-
Thông tin
-
Quiz
Vai trò của triết trong đời sống | Bài tập lớn triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Vai trò của triết trong đời sống | Bài tập lớn triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
























Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
BỘ GD&ĐT VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỰ
VẬN DỤNG CỦA SINH VIÊN VŨ THẢO ANH - 11217504
Giáo Viên Hướng Dẫn : Lê Ngọc Thông Sinh Viên : Vũ Thảo Anh Mã số sinh viên : 11217504 Lớp :
Kinh doanh thương mại 63C Lớp tín chỉ :
LLNL1105(121)_30(63C KDTM)
Hà Nội, Tháng 11 năm 2020 1
BỘ GD&ĐT VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỰ
VẬN DỤNG CỦA SINH VIÊN VŨ THẢO ANH – 11217504
Giáo Viên Hướng Dẫn : Lê Ngọc Thông Sinh Viên : Vũ Thảo Anh Mã số sinh viên : 11217504 Lớp :
Kinh doanh thương mại 63C Lớp tín chỉ :
LLNL1105(121)_30(63C KDTM) Hà Nội, Tháng 11 năm 2020 2 MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN..............................................................................................................................................4
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG......................................................................................................................................5
Chương I: Sơ lược về khái niệm và nguồn gốc của Triết học.......................................................................5
1.Triết học là gì?.......................................................................................................................................5
2.Nguồn gốc ra đời của Triết học.............................................................................................................6
2.1. Nguồn gốc nhận thức:...................................................................................................................6
2.2 Nguồn gốc xã hội:..........................................................................................................................6
Chương II: Tìm hiểu về triết học với tư cách là khoa học............................................................................7
1.Đối tượng của triết học..........................................................................................................................7
2. Vấn đề cơ bản của triết học..................................................................................................................8
2.1 Vấn đề thứ nhất là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:................................................................8
2.2 Vấn đề thứ hai là triết học trả lời về khả năng nhận thức của con người với thế giới....................9
3. Phương pháp nghiên cứu của triết học..................................................................................................9
4. Các nguyên lý, phạm trù và quy luật của Triết học.............................................................................10
Chương III: Vai trò của triết học trong đời sống xã hội..............................................................................15
1.Vai trò thế giới quan............................................................................................................................15 2.Vai trò ph ng pháp lu ươ n
ậ ....................................................................................................................16 2.1 Khái ni m ph ệ ương pháp lu n
ậ .......................................................................................................16 2.2 Vai trò ph ng pháp lu ươ n c ậ a triếết h ủ c
ọ ........................................................................................16 3.Vai trò c a triếết h ủ c Mác Lếnin ọ
............................................................................................................17
4. Vai trò thếế gi i quan, ph ớ ng pháp lu ươ n c ậ a triếết h ủ c đốếi v ọ i các ng ớ ành khoa h c c ọ th ụ v ể à t duy lý ư
luận........................................................................................................................................................18 Ch ng IV ươ
: Khái quát vai trò c a triếết h ủ c trong th ọ i đ ờ i ng ạ ày nay và s v ự n d ậ ng c ụ a Vũ Th ủ o Anh ả
11217504:.................................................................................................................................................. 19 A, Vai trò c a triếết h ủ c trong th ọ i đ ờ i ngà ạ
y nay......................................................................................19 B, Liến h b ệ n thân ả
.................................................................................................................................19 1.Đ nh h ị ng v ướ n d ậ ng cho b ụ n thân ả
................................................................................................19 2.Nh ng thành cống đã đ ữ t đ ạ c v ượ à h n chếế ạ
....................................................................................20 PHẦẦN KẾẾT LU N
Ậ .........................................................................................................................................22 Tài li u tham kh ệ o
ả ......................................................................................................................................22 3 LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giảng viên của Trường
đại học Kinh tế Quốc dân.Và đặc biệt em mong muốn dành tặng sự biết ơn sâu sắc nhất đối
với TS Lê Ngọc Thông – giảng viên bộ môn triết học Mác Lênin người luôn tâm huyết và
mang lại những giờ học thật sự bổ ích và lý thú cho chúng em.Trong quá trình học tập và tìm
hiểu về bộ môn Triết học, em đã nhận được sự quan tâm và giúp đỡ nhiệt tình từ thầy.Nhờ đó
em có thêm nhiều kiến thức cũng như cái nhìn hoàn thiện hơn trong cuộc sống.Những kiến
thức mà thầy đã truyền tải đã khiến em hiểu hơn về bản thân mình, đồng thời áp dụng nó để
có thể viết được một bài tiểu luận như bây giờ.Tuyệt vời hơn nữa khi giờ đây em có thể giải
đáp những câu hỏi mà trước đây mình chưa nắm rõ nhờ có Tư tưởng của Triết học Mác
Lênin.Em thật sự trân trọng những giờ học đầy năng lượng và hiệu quả mà thầy mang lại.
Dù bản thân đã cố gắng nhưng có lẽ kiến thức vốn là vô hạn, sự tiếp nhận kiến thức của mỗi
người đều tồn tại những hạn chế nhất định.Thế nên quá trình làm bài tiểu luận của em chắc
hẳn sẽ có những thiếu sót.Em hi vọng sẽ nhận được những góp ý từ thầy để bài của em được
hoàn thiện nhất. Em kính chúc thầy và gia đình luôn mạnh khoẻ và hạnh phúc để truyền tải
thêm những bài học ý nghĩa cho sinh viên chúng em trở nên tốt hơn
Em xin trân trọng cảm ơn! PHẦN MỞ ĐẦU
Will Durant đã từng nói: “Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho
chúng ta sự thông thái”.Vốn ra đời từ rất lâu về trước, triết học được xem là khoa học của
mọi loại khoa học.Cũng không phải ngẫu nhiên mà khi đó những nhà triết học lại được gọi là
nhà thông thái, người toàn năng và hiểu biết uyên thâm nhất. Điều đó đã thúc đẩy triết học trở
thành bộ môn mang tầm ảnh hưởng lớn và đáng để nghiên cứu cũng như tìm hiểu sâu. Kể
từ khi ra đời, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, nhiều giai đoạn lịch sử và thành tựu huy
hoàng, triết học luôn phản ánh sự phát triển của trí tuệ con người đồng thời cũng góp phần
đem lại những nhận thức mới, một làn gió mới mẻ và độc đáo cho nhân loại.Nhờ vậy mà con
người có thể vươn xa hơn, phát triển hơn trong tương lai.Điển hình là ngày nay, triết học đã
thực sự tiến hoá trở thành khoa học, trở nên hoàn chỉnh và là động lực thúc đẩy tư duy lý luận
của con người, kiến tạo thế giới hiện đại.Cho dù ngày nay, khoa học kĩ thuật đã chiếm ưu thế 4
và ngày càng phát triển mạnh mẽ cùng với sự cải thiện về mặt vật chất của đời sống xã hội
nhưng vị thế của triết học vẫn đóng vai trò thực tiễn, là gốc rễ cho mọi sự phát triển của
tương lai. Là sinh viên, khi đã được tìm hiểu một phần về bộ môn Triết học Mác Lênin mà
đa số nhiều người khá e ngại vì tính chất trừu tượng mà nó mang lại,em đã lựa chọn đề tài
“Vai trò của triết học Mác Lênin trong đời sống và sự vận dụng của sinh viên Vũ Thảo Anh”
để mong muốn đem lại cái nhìn mới cho các bạn sinh viên.Em nghĩ đây là một đề tài khá gần
gũi để chúng ta thấy được tầm quan trọng của bộ môn mình đang theo học.Và em tin là để
yêu thích một môn học nào đó thì trước tiên mình phải hiểu nó trước cũng như biết được giá trị mà nó mang lại. PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Sơ lược về khái niệm và nguồn gốc của Triết học 1.Triết học là gì?
Ở Trung Quốc, chữ “triết” đã có từ rất sớm, ngày nay chữ “triết học” được coi là tương
đương với thuật ngữ philosophia của Hy Lạp, với ý nghĩa là sự truy tìm bản chất của đối
tượng nhận thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư tưởng.Triết học chính là biểu hiện
cao của trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người về toàn bộ thế giới muôn hình vạn trạng
và định hướng nhân sinh quan cho con người.
Ở phương Tây, thuật ngữ “triết học” được sử dụng phổ biến hiện nay.Ở cả phương Đông
và phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần bậc cao, là một loại hình nhận
thức có trình độ trừu tượng hoá và khái quát hoá rất cao.Triết học nhìn nhận và đánh giá đối
tượng thông qua thực tế, thông qua hiện tượng quan sát được về con người và vũ trụ. Ngay cả
khi triết học còn bao gồm trong nó tất cả mọi thành tựu của nhận thức, loại hình trí thức đặc
biệt này đã tồn tại với tính cách là một hình thái ý thức xã hội.
Bách khoa thư Britannica định nghĩa: “Triết học là sự xem xét lý tính, chiều tượng chiều
tượng và có phương pháp về thực tại với tính cách là một chỉnh thể hoặc những khía cạnh nền
tảng của kinh nghiệm và sự tồn tại con người.” Có nhiều định nghĩa về triết học nhưng triết
học chủ yếu bao hàm nội dung: là một hình thái ý thức xã hội, là loại hình nhận thức đặc thù
độc lập với khoa học và khác biệt với tôn giáo, mang tính hệ thống logic và trừu tượng về thế
giới. Với sự ra đời của triết học Mác-Lênin, triết học được định nghĩa là hệ thống quan điểm 5
lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con người trong thế giới đó là khoa học về những quy
luật vận động phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.Nguồn gốc ra đời của Triết học
2.1. Nguồn gốc nhận thức:
Để tồn tại và thích nghi với trong thế giới, con người cần phải có hiểu biết về thế giới
xung quanh cũng như về bản thân. Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, những câu hỏi như:
Thế giới xung quanh ta là gì? Nó có bắt đầu và kết thúc hay không? Sức mạnh nào chi phối
thế giới? Con người là gì? Nó được sinh ra như thế nào và có quan hệ như thế nào với thế
giới bên ngoài? Bản chất đích thực của cuộc sống nằm ở đâu?... đã được đặt ra ở một mức độ
nhất định, dưới hình thức nhất định, và đã được đặt ra ngay từ thời nguyên thủy. Tuy nhiên,
chỉ đến thời kỳ cổ đại, khi mà tri thức của con người về thế giới đã tích lũy tới một mức độ
cho phép, khả năng tư duy của con người đã được “mài sắc” và nâng cao tới mức cho phép
đủ để diễn tả thế giới một cách trừu tượng bằng hệ thống phạm trù, khái niệm trừu tượng, thì
lúc đó, những câu hỏi trên mới được trả lời một cách sâu sắc. Nói cách khác, khi con người
đạt tới trình độ phát triển tư duy trừu tượng, chỉ tới lúc đó, triết học với tính cách là lý luận, là
hệ thống quan niệm chung nhất về thế giới và cuộc sống con người mới ra đời.
2.2 Nguồn gốc xã hội:
Sự phát triển của sản xuất vật chất và quá trình phân công lao động xã hội diễn ra. Để
triết học ra đời cần phải có những người chuyên lao động trí óc. Bởi vì, chỉ có họ mới có thể
khái quát những tri thức mà nhân loại đã tích lũy được thành hệ thống các quan niệm có tính
chỉnh thể về thế giới - tức tri thức triết học. Sự phát triển của sản xuất vật chất đến mức nào
đó sẽ dẫn tới sự phân công lao động xã hội, phân chia thành hai loại lao động: lao động chân
tay và lao động trí óc. Chính sự xuất hiện lao động trí óc, biểu hiện ở sự ra đời tầng lớp trí
thức đã tạo điều kiện cho triết học ra đời. Cùng với quá trình phát triển sản xuất và phân công
lao động xã hội, sự phân chia giai cấp trong xã hội thành thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc
lột, cũng như sự xuất hiện quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị, bị bóc lột chống giai
cấp thống trị, bóc lột cũng là nguồn gốc xã hội của sự ra đời triết học. Bởi vì, nhằm để bảo vệ
quyền lợi của giai cấp mà mình đại diện,các nhà tư tưởng đã xây dựng các học thuyết triết
học khác nhau, với những quan điểm chính trị khác nhau. Trên thực tế, từ khi ra đời, triết học
luôn mang tính giai cấp, nghĩa là nó luôn phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực 6
lượng xã hội nhất định. Điều đó cũng góp phần lý giải vì sao triết học không ra đời ở thời kỳ
cộng sản nguyên thuỷ mà chỉ đến thời kỳ chiếm hữu nô lệ, với việc xã hội xuất hiện phân
chia giai cấp và sự ra đời bộ phận lao động trí óc thì triết học mới ra đời.
Chương II: Tìm hiểu về triết học với tư cách là khoa học
1.Đối tượng của triết học
Từ khi ra đời, triết học đã trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển và ở mỗi giai đoạn triết học
cũng có những đối tượng khác nhau. Mỗi giai đoạn lịch sử do điều kiện kinh tế-xã hội và sự
phát triển của khoa học tự nhiên đối tượng nghiên cứu của triết học có những nội dung cụ thể
khác nhau nhưng vẫn xoay quanh vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới quan bên ngoài,
giữa tư duy và tồn tại. Đối tượng nghiên cứu của triết học vẫn tiếp tục là giải quyết vấn đề về
mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trên lập trường duy vật, nghiên
cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy từ đó định hướng cho hoạt động
nhận thức hoạt động thực tiễn của con người,cụ thể như sau: +,Ngay khi mới ra đời:
Triết học được xem là hình thái cao nhất của trí thức, bao hàm trong nó trí thức với tất cả
những lĩnh vực không có đối tượng riêng. Thời cổ đại, khi chưa có sự phân chia rõ ràng giữa
triết học và các ngành khoa học khác, triết học đã được coi là “khoa học của mọi khoa học”
bao gồm toàn bộ tri thức và lý luận của con người.
Ở thời kỳ này, triết học đã đạt được những thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó đã in
đậm đối với sự phát triển tư tưởng triết học ở Tây Âu. +,Thời kỳ trung cổ:
Vào thời trung cổ, do sự thống trị của Thiên chúa giáo, triết học chỉ được xem là một bộ
phận của thân học với nhiệm vụ biện minh, lý giải cho sự tồn tại của thần quyền. Nền triết
học tự nhiên bị thay bằng nền triết học kinh viện. Triết học lúc này phát triển chậm chạp
trong môi trường chật hẹp của đêm trường trung cổ. +,Vào TK XV-XVI:
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học thời kỳ này đã tạo ra một cơ sở tri thức vững chắc
cho sự phục hưng triết học. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt là yêu cầu của sản
xuất nông nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành nhất là khoa học thực nghiệm ra đời 7
với tính cách là những khoa học độc lập. Những phát hiện lớn của khoa học tự nhiên và khoa
học nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của triết học. +,Đầu TK XIX đến nay:
Hoàn cảnh kinh tế xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học đầu thế kỷ 19 đã dẫn đến
sự ra đời của triết học mác, đoạn tuyệt triệt để với quan niệm khoa học của mọi khoa học,
triết học đã trở thành một môn khoa học độc lập.Triết học mácxít xác định đối tượng nghiên
cứu là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để
và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy mà theo như
Ph.Ăngghen: “Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất về sự vận động và phát triển
của thế giới; từ tự nhiên, xã hội và cả tư duy”.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Khi nghiên cứu một bộ môn khoa học nào đó chúng ta thường phải giải quyết, trả lời cho
những nhiều câu hỏi khác nhau.Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất
nhiều vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nên tảng và là điểm
suất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Theo
Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề
quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học không chỉ xác định
được nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học mà nó còn là tiêu
chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các triết gia và học thuyết của họ. Vấn đề cơ
bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:
2.1 Vấn đề thứ nhất là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Trả lời cho câu hỏi giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước? cái nào có sau? cái nào quyết
định cái nào? Đây là một vấn đề lớn của triết học mà người ta luôn đau đầu tìm kiếm câu trả
lời. Việc trả lời câu hỏi này đã hình thành hai trường phái lớn đó là chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất
của thế giới là vật chất, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất là cái có trước
và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực
tiễn, thường gắn với lợi ích của giai cấp lực lượng tiến bộ trong lịch sử. Với chủ nghĩa duy
vật mọi hiện tượng sự vật đều cấu tạo từ vật chất và là kết quả của tương tác vật chất, các sự
kiện liên quan đều có thể giải thích bằng tự nhiên mà không cần tồn tại bất kỳ giả thuyết nào 8
về siêu nhiên.Từ khi ra đời đến nay chủ nghĩa duy vật đã trải qua ba giai đoạn cơ bản: chủ
nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Qua
thực tiễn và khái quát hóa trí thức của nhân loại, chủ nghĩa duy vật đã thể hiện bản thân là hệ
thống lý luận tri thức chung nhất gắn với các lực lượng xã hội tiến bộ, định hướng cho các
lực lượng này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Còn đối với chủ nghĩa duy tâm là
trường phái triết học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới là ý thức, ý thức là thứ nhất
vật chất là thứ hai, ý thức có trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc
nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa thần thánh hóa một
mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức, thường gắn với lợi ích của giai cấp tầng lớp
áp bức bóc lột nhân dân lao động. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
2.2 Vấn đề thứ hai là triết học trả lời về khả năng nhận thức của con người với thế giới
Trong lịch sử có nhiều quan điểm khác nhau, cũng từ đó hình thành nên hai trường
phái lớn của triết học: khả tri và bất khả tri. Đa số các nhà triết học từ theo trường phái khả tri
là thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Tuy nhiên trong khi các nhà duy vật
cho rằng sự nhận thức đó phản ánh thế giới vật chất và trí óc con người thì các nhà duy tâm
cho rằng sự nhận thức đó là sự nhận thức của tinh thần và tư duy phủ nhận thế giới khách
quan là nguồn gốc của nhận thức. Theo sau đó là trường phái bất khả tri – phủ nhận con
người có khả năng nhận thức về thế giới như quan điểm cho rằng không thể chứng minh hay
biết được sự tồn tại của Đức Phật. Nhà triết học tiêu biểu cho trường phái này là Can-tơ,
Hium…Chính những cuộc đấu tranh từ các trường phái trong triết học đã thúc đẩy qua lại lẫn
nhau vừa đấu tranh loại bỏ lại vừa kế thừa và bổ sung cho nhau. Điều đó đã khiến triết học
ngày càng phát triển và biến đổi cho phù hợp với giai đoạn của xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu của triết học
Triết học là bộ môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tồn tại và tư duy
giúp con người trong việc nhận thức và hoạt động cải tạo thế giới. Phương pháp nghiên cứu
triết học là phương pháp tư duy và cũng là khúc khác nhận thức trong lịch sử tồn tại hai
phương pháp biện chứng và siêu hình cũng là hai phương pháp đối lập nhau. Phương pháp
biện chứng là phương pháp nhận thức thế giới với quan điểm cơ bản cho rằng sự tồn tại của
mọi sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan nói chung đều ở trong mối liên hệ, trong sự 9
vận động và phát triển theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Phép biện chứng là
học thuyết, lý luận về tính biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật
khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực
tiễn. Ăngghen định nghĩa: “Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật
và những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối qua lại giữa chúng, trong sự
móc xích của chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng”. Phương pháp siêu hình là
phương pháp nhận thức thế giới về quan điểm cơ bản cho rằng mọi sự vật và hiện tượng của
thế giới vật chất đều tồn tại cô lập lẫn nhau, cái này ở bên kia cái kia và nó luôn ở trong trạng
thái tĩnh không có sự vận động và phát triển. Nhưng nếu như có thừa nhận sự phát triển thì
chẳng qua chỉ là một quá trình tăng hoặc giảm về số lượng. Mặt khác, quan điểm này không
thừa nhận mâu thuẫn bên trong bản thân các sự vật và hiện tượng. Phương pháp siêu hình làm
cho con người “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không thấy mối quan hệ qua lại giữa
những sự vật ấy, chị nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh
và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của sự vật ấy, chị nhìn thấy cây mà không thấy rừng”. Xong phương
pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc và
ngưng đọng như phương pháp này quan niệm. Chính sự đối lập giữa phương pháp biện chứng
và phương pháp siêu hình trong lịch sử triết học là kết quả của quá trình nhận thức con người
về thế giới khách quan. Trong lịch sử triết học có một số thời điểm tư duy siêu hình chiếm ưu
thế. Tuy nhiên, xét trong toàn bộ chiều dài lịch sử thì tư duy biện chứng lại giữ vai trò đặc
biệt quan trọng trong triết học giúp con người cải tạo và nhận thức thế giới.
4. Các nguyên lý, phạm trù và quy luật của Triết học
2 nguyên lý: mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát tri n ể
– Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Mọi sự vật, hiện tượng tồn tại luôn có mối quan hệ tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau,
không có sự vật hiện tượng nào mà chỉ tồn tại một cách độc lập, tách rời nhau, từ đó, rút ra
được bài học thực tế:
+ Muốn nhận xét đúng một sự việc hoặc sự vật, hiện tượng cần phải xem xét chúng ở các
mặt, các phương diện và yếu tố để đánh giá chính xác, tránh quan điểm phiến diện, chỉ nhìn 10
vào một sự việc mà đánh giá chung cho toàn bộ. Điển hình đó là câu chuyện “Thầy bói xem voi”
+ Đồng thời, cần phải đặt các sự việc hoặc sự vật, hiện tượng đó trong những điều kiện hoàn
cảnh lịch sử khác nhau để đánh giá. Điển hình là khi đưa ra bản án cho một kẻ phạm tội trộm
cắp cần phải xem xét rằng tiền sử của người đó đã từng phạm tội hay chưa, nếu chưa thì lý do
gì mà người đó phạm tội, có thể vì lý do đang túng thiếu cần tiền chữa bệnh cho con để thực
hiện hành vi chẳng hạn, từ đó mới xem xét giảm án thích hợp cho người này.
– Nguyên lý về sự phát triển: Mọi sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong trạng thái vận động và
phát triển theo đường xoắn ốc, cái mới ra đời thay thế cái cũ, trên cơ sở cái cũ. Nhận thức
được nguyên lý này, bạn phải hiểu rằng mọi thứ luôn cần phải có thời gian tích lũy, khi tích
lũy đạt đến một mức độ nhất định thì đòi hỏi bạn phải bước tiến lên một bậc mới, tiến bộ hơn,
phát triển hơn. Từ đó cần phải tránh tâm lý ù lì, không chấp nhận sự phát triển như một quy
luật tất yếu hoặc nôn nóng, chưa tích lũy đủ mà đã muốn tiến lên bậc mới.
3 quy luật: Quy luật lượng – chất, quy luật mâu thuẫn và quy luật phủ định của phủ định
– Quy luật lượng – chất: Chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển Lượng là cái thường
xuyên biến đổi, còn chất là cái tương đối ổn định, lượng biến đổi đến một mức độ nhất định
sẽ chuyển hóa thành chất mới thay thế chất cũ. Trong quy luật này có dùng một số từ
như “độ”, “bước nhảy”, “điểm nút”. Cụ thể: Độ là khoảng giới hạn mà sự thay đổi về
lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, điểm nút là thời điểm mà tại đó, sự thay
đổi về lượng đủ để làm thay đổi về chất của sự vật và bước nhảy là chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật.
– Quy luật mâu thuẫn: Chỉ ra nguồn gốc của sự vận động và phát triển Trong mỗi sự vật, hiện
tượng hay quá trình nào đó luôn chứa đựng những mặt, khuynh hướng đối lập nhau tạo thành
những mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật, hiện tượng đó. Và sự thống nhất, đấu tranh giữa
các mặt đối lập này là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển, dẫn đến cái mới ra đời
thay thế cái cũ. Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên cần phải phân
tích, sự vật, hiện tượng để tìm ra những mâu thuẫn trong các mặt, khuynh hướng và mối liên
hệ giữa chúng mà giải quyết, tránh việc điều hòa các mâu thuẫn đó. Đơn cử là câu chuyện
không biết thì phải học. 11
– Quy luật phủ định của phủ định: Cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng trên nền tảng kế thừa
cái cũ. Cái mới này trong quá trình phát triển tiếp theo lại dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị
phủ định bởi một cái mới cao hơn. Cứ như thế mà thông qua số lần phủ định kế tiếp nhau mà
sự vật, hiện tượng sẽ phát triển không ngừng theo đường xoắn ốc. Điển hình là văn bản pháp
luật mới ra đời luôn dựa trên nền tảng của văn bản pháp luật cũ, giữ lại những điểm hay của
văn bản pháp luật cũ, đồng thời bãi bỏ những điểm chưa hay, chưa tốt để thay thế bằng điểm
mới hay hơn, tốt hơn tại văn bản pháp luật mới. Rút ra được bài học thực tế: Cái mới ra đời là
tất yếu, cái mới thay thế cái cũ, nhưng dựa trên nền tảng cái cũ, tránh phủ định sạch trơn cái
cũ hoặc là không đón nhận sự ra đời của cái mới.
6 cặp phạm trù: Cái riêng và cái chung; Nguyên nhân và kết quả; Tất nhiên và ngẫu
nhiên; Nội dung và hình thức; Bản chất và hiện tượng; Khả năng và hiện thực
Cái riêng và cái chung:
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Ví dụ: mỗi con người là một thực thể riêng biệt, phân tích kỹ bên
trong mỗi con người đều có những điểm chung như đều có khối óc có thể điều khiển được
hành vi của mình và trái tim cảm nhận được thế giới xung quanh.
Nguyên nhân và kết quả: Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả, nguyên nhân như thế nào sẽ sinh ra kết quả như thế ấy. Ví dụ: Gieo nhân nào thì gặt quả nấy.
Tất nhiên và ngẫu nhiên: Tất nhiên vạch ra đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu
nhiên, tất nhiên quy định ngẫu nhiên, đồng thời, ngẫu nhiên bổ sung cho tất nhiên. Do vậy
trong thực tế phải căn cứ vào cái tất nhiên, chứ không phải căn cứ vào cái ngẫu nhiên, nhưng
cũng không được bỏ qua cái ngẫu nhiên, không tách rời cái tất nhiên ra khỏi cái ngẫu nhiên.
Ví dụ: Để đạt được kết quả tốt trong học tập thì chăm chỉ, siêng năng học tập là điều tất
nhiên, nhưng nhưng đến ngày thi thì bị vấn đề về sức khỏe làm kết quả thi thấp là điều ngẫu nhiên.
Nội dung và hình thức: Nội dung và hình thức có mối liên hệ thống nhất, gắn bó chặt chẽ lẫn
nhau. Không có nội dung nào mà lại không có hình thức, cũng không có một hình thức nào
lại không chứa nội dung. Nội dung quyết định hình thức và hình thức cũng tác động trở lại
đối với nội dung. Hình thức phù hợp sẽ thúc đẩy nội dung phát triển và ngược lại. Ví dụ: Nội
dung một quyển sách như thế nào thì mới quyết định phải làm trang bìa như thế nào, nếu như 12
nội dung vui nhộn nhưng trang bìa có cách bố trí tiêu đề và màu bìa là gam màu buồn thì
không thể tạo sự hứng khởi cho người đọc quyết định đọc quyển sách đó.
Bản chất và hiện tượng: Bản chất bao giờ cũng biểu hiện ra thành những hiện tượng nhất
định, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định. Bản chất quyết
định hiện tượng, bản chất như thế nào thì hiện tượng sẽ như thế ấy. Ví dụ: bản chất của nước
là chất lỏng được thể hiện bằng hiện tượng
Khả năng và hiện thực: Khả năng và hiện thực tồn tại thống nhất, không tách rời nhau và
luôn chuyển hóa lẫn nhau; khả năng trong những điều kiện nhất định sẽ biến thành hiện thực.
Vì thế mà trong thực nhận thức và thực tiễn cần dựa vào hiện thực và để khả năng biến thành
hiện thực cần phát huy tối đa tính năng động chủ quan của con người trong nhận thức và thực
tiễn.Ví dụ: Trước mắt, là giấy, bút và thước kẻ là hiện thực thì khả năng có thể tạo ra hộp đựng quà.
Lý luận nhận thức duy vật biện chứng là nhận thức và thực tiễn
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử và xã hội của con người nhằm
cải biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn bao gồm hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính
trị xã hội và hoạt động khoa học, trong đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quyết
định, chi phối đối với các hoạt động còn lại. (Có tiền và tài sản rồi thì mới nghĩ đến chuyện
đảm bảo ổn định an ninh xã hội và phát triển khoa học là tiền đề để tạo ra của cải, vật chất mới)
Nhận thức là quá trình phản án tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
của con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm tạo ra tri thức về thế giới khách quan đó. Nhận thức
gồm nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác và biểu tượng) và nhận thức lý tính (khái niệm,
phán đoán và suy lý) Mối liên hệ giữa thực tiễn và nhận thức: Đối với nhận thức, thực tiễn
đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và tiêu chuẩn chân lý, kiểm tra tính
chân lý của quá trình nhận thức. Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức. Đồng thời,
qua hoạt động thực tiễn đem lại cho con người những tài liệu cho nhận thức, giúp nhận thức
nắm bắt được bản chất, quy luật vận động của thế giới.
Phần chủ nghĩa duy vật lịch sử
– Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Lực lượng sản xuất là toàn bộ lực lượng được con
người sử dụng trong quá trình sản xuất tạo ra của cải, vật chất, bao gồm: người lao động (thể 13
lực, trí lực và sức lao động) và tư liệu sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động) Quan
hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, bao gồm quan
hệ sở hữu, quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối. (ai nắm quyền sở hữu thì người đó
cũng có quyền tổ chức, quản lý và phân phối) Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất, cụ thể, trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, đến một
trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, cần phải đổi mới để phù hợp với lực
lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất cũng có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, nếu
phù hợp nó sẽ là động lực để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, bằng không sẽ kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
– Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ các quan hệ sản xuất tác
động qua lại lẫn nhau tạo nên cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Bao gồm quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước và quan hệ sản xuất mầm mống, trong đó quan
hệ sản xuất thống trị đóng vai trò quyết định, chi phối các quan hệ sản xuất còn lại. Kiến trúc
thượng tầng: là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội (ý thức chính trị, pháp
quyền, tôn giáo) cùng với các thiết chế chính trị xã hội (nhà nước, đảng phái, giáo hội) tương
ứng được hình thành trên cơ sở kiến trúc thượng tầng nhất định. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng có mối liên hệ thống nhất với nhau, trong đó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng, song kiến trúc thượng tầng cũng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
– Tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội: Toàn bộ đời sống vật chất của xã hội và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của nó, bao gồm: môi trường tự nhiên, điều kiện dân số. Ý thức xã hội: toàn bộ những quan
điểm, tư tưởng, tâm tư, tình cảm, tập tục truyền thống…của xã hội phản ánh lại tồn tại xã hội
ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, bao gồm: ý thức xã hội thông thường, ý thức lý
luận (tâm lý xã hội và hệ tư tưởng) Tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã
hội. Tồn tại xã hội như thế nào sẽ sinh ra ý thức xã hội như thế ấy, tức là người ta không thể
tìm nguốc gốc tư tưởng trong đầu óc con người mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Ví
dụ: Mình không thể tìm ra ý tưởng để viết bài này khi không có sự tồn tại những ám ảnh khi
học môn này của các bạn sinh viên.
Các hình thái kinh tế xã hội
Lịch sử xã hội đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội, bao gồm: 14
– Hình thái kinh tế xã hội công xã nguyên thủy.
– Hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ.
– Hình thái kinh tế xã hội phong kiến
– Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa tư bản
– Hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa xã hội
Sự phát triển là sự vận động theo xu hướng tiến lên, từ vận động giản đơn cho đến những
vận động phức tạp, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Triết học Mác-
Lênin luôn coi trọng sự phát triển, vì vậy nguyên lý về sự phát triển cũng là nguyên lý quan
trọng của triết học. Nguyên lý về sự phát triển cũng mang tính khách quan, tính phổ biến và
tính đa dạng, phong phú. Nó có ý nghĩa về phương pháp luận: tôn trọng quan điểm phát triển,
tránh tư tưởng trì trệ bảo thủ. Nguyên lý về sự phát triển này biểu hiện thông qua ba quy luật
cơ bản: quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất
và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
Chương III: Vai trò của triết học trong đời sống xã hội 1.Vai trò thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.Trong thế giới quan có sự hoà
nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới
quan, song nó chỉ gia nhập thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt
động của con người. Khái niệm thế giới quan thể hiện cái nhìn bao quát về thế giới trong ý
thức của mỗi chủ thể bao gồm thế giới bên ngoài, con người và mối quan hệ giữa con người
với thế giới đó. Đây chính là kim chỉ nam cho thái độ, hành vi của con người đối với thế giới bên ngoài.
Nguồn gốc của thế giới quan ra đời từ sự sống. Tất cả các hoạt động của con người đều bị
chi phối bởi thế giới quan nhất định. Yếu tố cấu thành nên thế giới quan đó chính là tri thức,
lý chí, tình cảm và niềm tin; chúng sẽ liên kết với nhau tạo thành một thể thống nhất, chi phối
đến nhận thức và hành động thực tiễn của con người.Thế giới quan là “la bàn” soi đường, chỉ 15
hướng cho con người thực hiện các hoạt động tích cực để phát triển xã hội. Thế giới quan là
trụ cột trong hệ tư tưởng của nhân cách, hành vi, đạo đức và chính trị. Tuy nhiên, nó cũng tồn
tại hai mặt: Thế giới quan hướng con người đến nhận thức đúng đắn, khoa học, giúp con
người nhận biết được mối quan hệ với đối tượng khác, từ đó nhận thức đúng quy luật vận
động của đối tượng. Khi con người có thế giới quan không đúng, lệch lạc thì sẽ không xác
định được đúng các mối quan hệ xã hội cũng như không nhận thức được quy luật của các đối
tượng. Khi đã xác định được các mối quan hệ xã hội, con người có thể định hướng mục tiêu,
phương hướng và cách thức hoạt động chính xác. Thế giới quan là định hướng giúp cuộc
sống phát triển ngày càng tốt đẹp hơn.
Ngoài ra, thế giới quan còn giúp con người chi phối thực tế, hiểu được ý nghĩa của cuộc sống,
xây dựng nghị lực, ý chí và quyết tâm đưa bản thân và xã hội cùng tiến bộ.
Triết học ra đời với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới quan, là hạt nhân lý
luận của thế giới quan và làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trí thức khoa học mang lại. Triết học giúp ta trang bị và
hoàn thiện thế giới quan, trên cơ sở đó hoàn thiện nhân sinh quan – là yêu tố cơ bản để hình
thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Nếu thế giới quan đúng đắn, phù hợp sẽ góp
phần thúc đẩy xã hội phát triển.
2.Vai trò phương pháp luận
2.1 Khái niệm phương pháp luận
Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ các quy luật khách quan,
thường dùng để điều chỉnh các hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện
mục tiêu đã định sẵn. Phương pháp luận không có định nghĩa chính xác tuy nhiên có thể hiểu
theo cách phổ biến nhất là hệ thống nguyên lý, các quan điểm là cơ sở có tác dụng chỉ đạo,
xây dựng các phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng các phương pháp và định
hướng cho việc nghiên cứu tìm tòi cũng như lựa chọn, vận dụng phương pháp. Hay phương
pháp luận là lý luận về phương pháp, bao hàm các phương pháp, thế giới quan của con người. 16
2.2 Vai trò phương pháp luận của triết học
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất, nghiên cứu những quy luật chung nhất của
con người, Triết học cũng có chức năng phương pháp luận chung nhất - là phương pháp luận
được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định phương pháp luận chung, phương pháp luận
ngành và các hợp đồng khác của con người.Đối với nhận thức và thực tiễn, phương pháp luận
có vai trò chỉ đạo sự tìm kiếm. Xây dựng, lựa chọn vận dụng các phương pháp để thực hiện
hoạt động nhận thức và thực tiễn đóng vai trò định hướng trong quá trình tìm tòi và vận dụng phương pháp
Triết học Mác-Lênin là hạt nhân lý luận về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Trong đó triết học giữ vai trò định hướng cho sự cũng cố. Đồng thời phát triển thế giới quan
của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất
của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, triết học thực hiện chức
năng phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận của triết học Mác-Lênin đã góp phần
quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Triết học đã trở thành công cụ đắc lực trong hoạt động chính thiên nhiên và sự nghiệp giải
phóng con người trong những lực lượng xã hội tiến bộ.
3.Vai trò của triết học Mác Lênin
Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy
triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển một
cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như
xem xét đời sống xã hội và tư duy con người.
Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và
phương pháp triết học Mác-Lênin như Lênin nhận xét: “là một chủ nghĩa duy vật triết học
hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ đại”. Triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một
thế giới quan khoa học, là nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn, là nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
Trong triết học Mác-Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau. Chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng duy
vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên triệt để, phép biện chứng trở thành lý luận khoa học, nhờ đó triết học mácxít có khả năng 17
thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Nắm vững triết
học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới quan đúng đắn mà còn xác định các
phương pháp luận khoa học. Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân
tích cụ thể theo tinh thần biện chứng cũng như ngăn ngừa thái độ chủ quan tùy tiện trong việc
vận dụng lý luận và hoạt động thực tiễn.
4. Vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học đối với các
ngành khoa học cụ thể và tư duy lý luận
Khoa học có tác động to lớn đối với sự phát triển của triết học và ngược lại, triết học
cũng có vai trò rất quan trọng đối với các ngành khoa học cụ thể. Trong quan hệ với khoa học
cụ thể, mối quan hệ giữa triết học và khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng: các khoa
học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Còn triết học cung cấp
những công cụ và phương pháp luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ
thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kĩ thuật
và công nghệ. Ngày nay, để đầy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân triết học,
đã xuất hiện những sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các
nhà khoa học khác. Điều đó đã chứng minh bởi lịch sự phát triển của khoa học và bản thân triết học.
Lịch sử cho thấy những nhà khoa học lỗi lạc của thế kỷ XX đều ủng hộ hoặc theo một
trường phái triết học nào đó. Những thành tựu mà các ngành khoa học cụ thể đạt được buộc
nó phải chuyển sang lĩnh vực lý luận – lĩnh vực triết học, buộc nó phải vận dụng tư duy lý
luận của triết học. Giống như G.Hêghen đã từng nói: “Dù có cố gắng suy luận mà không
quan tâm đến triết học, các nhà khoa học khác thiếu nó vẫn không thể có sự sống, tinh thần
và chân lý”. Triết học không đi sâu vào vấn đề khoa học cụ thể mà đi sâu giải thích các vấn
đề thuộc lý luận nhận thức phổ quát. Triết học là thế giới quan và phương pháp luận, là cơ sở
lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá, tổng kết các thành tựu đạt được và làm
sáng tỏ nguyên lý của nó cũng như quản lý, định ra phương hướng cho các quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể.
Ph.Ăngghen đã từng nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì
không thì không có tư duy lý luận”. Có thể khẳng định rằng tư duy lý luận có vai trò quan 18
trọng trong cuộc sống, đặc biệt trong việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Con
người phải có năng lực tư duy lý luận, có phương hướng, giải pháp khả thi để giải quyết các
vấn đề của cuộc sống một cách có hiệu quả và xác đáng.
Chương IV: Khái quát vai trò của triết học trong thời đại ngày
nay và sự vận dụng của Vũ Thảo Anh 11217504:
A, Vai trò của triết học trong thời đại ngày nay
Bước sang thế kỷ XXI, nhân loại đã bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên toàn cầu
hóa. Trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, cái giúp cho con người vượt qua những khó
khăn, thử thách, giải thoát con người khỏi những thách đố và vướng mắc của cuộc sống, đáp
ứng nhu cầu thường nhật và lâu dài của nhân loại không chỉ là kinh tế, kĩ thuật hiện đại và
công nghệ cao mà còn là triết học. Triết học giúp con người tìm ra lời giải không chỉ cho
những thách đố muôn thủa mà còn cho những vấn đề hoàn toàn mới mà thời đại đặt ra.
Triết học không chỉ giúp con người nhận thức rõ địa vị của mình, lối sống xứng đáng với
con người, mà còn giúp họ xác định mục tiêu và lý tưởng sống để từ đó góp phần biến đổi
hiện thực cho phù hợp với chính mình. Không chỉ thế trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay,
triết học giúp con người có được sự định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố quyết
tâm, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra. Từ đó gợi mở cách đi, hướng giải quyết
các vấn đề mà cuộc sống đặt ra.
Khi có tư tưởng triết học đúng đắn, người làm hoạch định chính sách và chỉ đạo hoạt
động thực tiễn mới có thể đưa ra những biện pháp, đường lối, bước đi đúng đắn trong quá
trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Có một tư tưởng triết học đúng đắn, người lao động mới
có định hướng chính xác trong quá trình làm việc và cũng cố sự quyết tâm hành động để hoàn
thành mục tiêu đề ra và kết quả cao nhất. Triết học giúp con người hoàn thiện thế giới quan,
nhân sinh quan, giá trị quan, giúp chúng ta có một tư duy mềm dẻo, nhạy bén, thích ứng
nhanh với sự tiến bộ và thay đổi của thế giới. Như vậy triết học vừa thực hiện chức năng giải
thích thế giới, vừa góp phần biến đổi thế giới và giúp hoàn thành mục tiêu đổi mới của con
người trong thời đại hiện nay – thời đại hiện đại hoá, toàn cầu hoá. B, Liên hệ bản thân 19
1.Định hướng vận dụng cho bản thân
Dường như đối với sinh viên, Triết học là môn học khó nhằn bởi nó mang tính trừu tượng
cao, đòi hỏi khả năng tư duy nhạy bén. Không những thế nhiều người còn cho rằng việc đưa
bộ môn triết học Mác-Lênin vào giảng dạy với sinh viên là không cần thiết mà chỉ cần đào
tạo những lĩnh vực quan trọng như vậy kinh tế, kinh doanh số… Là một sinh viên đang theo
học tại trường, chủ nhân tương lai của đất nước, bản thân em hiểu được tầm quan trọng của
bộ môn triết học với đời sống cũng như với chính mỗi con người. Có triết học chúng ta mới
hiểu được sự vận hành của các quy luật đời sống bên cạnh đó còn có thể giải đáp được những
câu hỏi mà trước đây bạn thân ta không thể trả lời. Triết học hình thành thế giới quan, phương
pháp luận và khả năng nhận thức, áp dụng thực tiễn cho con người. Nhờ đó ta mới có thể có
được những phương pháp học tập, làm việc hiệu quả và những cách xử lý thông minh trong
mọi tình huống. Bản thân em trước đây vốn khá ngại tư duy cũng như tìm tòi những cái mới
nhưng qua những tiết học bổ ích từ bộ môn triết học Mác-Lênin, em có cơ hội được vận dụng
trí óc cũng như khả năng của mình để tìm hiểu vì triết học.
Triết học đã giúp em thoát ly khỏi những rập khuôn của sách vở của internet, nhớ đó em
có thể tự tìm kiếm câu trả lời cũng như những kiến thức cần thiết thông qua bài học. Vì thế
em đã chọn lựa chủ đề vai trò của triết học cho đề tài tiểu luận của mình, em mong muốn
những sinh viên khác cũng hiểu được tầm quan trọng của triết học tới mỗi chúng ta cũng như trong cuộc sống.
2.Những thành công đã đạt được và hạn chế 2.1 Thành công
Khi tìm hiểu về “vai trò của triết học trong đời sống”, em có thêm được những kiến thức
về bộ môn. Em đã trang bị được thêm những kiến thức về chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy
tâm cũng như những phạm trù, nguyên lý của triết học để nắm rõ hơn phục vụ cho việc nâng cao tri thức.
Triết học Mác Lênin đã góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản với một sinh viên cho
em.Đây là điều vô cùng quan trọng giúp hình thành nhân cách, lý tưởng tình cảm và đạo đức,
giúp em nâng cao được ý thức trong việc rèn luyện bản thân phục vụ cho tương lai và đất
nước. Triết học Mác-Lênin đã thay đổi con người em, giúp bản thân em được vai trò và trách 20
nhiệm cần thiết để từ đó có những phương pháp trau dồi và nâng cao nhận thức, suy nghĩ và hành động. 2.2 Hạn chế
Bản thân em còn khá thụ động trong việc tìm hiểu những kiến thức mới, ban đầu học em
cũng cảm thấy đây là một bộ môn khá khó với mình. Và việc mỗi cá nhân tiếp cận với triết
học và thế giới còn hạn chế bởi kiến thức vốn là bao la, sự tiếp nhận chỉ mang tính khái quát.
Triết học vốn trừu tượng cao thế nên để hiểu hết được là điều khó khăn. Ngoài ra việc thay
đổi những thói quen trong việc tiếp nhận tri thức được học tập ở cấp ba cần thêm nhiều thời gian để thích nghi.
Ngày nay ta thấy được năng lực tư duy của sinh viên còn nhiều hạn chế, vẫn còn rập
khuôn, giáo điều, thiếu tính sáng tạo. Đặc biệt, khả năng vận dụng tri thức đã học để áp dụng
vào thực tế của mỗi sinh viên đều chưa tốt. 3. Giải pháp khắc phục
Từ những tri thức mà triết học mang lại, bản thân em ý thức được mình cần có những ứng
dụng nhất định trong cuộc sống, nhất là cuộc sống sinh viên. Mỗi chúng ta cần phải kiên định
với chủ nghĩa Mác-Lênin, với tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức đúng, tích cực học tập và
nghiên cứu, trau dồi, nâng cao lên bằng cách vận dụng, sáng tạo nó.
Nội dung các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng, ta có thể lấy làm cơ sở
để rèn luyện và phát huy tư duy biện chứng. Cần nâng cao năng lực biện chứng, khắc phục
những lối tư duy siêu hình, cứng nhắc quá đề cao hoặc tôn thờ một lĩnh vực nào đó mà xem
nhẹ lĩnh vực khác. Cần tích cực học tập và rèn luyện bản thân cùng với đó là tham gia các câu
lạc bộ, tổ đội của trường để mình trở nên năng động hơn, mềm dẻo nhạy bén hơn, thích ứng
được nhanh trong thời đại ngày nay.
Chúng ta không nên xem xét mọi sự vật hay vấn đề theo một góc độ nhất định, phiến diện
mà cần có cái nhìn bao quát ở tất cả các mặt, toàn diện nhìn nhận sự việc ở cái nhìn khách
quan.Tránh chủ quan, lơ là khi thực hiện bất cứ nhiệm vụ nào mà phải cẩn trọng để đạt kết
quả tốt nhất. Không những thế cần tránh trạng thái bi quan, thụ động.Ví dụ như khi bị điểm
kém, không nên bỏ cuộc hay nản chí mà cần vạch ra cho mình những mục tiêu để gỡ điểm,
trau dồi thêm kiến thức để khẳng định bản thân, nhờ vậy mà ta không bị bỡ ngỡ khi bước vào
một môi trường học tập mới. 21
Tạo cho mình một thời gian biểu cần thiết để quản lý hành vi hoạt động cũng như phương
pháp học tập, hạn chế tình trạng lười học, luời tích luỹ kiến thức.Và hơn hết là biết áp dụng
những kiến thức được học ở giảng đường vào cuộc sống, học đi đôi với hành.Chỉ khi vận
dụng được những kiến thức vào đời sống thì khi ấy, việc học tập mới thật sự có ý nghĩa.
Và cuối cùng tránh phỏng đoán thiếu khoa học và rơi vào nguy cơ ảo tưởng, tuyệt đối hóa
một sự việc nào đó. Khi ấy bản thân sẽ bị xao nhãng, mất phương hướng và trở nên lệch lạc.
Bản thân em sẽ cố gắng áp dụng những phương pháp trên để hoàn thiện mình và giúp ích cho
quá trình học tập cũng như nghiên cứu bậc đại học và cả tương lai sau này. PHẦN KẾT LUẬN
Triết học giống như kim chỉ nam, đóng vai trò vô cùng to lớn đối với cá nhân và cả xã hội.
Triết học giúp chúng ta trang bị và hoàn thiện thế giới quan, là trụ cột về mặt tư tưởng nhân
cách, là cơ sở đạo đức, chính trị và hành vi. Đồng thời, triết học cũng giúp chúng ta có được
phương pháp luận chung nhất từ đó định hướng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chỉ
khi nắm rõ được những gì mà triết học truyền tải, những lý luận, nguyên lý, phạm trù trong
triết học, con người sẽ có thể xem xét lại bản thân, biết được những mặt xấu tốt để khắc phục
hoặc phát huy, cải tạo thế giới. Thông qua bài tiểu luận “Vai trò của triết học trong tôi sống và
sự vận dụng của Vũ Thảo Anh 11217504”, em mong muốn giải đáp được phần nào ý nghĩa
của bộ môn chúng ta đang tìm hiểu để biến nó từ một bộ môn mà người ta cho rằng khô khan,
trừu tượng trở thành thứ gần gũi, áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, trả lời được những câu hỏi hóc búa.
Xin chân thành cảm ơn độc giả cũng như TS Lê Ngọc Thông, các nguồn tham khảo đã
phần nào hỗ trợ em để hoàn thành bài tiểu luận của mình. Rất mong nhận nhận được sự đóng
góp từ thầy và các bạn để bài viết trở nên hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình triết học Mác Lênin,NXB Chính trị Quốc gia Sự thật
2. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác Lênin”-NXB Chính trị quốc gia
3. “C.Mác và Ăngghen: toàn tập”- NXB Chính trị quốc gia
4. “Hồ Chí Minh: toàn tập” – NXB Chính trị quốc gia 22 5. Wikipedia
6. 1 số tài liệu triết học Mác trên internet 23 24