới mở đường để nhiều nước đang phát
triển có thể định ra và hướng đến một nền kinh tế tri thức của riêng mình, khi hiện
tại chưa có những ưu thế cạnh tranh về công nghệ cao.
Ngoài ra, ta còn có thể kể đến một số tính chất tạo ra sự khác biệt giữa kinh tế
tri thức và các hệ kinh tế khác. Một là tính chất toàn cầu của kinh tế tri thức. Không
nền kinh tế của một quốc gia nào ngày nay có thể nằm ngoài mạng lưới kinh tế toàn
cầu, và đương nhiên hiểu biết về các quốc gia khác để có cách phát triển kinh tế hợp lý
của mình là điều hiển nhiên rất quan trọng. Trong cái bối cảnh toàn cầu đầy cạnh tranh
này, sự “khôn sống mống chết” càng rõ, mà cái sự khôn ấy bắt đầu từ việc có hiểu biết
về các nước khác trước khi đưa ra được những quyết định khôn ngoan. Hai là tính chất
động theo cơ hội của nền kinh tế tri thức. Ta đang phải phát triển trong một thế giới
đầy biến động, nơi điều duy nhất chắc chắn là sự không chắc chắn của chính thế giới
này. Trong những biến động ấy, hiểu biết về các cơ hội và rủi ro để có thể đối mặt với
chúng là rất cần. Môi trường càng biến động, quốc gia nào có hiểu biết để nắm được
cơ hội sẽ càng phát triển được nhanh. Ba là tính chất con người có tri thức là nguồn
lực chính của kinh tế tri thức. Bổ sung vào lý thuyết kinh tế tân-cổ điển xem hai nguồn
lực chính của kinh tế là vốn tài chính và sức lao động, kinh tế tri thức nhấn mạnh thêm
về con người có tri thức.
2.1.2. Việt Nam có cần kinh tế tri thức không và nếu có sẽ gặp những thách thức nào?
Tuy hiện nay Việt Nam chưa xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế tri
thức, giống như một số nước khác trong khu vực và trên thế giới, song một số văn bản
chính thức của Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nước ta rất coi trọng vận dụng các yếu tố của kinh tế tri thức. Trong hoàn cảnh
hội nhập quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc phát triển
một đội ngũ trí thức làm cơ sở cho việc dịch chuyển sang nền kinh tế tri thức là một
việc quan trọng và cấp bách. Điều này cũng thể hiện rất rõ trong chính sách của Đảng
ta trong giai đoạn hiện nay. Hội nghị Trung ương lần thứ 7 Ban Chấp hành (khóa X)
của Đảng ta cũng dành trọng tâm cho việc xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ hội
nhập. Chúng ta cần tạo ra một môi trường kinh tế - xã hội tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho sự sản sinh, phổ biến và sử dụng tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, việc chuyển
biến tri thức thành sức mạnh sản xuất đạt tới trình độ cao. Do vậy, tri thức trở thành
yếu tố sản xuất quan trọng nhất và đội ngũ trí thức ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong công cuộc xây dựng đất nước.
Có nhiều lý do cho thấy việc có và dùng hiệu quả tri thức trong các hoạt động
kinh tế và xã hội là con đường chúng ta cần đi. Vì nguồn tài nguyên thiên nhiên không
thể là vô hạn để có thể khai thác và bán mãi, vì phát triển không thể bền vững nếu dựa
quá nhiều vào nhập khẩu công nghệ và sản phẩm của thiên hạ, vì không thể vượt ra 16
khỏi nhóm đi sau hay đi cuối nếu ta không tìm được cách để làm những việc khác
ngoài gia công và chế biến, hay đào mỏ, chặt rừng, bắt cá. Tất nhiên làm sao để xây
dựng nền kinh tế tri thức là câu hỏi của cả đất nước. Nhưng nếu muốn làm kinh tế tri
thức, cần xem đâu là những thách thức của ta, chẳng hạn những gì là nền tảng của một
nền kinh tế tri thức và ta đã có bao nhiêu?
Ngân hàng Thế giới cho rằng các nền kinh tế tri thức cần dựa trên bốn trụ cột sau
- Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức:
Một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy tự do của tri thức, hỗ
trợ đầu tư cho công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT), khuyến khích
việc làm chủ doanh nghiệp như trọng tâm của kinh tế tri thức.
- Giáo dục và đào tạo: Có chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào tạo
năng lực sáng tạo, chia sẻ, và sử dụng tri thức.
- Hệ thống cách tân: Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức
chuyên gia cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để
thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích
ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
- Hạ tầng cơ sở thông tin: Một hạ tầng cơ sở thông tin động, từ radio đến Internet,
là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến, và xử lý thông tin.
Mặc dù còn những tranh luận, giả sử ta thừa nhận bốn trụ cột này để xem ta sẽ
gặp những thách thức nào khi phải xây dựng chúng.
Tạo ra được một môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và
sử dụng tri thức trước hết là việc của chính quyền và bộ máy lập pháp. Một thách thức
là làm sao để nâng cao được dân trí toàn xã hội. Khi dân trí được nâng cao, người dân
sẽ có thêm động lực và khả năng tìm kiếm dòng chảy tri thức, hoạt động sáng tạo cũng
như tăng xu hướng làm chủ doanh nghiệp. Vì những cán bộ của bộ máy chính quyền
và địa phương là những công dân có ảnh hưởng nhiều hơn đến môi trường kinh tế và
thể chế xã hội, việc nâng cao được quan trí, như dân gian thường nói, là một điều hệ
trọng. Những yếu kém về tri thức của một số quan chức mà người dân đôi khi được
biết như chuyện “ngực lép xe máy”, chuyện “100% tiến sĩ”,... cho thấy đây là một
thách thức lớn khi ta muốn đến nền kinh tế tri thức.
Giáo dục và đào tạo là chuyện sống còn của đất nước. Đương nhiên nếu giáo
dục không làm được sứ mạng đào tạo được những người có tinh thần và khả năng sáng
tạo, sẽ không có cách nào tiến đến kinh tế tri thức. Nói riêng về đào tạo người lao động
có tri thức trong công nghiệp, nhìn theo năm nhóm ngành, A: Hàm lượng lao động cao
và làm việc giản đơn như may mặc, giày dép...; B: Hàm lượng lao động cao và sử
dụng nguyên liệu nông lâm ngư nghiệp như chế biến thực phẩm; C: Hàm lượng tư bản
cao và sử dụng tài nguyên khoáng sản như thép, hóa dầu...; D: Hàm lượng lao động
cao và lành nghề, làm các sản phẩm như đồ điện gia dụng, xe máy, bơm nước, linh
kiện điện tử...; E: Hàm lượng công nghệ cao và làm máy tính, công nghệ thông tin và
truyền thông, xe hơi, đồ điện tử cao cấp... Ở Đông Á, Trung Quốc tập trung vào A và
lắp ráp trong D; Thái Lan và các nước Đông Nam Á 4 có lợi thế trong B và D; Nhật 17
Bản và các nước NIEs giữ lợi thế ở D và đang tăng phần sản xuất bên ngoài nên Trung
Quốc và một số nước Đông Nam Á đang dịch chuyển về D. Việt Nam đang chủ yếu
làm A và B. Rõ ràng muốn chuyển dịch qua các nhóm ngành khác như C, D, và E,
chúng ta phải đối mặt với bài toán đào tạo người lao động có tri thức cao hơn, làm
được những việc ở các nhóm ngành này
Xây dựng được một hệ thống cách tân là một thách thức rất lớn, tức hệ thống
các tổ chức đóng vai trò thu nhận và sáng tạo tri thức chủ yếu trong xã hội. Việc này
liên quan tới những thách thức lâu nay của ta như chất lượng giáo dục đại học và
nghiên cứu. Một khía cạnh ở đây là thách thức về tính cách tân của các tổ chức trong
xã hội. Quản trị tri thức (knowledge management)- lý thuyết và thực tiễn về quá trình
sáng tạo, thu nạp và sử dụng tri thức để nâng cao hiệu quả của các tổ chức- là một
công cụ rất đáng quan tâm cho cuộc cách tân này. Vì vậy ta sẽ đến với phần tiếp theo: Quản trị tri thức
2.2. Quản trị tri thức – Giải pháp cho những thách thức chính còn tồn đọng
2.2.1. Khái niệm quản trị tri thức
Quản trị tri thức là một khái niệm mới đang có nhiều tranh luận. Tuy nhiên dù
tranh luận thế nào thì bản chất Quản trị tri chức vẫn là một. Sự khác biệt chỉ là cách
chúng ta tiếp cận nghiên cứu và ứng dụng. Tiểu luận này sẽ trình bày tổng quan về các
khái niệm về quản trị tri thức đang được các học giả trong và ngoài nước sử dụng, từ
đó đưa ra khái niệm chung nhất mang tính ứng dụng.
Có rất nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau tuỳ theo cách nhìn và
phương thức của mỗi cá nhân hay tổ chức. Chúng bao gồm có quản lý, việc học hỏi
của cá nhân và tổ chức, giao tiếp, công nghệ và các hệ thông thông tin, trí tuệ nhân tạo,
tài sản tri thức,…Không có một định nghĩa hay một cách tiếp cận thống nhất về quản
trị tri thức nào cả, nhưng lại có những nội dung có thể bao quát toàn bộ. Quản trị tri
thức bao gồm con người, các cách thức và quá trình, các hoạt động, công nghệ và một
môi trường rộng hơn thúc đẩy việc định dạng, sáng tạo, giao tiếp hay chia sẻ và sử
dụng các tri thức cá nhân cũng như tri thức của tổ chức. Nó là về những qui trình quản
lý việc tạo ra, phát tán và sử dụng tri thức để đạt được mục tiêu tổ chức. Nó đòi hỏi sự
kết hợp giữa nhận thức kinh doanh, thái độ và thực tiễn sáng tạo, những hệ thống,
chính sách và những thủ tục được tạo ra để giải phóng sức mạnh của thông tin và ý tưởng.
Trong cuốn sách “People-Focused Knowledge Management”, Karl M. Wiig
định nghĩa: Quản trị tri thức là quá trình sáng tạo, phát triển và ứng dụng tri thức một
cách có hệ thống và minh bạch nhằm tối đa hóa hiệu quả hoạt động liên quan đến tri
thức và giá trị doanh nghiệp từ tri thức và tài sản trí tuệ sẵn có.
Quản trị tri thức nhằm đến các quá trình sáng tạo, nắm bắt, chuyển giao và sử
dụng tri thức để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức. (Public Service Commission of Canada, 1998).
Quản trị tri thức đưa tri thức ngầm lên bề mặt, tổng hợp chúng thành những
dạng dễ dàng lưu trữ và truy cập hơn, đồng thời thúc đẩy tính sáng tạo của nó. (Birket)
Quản trị tri thức là quá trình tạo mới, phân phối và sử dụng tri thức một cách hiệu quả. (Davenport) 18
“Quản trị tri thức là quá trình có hệ thống của việc nhận dạng, thu nhận, và
chuyển tải những thông tin và tri thức mà con người có thể sử dụng để sáng tạo, cạnh
tranh, và hoàn thiện” (Trung tâm Năng suất và Chất lượng Hoa Kỳ - Trích dẫn bởi Serban và Luan).
Quản trị tri thức là một quá trình, một công cụ quản lý hiệu quả nhằm chia sẻ,
thu nhân, lưu giữ, lựa chọn, sáng tạo tri thức và cung cấp đúng người, đúng nơi, đúng
lúc nhằm nâng cao hiệu quả quyết định, hiệu quả thực thi và khả năng thích ứng của tổ chức.
2.2.2. Giải pháp: Triển khai chương trình quốc gia về quản trị tri thức
Để trí thức phát huy sức mạnh và vai trò của mình thì cần có môi trường. Quản
trị tri thức là một lĩnh vực mà thế giới đã nhắc đến cách đây chục năm nhưng lại là một
lĩnh vực còn mới mẻ đối với Việt Nam. Khi bắt tay vào nghiên cứu thì chúng ta chỉ có
thể học được từ nước ngoài như ở Malaysia và Mỹ... Nếu tìm khắp Việt Nam thì sẽ tìm
ra được một người nghiên cứu về Quản trị tri thức là Gs. Hồ Tú Bảo nhưng ông lại
đang dạy ở một trường đại học ở Tokyo. Như vậy chúng ta vẫn chưa thực sự tiếp cận
và quan tâm đúng mức đến việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng quản trị tri thức
vào cuộc sống. Quản trị tri thức giúp chúng ta chia sẻ, đánh giá, lưu giữ, sáng tạo và
phát triển tri thức. Nó tạo ra môi trường để bẩt cứ cá nhân nào cũng có thể tiếp nhận,
nắm giữ, chia sẻ, sáng tạo và ứng dụng tri thức để chúng ta trở thành những con người
trí thức có thể vận hành công việc ở các vị trí cụ thể. Quản trị tri thức cũng giúp các
doanh nghiệp không còn đau đầu về bài toán nhân sự như hiện nay và những vấn đề
như một người nắm giữ nhiều tri thức của doanh nghiệp và khi đi thì doanh nghiệp rơi
vào tình trạng điêu đứng. Hiện nay, các doanh nghiệp lại là người tiên phong nghiên
cứu và ứng dụng quản trị tri thức chứ không phải là giới nghiên cứu và hoạch định chính sách.
Để kinh tế có sự dịch chuyển thực sự sang nền kinh tế tri thức, để xây dựng
được đội ngũ trí thức mạnh đáp ứng như cầu phát triển, chúng ta cần xây dựng và triển
khai một chương trình quốc gia về Quản trị tri thức triển khai rộng rãi trong các cơ
quan, doanh nghiệp. Có như vậy chúng ta mới thực sự tăng hàm lượng tri thức trong
sản phẩm, dịch vụ, trong GDP. Chúng ta không phải xuất khẩu nguyên liệu thô nữa mà
huy động được trí tuệ tập thể từ công nhân viên cho đến lãnh đạo. Để triển khai việc
này, Đảng và Chính phủ phải có quan tâm đầu tư và giao cho các bộ, ngành, viện
nghiên cứu để nghiên cứu về vấn đề này. Giao cho Hội các nhà Doanh nghiệp trẻ Việt
Nam và Hội tri thức trẻ Việt Nam làm lực lượng nòng cốt để triển khai. Chỉ có giới trẻ
mới là lực lượng tiên phong, dám nghĩ, dám làm thì chúng ta mới làm được. Nếu
chúng ta cứ làm theo cách cũ thì chắc chắn chúng ta không nhận được kết quả như cũ
vì thế giới thay đổi quá nhanh nên bắt buộc chúng ta thay đổi tư duy và thay đổi cách làm. 19 KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, thế kỉ 21 là thời kì với vô vàn biến động không ngừng ở tất cả
các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt có thể kể đến
những tác động sâu rộng của dịch bệnh COVID 19 đang lan rộng ở mọi nơi, gây ảnh
hưởng tới mọi phương diện của cuộc sống. Đây là thử thách đồng thời là thời cơ cho
tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam phải thay đổi, tìm ra
những con đường mới để có thể thích ứng với hoàn cảnh, mở ra một thời kì mới.
Trong thời điểm này, kinh tế tri thức là con đường ta cần đi và đi càng sớm càng tốt.
Tuy nhiên, theo đuổi khoa học hiện đại và công nghệ cao là một cách ta cần làm trong
kinh tế tri thức, nhưng không phải duy nhất. Để một đất nước còn hạn chế về khoa học
và công nghệ như ta có được sản phẩm công nghệ cao cạnh tranh với thiên hạ là vô
cùng gian truân. Vì vậy ta cần phải có sự linh hoạt khi tiếp nhận những tri thức, khi
ứng dụng những tri thức ấy một cách khéo léo để có thể đạt được kết quả tốt nhất.
Ngược dòng thời gian qua những trang sử vàng hào hung, dân tộc Việt Nam dẫu đã đi
qua những năm tháng chiến tranh lầm than khổ cực cuối cùng cũng đã dành lấy được
thắng lợi rất vẻ vang, vậy tại sao chúng ta không thể chiến thắng trong việc xây dựng
và phát triển đất nước? Với sức mạnh đoàn kết dân tộc và bản tính thông minh lao
động sáng tạo luôn âm ỉ trong mỗi con người Việt, nhất định ta sẽ làm được. Những
thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Và bây giờ nhiệm 20
vụ của chúng ta là tiếp nhận học hỏi những tri thức mới, làm chủ những tiến bộ của nhân loại. Tài liệu tham khảo
1. Asia-Pacific Economic Cooperation (APEC), “Towards knowledge-based
economies in APEC”, APEC Economic Committee Report, 11.2000.
2. Đặng Hữu, Kinh tế tri thức: Thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của
Việt Nam, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005.
3. Đặng Thị Việt Đức, The emergence of knowledge economy through ICT in
developing countries: The case of Vietnam, Luận án Tiến sĩ, JAIST, 11.2009.
4. Organization for Economy Cooperation and Development (OECD), “The
new economy: Beyond the hype”, Final report on the OECD Growth Project, 2001
5. Tổng cục Thống kê Việt Nam, http://www.gso.gov.vn/default.aspx?
tabid=388&idmid=3&ItemID=8664
6. Trần Văn Thọ, Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa
của Việt Nam, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005.
7. Tuần Việt Nam, “Điện hạt nhân: Không phải việc riêng của ngành điện”,
http://www.tuanvietnam.net/2009-11-12-dien-hat-nhan-khong-phai-vieccua- rieng-nganh-dien 21
8. World Bank, “Knowledge for development”, World Development Report, 1999.
9. Ấn phẩm Báo Khoa học và Phát triển Tia sáng số 23. Ngày 5/12/2009.
10. Nguyễn Vinh ( theo TV group )
https://lienhiephoi.soctrang.gov.vn/index.php/tu-v-n-ph-n-bi-n-va-gdxh/nh-
ng-v-n-d-chung-v-tu-v-n-ph-n-bi-n-va-giam-d-nh-xa-h-i/309-tri-th-c-qu-n- tr-tri-th-c-va-kinh-t-tri-th-c 22